Một buổi sáng bên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a
Ga 21,1-25
(Tìm hiểu Tin Mừng theo thánh Gio-an) – Bài 18
L.M.Nguyễn công Đoan S.J.
Ngày 12 tháng 4 năm 2019
Cuối chương 20, sau
khi ông Tô-ma tuyên xưng đức tin, đã có một kết luận chung cho “những gì đã
chép trong sách này”. Người viết lại tiếp tục với câu chuyển tiêp “Sau
đó…”, kể câu chuyện “Một buổi sáng bên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a” :
Ai có thời giờ và muốn
tìm hiểu về nguồn gốc chương 21 này, thì xin mời đọc các sách nghiên cứu chuyên
môn về sách Tin Mừng thứ tư. Trong khuôn khổ sách này, tôi chỉ muốn giúp ai
muốn tìm sự sống đời đời như mục đích của tác giả sách Tin Mừng Gio-an : đọc,
suy niệm và để cho Lời Chúa soi sáng, biến đổi tâm hồn và cuộc sống của mình,
nên tôi mời cứ đọc tiếp theo hướng đó.
Biển Hồ Ti-bê-ri-a là
tên gọi do ảnh hưởng của thành phố được xây dựng kính Hoàng Đế Rô-ma Ti-bê-ri-ô
(x. Lc 3,1) ở bờ phía tây của Biền Hồ này, vốn có tên gọi
là Ki-ne-rét, người Do-thái giải nghĩa rằng do hình dáng của
nó giống cây đàn dây Kin-no, hoặc Biển Hồ Ga-li-lê, theo
tên miền đất. Các Tin Mừng Nhất Lãm đều kể Chúa Giê-su khởi sự
ở đây, trú tại nhà ông Si-môn Phê-rô ở Ca-phác-na-um. Đây là vùng đông dân cư,
gồm cả Do-thái và Dân Ngoại, nên địa bàn chủ yếu trong thời kỳ Chúa Giê-su rao
giảng tại Ga-li-lê, là Biển Hồ này với các thành thị và làng mạc chung quanh.
Cả bốn sách Tin Mừng đều cho thấy như vậy.
Một đêm đánh cá trên
Biển Hồ
Sau đó, Đức Giê-su lại
tỏ mình ra cho các môn đệ ở biển hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế
này. 2Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người
Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả
đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông : “Tôi đi
đánh cá đây.” Các ông đáp : “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi
người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Ông Phê-rô khởi xướng
và có sáu người môn đệ khác đi theo, trong số có hai người không kể tên, tổng
cộng là bảy người. Kết quả một đêm vất vả của bảy chàng ngư phủ là đến sáng vẫn
thuyền rỗng lưới không.
4 Khi trời đã
sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là
Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông : “Này các chú, không có gì
ăn ư ?” Các ông trả lời : “Thưa không.” 6 Người bảo các
ông : “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các
ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người
môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô : “Chúa đó !”
Vừa nghe nói “Chúa đó !”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở
trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo
theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm
thước.
Người kể đã cho chúng
ta biết là chính Chúa Giê-su đang đứng trên bờ, để chúng ta cùng theo dõi phản
ứng của các môn đệ.
Họ không nhận ra đó là
Chúa Giê-su. Nghe hỏi “không có gì ăn hả ?” họ trả lời
gọn : “Không !” Đọc câu hỏi này theo đúng bản văn gốc bằng
tiếng Hy-lạp như vậy, đừng tự tiện sửa lời người kể, như một số bản dịch Âu-Mỹ
(1). Họ không có gì ăn thì Chúa đã dọn sẵn bữa ăn cho họ, khi
lên bờ họ mới thấy. Bữa ăn này trước hết gợi lại bữa ăn Chúa đãi đám đông trên
núi bên bờ hồ này. Sửa lời người kể sẽ làm mất âm vang, một nét đặc trưng của
“văn Gio-an” mà chúng ta đã liên tục thưởng thức khi đọc mỗi
trang. Chúng ta sẽ thấy những âm vang khác nữa
Người đứng trên bờ chỉ
cho họ chỗ thả lưới. Họ ngoan ngoãn làm theo. Đừng vội chia trí bình luận tại
sao họ nghe theo, kẻo lạc đề. Kết quả : Các ông thả lưới xuống,
nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Một lời của người
đứng trên bờ lại cho họ bắt nhiều cá đến như thế. Có một người trên thuyền nhận
ra ngay. Vẫn là “người môn đệ được Đức Giê-su thương mến”. Ông có tầm nhìn xa
và sâu hơn Tôn ngộ Không ! Ông nói với ông Phê-rô : “Chúa đó !”
Lời này vang bên tai làm ông Phê-rô như bị điện giật. “Ông Si-môn Phê-rô vội
khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.”
Trước hết tôi xin sửa
bản dịch cho sát : “Ông Phê-rô vội lấy áo quấn ngang thắt lưng vì đang
trần truồng”. Đừng sửa lời người kể, vì thấy chói tai. Hãy lặng nghe âm
vang của nó vọng lại ba chương đầu sách Sáng Thế, mà chúng ta đã gặp nhiều lần
trong sách Tin Mừng này. Trước hết, ông Phê-rô chỉ thấy mình trần
truồng khi nghe “Chúa đấy !” Ông làm gì ? “ông lấy
áo quấn ngang thắt lưng”.Rồi “ông nhảy xuống biển”.
Tại sao ? Ông có dư thời giờ để mặc áo vào kia mà ! Sao ông lại nhảy
xuống biển, bỏ mặc các ông khác vừa chèo thuyền vừa kéo theo lưới nặng đầy cá
vào bờ ? Người kể không giải thích.
Bút pháp cố hữu
của Gio-an khiến chúng ta phải nghe theo âm vang, đọc lại sách
Sáng Thế. Sau khi con người và vợ ăn trái cấm thì “mắt hai người mở ra, và
họ thấy mình trần truồng : họ mới kết lá vả(2) làm
khố quấn ngang lưng. Nghe thấy tiếng Đức Chúa đi dạo
trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa
cây cối trong vườn, để tránh mặt Đức Chúa. Đức Chúa là Thiên Chúa
gọi con người và hỏi : “Ngươi ở đâu ?”. Con người thưa : “Con
nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con trốn”
(St 3,7-10).
Đêm Chúa Giê-su bị “bố
già” Khan-na “hỏi thăm”, sau khi ông Phê-rô chối Thầy lần thứ ba thì gà
gáy. Gio-an không kể tiếp về ông như các Tin Mừng Nhất
Lãm. Sáng nay ở bờ hồ Gio-an gợi so sánh với tình
huống của con người trong vườn địa đàng để giúp ta đọc tâm trạng của ông Phê-rô
khi đối diện với Chúa. Ông thấy mình trần truồng trước mặt Chúa, ông lấy áo làm
“khố vải” quấn ngang thắt lưng. Ở giữa biển thì trốn vào đâu ? Độn
thủy !
Bữa ăn dọn sẵn trên bờ
Bước lên bờ, các ông
nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. 10 Đức
Giê-su bảo các ông : “Đem ít cá mới bắt được tới đây !” 11 Ông
Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được
một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12 Đức
Giê-su nói : “Anh em đến mà ăn !” Không ai trong các môn đệ dám hỏi
“Ông là ai ?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa.13 Đức Giê-su đến, cầm
lấy bánh trao cho các ông ; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó
là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi
chết.
Ta bỗng thấy các ông
khác lên bờ. Các ông thấy gì ? Các ông nghe gì ? Các ông thấy có sẵn
than hồng với cá đặt ở trên, có cả bánh nữa. Chưa thấy lại ông Phê-rô. Ông lặn
kỹ thế ! Đức Giê-su bảo các ông : “Đem ít cá mới bắt được tới
đây !” Bỗng lại thấy ông Phê-rô leo lên thuyền, trở về vị trí
người khởi xướng chuyến đi lưới này. Người kể làm như đạo diễn cho “lên màn
hình” : cận ảnh một mình ông Phê-rô kéo lưới lên bờ ! Tổng kết mẻ
cá : cá lớn, 153 con. Lưới không rách. Mẻ cá này là câu chuyện giữa ông
Phê-rô với Chúa Giê-su.
Ta hãy theo ánh mắt
ông Phê-rô nhìn đống than hồng. Nó gợi ông nhớ cái gì ? Suốt đời ông làm
sao quên được cái đống than hống ấm áp trong sân dinh thượng tế Khan-na trong
đêm Thầy bị bắt bị trói, bị dẫn về đây, bị “bố già” “hỏi chuyện” “về môn đệ
và giáo lý của Người” (18,18). Hồi nãy ông đã “độn thủy” vì nghe “Chúa
đấy !”. Bây giờ lại thấy cái đống than hồng này… Ôi ! Phải chi
ông có phép “độn thổ” ! Ông chỉ biết cúi đầu thinh lặng làm theo lệnh
Chúa.
Chờ các ông xong việc
gỡ cá, Chúa nói : “Anh em đến mà ăn”. Hồi nãy họ thú nhận không có
gì ăn. Bây giờ Chúa đã dọn sẵn bữa ăn cho họ, cá và bánh, giống bữa ăn Chúa đãi
đám đông hôm nào, cũng ở gần đâu đây bên Biển Hồ này. Người kể cho chúng ta
biết tâm trạng kỳ lạ của các ông : “Không ai trong các ông dám hỏi “Ông
là ai”, vì các ông biết rằng đó là Chúa”. Cách diễn tả này làm ta thắc mắc.
Một đàng thì biết rằng đó là Chúa, một đàng thì “không dám hỏi”. Nói
“không dám” có nghĩa là trong bụng muốn hỏi nhưng không dám. Có vẻ “đã biết”
nhưng vẫn thèm được biết rõ hơn ? Đó lá cái biết nhờ đức tin mà thánh
Phao-lô diễn tả : “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương,
mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi
sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1 Cr 13,12).
Chúa Giê-su đến,
tự tay “cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như
vậy”. Kiểu nói gợi lại cách Chúa đãi dân chúng ăn ở trên núi (x.
6,11) ; khác là ở bữa tiệc trên núi thì Chúa Giê-su lên núi,
Chúa cầm lấy bánh, “dâng lời tạ ơn” ; hôm nay thì Chúa “đến”.
Khi nói về sự hiện diện của Chúa sau khi phục sinh thì Gio-an dùng
động từ “đến” : “Thầy đến cùng anh em” (14,18.28). Trình thuật này
không nói đến “tạ ơn”, vì hôm nay Chúa đã được tôn vinh và đến trong tư cách
là Chúa.
Chúa nói chuyện với
ông Si-môn Phê-rô
Bữa ăn hôm nay các ông
ăn trước mặt Chúa, vì các môn đệ do Phê-rô cầm đầu, biết là Chúa đang ở với các
ông và chính tay Ngài trao bánh và cá cho các ông. Hôm đãi tiệc ở trên núi thì
sau khi dân chúng ăn no nê, Chúa bảo các môn đệ “đi thu những miếng thừa kẻo
phí đi”. Hôm nay thì khi các môn đệ ăn xong, Chúa Giê-su nói với
ông Si-môn Phê-rô.
Hình ảnh này gợi lại
bữa ăn sau khi Thiên Chúa ban Giao Ước ở núi Xi-nai :
“Ông Mô-sê đi lên
núi cùng với ông A-ha-ron, Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi hai người trong hàng kỳ
mục của Ít-ra-en. Họ nhìn thấy Thiên Chúa của Ít-ra-en… họ được chiêm ngưỡng
Thiên Chúa, và sau đó họ ăn uống (3). Sau đó Thiên Chúa
phán với ông Mô-sê : ‘Hãy lên núi với Ta và ở lại đó’
(Xh 24,9-12).
Câu chuyện buổi chiều
ngày thứ nhất trong tuần và tám ngày sau công bố sự hoàn thành của Giao Ước
Mới. Gợi lại bữa ăn của ông Mô-sê và các kỳ mục sau khi thiết lập Giao Ước
Xi-nai, tiếp nối toàn bộ ý nghĩa Giao Ước Mới trong Chúa Giê-su Ki-tô. Ở sách
Xuất Hành Thiên Chúa gọi ông Mô-sê lên núi để nhận Bia Chứng Ước, ở đây Chúa
Giê-su nói với ông Phê-rô để trao sứ mạng mục tử cho ông. Bấy lâu nay Chúa ở
giữa các môn đệ và “canh giữ họ” như mục tử gương mẫu. Bây giờ Chúa đã lên
trong vinh quang của Cha, Chúa trao cho ông Phê-rô sứ mạng thay mặt Chúa như
mục tử hữu hình để chăn dắt đàn chiên của Chúa. Có sáu người môn đệ khác làm
chứng, bốn người có tên và hai người ta không biết tên.
Khi các môn đệ ăn
xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an,
anh cómến Thầy hơn các anh em này không ?”
Ông đáp : “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu
mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông : “Hãy chăm sóc chiên
con của Thầy.”
Người lại hỏi :
“Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không ?”
Ông đáp : “Thưa Thầy có,Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người
nói : “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ
ba : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy
không ?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới lần thứ ba :
“Anh có yêu mến Thầy không ?” Ông đáp : “Thưa
Thầy, Thầy biết rõ mọi sự ; Thầy biết con
yêu mếnThầy.” Đức Giê-su bảo : “Hãy chăm sóc chiên của
Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết : lúc còn trẻ, anh tự
mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ
phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.”
Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên
Chúa. Thế rồi, Người bảo ông : “Hãy theo Thầy.”
Chúa gọi ông Phê-rô
cách long trọng khi xướng tên gọi và tên họ (4) của ông cả ba lần hỏi. Câu hỏi
thứ nhất có sự so sánh : “Anh có mến Thầy hơn các
anh em này không ?” Câu trả lời thứ nhất : “Thưa Thầy
có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Chúa
trao cho ông sứ mạng : “Hãy chăm sóc chiên con của
Thầy”.
Hỏi lần thứ hai, Chúa
bỏ sự so sánh : “Anh có mến Thầy không ?” Câu
trả lời như lần trước. Chúa trao sứ mạng : “Hãy chăn dắt chiên của
Thầy”.
Hỏi lần thứ ba :
“Anh có yêu mến Thầy không ?” Câu trả lời lần thứ
ba : “Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu
mến Thầy”. Chúa trao sứ mạng : “hãy chăm sóc chiên của
Thầy”.
Bản dịch đã cố gắng
thể hiện sự thay đổi từ ngữ trong bản văn Hy-lạp : hai động từ khác nhaumến và yêu
mến, hai động từ khác nhau về chăn chiên và hai từ khác nhau về
chiên : chăm sóc chiên con, chăn dắt chiên, chăm
sóc chiên.
Khi hỏi lần thứ nhất,
Chúa Giê-su nêu sự so sánh. Sau đó Chúa bỏ sự so sánh.
Khi trả lời lần thứ
nhất và lần thứ hai, ông Phê-rô nại đến “Thầy biết”, lần thứ ba thì ông
Phê-rô buồn vì Chúa hỏi đến lần thứ ba, ông nại đến “Thầy biết mọi sự,
Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Khi trao sứ mạng lần
thứ nhất, Chúa nói : Hãy chăm sóc chiên con của Thầy, lần
thứ hai Chúa nói : Hãy chăn dắt chiên của Thầy,
lần thứ ba : hãy chăm sóc chiên của Thầy.
Cả một bản hòa tấu rất
tinh vi, gây nên nhiều cách bình luận, giải thích mà ta có thể đọc trong sách
của các nhà chú giải bác học cũng như các nhà giảng thuyết hùng biện. Chúng ta
không thể bỏ qua chuyện này, nhưng trước hết cần đọc hết bản văn đã.
Sau câu trả lời thứ ba
của ông Phê-rô và câu trao sứ mạng lần thứ ba của Chúa, thì Chúa nói thêm với
một công thức mạc khải quan trọng và quen thuộc trong các sách Tin Mừng “Thầy
bảo thật cho anh biết”. Người kể cho chúng ta biết ý nghĩa lời bí
ẩn : “Chúa ám chỉ ông phải chết cách nào để tôn vinh
Thiên Chúa”.
Kết thúc cuộc nói
chuyện, Chúa bảo ông : “Hãy theo Thầy”.
Để hiểu ý nghĩa đoạn
văn này, chúng ta đừng vội suy diễn cách lãng mạn. Hãy lần theo mối dây, trở
lại trong chính sách Tin Mừng này, đặc biệt chương 15, Chúa nói về tương quan
yêu mến giữa Ngài với Chúa Cha, giữa Ngài và Chúa Cha với các môn đệ, giữa các
môn đệ với nhau. Chương 10, Chúa nói về tương quan giữa mục tử và chiên. Chúa
Giê-su và ông Phê-rô trong bữa Tiệc Ly (ch. 13). Sách I-sai-a về
việc Thiên Chúa đưa dân lưu đầy trở về như chăm sóc và dẫn dắt dàn chiên (Is40,11). Thánh
vịnh 139/138 : Thiên Chúa biết hết tư tưởng, lòng dạ con người.
Câu hỏi lần thứ nhất,
sự so sánh “anh có mến Thầy hơn các anh em này không” hiện rõ ngay như
ám chỉ tới những lời ông Phê-rô cam kết với Chúa trong bữa Tiệc Ly, và thực tế
đã diễn ra đúng như lời Chúa báo trước (x. 13,36-38). Câu trả lời của ông
Phê-rô hôm nay rất khiêm tốn, ông chỉ còn dựa vào sự thông biết của Chúa. Chúa
biết lòng ông như thế nào, dù trong lúc cần tự bảo vệ, ông đã mở miệng chối
Thầy, nhưng trong lòng ông thì ông vẫn yêu mến Thầy. Ông đã tỏ ra biết mình là
ai, nên khi hỏi lần thứ hai Chúa “tha” cho ông nỗi lúng túng kia, không so sánh
nữa.
Mắt nhìn đống than hồng, tai
nghe Chúa hỏi đến lần thứ ba, thì ký ức ba lần chối Thầy bên đống than
hồng của bọn thuộc hạ trong sân dinh thượng tế như sống lại trước mắt ông,
khiến ông đau buồn. Nhưng nỗi đau buồn làm cho ông càng hạ mình sâu thẳm hơn,
hoàn toàn thoát khỏi “cái tôi tầy đình” của ông mà đặt hết tin tưởng vào sự
thông biết vô cùng của Chúa : “Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì
lạy Chúa, Ngài đã am tường hết” (Tv 139/138,4).
Ông Phê-rô đã tôn mình
lên trên anh em thì Chúa giúp cho ông hạ mình xuống, nhận mình là kẻ rốt hết
trong anh em, không đáng gọi là tông đồ. Thánh Phao-lô sẽ thú nhận như
vậy : “Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một
đứa trẻ sinh non. Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi
không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng
tôi có là gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa.” (1 Cr 15,8-10).
Để đặt một con
người làm mục tử hữu hình cho đoàn chiên của Chúa,
Chúa chẳng hỏi gia thế, địa vị xã hội hay bằng cấp, Chúa chỉ hỏi về lòng yêu
mến Chúa thôi. Bởi lẽ đoàn chiên là của Chúa, chứ không phải là của
mục tử. Ba lần Chúa nói “Chiên của Thầy”. Người chăn chiên Chúa đặt chỉ
có thể hết lòng săn sóc, chăn dắt đoàn chiên của Chúa nếu thật sự yêu mến Chúa
và diễn tả lòng yêu mến ấy bằng cách tận tình chăm sóc đàn chiên của Chúa. Chúa
không cần ông Phê-rô thí mạng vì Chúa như đã ông cam kết, nhưng Chúa lại cần
ông thí mạng vì đoàn chiên của Chúa, như Chúa đã thí mạng vì ông và vì đoàn
chiên của Chúa.
Thánh Phê-rô sẽ khuyên
những người được Chúa đặt làm mục tử : “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên
mà Thiên Chúa đã giao phó cho an hem : lo lắng cho họ không phải vì miễn
cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, nhưng không phải vì ham
hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống
trị những người mà Thiên Chúa trao cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho
đoàn chiên” (1 Pr 5,2-3).
Chiên con và chiên
(mẹ)
Chúa lần lượt dùng hai
từ “chiên con” và “chiên” (hiểu là chiên cái, chiên mẹ), gợi lên hình ảnh trong
sách I-sai-a nói về cách Thiên Chúa dẫn dân của Ngài từ nơi
lưu đầy trở về : “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập
trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ,
cũng tận tình dẫn dắt.” (Is 40,11). Đây là điều sơ đẳng trong
cách dẫn đoàn chiên đi đường xa, mà ông Gia-cóp đã viện ra để thoái thác việc
Ê-sau đề nghị cùng đi với nhau : “Ngài biết là lũ trẻ con yếu ớt, còn
tôi phải lo cho đám chiên và bò đang cho con bú ; nếu hối thúc chúng, dù
một ngày thôi, thì chiên dê sẽ chết hết” (St 33,13). Ngày
nay nghề chăn chiên vẫn tuân theo qui luật đó. Người chăn một đàn chiên dê nhỏ,
buổi chiều lúc dẫn chiên dê về, họ ẵm chiên con mới sinh trong lòng, để mẹ nó
đi theo đàn cho kịp. Chúa dùng hai từ để bao gồm trọn đoàn chiên, con mạnh cũng
như con yếu. Trong một đàn chiên thì chiên cái và chiên con mới làm lợi, chỉ
cần rất ít chiên đực. Đọc cách thức Gia-cóp chuẩn bị gặp Ê-sau bằng cách bố trí
những đàn vật ông cho dẫn đi trước để làm quà biếu Ê-sau, mong làm hòa với ông
anh đã từng muốn giết Gia-cóp, ta thấy được tỷ lệ con đực con cái trong cách
cấu tạo một đàn vật : “Hai trăm dê cái và hai mươi dê đực, hai trăm
chiên cái và hai mươi chiên đực, ba mươi lạc đà cái đang cho con bú và con của
chúng, bốn mươi bò cái và mười bò đực, hai mươi lừa cái và hai mươi lừa
con” (5) .
Chăm sóc và chăn dắt
Hai từ Hy-lạp dùng ở
đây có sắc thái hơi khác nhau một chút, từ chúng tôi dịch là chăm
sóc có nghĩa chủ yếu là dẫn chiên đi ăn ; từ chúng tôi dịch
là chăn dắt bao gồm toàn bộ việc dẫn đi ăn và săn sóc,
bảo vệ đoàn chiên. Trong tiếng Hy-lạp, động từ chăn dắt và
danh từ người chăn chiên cùng gốc với nhau (6). Chúa Giê-su
là người chăn chiên đẹp, lý tưởng, dẫn chiên của mình đi ăn và sẵn
sàng thí mạng vì đàn chiên (7) ; người chăn thuê, cũng dẫn
chiên đi ăn, nhưng chiên không phải của anh ta, nên thấy sói thì anh ta bỏ chạy
thoát thân (x. 10,1-14). Chúa dùng cả hai động từ, như đề cập toàn bộ việc chăn
chiên và đòi ông Phê-rô phải thí mạng vì đoàn chiên của Chúa, giống như Chúa.
Mến và yêu mến
Chúng tôi dùng hai
động từ tiếng Việt để dịch hai động từ trong bản văn Hy-lạp trong cuộc đối
thoại giữa Chúa Giê-su với ông Phê-rô và trong cả sách Tin Mừng Gio-an. Ở
đây không dựa trên từ điển mà dựa trên bản văn của Gio-an, không
những sách Tin Mừng mà cả các thư và sách Khải Huyền nữa.
Động từ dịch là MẾN,
luôn dùng để nói về tình yêu giữa Chúa Cha với Con và giữa Con với Chúa Cha,
giữa Chúa Giê-su với môn đệ và môn đệ với Chúa và với nhau. “Người môn đệ
Chúa Giê-su thương mến” ; trong Cựu Ước, Thiên Chúa nói
Áp-ra-ham (8) là “Người mà Ta thương mến”, “Người yêu dấu
của Ta” (Is 41,8 ; 2 Sb 20,7). Trong
thư thứ nhất, Gio-an sẽ dùng cùng một từ gốc này khi nói “Thiên
Chúa là tình Yêu” (1 Ga 4,8). Trong cuộc đối thoại với ông
Phê-rô, Chúa Giê-su dùng động từ MẾN còn ông Phê-rô dùng động từ YÊU
MẾN. Khi hỏi đến lần thứ ba thì Chúa Giê-su cũng dùng động từ YÊU
MẾN
Trong tiếng Hy-lạp thì
động từ thứ hai này nói về tình bè bạn, ái mộ. Nhiều từ trong các
tiếng Tây phương ghép với “phi-lô” chỉ về sự ái mộ, thích, như philatelie :
thích sưu tầm tem thơ ;philosophie /y : ái mộ sự khôn ngoan,
tức là triết lý, triết học. Các bậc hiền triết Hy-lạp và Rô-ma rất trọng tình
bạn, người bạn là “phân nửa hồn tôi”, và giữa hai người bạn thì mọi sự là của
chung. ThưGia-cô-bê gọi Áp-ra-ham là “bạn của Thiên Chúa” [philos]
(Gc 2,23). Chúa Giê-su nói với các môn đệ : “La-da-rô bạn
của chúng ta” [philos] (Ga 11,11). Chúa Giê-su đã coi
các môn đệ là bạn hữu, “vì tất cả những gì nghe được nơi Cha
Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Trong tình bạn
ấy Chúa Giê-su trao cho ông Phê-rô trọn cả đoàn chiên của Chúa, để ông chăm
sóc, chăn dắt giữ gìn và sẵn sàng thí mạng vì đoàn chiên của Chúa, như chính
Chúa đã làm để sắm lấy đoàn chiên ấy.
Lúc còn trẻ và khi về
già
Ngay sau lời ân cần
trao đoàn chiên của Chúa cho ông Phê-rô chăn dắt, Chúa nói cách long
trọng : “Thầy bảo thật cho anh biết” ; Chúa dùng hình ảnh con
người khi còn trẻ thì chủ động, tự thắt lưng lấy và đi đâu mình muốn, khi về
già thì thụ động, “phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi
mình không muốn”. Hình ảnh này tự nó là thân phận tự nhiên của con người. Nhưng
người kể cho ta biết Chúa muốn nói gì, có lẽ vì đã biết kết cuộc thân phận
thánh Phe-rô tại Rô-ma. Nhưng trong mạch văn Chúa trao đón chiên cho ông dẫn đi
ăn và bảo vệ giữ gìn, thì ông Phê-rô sẽ phải thí mạng vì đoàn chiên. Trong bữa
Tiệc Ly, ông Phê-rô cam kết sẵn sàng thí mạng vì Chúa Giê-su, Chúa như bảo ông
“hãy đợi đấy” : “Anh sẽ thí mạng vì Thấy ư ? Thật, Thầy bảo thật
cho anh biết : gà chưa gáy anh đã chối Thầy ba lần”. Hôm nay cũng với
công thức long trọng ấy, Chúa công bố nhận món quà của ông : thí
mạng – nhưng không phải vì Chúa nữa, mà vì đoàn chiên của Chúa mà
Chúa ủy thác cho ông.
Hãy theo Thầy
Nói thế rồi, Người bảo
ông : “Hãy theo Thầy !”
Sách Xuất Hành kể về
Mô-sê trong Lều Hội Ngộ : “Đức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt
như một người nói với bạn của mình”. Trong cuộc đàm đạo ấy, ông Mô-sê đã
nhắc lại việc Thiên Chúa sai ông đưa dân đi lên khỏi Ai-cập, để tới Đất Hứa, vì
ông được nghĩa với Thiên Chúa, rồi ông năn nỉ Thiên Chúa : “Xin khấng
tỏ cho con đường lôi của Ngài, để con biết Ngài và được nghĩa với Ngài. Xin
cũng coi dân tộc này là dân của Ngài. Đức Chúa phán : “Đích thân Ta sẽ đi,
và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.” Ông Mô-sê thưa với Người : “Nếu Ngài
không đích thân đi, xin Ngài đừng đưa chúng con lên khỏi đây…Đức Chúa phán,
ngay cả điều người vừa nói đó, Ta cũng sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với Ta và
Ta biết đích danh ngươi” (Xh 33,11-17). Sau đó Thiên Chúa
truyền ông lên núi một mình đứng đó chờ. Thiên Chúa xuống đứng với ông, tái lập
Giao Ước với dân và ban lại Bia chứng Ước cho ông Mô-sê (x. Xh 34,1-28).
Câu chuyện giữa Chúa
Giê-su với ông Phê-rô hôm nay phảng phất nhiều nét giống cuộc đàm đạo của ông
Mô-sê trong Lều Hội Ngộ, nhưng cũng có những nét rất riêng.
Ông Phê-rô đã theo
Chúa lâu rồi, nhưng Trong một đêm ông đã chối Chúa ba lần trước khi gà gáy. Hôm
nay trong nắng ban mai bên Biển Hồ, Chúa long trọng gọi đích danh ông trước mặt
sáu nhân chứng, tái lập tình bạn với ông và trao cho ông sứ mạng giống với sứ
mạng của Mô-sê. Chúa gọi ông đi theo Chúa, không chỉ như các môn đệ khác, nhưng
với một sứ mạng riêng và một cách thức riêng. Ông Mô-sê được Thiên Chúa hứa “Ta sẽ
cho ngươi được nghỉ ngơi”, nhưng chưa cho biết cách nào. Còn ông Phê-rô thì
đã được Chúa cho biết phải theo “Mục Tử Đẹp” đến tận thập giá.
Ông Phê-rô và người môn
đệ Chúa Giê-su thương mến
Chúng ta đã gặp hai vị
này với một liên hệ đặc biệt từ trong bữa Tiệc Ly, rồi ở mộ và sáng nay trong
chuyến đi đánh cá tại Biển Hồ. Chúa gọi ông Phê-rô “Hãy theo Thầy”.
Nhưng “ông Phê-rô quay lại thì thấy người môn đệ Đức Giê-su thương mến đi
theo sau”. Người kể còn nhắc cho chúng ta nhớ chi tiết xảy ra trong bữa ăn
tối hôm ấy để xác định lại vẫn là ông ấy đấy. Hôm cùng nhau chạy ra mộ thì hai
người cùng chạy, nhưng ông này đến mộ trước ông Phê-rô. Hôm nay thấy ông Phê-rô
được Chúa gọi và đi theo Chúa thì ông cũng đi theo đàng sau. Bây giờ thì ông
Phê-rô đã biết rõ Chúa chờ đợi gì ở mình và đang ở gần Chúa hơn, nên hỏi
Thầy : “Thưa Thầy, còn anh này thì sao ?”
Chúa trả lời : “Giả
như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh ?
Phần anh, hãy theo Thầy.” Câu trả lời của Chúa thoạt nghe có vẻ hơi gay
gắt. Chúa gọi ông theo Chúa thì ông cứ việc đi theo, chuyện “anh này”
vẫn là “người môn đệ Chúa thương mến” thì Chúa có chương trình của
Chúa, can gì đến ông mà ông phải thắc mắc ! Nhưng câu trả lời này vẫn có
vẻ bí ẩn, khiến thế hệ ban đầu đã thắc mắc và suy đoán. Họ nghĩ rằng Chúa sắp
đến phán xét, nên có lẽ là ông ấy sẽ không chết cho tới khi Chúa đến (x. 1
Tx 4-5 và 2 Tx 2). Người kể cũng không giải thích cho
chúng ta mà chỉ cho biết rằng cách suy đoán kia ra ngoài câu nói của Chúa. Vậy
thì chúng ta đừng phí thời giờ thêm về chuyện này.
Dù sao ta có cảm tưởng
ông Phê-rô và người môn đệ Chúa Giê-su thương mến có vẻ như một cặp bài trùng,
lúc nào cũng có nhau. Người môn đệ Chúa Giê-su thương mến luôn
theo sau “người môn đệ yêu mến Thầy”, cả khi đã chạy tới mộ trước cũng
đứng lại bên ngoài, chờ ông Phê-rô vào rồi mới theo vào sau.
Sách không bao giờ kể
Chúa Giê-su có hỏi người môn đệ Chúa thương mến hay môn đệ nào khác “con có
mến Thầy không”, mà chỉ hỏi ông Phê-rô, và hỏi tới lần thứ ba. Ông Phê-rô
đã cam kết là mình yêu mến Thầy đến sẵn sàng thí mạng vì Thầy. Ông đã thất bại,
chối Chúa ba lần trong một đêm. Hôm nay thì Chúa cho ông dịp để tuyên xưng ba
lần “Con yêu mến Thầy”, nhưng không dám vỗ ngực mà chỉ dựa vào Chúa. “Xin
Ngài xem con con có lạc vào đường gian ác, mà dẫn con theo chính lộ ngàn đời” (Tv 139/138,24).
Như một tranh thánh
phương đông (icône / icon), hình ảnh hai vị theo nhau trên cùng một mặt phẳng
gợi cho ta sự gắn liền giữa được Chúa thương mến và được
thương mến Chúa. Hai khía cạnh không thể tách rời trong đời sống của
Hội Thánh và của mỗi người chúng ta. Hội Thánh là đoàn chiên được Chúa yêu mến
và đã thí mạng để sắm lấy cho mình : “Người đã yêu mến chúng ta và đã
lấy máu mình rửa sạch tỗi lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc
và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người.” (Kh 1,5-6).
Nguy cơ là “ngươi đã đánh mất tình yêu thuở ban đầu” (Kh 2,4).
Trong Cựu Ước Thiên Chúa đã quở trách dân Ít-ra-en bội bạc, đem những gì Chúa
ban do lòng yêu thương của Chúa, đi tế lễ cho các thần khác. Nhưng Chúa quyết
hành động để chinh phục lại (x. Ed16 ; Hs 2,16-25).
“Tình Yêu cốt ở điều này, không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng
chính người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội
cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta
như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Thiên Chúa chưa ai
được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại
trong chúng ta, và tình yêu của người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (1
Ga 4,9-12).
Ba lần thánh Phê-rô
tuyên xưng “con yêu mến Thầy” thì ba lần Chúa đáp lại bằng cách trao cho
ông chăn dắt chiên của Chúa. Và sau đó Chúa loan báo “ông phải chết cách nào
để tôn vinh Thiên Chúa”. Chúa Giê-su đã chết để tỏ lòng yêu mến Cha, để tôn
vinh Cha (x. 14,41). Nhưng là chết vì yêu mến chúng ta, theo ý của
Cha. Chúa Giê-su không cần ông Phê-rô chết thay cho Chúa hay vì Chúa, nhưng
chết cùng với Chúa và giống như Chúa : vì đoàn chiên của Chúa. Chúa Giê-su
đã cho chúng ta điều răn mới, một điều thôi : “Anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (13,34).
Trong gia đình Việt
Nam ta, “nước mắt chảy xuôi”, cha mẹ chấp nhận mọi gian nan vất vả vì
con cái, niềm vui và hãnh diện của cha mẹ là thấy con cái yêu thương nhau và
đứa lớn biết lo cho đứa bé, để đỡ gánh nặng cho cha mẹ. Thiên Chúa cũng chỉ
muốn con cái yêu thương nhau và trở thành cuộc hiển linh của Thiên Chúa, dấu
chỉ cho mọi người nhận biết “Thiên Chúa là Tình Yêu” và đang hiện diện
trong cộng đoàn những người theo “Đạo Yêu Nhau”, như thế hệ Ki-tô hữu
ban đầu ở Việt Nam đã chứng tỏ (x.Thư của cha Gaspar d’Amaral, Dòng Tên,
31/12/1631 báo cáo về Hội Thánh ở Đàng Ngoài).
L.M.Nguyễn
công Đoan S.J.
(1) Hai bản dịch
tiếng Pháp nổi tiếng, Bible de Jérusalem và Traduction
Œcuménique de la Bible dịch như thế. BảnNew American Bible :
“có bắt được cái gì ăn không ?”. Bản dịch tiếng Anh mẫu mực King
James, bản dịch tiếng Tây ban Nha của Luis Alonso Schoekel (Thầy của
tôi !) ủng hộ cách dịch của chúng tôi.
(2) Cây vả có lá
to nhất trong các cây ăn trái quen thuôc, giống như lá cây Xa-kê ở miền Nam
nước ta.
(3) Bản Híp-ri dịch
sát : “họ chiêm ngưỡng Thiên Chúa và họ ăn, và họ uống”. Bản Hy-lạp LXX đã
né : “họ thấy chỗ Thiên Chúa đứng” cho hợp với câu Thiên Chúa trả
lời khi ông Mô-sê xin được “thấy vinh quang của Thiên Chúa” : “Ngươi
không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con gười không thể thấy Ta mà vẫn sống”
(Xh 33,20).
(4) Người Do-thái
không có tên họ theo kiểu Việt-nam, tên gọi kèm theo tên cha (con ông… thời đó
dùng tiếng A-ram là bar-, nay dùng tiếng Híp-ri là ben-),
nếu cần thì thêm tên ông nội ; vì thế khi làm giấy tờ họ hỏi tên cha. Khi
nói tên một người mà kèm theo “con bà…” là tỏ ý khi dể, coi như con
không cha, con hoang ; trong Mc 6,3 dân làng Na-da-rét
nói về Chúa Giê-su : “ÔNG ta không phải là bác thợ, con bà
Ma-ri-a…”. Mấy năm trước đây, xảy ra vài ba vụ kẻ quá khích viết phạm
thượng huỵch toẹt bằng tiếng Do-thái lên tường tu viện, nhà thờ, ở
Giê-ru-sa-lem và Ga-li-lê : “Giê-su con của gái điếm” (Yehosua ben
Zona). Dĩ nhiên là cảnh sát Ít-ra-en chẳng bao giờ tìm ra thủ phạm !
(5) Để ý là lạc đà và
lừa thì chỉ biếu lạc đà cái đang cho con bú với con của chúng, lừa cũng vậy,
không cần biếu lạc đà đực và lừa đực. Lý do là hai loài này khi tới cữ thì tự
đi tìm con đực, không cần nuôi trong đàn. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a sẽ dùng hình ảnh
này để diễn tả lòng mê thích tà thần của dân Ít-ra-en : “Con lạc đà cái
non dại chạy lăng xăng khắp mọi nẻo đường, con lừa cái hoang quen thói trong sa
mạc, nổi cơn them khát lên thở hổn hà hổn hển ? Chứng động cỡn của nó ai
mà ghìm được ? Muốn tìm kiếm nó, đâu khó nhọc gì, cứ đến tháng của nó là
gặp được thôi” (Gr 2,23-24). Cũng do thói quen này của họ nhà
lừa mà xảy ra chuyện “các con lừa cái của ông Kít, cha ông Sa-un đi lạc “và
ông Kít sai Sa-un đi tìm… (x. 1 Sm 9,3)
(6) Động từ poimaino –danh
từ poimen.
(7) Đa-vít vật
tay đôi với sư tử để giựt con chiên ra khỏi hàm sư tử (x. 1S 17,
34-35)
(8) Người Hồi Giáo gọi
Áp-ra-ham là El Khalil (Người Yêu Dấu), Bạn của Thiên Chúa ; Khép-rôn là
nơi có mộ của Áp-ra-ham được gọi như thế. Cổng phía Tây thành mở ra phía đường
đi Khép-rôn gọi là Bab El Khalil.