NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
Linh mục Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ
Germany, ngày 20-03-2021
Mục lục
I. Kinh nghiệm về những thách đố đức
tin trong Cựu Ước
1. Cuộc sống vật chất đầy đủ làm
cho người ta quên Thiên Chúa
2. Thiên Chúa không quên lời hứa –
Ơn gọi của Mô-sê:
II. Từ Xuất Hành cho đến Chúa Giê-su
1. Núi Khô-rép, điểm hẹn thứ nhất
2. Cuộc gián đoạn thứ nhất :
Tội tổ tông trong hoang địa, làm ra một ông thần (Xh 32).
3. Cuộc gián đoạn thứ hai: Ba-an
Pơ-o (Ds 25)
4. Lạm dụng hình thức bên ngoài để
che đậy bất công, tàn bạo
III. Dân của Giao Ước Mới là dân được
sai đi
IV. Những thách đố cho đời sống đức
tin hôm nay
1. Những thách đố cho đời sống đức
tin thời hậu Ki-tô giáo và hậu vô thần.
2. Sự đảo lộn các giá trị.
3. Thách đố ngẫu tượng mới
V. Sư phạm của Thiên Chúa
1. Thiên Chúa đã giáo dục tổ phụ
Áp-ra-ham thế nào.
2. Thiên Chúa đã giáo dục dòng dõi
Áp-ra-ham
VI. Truyền đạt đức tin cho người trẻ
hôm nay
WHĐ (20.04.2021) – Bài viết
trình bày kinh nghiệm lịch sử thăng trầm của đời sống đức tin của Dân Chúa để
rút bài học cho thời đại và đặc biệt cho việc truyền đạt đức tin cho thế hệ con
cháu giữa những biến đổi nhanh chóng theo “tốc độ điện tử”.
I. Kinh nghiệm về những thách đố đức tin trong Cựu Ước
Nhìn lại những
thăng trầm trong Lịch sử Cựu Ước về đời sống đức tin của Dân Chúa qua từng giai
đoạn và tìm hiểu nguyên nhân.
Sách Sáng
Thế kể cho chúng ta biết các tổ phụ đã đón nhận và sống đức tin như
thế nào: từ khi Áp-ra-ham được Thiên Chúa gọi và bắt đầu cuộc phiêu lưu với
Thiên Chúa, cho tới khi Gia-cóp đưa dòng dõi gồm 70 người qua Ai Cập tị nạn,
nhờ có Giu-se đã được Thiên Chúa sai đi trước do sự ghen ghét của anh em, nhưng
đã được Thiên Chúa biến dữ ra lành, đưa lên địa vị thay quyền Pha-ra-ô cai quản
nước Ai Cập. Chính ông sẽ giải thích cho anh em về đường lối kỳ diệu của Thiên
Chúa và báo trước cuộc giải thoát kỳ diệu vĩ đại Thiên Chúa sẽ thực hiện như
Người đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham:
Người phán với ông:
“Ngươi phải biết rằng: dòng dõi ngươi sẽ trú ngụ trong một đất không phải
của chúng. Chúng sẽ làm tôi người ta và người ta sẽ hành hạ chúng bốn trăm
năm. 14Nhưng Ta sẽ xét xử dân tộc chúng phải làm tôi, và sau đó chúng sẽ
ra đi với nhiều tài sản. 15Còn ngươi sẽ về với cha ông ngươi bình an, và
sẽ được chôn cất sau khi hưởng tuổi già hạnh phúc. 16Đến đời thứ bốn,
chúng sẽ trở về đây, vì sự gian ác của người E-mô-ri chưa đủ
mức.” (St 15,13-16)
Và với Gia-cóp /
Ít-ra-en khi ông lên đường đưa dòng dõi qua Ai-cập, Thiên Chúa hứa:
Ông Ít-ra-en lên
đường, đem theo tất cả những gì ông có. Ông đến Bơ-e Se-va và ông dâng
những lễ tế lên Thiên Chúa của cha ông là I-xa-ác. 2Thiên Chúa phán
với ông Ít-ra-en trong thị kiến ban đêm, Người phán:
“Gia-cóp ! Gia-cóp !” Ông thưa: “Dạ, con đây !” 3Người phán
: “Ta là En, Thiên Chúa của cha ngươi. Đừng sợ xuống Ai-cập, vì ở
đó Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn. 4Chính Ta sẽ
xuống Ai-cập với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên. Giu-se sẽ
vuốt mắt cho ngươi.” (St 46,1-4).
Cái chết của Giu-se
như khép lại một giai đoạn và cái xác ướp của ông nằm đó như bảo đảm và chờ
ngày cùng về Đất Hứa với dân (St 50,24-26)
1. Cuộc sống vật
chất đầy đủ làm cho người ta quên Thiên Chúa
Sách Xuất
Hành mở đầu với danh sách các con ông Gia-cóp đã theo ông sang Ai-cập,
nơi Giu-se đã được sai đi trước để chuẩn bị và đang chờ cha cùng toàn thể gia
đình qua lánh nạn, sau đó nói về sự sinh sôi nảy nở đông đúc và cuộc áp bức:
Rồi
ông Giu-se qua đời, cũng như anh em ông và tất cả thế hệ
đó. 7Con cái Ít-ra-en sinh sôi nảy nở, nên đông đúc và ngày càng
hùng mạnh: họ lan tràn khắp xứ.
8Thời ấy có
một vua mới lên trị vì nước Ai-cập, vua này không biết
ông Giu-se. 9Vua nói với dân mình: “Này đám dân con
cái Ít-ra-en đông đúc và hùng mạnh hơn chúng ta. 10Chúng ta hãy
dùng những biện pháp khôn ngoan đối với dân đó, đừng để chúng nên đông
đúc, kẻo khi có chiến tranh, chúng hùa với địch mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi
xứ.” 11Người ta bèn đặt lên đầu lên cổ họ những viên đốc công, để hành hạ
họ bằng những việc khổ sai. (Xh 1,6-11).
Một điều sách không
nói, nhưng tôi thấy có thể đọc ra từ sự im lặng.
Giu-se đã chọn phần
đất phì nhiêu nhất cho gia đình (St 47,1-10). Sống trên phần đất
màu mỡ này, dòng dõi Gia-cóp “sinh sôi nảy nở, nên đông đúc và ngày càng
hùng mạnh: họ lan tràn khắp xứ”.
Giu-se là người
cuối cùng nhắc đến Thiên Chúa và lời hứa của Thiên Chúa cho tổ phụ Áp-ra-ham (St 50,24-25).
Thời gian qua đi, vua mới không biết đến Giu-se, và chỉ thấy mối đe dọa từ một
giống dân không phải là người Ai-cập, coi họ như một mối đe dọa. Phải ra tay
trừ hậu họa: “Này đám dân con cái Ít-ra-en đông đúc và hùng
mạnh hơn chúng ta. 10Chúng ta hãy dùng những biện pháp khôn
ngoan đối với dân đó, đừng để chúng nên đông đúc, kẻo khi có chiến tranh,
chúng hùa với địch mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi xứ.” Sự khôn
ngoan của Giu-se đã giúp dân Ai Cập thoát họa đói kém. Sự khôn ngoan của
Pha-ra-ô được dùng để đối phó với dòng dõi Gia-cóp đã trở thành
nguy cơ “chúng hùa với địch mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi xứ”.
Pha-ra-ô không sử
dụng giải pháp diệt chủng trực tiếp, nhưng dùng họ làm nô lệ để làm những việc
nặng nhọc: “Người Ai-cập cưỡng bách con cái Ít-ra-en lao
động cực nhọc. 14Chúng làm cho đời sống họ ra cay đắng vì phải lao động
cực nhọc : phải trộn hồ làm gạch, phải làm đủ thứ công việc đồng áng ; tóm
lại, tất cả những việc lao động cực nhọc, chúng đều cưỡng bách họ làm” (Xh 1,13-14).
Đồng thời áp dụng
một chính sách diệt chủng tinh vi: 15 “Vua Ai-cập nói
với những bà đỡ đi giúp sản phụ Híp-ri, một bà tên là Síp-ra, một bà
tên là Pu-a : 16 ‘Khi đỡ cho sản phụ Híp-ri, các người
hãy xem đứa trẻ là trai hay gái . Nếu là trai thì giết đi, nếu là gái thì
để cho sống.” (Xh 1,15-16).
Một điều nghịch lý
là suốt giai đoạn từ sau khi Giu-se chết, ta không nghe một người nào trong
dòng dõi Gia-cóp nhắc tới Thiên Chúa, nhưng lại nghe hai bà đỡ [dĩ
nhiên là người Ai-cập] “kính sợ Thiên Chúa” mà không làm theo lệnh
vua, vẫn để cho con trai Ít-ra-en sống (Xh 1,17).
Tệ hơn nữa họ thờ
các thần của Ai-cập. Trong hoang địa, ngay sau Giao Ước Xi-nai, họ yêu cầu ông
A-ha-ron làm cho họ một ông thần... Ông A-ha-ron chẳng cần suy nghĩ, thu vàng
của họ và đúc ngay một con bê[1]...
2. Thiên Chúa không
quên lời hứa – Ơn gọi của Mô-sê:
Bấy giờ
ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư
tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên
Chúa, là núi Khô-rếp. 2Thiên sứ của ĐỨC CHÚA hiện ra với
ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây
cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. 3Ông tự bảo: “Mình phải lại
xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy
rụi?” 4ĐỨC CHÚA thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi
ông: “Mô-sê ! Mô-sê !” Ông thưa: “Dạ, tôi đây!” 5Người
phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất
thánh.” 6Người lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa
của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.”
Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.
7 ĐỨC
CHÚA phán: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã
nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của
chúng. 8Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng
từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tuôn chảy sữa và mật,
xứ sở của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút. 9Giờ
đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta ; Ta cũng đã
thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập. 10Bây giờ, ngươi
hãy đi ! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con
cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.”
11 Ông Mô-sê thưa
với Thiên Chúa: “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con
cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập?” 12Người phán: “Ta sẽ ở với
ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi
đưa dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này.”
Trong sách Xuất
Hành, chương thứ nhất đã kể về kế hoạch “khôn ngoan” của Pha-ra-ô, chương
thứ hai đã kể lai lịch ông Mô-sê, tại sao ông lưu lạc tới xứ Ma-đi-an này và
trở thành người chăn chiên cho nhạc phụ.
Thiên Chúa đến tìm
ông tai núi Khô-rép, tỏ cho ông biết Người là ai và tại sao Người đến tìm ông.
Đọc kỹ những lời Thiên Chúa phán với Mô-sê:
Danh xưng: Ta
là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa
của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.” Thiên Chúa nhìn
nhận Mô-sê là con cháu của ba vị tổ phụ, còn Ngài là Thiên Chúa của các Tổ Phụ
ấy bằng giao ước, nên Mô-sê không phải là kẻ xa lạ, nhưng là người nhà của Ngài
lưu lạc một mình ở nơi xa xôi này. Ông không biết Ngài nhưng Ngài vẫn biết tên
gọi và tông tích của ông.
Tại sao Thiên Chúa
đến tìm Mô-sê? 9Giờ đây, tiếng rên siết của con
cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta ; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải
chịu vì người Ai-cập.
Lời kể không nói họ
kêu lên Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn nghe, vẫn thấy và tự ý đến cứu họ.
Một mình Mô-sê lưu
lạc Thiên Chúa còn biết, nói chi cả con cái Ít-ra-en, cả dòng dõi của ba vị Tổ
Phụ đang sống cảnh áp bức tại Ai cập. Thiên Chúa đối xử với họ như người cha,
người mẹ nghe tiếng con khóc, thấy con đau thì chạy tới.
Thiên Chúa đã tự
nhận trách nhiệm giữ con, giữ cháu và giữ đất đã hứa cho con cháu để Áp-ra-ham
và Gia-cóp / Ít-ra-en được ngủ yên. Dù con cháu của các ông quên Người, nhưng
Người không quên họ, không quên lời hứa. Đúng hẹn thì Người tới đưa họ về Đất
Hứa. Người đến tìm Mô-sê vì muốn dùng ông làm sứ giả của Người để thực hiện
cuộc giải cứu Người đã hứa với Áp-ra-ham (St 15,12-16) nhắc lại cho
Gia-cóp / Ít-ra-en trước khi ông dẫn cả gia đình qua Ai-cập (St 46,2-4),
và Giu-se đã nhắc cho anh em trước khi nhắm mắt lìa đời (St 50,24-25).
“10Bây giờ,
ngươi hãy đi ! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con
cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.” Thiên Chúa không sai
ông lão chăn chiên này đi lập một đạo quân và mở một cuộc chiến tranh giải
phóng nhưng chỉ đến gặp Pha-ra-ô thôi.
Mô-sê nhận biết
mình quá nhỏ bé trước sứ mạng. Đúng, Mô-sê chỉ là một công cụ rất nhỏ bé. Thiên
Chúa mới là Đấng lo việc giải thoát. Thiên Chúa sai ông đi và Thiên Chúa ở với
ông. Thiên Chúa cho ông một dấu hiệu làm bảo chứng cho sự thành công:
Và đây là dấu
cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các
ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này.”
Thiên Chúa giải
thoát cho dân vì Người đã nhận họ là dân của Người do giao ước với tổ phụ của
họ bằng một lời thề theo nghi thức long trọng và quyết liệt nhất của thời ấy (St 15,6-21).
Dù họ quên Người, chẳng biết Người là ai nữa. Mô-sê cũng không biết Người.
Cách Mô-sê xin Chúa
cho biết tên để trả lời cho dân, lộ cho thấy thêm rằng dân đã theo các thần của
Ai-cập[2],
nên hỏi tên vị thần nào sai ông Mô-sê:
Ông Mô-sê thưa
với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ:
Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi
con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” 14Thiên Chúa
phán với ông Mô-sê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Người phán: “Ngươi nói với con
cái Ít-ra-en thế này: ‘Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh
em.’” 15Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: “Ngươi sẽ nói với con
cái Ít-ra-en thế này: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên
Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa
của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó
là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia. (Xh 3,13-15).
Thiên Chúa cho hai
câu trả lời. Câu thứ nhất vẫn được hiểu là Người nói thánh danh tuyệt đối của
Người. Dịch sát : TA LÀ ĐẤNG TA LÀ. Rồi dạy ông Mô-sê cách trả lời cho
dân : « ĐẤNG TA LÀ sai tôi đến với anh em. »
Rồi ngay sau đó,
Người lại phán: “Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế
này: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa
của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp,
sai tôi đến với anh em”. Có vẻ như nếu nói thánh danh tuyệt đối
của Thiên Chúa thì họ không biết và cũng không thấy tương quan đặc biệt gần gũi
giữa Người với họ, nên Thiên Chúa cho truyền ông Mô-sê sử dụng danh xưng liên
hệ tới Giao Ước, vừa nói lên tính duy nhất, vừa nói lên sự gần gũi, và từ nay
dân Ít-ra-en sẽ mãi mãi dùng danh xưng đó khi nói về Thiên Chúa.
Trong một thế giới
đa thần, người ta khó mà nhận ra được Thiên Chúa là duy nhất, không có thần nào
khác. Mỗi bộ lạc, mỗi dân có thần của mình. Tình trạng này đặt ra một vấn đề sư
phạm trong việc giáo dục đức tin. Trong luật Giao Ước (Xh 20) và
lời tuyên xưng đức tin của Ít-ra-en «Nghe đây, hỡi Ít-ra-en» (Đnl 6,4-6)
nói rõ không có thần nào khác.
Bài ca của Mô-sê
trong sách Đệ nhị luật (32,8-9), lại dùng cách diễn tả Thiên Chúa là Đấng chia
phần thế giới cho các thần, và Ngài chọn Ít-ra-en làm phần riêng của Ngài, nên
đối với Ít-ra-en thì Ngài là Thần duy nhất của họ. Khi Đấng Tối
Cao định phần riêng cho muôn nước, và khiến loài người khắp ngả chia tay,
thì Người vạch biên cương cho từng dân tộc theo số các thần minh.
9Nhưng sở
hữu của ĐỨC CHÚA chính là dân Chúa, nhà Gia-cóp là cơ
nghiệp của Người.
Thần nào cũng có
hình dạng khiến người ta nhìn thấy được bằng mắt, sờ được bằng tay. Thiên Chúa
của Giao Ước là Đấng vô hình. Trong thế giới đa thần thì sấm sét và mọi hiện
tượng thiên nhiên đều có vị thần điều khiển. Mạc khải về Thiên Chúa thật sẽ dẫn
người ta tới Thiên Chúa là Đấng tạo nên thế giới, mọi sự thuộc quyền của Người.
Người tỏ vinh quang, uy quyền của Người bằng âm thanh, ánh sáng, mây đen, mây
sáng, lửa, khói…
Một tiến trình giáo
dục lâu dài. Cũng như các ký hiệu ghi số rất tiện lợi mà chúng ta quen dùng
ngày nay, quen gọi là chữ số Ả-rập, phải đến thế kỷ 11 người ta mới nghĩ ra con
số “dê-rô”! Thời Cựu Ước người ta chưa quan niệm được các thần của dân ngoại là
hư vô, là không có, nên các ngôn sứ, các thánh vịnh và các sách khôn ngoan sẽ
dùng nhiều cách để dạy cho người tin Thiên Chúa hiểu rằng các tượng thần người
ta tự nặn ra theo ý mình chẳng có giá trị gì, chỉ là đất, đá, vàng, bạc.
Áp-ra-ham cũng sống
trong cái xã hội đa thần, đầy ngẫu tượng đó. Khi Thiên Chúa gọi ông ra khỏi gia
đình, bộ lạc… ông đã bỏ cả các «thần» của họ[3].
Nhưng khi dòng dõi ông sống bên Ai-cập thì lại theo các «thần» và ngẫu tượng
của Ai-cập, vốn đầy tính huyền bí.
Chúng ta hãy tạm
kết luận phần này, nhận định mấy điều giải thích tại sao dòng dõi Áp-ra-ham
không nhớ gì về Thiên Chúa của các tổ phụ:
Thứ nhất là cuộc sống
vật chất thoải mái, no đủ làm người ta quên Thiên Chúa;
Thứ hai là đời trước
không kể lại cho đời sau, cha mẹ không kể lại cho con cái;
Thứ ba là sự cuốn
hút của nếp sống văn hóa, xã hội, tôn giáo chung quanh;
Thứ tư là sự hấp dẫn
của các ngẫu tượng và tính huyền bí của các truyện về thần linh của
Ai-cập;
Bốn yếu tố này sẽ
thay hình đổi dạng theo thời gian và nơi chốn, tiếp tục tác động như những
thách đố cho đời sống đức tin của Dân Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước xuyên dòng
lịch sử cho đến thời chúng ta và sẽ tiếp tục cho tới ngày Chúa đến trong vinh
quang để kết thúc lịch sử.
II. Từ Xuất Hành cho đến Chúa Giê-su
Đọc lại câu chuyện
từ khi Mô-sê gặp Pha-ra-ô lần đầu cho đến khi vượt qua Biển an toàn, thấy xác
quân của Pha-ra-ô, chúng ta mới có câu kết luận nói lên hiệu quả của biến cố
giải thoát này:
Ngày đó, ĐỨC
CHÚA đã cứu Ít-ra-en khỏi tay
quân Ai-cập. Ít-ra-en thấy quân Ai-cập phơi thây trên
bờ biển. 31Ít-ra-en thấy ĐỨC CHÚA đã ra tay hùng mạnh đánh
quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ ĐỨC CHÚA, tin vào ĐỨC
CHÚA, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người. (Xh 14,30-31).
Suốt thời gian
trước, trong khi Mô-sê thi hành sứ mạng, phản ứng tàn bạo, ngoan cố của
Pha-ra-ô dội lên đầu dân, họ chỉ than trách ông Mô-sê vì làm cho họ khổ thêm.
Cuộc đụng độ xảy ra giữa một bên là đại diện của dân đến gặp vua để kêu van, bị
trả lời gay gắt. Vừa đi ra thì gặp ông Mô-sê và A-a-ron đứng ngoài
chờ vô tiếp tục nói với Pha-ra-ô, họ liền trút uất hận lên đầu hai ông và xin
Chúa mà Mô-sê nói là Đấng đã sai ông đến giải thoát họ kết án hai
ông vì chỉ làm họ khổ thêm.
Các ký lục của con
cái Ít-ra-en đến kêu với Pha-ra-ô: “Tại sao bệ hạ lại xử với các
bề tôi như thế ? 16Rơm thì người ta không cung cấp cho bề tôi nữa, mà lại
bảo: Sản xuất gạch đi ! Bệ hạ coi: người ta đánh bề tôi, như thể dân của bệ hạ
đây có lỗi .” 17Vua đáp: “Các ngươi là quân lười biếng, quân lười
biếng ! Vì thế, các ngươi mới nói: chúng ta hãy đi tế lễ ĐỨC
CHÚA. 18Bây giờ đi làm việc đi ! Sẽ không cung cấp rơm cho các ngươi nữa,
nhưng gạch thì các ngươi vẫn phải nộp…
Ra khỏi
đền Pha-ra-ô, họ gặp ngay ông Mô-sê và ông A-ha-ron đang
đứng chờ họ. 21Họ nói với hai ông: “Xin ĐỨC CHÚA chứng giám và
xét xử cho: các ông đã làm cho chúng tôi trở nên đáng ghét trước
mắt Pha-ra-ô và bề tôi của vua ; thật các ông đã trao gươm vào tay họ
để giết chúng tôi.”
Quả là thử thách
lớn. Ông Mô-sê thấy mình kẹt giữa hai bên: Thiên Chúa sai ông đi, nhưng sứ mạng
có vẻ thất bại, dân thì oán trách ông. Ông chỉ biết hướng lên Thiên Chúa mà
than:
22Ông Mô-sê hướng
về ĐỨC CHÚA và thưa: “Lạy Chúa, tại sao Ngài đã làm khổ dân này? Tại
sao Ngài đã sai con đi ? 23Từ khi con đến với Pha-ra-ô để nhân
danh Ngài mà nói, thì vua ấy làm khổ dân này, và Ngài chẳng giải thoát dân Ngài
gì cả !” (Xh 5,15-23)
Thiên Chúa trả lời
cho Mô-sê, dạy ông phải kiên nhẫn chờ đợi. Đây là việc của Thiên Chúa, Thiên
Chúa sẽ làm chứ không phải ông. Ngài sai ông chuyển lời cho Pha-ra-ô thì ông cứ
làm việc được trao. Chính Thiên Chúa đang rèn luyện lòng tin của Mô-sê. Đến bờ
biển khi dân thấy mình bị kẹt, sau lưng thì quân đội hùng hậu của Pha-ra-ô đuổi
theo, trước mặt là biển… Họ kêu trách Mô-sê thật cay chua: “Bên Ai-cập không
có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc ? Ông làm
gì chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập ? 12Đó
chẳng phải là điều chúng tôi từng nói với ông bên Ai-cập sao ? Chúng
tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập ! Thà làm nô
lệ Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc !” (Xh 14,11-12).
Nhưng ông Mô-sê tỏ
ra đã biết quyền năng của Thiên Chúa: Ông Mô-sê nói với dân:
“Đừng sợ ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc ĐỨC CHÚA làm hôm nay
để cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không
bao giờ anh em thấy lại nữa. 14ĐỨC CHÚA sẽ chiến đấu cho anh em. Anh
em chỉ có việc ngồi yên.” (15,13-14).
Khi cuộc giải thoát
thành công oanh liệt thì mọi người vui mừng ca tụng Thiên Chúa. Nhưng lời ca
còn đang vang xa dần trong hoang mạc thì thử thách mới đã ập tới: nước uống và
bánh ăn. Sa mạc đâu phải là kho lương thực, đâu phải là dòng sông… Kinh nghiệm
40 năm rong ruổi dẫn đàn chiên trong hoang địa cũng không đủ giúp ông tìm ra
nguồn nước. Một chút bột mỗi gia đình mang theo từ Ai-cập thì ăn được bao nhiêu
ngày… Dân lại chĩa mũi dùi oán trách lên đầu ông Mô-sê, ông lại kêu lên Thiên
Chúa, và Người cho ngay cách giải quyết.
Kết luận được rút
ra ngay: chính tại đó Người đã thử lòng họ. (15,25). Ta
bắt đầu thấy sư phạm của Thiên Chúa. Thử thách vừa cho người ta thấy sự thật về
mình và học biết Thiên Chúa.
Con người thật mỏng
dòn trong tương quan với nhau và với Thiên Chúa. Chỉ trong khó khăn con người
thật mới lộ ra. Thử thách là một yếu tố không thể thiếu trong sư phạm.
1. Núi Khô-rép,
điểm hẹn thứ nhất
Núi Khô-rép là nơi
Thiên Chúa đã đến tìm Mô-sê và sai ông đi nói với Pha-ra-ô. Dấu hiệu Thiên Chúa
cho ông để biết rằng Đấng sai ông đi chính là Thiên Chúa của tổ tiên ông:
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp là: «Và đây là dấu cho ngươi biết
là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các
ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này.»
Chính sự thành công
là dấu hiệu cho ông, bởi vì tự sức ông không thể làm nổi.
Chỉ có Thiên Chúa
mới làm nổi, lời ông nói chẳng thể lọt tai Pha-ra-ô, đã thế ông lại nói «cà
lăm» ! Thiên Chúa chứng tỏ quyền năng của Người bằng cách sử dụng một
người vô tài bất lực để làm một việc vượt sức loài người. Ông Mô-sê nói với
Pha-ra-ô bằng thứ hình ảnh mà Pha-ra-ô hiểu được. Mô-sê tỏ ra có óc sáng
tạo, dùng chính lời hứa đến núi Khô-rép làm lý do: “ĐỨC CHÚA, Thiên
Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Hãy thả cho dân Ta đi, để chúng
mở lễ kính Ta trong sa mạc.” (Xh 5,1). Câu trả
lời của Pha-ra-ô ngạo nghễ, thách đố “ĐỨC CHÚA là ai, khiến ta
phải nghe lời mà thả cho Ít-ra-en đi ? Ta chẳng biết ĐỨC CHÚA,
cũng sẽ không thả cho Ít-ra-en đi.” (5,2).
Mô-sê nghĩ nói
thánh danh Thiên Chúa thì Pha-ra-ô không hiểu nên đổi kiểu nói, thêm lời đe
dọa, không cho chúng tôi đi tế lễ «Thần của chúng tôi» thì Thần sẽ tiêu
diệt chúng tôi và vua sẽ mất cả cái dân nô lệ này: “Thiên Chúa [Thần]
của người Híp-ri đã hiện ra với chúng tôi. Xin cho chúng
tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để tế lễ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi ;
nếu không, Người sẽ dùng dịch hạch hay gươm giáo mà giết chết chúng tôi.” Óc
sáng tạo của Mô-sê chỉ làm cho Pha-ra-ô quyết liệt hơn và làm ngược lại lời yêu
cầu.
Cuộc đấu từ nay là
cuộc đấu tay đôi giữa Thiên Chúa với Pha-ra-ô. Mô-sê chỉ có sứ mạng chuyển lời
của Thiên Chúa và nhìn. Tay Thiên Chúa mạnh hơn tay Pha-ra-ô.
Mô-sê đã đưa được
dân tới núi Khô-rép. Bây giờ Thiên Chúa mới cho thấy rõ kế hoạch của Người:
Không chỉ là để tổ chức một cuộc lễ mừng như Mô-sê đã hiểu, nhưng là một Giao
Ước biến đám dân nô lệ hỗn tạp, gồm dòng dõi Áp-ra-ham và «Cả một đám
đông hỗn tạp cùng lên với họ» (12,38) thành một dân duy nhất
để thờ phượng một mình Thiên Chúa là Đấng đã đưa họ thoát ách nô lệ:
“Ta là ĐỨC
CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô
lệ. 3Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta (Xh 20,2-3).
Sau đó Mô-sê tổ
chức một cuộc lễ để công bố thiết lập Giao Ước: Mô-sê tuyên đọc Luật Giao Ước
rồi rảy máu của những con vật đã sát tế làm lễ toàn thiêu và lễ hiệp thông lên
sách Luật và dân đã chấp nhận Luật Giao Ước.
Cuộc lễ này mở đầu
cho một cuộc lễ lâu dài suốt lịch sử Dân Chúa. Nhưng cuộc lễ sẽ bị gián đoạn
nhiều lần, vì Dân của Giao Ước không trung thành. Cuộc gián đoạn đầu tiên không
phải chờ lâu.
2. Cuộc gián đoạn
thứ nhất : Tội tổ tông trong hoang địa, làm ra một ông thần (Xh 32).
Đám mây trên núi đã
biến đi, ông Mô-sê lên núi, vào trong đám mây, bao nhiêu ngày rồi dân ngồi chờ
trong lều dưới chân núi không thấy ông trở xuống. Thiên Chúa đã nói bằng tiếng
sấm tiếng sét, họ chẳng thấy mặt mũi ra sao. Trước khi lên núi, ông Mô-sê đã bảo
họ: có chuyện gì thì cứ đến với ông A-ha-ron.
Bên Ai-cập thì
người ta «làm ra ông thần» rồi khiêng đi theo ý mình…
Họ yêu cầu ông
A-ha-ron: Dân thấy ông Mô-sê lâu quá không xuống núi, bèn tụ
họp bên ông A-ha-ron và nói với ông: “Xin ông đứng lên, làm
cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết
chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa
chúng tôi lên từ đất Ai-cập.” (Xh 32,1).
Ông Mô-sê bảo họ là
«Thần của tổ tiên» đã sai ông đến để đưa họ ra. Họ chỉ biết ông Mô-sê là người
đã đưa họ lên từ đất Ai-cập tới đây.
Họ vẫn thấy là cần
một ông thần mới dẫn họ đi tiếp được. Ông A-ha-ron làm theo ý họ ngay. Thấy
công trình tay ông làm ra, dân chúng tự hô lên: đây là vị thần đã đưa các ngươi
lên từ đất Ai cập. Thấy vậy, ông A-ha-ron dựng một bàn thờ
trước tượng con bê, rồi hô to: “Mai có lễ kính ĐỨC CHÚA !”6Ngày hôm
sau, họ dậy sớm, dâng tiến những của lễ toàn thiêu và những lễ vật kỳ an. Dân
ngồi xuống ăn uống, rồi đứng lên bày trò vui chơi.
Một cuộc lễ có ăn
uống, vui chơi chứ không khắc khổ. Ông thần này sẽ dẫn họ theo ý họ: muốn đi
đâu thì khiêng ông thần đi trước rồi dân theo sau, cứ như một đám rước liên
tục. Muốn nghỉ thì đặt ông thần xuống. Đi, nghỉ, theo ý mình chứ không cần chờ
lệnh ai. Ông thần này lệ thuộc vào họ, nên họ hoàn toàn tự do. Ông thần này
không nói được nên không thể ra luật lệ cho họ.
3. Cuộc gián đoạn
thứ hai: Ba-an Pơ-o (Ds 25)
1Khi trú ngụ
tại Sít-tim, dân Ít-ra-en bắt đầu dâm đãng với
gái Mô-áp. 2Bọn này rủ rê dân thờ cúng các thần của chúng ; dân
đã ăn uống và thờ lạy các thần của chúng. 3Ít-ra-en bán mình
cho Ba-an Pơ-o và ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với họ.4ĐỨC
CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy đem tất cả các thủ lãnh của dân ra
ngoài nắng mà treo lên trước mặt ĐỨC CHÚA, để ĐỨC
CHÚA nguôi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en.” 5Ông Mô-sê nói
với các thẩm phán: “Mỗi người trong anh em hãy giết những kẻ đã bán mình
cho Ba-an Pơ-o.”
Lần này thì đầu mối
câu chuyện lại khác. Con gái Mô-áp rủ rê dân thờ cúng các thần của chúng. Không
thấy nói tên các thần, nhưng có vẻ hấp dẫn: trực tiếp thỏa mãn nhục dục, lễ hội
thì có lễ và có lạc. Lễ là kính thần, lạc là ăn uống và vui chơi.
Lần trước Thiên
Chúa đe dọa tiêu diệt toàn dân và đặt Mô-sê làm thủy tổ mới. Mô-sê xin được
Thiên Chúa tha. Nhưng Mô-sê tự ý mở thánh chiến, tiêu diệt hơn ba ngàn người
trong một ngày. Ông nói đó là lệnh của Thiên Chúa, nhưng không nói dựa trên
tiêu chuẩn nào.
Lần này thì Thiên
Chúa quy tội lên đầu các kẻ cầm đầu dân, và ra lệnh: ĐỨC
CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy đem tất cả các thủ lãnh của[4] dân
ra ngoài nắng [5]mà treo
lên trước mặt ĐỨC CHÚA, để ĐỨC CHÚA nguôi cơn thịnh nộ
với Ít-ra-en.” 5Ông Mô-sê nói với các thẩm phán[6]:
“Mỗi người trong anh em hãy giết những kẻ đã bán mình cho Ba-an
Pơ-o.” Truyện điển hình kể ở câu 7, Pin-khát cầm giáo đâm xuyên người
đàn ông Ít-ra-en và cô gái Mô-áp có thể hiểu là “ngay giữa bụng” [như bản
dịch của chúng tôi], hay là ngay trong cái lều dành làm nơi thờ thần Ba-an
Pơ-o.
Truyện thần Ba-an
Pơ-o này sẽ được nhắc tới trong Tv 105/106,28 và sách Hô-sê 9,10
như tiêu biểu cho sự bất trung với Thiên Chúa của Giao Ước trên đường từ Ai-cập
về Đất Hứa.
Vụ con bê và vụ
thần Ba-an Pơ-o được kể khá chi tiết, như mô hình để đọc ra bản chất và lý do
hấp dẫn của việc thờ ngẫu tượng thay vì thờ Thiên Chúa của Giao Ước suốt lịch
sử Dân Chúa trong Cựu Ước do Mô-sê làm trung gian, và những biến dạng của nó
trong lịch sử Dân Chúa thời của Giao Ước Mới do Chúa Giê-su làm trung gian cho
tới thời chúng ta. Vụ nổi loạn ở Xi-nai và vụ Ba-an Pơ-o cho chúng ta thấy
một nguyên nhân thứ năm ảnh hưởng sự lạc đường, sai hướng
trong hành trình đức tin là giới lãnh đạo.
Điều khó hiểu
là việc giết con tế thần, một thứ tế lễ mà chúng ta khó có thể
tưởng tượng và chấp nhận, nhưng có vẻ rất phổ biến trong nhiều dân ở vùng này.
Sách Giô-suê 6,26, ông Giô-suê đã có lời nguyền rủa thành
Giê-ri-khô:
Thuở ấy,
ông Giô-suê bắt phải thề rằng:
“Trước
nhan ĐỨC CHÚA, khốn cho kẻ đứng lên tái thiết thành Giê-ri-khô này
!
Kẻ nào đào móng
dựng nền, thì con đầu lòng của nó phải chết ;
kẻ nào dựng cổng
xây tường, thì con út của nó phải mạng vong !”
Sách I
Vua 16,24 kể rằng: Trong thời vua [A-kháp],
ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã
phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram khi đặt nền, và mất
đứa con út là Xơ-gúp khi dựng cửa, như lời ĐỨC CHÚA đã dùng
ông Giô-suê, con ông Nun, mà phán.
Sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a cho
chúng ta thấy ngay khi thảm họa đã đến ngoài cửa thành Giê-ru-sa-lem, người ta
vẫn còn giết con tế thần tại thung lũng Ghê-him-non[7] (Gr 7,30-32).
Sách Sáng
Thế kể rằng Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham, truyền ông
đem con duy nhất là I-xa -ác đi tế lễ cho Thiên Chúa, rồi phút chót
Thiên Chúa bảo ông dừng tay lại, Thiên Chúa nhận lòng yêu mến của ông, không
tiếc gì với Người, và chúc phúc cho ông (St 22,1-18). Đó là một
cách Thiên Chúa xóa bỏ cách tế thần của các dân chung quanh.
Trong sách Xuất
Hành, Thiên Chúa sẽ truyền phải dâng các con vật đầu lòng cho
Thiên Chúa bằng cách giết nó. Nhưng con lừa là con vật chuyên chở quan trọng
trong đời sống của họ, thì có thể “chuộc” bằng một con chiên. Còn con đầu lòng
của người thì được chuộc lại. “Mọi con đầu lòng của loài người trong số
con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại.” (13,13)
“Mọi con đầu
lòng đều thuộc về Ta: mọi con đực trong súc vật ngươi, con đầu lòng của bò cũng
như của chiên. 20Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ lấy một con
chiên mà chuộc lại, nếu ngươi không chuộc lại thì đánh gãy ót nó đi; còn mọi
con đầu lòng trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại.” (34,20).
Nhìn lại những kinh
nghiệm kể trên, chúng ta có thể tạm kết luận về việc bất trung, bỏ Thiên Chúa
để thờ ngẫu thần lộ ra xu hướng của con người là đảo lộn trật tự: thay vì là
hình ảnh của Thiên Chúa thì lại nặn ra thần theo hình ảnh của mình; thay vì
vâng phục và phụng sự Thiên Chúa thì muốn Người là ông thần để mình sai khiến,
thỏa mãn những dục vọng của mình.
Sự lôi cuốn của nếp
sống của các dân chung quanh.
Thánh vịnh 105/106 xưng
thú tội lỗi của Dân Chúa từ khi ra khỏi Ai-cập, cho tới khi bị lưu đày, nhắc
tới một điều là họ đã không tiêu diệt các dân sống trên đất Ca-na-an (34-39),
như Thiên Chúa đã truyền, họ sống chung với các dân này, để các dân này nên cạm
bẫy cho họ (Xh 23,33; Đnl 7,16; Tl 2,3; Kn 14,11).
Ngày nay giải pháp
trừ hậu họa tận căn này khó lọt tai chúng ta. Nhưng nhìn vào thực tế ngay trong
thời chúng ta, những cuộc diệt chủng vẫn tiếp tục hàng ngày, viện cớ tôn giáo,
tuy sự thực là vì các lý do chủng tộc, chính trị, ích kỷ. Chúng ta than phiền,
chúng ta lên án khi thấy các nhóm quá khích Hồi Giáo, Ấn giáo... hiện nay vẫn
nhân danh tôn giáo mà hủy diệt người khác. Nhưng chúng ta quên rằng trong Lịch
sử Hội Thánh, thời khủng hoảng trước Công Đồng Tri-đen-ti-nô, Tòa Án Giáo Hội
(Inquisition) cũng đã kết án tử hình “những kẻ rối đạo”. Ấy là chưa kể đến thời
Binh Thánh Giá...
Trong câu trả lời
cho ký giả trên chuyến bay từ Bagdad về Rô-ma hôm 8/3 vừa qua[8],
liên quan tới văn kiện Đức Phan-xi-cô đã ký với vị lãnh đạo Hồi Giáo Sunni Ai
cập ở Abou Dhabi hai năm trước và thông điệp “Fratelli Tutti”, ngài đã
không ngại nhắc đến lời của người đứng đầu Hồi Giáo Si-ít ở I-rắc, Ayatolla
Al-Sistani mà ngài tâm đắc và cố ghi nhớ: người ta là anh em do tôn giáo hay
bình đẳng do tạo dựng. Trong tình huynh đệ, có sự bình đẳng, nhưng chúng không
thể đi bên dưới sự bình đẳng.
Ngài nói
thêm: Tôi tin rằng đó cũng là con đường của văn hóa. Hãy nghĩ
đến bản thân chúng ta, những Ki-tô hữu. Để làm thí dụ, nghĩ tới cuộc chiến
tranh 30 năm, nghĩ tới biến cố đêm lễ thánh Ba-tô-lô-mê-ô[9].
Cách thức não trạng đã thay đổi giữa chúng ta: bởi vì đức tin của chúng ta đã
giúp chúng ta khám phá ra rằng điều Chúa Giê-su mạc khải là yêu thương và bác
ái dẫn chúng ta tới đó; nhưng phải cần bao nhiêu thế kỷ để đem ra thực hành! Đó
là điều quan trọng, tình huynh đệ giữa người với người, trong tư cách là người,
tất cả là anh em; và chúng ta phải tiến lên cùng với các tôn giáo khác: Bạn là
người, bạn là con cái Thiên Chúa, và bạn là người anh em của tôi, chấm. Đó là
chỉ dẫn quan trọng nhất, và đôi khi phải liều mà thực hành.
Bản thân ông Mô-sê,
người đã được vào trong đám mây để nghe Thiên Chúa dạy và nhận hai bia đá khắc
Luật Giao Ước, rồi đã xin được Thiên Chúa tha cho dân vì ở dưới chân núi họ
đang thờ ông thần mà A-ha-ron đúc cho họ, mở lễ hội, ăn uống, vui chơi theo
kiểu dân Ai-cập. Nhưng khi ôm hai bia đá Thiên Chúa khắc Luật Giao Ước trao cho
ông, xuống tới chân núi, thấy cảnh tượng diễn ra trước mắt, ông đã đập vỡ hai
tấm bia, tuyên bố thánh chiến, tiêu diệt ba ngàn người trong một ngày (x. Xh 32,11-34).
Hôm sau ông còn bảo dân rằng ông trở lên gặp Thiên Chúa để năn nỉ, may ra xin
được Thiên Chúa tha cho dân. Ông xin thế mạng cho họ, nhưng Thiên Chúa trả lời:
chuyện trừng phạt kẻ phạm tội là việc của Ngài, còn việc của ông là dẫn đưa dân
tới nơi Thiên Chúa đã truyền cho ông.
Sau đó thay vì lên
núi gặp Thiên Chúa, Mô-sê sáng kiến dựng cái lều bên ngoài trại làm nơi Hội Ngộ
với Thiên Chúa, không chỉ cho một mình ông mà cho cả dân, ai muốn hỏi ý Thiên
Chúa cũng có thể ra đó. Thiên Chúa cũng chấp nhận sáng kiến của ông và ngự
xuống đó cho ông gặp như đã cho ông gặp trong đám mây ở trên núi.
Tại lều Hội Ngộ
này, lời cầu nguyện của ông Mô-sê cho chúng ta biết ông ý thức là ông chưa biết
Thiên Chúa, vì chưa biết đường lối của Thiên Chúa: “Nếu quả thật con đã
được nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để
con biết Ngài, và được nghĩa với Ngài.” (Xh 33,13). Chú ý tới thứ
tự và tương quan giữa hai ơn Mô-sê xin: biết đường lối của Thiên Chúa để biết
Thiên Chúa. Có lẽ sau vụ việc ông tự ý tuyên bố thánh chiến sau khi đã xin được
Thiên Chúa tha cho dân, ông đã nhận ra vấn đề.
Sau này Chúa Giê-su
sẽ dạy tương tự: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! Lạy
Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý
muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. 22Trong
ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi
đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân
danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ 23Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với
họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều
gian ác! (Mt 7,21-23).
Biết tên và nguồn
gốc một người thì chưa phải là biết người đó. Biết cách suy nghĩ, ứng xử, sở
thích... của một người mới có thể nói là biết người đó. Với Thiên Chúa của Giao
Ước thì còn thêm một bước nữa: biết Ý Thiên Chúa và thi hành. Biết mà không thi
hành còn tồi tệ hơn là không biết (x. Mt 21,28-31).
Thiên Chúa đã
truyền cho Áp-ra-ham khi tuyên bố thiết lập Giao Ước với ông:
Khi ông Áp-ram được
chín mươi chín tuổi, ĐỨC CHÚA hiện ra với ông và phán: “Ta
là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống
hoàn hảo. 2Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho
ngươi trở nên đông, thật đông.” (St 17,1-2).
Sách Đệ Nhị
Luật kể rằng Thiên Chúa hứa sẽ sai các ngôn sứ để
dạy dỗ, nhắc nhở Dân về đường lối của Thiên Chúa, để họ đừng theo lối sống của
dân ngoại và cho cả tiêu chuẩn để nhận ra ai thật sự là ngôn sứ Thiên Chúa sai
đến (X. Đnl 18, 9-22), bởi vì sẽ có những kẻ mạo danh Thiên
Chúa, mạo danh ngôn sứ. Vì thế Thiên Chúa cho một tiêu chuẩn khác nữa để phân
biệt và đối xử triệt để, không thương tiếc:
Nếu ở giữa anh (em)
xuất hiện một ngôn sứ hay một kẻ chuyên nghề chiêm bao và nó báo trước cho
anh (em) một dấu lạ hay một điềm thiêng, 3nếu dấu lạ hay điềm thiêng nó đã
nói xảy ra, và nó bảo: “Chúng ta hãy theo và phụng thờ các thần khác”, những
thần mà anh (em) không biết, 4thì anh (em) đừng nghe những lời của ngôn sứ
hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), thử
thách anh em cho biết anh em có yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh
em, hết lòng hết dạ không. 5Chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh
em, là Đấng anh em phải theo ; chính Người là Đấng anh em phải kính sợ ;
anh em phải giữ các mệnh lệnh của Người, phải nghe tiếng Người ; chính Người là
Đấng anh em phải phụng thờ ; anh em phải gắn bó với Người. 6Ngôn sứ hay kẻ
chuyên nghề chiêm bao ấy sẽ bị xử tử, vì nó đã hô hào nổi loạn chống ĐỨC
CHÚA, Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập và
đã chuộc anh (em) khỏi cảnh nô lệ, và vì nó đã muốn lôi cuốn anh (em) ra khỏi
con đường ĐỨC CHÚA đã truyền cho anh (em) phải đi. Anh (em)
phải khử trừ sự gian ác không cho tồn tại giữa anh (em).
7Nếu người anh em
của anh (em), con của mẹ anh (em), hoặc con trai con gái anh (em), hoặc người
vợ anh (em) âu yếm, hoặc người bạn anh (em) coi như chính mình, lén lút rủ rê
anh (em): “Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác”, những thần mà anh (em) và
cha ông anh (em) không biết, 8trong số các thần của những dân ở chung
quanh, gần hay xa anh (em), từ đầu đến cuối xứ, 9thì anh (em) đừng ưng
thuận, đừng nghe nó, đừng nhìn nó mà thương hại, đừng xót thương, đừng bao che
nó ; 10trái lại, nhất định anh (em) phải giết nó. Anh (em) phải là người
đầu tiên tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau. 11Anh (em) phải ném
đá cho nó chết , và nó phải chết vì đã tìm cách lôi cuốn anh (em)
xa ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), Đấng đã đưa anh (em) ra khỏi
đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 12Nghe nói thế, toàn
thể Ít-ra-en sẽ sợ và không còn làm điều xấu như vậy giữa anh (em).
13Nếu tại một trong
những thành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để ở,
anh (em) nghe nói rằng 14có những tên vô lại phát xuất từ giữa anh (em) và
lôi cuốn dân thành chúng mà rằng: “Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác”,
những thần mà anh (em) không biết, 15thì anh (em) sẽ điều tra, dò xét, sẽ
hỏi han kỹ lưỡng, và nếu thật sự và chắc chắn là người ta đã làm điều ghê tởm
đó giữa anh (em), 16thì anh (em) phải dùng lưỡi gươm giết dân thành ấy,
phải tru hiến thành ấy với tất cả những gì trong đó ; cả súc vật ở đó cũng
phải dùng lưỡi gươm mà giết. 17Tất cả những gì chiếm được trong thành, anh
(em) phải gom vào giữa quảng trường, rồi phóng hoả thành ấy với mọi thứ chiếm
được, tất cả để dâng kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em). Thành ấy sẽ
mãi mãi là một phế tích. (Đnl 13,3-17).
Tiêu chuẩn cuối
cùng vẫn là sự trung thành với Thiên Chúa.
Chúa Giê-su cũng
nhắc lại tiêu chuẩn này dưới hình thức khác, quyết liệt không kém:
“Anh em
hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em ; nhưng
bên trong, họ là sói dữ tham mồi. 16Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết
họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà
bẻ? 17Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả
xấu. 18Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả
tốt. 19Cây nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào
lửa. 20Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai.
21“Không phải bất
cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả
đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được
vào mà thôi. 22Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy
Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên
tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’23 Và
bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho
khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác! (Mt 7,15-23].
Suốt lịch sử Dân
Chúa trong Cựu Ước Thiên Chúa luôn sai các ngôn sứ để giúp Dân Chúa sống đúng
đường lối của Ngài. Trong lịch sử Hội Thánh, dù Chúa Giê-su đã trao cho thánh
Phê-rô và các tông đồ sứ mạng dạy người ta giữ những điều Chúa đã truyền, rồi
các tông đồ đã đặt những người kế thừa sứ mạng, nhưng thời nào cũng vẫn có
những người được sai đến canh tân, chấn chỉnh những lệch lạc, khủng hoảng xảy
đến do hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội gây ra, vì Chúa Giê-su đã hứa bảo
vệ Hội Thánh chống lại mọi âm mưu của Xa-tan. Vì thế thời nào chúng ta cũng
chứng kiến cuộc chiến giữa sự thật và sự dối trá, giữa ngôn sứ thật do Thiên
Chúa sai đến và ngôn sứ giả hiệu. Cuộc chiến ấy diễn ra ngay trong lòng chúng
ta, giữa Thánh Thần và thần dối trá. Thánh I-nha-xi-ô đã dạy con đường phân
định thần loại Chúa đã dạy ngài ngay năm đầu khi được ơn trở lại, mà ngài kể
rằng tâm hồn ngài còn đơn sơ, mộc mạc nên Thiên Chúa đích thân dạy ngài như
thầy giáo dạy một đứa trẻ (Tự thuật, s.27).
Vào những thời kỳ
khủng hoảng lớn, Thiên Chúa sai nhiều ngôn sứ, nhưng cũng nhiều ngôn sứ giả
hiệu xuất hiện. Thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en có thể coi là tiêu biểu.
Các ngôn sứ thật luôn bị bách hại, như chính Chúa Giê-su sẽ tổng kết trong lời
cảnh cáo những kẻ giả hình:
“Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình ! Các người xây mồ cho
các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. 30Các người nói: ‘Nếu như
chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các
ngài mà đổ máu các ngôn sứ.’ 31Như vậy, các người tự làm chứng rằng các
người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. 32Thì các người
đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!
33“Đồ mãng
xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả
ngục. 34Vì thế, này tôi sai ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng
các người: các người sẽ giết và đóng đinh người này vào thập giá, đánh đòn
người kia trong hội đường và lùng bắt họ từ thành này đến thành
khác. 35Như vậy, máu của tất cả những người công chính đã đổ xuống
đất, thì cũng đổ xuống đầu các người, từ máu ông A-ben, người công chính,
đến máu ông Da-ca-ri-a, con ông Be-réc-gia, mà các người đã giết
giữa đền thánh và bàn thờ. 36Tôi bảo thật các người: tất cả những tội ấy
sẽ đổ xuống đầu thế hệ này. (Mt 23,29-36).
Trong các cuộc
khủng hoảng tôn giáo và chính trị, các ngôn sứ Thiên Chúa sai
đến thường phải đối đầu với các người lãnh đạo và các ngôn sứ giả hiệu, vì các
người lãnh đạo thường lạc đường làm cho dân lạc đường trong việc thờ phượng
Thiên Chúa nên dẫn tới khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng quyết liệt dẫn tới thảm
họa mất nước và Lưu đày Ba-by-lon là điển hình.
4. Lạm dụng hình
thức bên ngoài để che đậy bất công, tàn bạo
Khi đời sống tôn
giáo được tổ chức chặt chẽ, có nơi chốn, có nghi lễ thì nảy sinh một thứ lạc
đường mới. Ngôn sứ I-sai-a đã tố cáo sự giả hình của những kẻ ăn chay mà không
hoán cải:
Chúng nói : “Chúng
tôi ăn chay, sao Ngài không thấy,
chúng tôi hãm mình,
sao Ngài chẳng hay?”
Này, ngày ăn chay,
các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình.
4Này, các ngươi ăn
chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn.
Chính ngày các
ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm,
thì các ngươi lại
ăn chay không đúng cách.
5Phải chăng đó là
cách ăn chay mà Ta ưa chuộng
trong ngày con
người phải thực hành khổ chế ?
Cúi rạp đầu như cây
sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi,
phải chăng như thế
mà gọi là ăn chay, trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng ĐỨC CHÚA ?
6Cách ăn chay mà
Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao:
mở xiềng xích bạo
tàn, tháo gông cùm trói buộc,
trả tự do cho người
bị áp bức, đập tan mọi gông cùm ?
7Chẳng phải là chia
cơm cho người đói,
rước vào nhà những
người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần
thì cho áo che thân,
không ngoảnh mặt
làm ngơ trước người anh em cốt nhục? (58,3-7)
Chúa Giê-su cũng sẽ
tố giác sự giả hình của thời Ngài và dạy bố thí, cầu nguyện và ăn chay, tận đáy
lòng, như một cách tỏ bày lòng tin yêu Thiên Chúa là Cha và yêu thương người
nghèo (Mt 6,1-18).
Ba việc này được
con như ba cột trụ của việc thực hành đời sống đức tin liên kết mật thiết với
nhau:
Bố thí đứng đầu, vì muốn
tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa mà ta không thấy thì hãy tỏ lòng yêu mến anh em mà
ta thấy bên cạnh, chung quanh ta:
Nếu ai nói:
“Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối ;
vì ai không yêu
thương người anh em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu
mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy .
21Đây là điều răn
mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu
thương anh em mình (1Ga 4,20-21).
Cầu nguyện là bày tỏ
lòng tin, cậy mến Thiên Chúa, là sống tình con cái, thân mật với Thiên Chúa.
Nhưng Chúa Giê-su cũng phải dạy thế nào là cầu nguyện thật, và dạy cả lời cầu
nguyện như cha mẹ dạy con biết nói năng cho đúng (x.Mt 6,5-15; Lc 11,1-13;
18,1-14). Nhưng phải chiêm ngắm Chúa Giê-su cầu nguyện trên núi Cây Dầu trước
khi nộp mình để đi vào cuộc Thương Khó và trên thập giá mới hiểu được giáo huấn
về cầu nguyện và học biết cầu nguyện.
Ăn chay. Chúng ta quen nói
mùa chay là “ăn chay hãm mình”, hạ mình trước trước mặt Thiên Chúa. Đúng, nhưng
chưa đủ: ăn chay là bớt miếng ăn của mình để chia sẻ cho anh chị em[10] nghèo đói, chứ không phải để dành
ngày khác ăn.
III. Dân của Giao Ước Mới là dân được sai đi
Dân của Giao Ước
Xi-nai được đưa vào một phần đất dành riêng cho họ, giống như một mầm non của
đức tin và mạc khải về Thiên Chúa phải được bảo vệ tối đa. Cuộc lưu đày
Ba-by-lon mà dân coi như một tai họa, một sự trừng phạt. Thánh vịnh 136/137 tỏ
thái độ quyết liệt “treo đàn”, thề độc, không hát thánh ca miền
đất ngoại bang...Sách Tô-bi-a mới nói lên những điều
nghịch lý Thiên Chúa đã làm trong cuộc lưu đày:
Trước hết, đây
là một cách Thiên Chúa sai họ ra khỏi “vườn ươm” để tập sống giữa muôn
dân và học biết Thiên Chúa chỉ là Đấng cao cả ở Giê-ru-sa-lem, và Thiên Chúa
hành xử để tỏ ra người là cha của họ, chứ không chỉ là Thiên Chúa ngự trên
cao...
Con cái
nhà Ít-ra-en hỡi, nào xưng tụng Chúa trước mặt chư dân, chính
Người đã phân tán anh em vào giữa họ, 4tại đó, Người đã cho anh em
thấy: Người là Đấng cao cả muôn trùng.Trước toàn thể sinh linh, nào
hãy suy tôn Chúa! Bởi Người là Chúa Tể, là Thiên Chúa ta thờ, là Thân
Phụ của ta, là Thiên Chúa đến muôn thuở muôn đời. Vì anh em làm điều
gian ác, Người đánh phạt nhưng rồi lại thương xót anh em hết thảy mà quy
tụ anh em về từ giữa chư dân, nơi anh em đã bị phân tán. 6Nếu anh
em hết lòng hết dạ trở về với Chúa mà sống theo sự thật trước tôn
nhan Người, thì Người sẽ trở lại với anh em, không còn ngoảnh mặt làm ngơ
nữa[11].
Tô-bi-a đưa ra một lập
trường ngược với thánh vịnh 136/137:
Vậy giờ đây, hãy
chiêm ngưỡng việc Chúa đã làm cho anh em mà lớn tiếng xưng tụng Người. Hãy chúc
tụng Người, là Chúa công minh chính trực, suy tôn Người, là Vua hiển trị
thiên thu.
8Phần tôi, giữa
cảnh lưu đày, xin xưng tụng Chúa và làm cho dân tội lỗi biết rằng: Người
là Đấng cao cả quyền năng. (Tb 13,3-9).
Quan điểm,
lập trường của sách Tô-bi-a và những lời sách ngôn sứ I-sai-a về vai trò
của Giê-ru-sa-lem như một tiền đề, một chuẩn bị cho sứ mạng của Dân Giao Ước
Mới.
Trong lời nguyện
hiến tế trước cuộc Thương Khó, Chúa Giê-su đã xin với Cha:
Con đã truyền lại
cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian,
cũng như con đây không thuộc về thế gian. 15Con không xin Cha cất họ khỏi
thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. 16Họ không thuộc
về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. 17Xin Cha lấy
sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. 18Như Cha đã sai con
đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. 19Vì họ, con xin thánh
hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến (Ga 17,14-19).
Sau khi Phục Sinh,
Chúa Giê-su đến trao sứ mạng và ban Thánh Thần cho các môn đệ:
Người lại nói với
các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai
anh em.” 22Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận
lấy Thánh Thần. 23Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh
em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (20,21-23)
Dân của Giao Ước
mới được tham dự vào sứ mạng của Chúa Giê-su, với cùng một quyền năng Thánh
Thần. Các Tin Mừng Nhất Lãm đều kết thúc với việc Chúa Giê-su sai đi loan báo
Tin Mừng cho muôn dân, đến tận cùng thế giới và tận cùng thời gian. Công đồng
Va-ti-ca-nô II đã khẳng định rõ ràng bản chất và sứ mạng của Hội Thánh trong
thế giới ngày nay. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đang là một mẫu gương sống động cho
toàn thể Hội Thánh: Phải đi ra, phải đi đến mọi biên cương, không có ranh giới.
Chúng ta thấy có
những nhóm bảo thủ (đặc biệt bên châu Mỹ) tự xưng là Công Giáo, nhưng ở thế kỷ
XXI mà họ vẫn sống với não trạng Cựu Ước hoặc thời Binh Thánh Giá, không thể
chấp nhận việc ĐTC Phan-xi-cô tìm cách đối thoại với người Hồi Giáo. Họ coi là
ĐTC đầu hàng Hồi Giáo[12].
Thánh Phan-xi-cô
Át-si-di, giữa thời Binh Thánh Giá quyết tiêu diệt Hồi Giáo, đã dám một mình đi
gặp vị lãnh đạo đế quốc Hồi Giáo bên Ai Cập, ở lại cả tháng trời và trở thành
bạn của nhà lãnh đạo này, xin được đặc ân cho anh em dòng Phan-xi-cô ở lại Đất
Thánh, giữ gìn các nơi thánh mà ngày nay khách hành hương kính viếng, trong khi
Binh Thánh Giá lập một thứ vương quốc xâm lược của người Âu Châu ở Thánh Địa,
tồn tại được hơn một thế kỷ. Năm 2020, Dòng Phan-xi-cô kỷ niệm 800 năm hiện
diện trên Đất Thánh!
Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô là người Dòng Tên (mới kỷ niệm 63 năm vào Dòng) nhưng khi được bầu
lên kế vị thánh Phê-rô đã chọn tên thánh Phan-xi-cô, kế thừa tinh thần hòa giải
giữa các dân tộc, các tôn giáo và yêu mến thiên nhiên. Hai Thông điệp Laudato
Sí và Fratelli Tutti cùng với nỗ lực thiết thực gặp gỡ, đối thoại với
các nhà lãnh đạo hai phái Hồi Giáo Sun-ni tại Ai cập và Si-I tại I-rắc chứng thực
sự chọn lựa của ngài. Ngài nói rõ trong câu trả lời cho ký giả trên chuyến bay
từ Bagdad về Rô-ma ngày 8/3 là, trong nỗ lực đối thoại với nhà lãnh đạo Hồi
Giáo Al-Sistani, “Ngài không sai trệch tinh thần đối thoại của Công
Đồng Va-ti-ca-nô II một mi-li-mét.”
Đó cũng là một
thách đố cho đời sống đức tin hôm nay: tinh thần đối thoại, hòa giải mà Chúa
Giê-su đem tới để “chữa lành”, “hàn gắn” ba mối tương quan do tội làm đổ vỡ:
tương quan với Thiên Chúa, tương quan với thiên nhiên, tương quan giữa con người
với con người: nam nữ: chồng thống trị vợ; anh em ghen ghét, giết nhau (x.
St 3,15-4,9).
Điều kiện là “ở
trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian”, giống như Chúa Giê-su,
Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế, làm người, sống trọn thân phận con người,
“dãi dầu thử thách mọi bề giống chúng ta nhưng không phạm tội” (Hr 4,15),
“để kể ra cho chúng ta biết về Cha của Ngài” (Ga 1,18), đưa
chúng ta tới với Cha, “Cha của Thầy cũng là Cha của anh em” (20,17).
Chúa Giê-su là hình
ảnh toàn hảo của Cha (Cl 1,15) đến nỗi Người trả lời tông đồ
Phi-líp-phê: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ
cho chúng con thấy Chúa Cha’? 10Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha
và Chúa Cha ở trong Thầy sao? (Ga 14,10).
Lý tưởng của Ki-tô
hữu là “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su” (Rm 8:20)
từ trong lòng, trong cách suy nghĩ, tâm tình, cách nhìn và đánh giá người khác:
“Giữa anh em với
nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su” (Pl
2,5).
Chúa Giê-su dạy
muốn được Thiên Chúa chấp nhận thì phải làm hòa với anh em trước: “Vậy, nếu
khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang
có chuyện bất bình với anh, 24thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ,
đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,27).
Điều khó chấp nhận là không phải tôi có chuyện bất bình với người anh em, mà
người anh em có chuyện bất bình với tôi, thế mà Chúa đòi tôi phải đi bước
trước! Đó là cách thức của Thiên Chúa: ngay trong vườn Địa Đàng, Thiên Chúa đã
đi tìm A-dong như người cha đi tìm con: “A-dong, con ở đâu?” (St 3,9).
Trong dụ ngôn người mục tử, người chăn chiên đi tìm con chiên lạc và tìm cho kỳ
được (Lc 15,4-7).
Chúa sai các môn đệ
đi đến với mọi dân tộc, từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng thế giới (Cv 1,8) và tận
cùng thời gian (Mt 28,20). Vì thế mà chúng ta luôn phải đương đầu
với những thách đố của thời chúng ta.
IV. Những thách đố cho đời sống đức tin hôm nay
Thuở ấy lâu rồi các
nước Âu Châu đều theo Ki-tô giáo. Những nhà truyền giáo từ các nước Âu Châu đã
truyền ngọn đuốc Tin Mừng đến các dân tộc Á Châu.
Tính trạng của
chúng ta hơi giống tình trạng con cháu Gia-cóp bên Ai cập. Họ di cư tránh nạn
đói ở xứ Ca-na-an. Họ được ở phần đất phì nhiêu nhất. Chúng ta di cư tránh chế
độ cộng sản, nghèo đói và chủ nghĩa vô thần. Nhiều người vượt biên vì muốn cho
con cái khỏi mất đức tin. Anh chị em vượt biên được các nước giàu có này đón
tiếp, có mức sống vật chất cao, có bảo đảm xã hội, dù thất nghiệp cũng không sợ
chết đói.
Chúng ta mang theo
nếp sống đạo quen thuộc từ quê hương Việt Nam xa xôi, với nền văn hóa khác, với
bầu khí đạo đức và cách thức biểu lộ đức tin, cách tổ chức khác. 30-40 năm đã
qua đi. Thế hệ đầu đang lần lượt qua đi.
Trong khi ấy thì
đời sống Hội Thánh ở đây thay đổi nhanh. Tại miền Bắc Đức và Đan Mạch, Hội
Thánh Công Giáo là thiểu số. Và cũng đang trải qua nhiều khủng hoảng. Anh chị
em còn sự giúp đỡ của một vài linh mục gốc Việt Nam, hoặc từ Việt Nam mới qua,
hoặc đã qua lâu rồi.
Chúng ta quen với
nếp sống kinh tế, xã hội, văn hóa ở xứ lạ quê người mà nay đã nhận làm quê
hương mình. Con cháu chúng ta sinh ra ở quê hương mới này được giáo dục khác
chúng ta: Nhìn cuộc sống khác chúng ta... Việt Nam trở thành một xứ xa xôi,
chúng chỉ biết là ông bà, cha mẹ đã di cư từ đó qua đây...
1. Những thách đố
cho đời sống đức tin thời hậu Ki-tô giáo và hậu vô thần.
Thời Pha-ra-ô đàn
áp dân Ít-ra-en họ không còn nhớ đến Thiên Chúa của tổ tiên. Họ chỉ than thân
trách phận, rên siết. Họ đã thành nô lệ, không còn phẩm giá con người, thành
công cụ lao động cho Pha-ra-ô để có miếng bánh ăn.
Khi Mô-sê đến nói
với vua rằng Đức Chúa bảo: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en,
phán thế này: Hãy thả cho dân Ta đi, để chúng mở lễ kính Ta trong sa
mạc.” 2Pha-ra-ô đá: “ĐỨC CHÚA là ai, khiến ta phải nghe lời mà
thả cho Ít-ra-en đi ? Ta chẳng biết ĐỨC
CHÚA, cũng sẽ không thả cho Ít-ra-en đi. ” “Bây
giờ dân trong nước thì đông, mà các ngươi lại muốn cho chúng nghỉ lao
động!” (Xh 5,1-2).
Sau đó Pha-ra-ô chỉ
thị cho bọn cai nô lệ: “Phải giao cho bọn người ấy những công việc thật
nặng nhọc để chúng lo làm, mà khỏi chú ý vào những lời dối trá” (5,9).
Dân quay ra oán
trách Mô-sê: “Xin ĐỨC CHÚA chứng giám và xét xử cho: các ông
đã làm cho chúng tôi trở nên đáng ghét trước mắt Pha-ra-ô và bề tôi
của vua; thật các ông đã trao gươm vào tay họ để giết chúng tôi.”(5,20)
Phần ông Mô-sê ông
thấy Thiên Chúa lừa dối ông: 22Ông Mô-sê hướng về ĐỨC
CHÚA và thưa: “Lạy Chúa, tại sao Ngài đã làm khổ dân này ? Tại sao Ngài đã
sai con đi? 23Từ khi con đến với Pha-ra-ô để nhân danh Ngài
mà nói, thì vua ấy làm khổ dân này, và Ngài chẳng giải thoát dân Ngài gì cả!”
(5,22-23)
Đọc chương này
trong sách Xuất Hành, tôi thấy nó gợi lên những yếu tố biểu trưng
cho thời hậu Ki-tô giáo và hậu vô thần đang lấn sân của đời sống đức tin. Nó
không đả động tới Thiên Chúa nữa, cũng không quan tâm tới những cách Ki-tô giáo
đưa ra về thế giới vật chất, về các giá trị tinh thần, về phẩm giá con người.
Cả thế giới vật chất chỉ là nguồn cung cấp nguyên liệu để chế biến, tạo những
sản phẩm mới để tìm lợi nhuận – và người ta bắt đầu tìm cách lấy nguyên liệu từ
các hành tinh khác. Vũ trụ không còn phải là sự phô bày những công trình kỳ
diệu cho người ta chiêm ngắm và ca tụng Đấng Tạo Hóa, là nguồn cảm hứng cho thi
nhân...
Người ta cũng không
nghĩ tới dành phần cho con cháu: cứ khai thác hết mọi nguồn tài nguyên để thỏa
mãn đời mình, không phải nhu cầu mà thỏa mãn lòng tham, sự ích kỷ.
Xa hơn một bước:
người ta coi việc phá thai là quyền lợi. Con cái trở thành gánh nặng, thành sự
cản trở cho cuộc chơi của đời mình. Đời sống trở thành cuộc chơi, cuộc hưởng
lạc: “Nếu không chơi thiệt đấy ai bù!”
Con người trở thành
công cụ sản xuất và cỗ máy tiêu thụ. Nhịp sống như tiếng tíc tắc của đồng hồ:
“tíc” sản xuất, “tắc” tiêu thụ.
Ngày xưa người gánh
hàng đi bán, vai gánh nặng, chân đi, miệng rao... Ngày nay tất cả các khâu
thành công nghệ: sản xuất, rao hàng và giao hàng là ba khâu liên hoàn. Máy móc
chiếm cả chỗ lao động của con người: người ta vừa tạo ra công việc, vừa tạo ra
máy móc để thay con người.
Pha-ra-ô viện cớ
dân đông thì phải cần nhiều người lao động hơn. Ngày nay thì dân đông càng có
lợi nhuận nhiều, càng tiêu thụ nhiều, càng sản xuất.
Nhưng điều nghịch
lý là lại thừa người lao động: thất nghiệp. Nghề gì cũng phải học, phải có bằng
cấp...Nhưng kiếm được việc làm hay không lại là chuyện khác. Vòng luẩn quẩn!
Sự thách đố đời
sống đức tin lại đến từ sự đảo lộn mọi giá trị, từ phẩm giá con người tới giá
trị của thế giới vật chất, giá trị của lao động. Đức Tin mà các tổ phụ từ
Áp-ra-ham qua Mô-sê để lại, Sách Thánh truyền đạt dạy cho chúng ta giá trị của
thế giới vật chất và phẩm giá con người. Trình thuật tạo dựng và cuộc giải
thoát khỏi ách nô lệ cho một cái nhìn về thế giới và con người: Thiên Chúa tạo
nên tất cả thế giới và mọi sinh vật dưới biển, trên trời và trên mặt đất như
người cha chuẩn bị cái nôi và mọi thứ cần thiết trước khi con ra đời.. Mọi sự
khác Thiên Chúa truyền cho nước, cho đất sản sinh, còn con người thì Thiên Chúa
như bàn định với chính mình rồi “tự tay làm ra” và truyền hơi thở của mình cho
con người thành loài có sự sống. Con người có phẩm giá trên các loài thọ tạo,
vì được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa như một công trình tuyệt vời, và được
trao quyền làm chủ mọi thọ tạo khác:
Ngắm tầng trời tay
Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, 5thì con người là chi, mà
Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm ?6Chúa cho con người
chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,7cho
làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân
: 8Nào chiên bò đủ loại, nào thú vật ngoài đồng,9nào chim trời cá biển,
mọi loài ngang dọc khắp trùng dương .
10Lạy ĐỨC
CHÚA là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa
cầu! (Tv 8,4-10)
Con mắt hậu Ki-tô
giáo và hậu vô thần không còn thấy những giá trị ấy nữa, không còn cái nhìn
thán phục, ca tụng mà chỉ còn cái nhìn thực dụng về mọi sự và cả về con
người...
Thách đố ngẫu tượng
ngày nay mang những hình thức mới tinh vi và phổ biến hơn. Ngày xưa người ta
nặn ra ông thần, vì muốn thấy được, sờ được. Ông thần là hình tượng của chính
những đam mê của con người để dễ thỏa mãn bằng lễ hội.
Ngày nay không cần
nặn ra ông thần, vì có đủ mọi thứ thoả mãn giác quan và mọi đam mê. Chỉ cần bấm
nút là ông thần có mặt và có thể thỏa mãn theo ý mình. Không cần đi xa để tìm
thần lạ. Bấm nút là gặp mọi thứ thần ở khắp thế giới.
Các phương tiện
truyền thông ngày càng nhanh, hình ảnh, âm thanh càng hấp dẫn. Cả một ngành
công nghiệp mới béo bở. Nhưng nó càng hạ thấp phẩm giá con người, giản lược con
người thành một kho đam mê để tìm thỏa mãn và đem lợi nhuận cho họ.
Ngay chương đầu thư
gởi tín hữu Rô-ma, Thánh Phao-lô liệt kê những điều ghê tởm người ngoại làm:
Thật vậy, từ trời,
Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân
và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý. 19Những
gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt
họ , vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. 20Quả vậy, những gì người
ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần
tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người
có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người . Do đó, họ không thể
tự bào chữa được, 21vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh
hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông
và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. 22Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng
đã trở nên điên rồ. 23Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ
hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú
vật, rắn rết.
24Vì thế, Thiên
Chúa đã để mặc họ buông theo dục vọng mà làm những điều ô uế, khiến thân
thể họ ra hư hèn. 25Thay vì Thiên Chúa thật, họ đã theo những thần giả; họ
đã tôn thờ những loài thụ tạo, thay vì chính Đấng Tạo Hoá. Chúc tụng Người đến
muôn thuở muôn đời. A-men
26Bởi thế, Thiên
Chúa đã để mặc họ buông theo dục tình đồi bại. Đàn bà không quan hệ
theo lẽ tự nhiên, mà lại làm điều trái tự nhiên. 27Đàn ông cũng vậy, không
quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà lại đem lòng thèm muốn lẫn nhau: đàn
ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc vào thân hình phạt xứng với sự lầm lạc
của mình.
28Vì họ đã không
thèm nhận biết Thiên Chúa, nên Người đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm
những điều bất xứng, 29lòng họ đầy bất chính, xấu xa, tham lam, độc ác đủ
thứ; nào là ganh tị, giết người, cãi cọ, mưu mô, thâm hiểm; nào là nói hành nói
xấu, 30vu oan giá hoạ. Họ thù ghét Thiên Chúa, ngạo ngược, kiêu căng,
khoác lác, giỏi làm điều ác, không vâng lời cha mẹ, 31không có lương tri,
không giữ lời hứa, không chút tình cảm, không chút xót thương. 32Họ thừa
biết phán quyết của Thiên Chúa là: hễ ai làm những điều như vậy thì
đáng chết. Thế mà không những họ cứ phạm những tội đó, lại còn tán thành những
kẻ làm như vậy. (Rm 1, 18-32).
Thời hậu Ki-tô giáo
và hậu vô thần này, đâu còn ai để người ta sợ! Chẳng những người ta tán thành
mà còn hãnh diện, phô trương và mời gọi người khác nhập cuộc với họ. Những điều
thánh Phao-lô gọi là dục tình đồi bại (c.26) thì ngày nay
người ta coi là tự nhiên, là quyền lợi được pháp luật bảo vệ!
Những gì thánh
Phao-lô coi là đương nhiên phải nhận ra (c.18-22), không nhận ra là mê
muội ngu si, điên rồ, thì ngày nay ngược lại, người của thời hậu vô thần
coi những ai cho rằng mình nhận ra mới là mê muội, ngu si, điên rồ!
Tạm tổng kết những thách đố
Thời hậu Ki-tô giáo
và hậu vô thần thách đức tin thời chúng ta ngược với thời tổ phụ Áp-ra-ham,
người cha của của chúng ta trong đức tin: Ông được Thiên Chúa gọi ra khỏi cái
“thế giới quen thuộc của tổ tiên ông, trong đó tất cả là thần, những
ngẫu tượng biểu trưng có một quan niệm sai lầm về sự thánh thiêng đích thật.
Thời hậu Ki-tô giáo
và hậu vô thần, với chủ nghĩa tiêu thụ, hưởng thụ và khoái lạc, phá bỏ
mọi giá trị: từ phẩm giá con người đến mọi thứ trên trời dưới biển, trên
mặt đất và trong lòng đất. Không còn gì là thánh thiêng. Tình yêu vốn là giá
trị cao nhất của con người thì cũng biến thành công cụ, thay thế bằng hưởng thụ
khoái lạc. Gia đình không còn là nền tảng của xã hội nữa.
Chúng ta đừng quên
kể cho con cháu nguồn gốc của chúng ta và tại sao chúng được sinh ra ở đất nước
này, được hưởng cuộc sống văn minh này. 45 năm trước, cả thế giới mở rộng đôi
tay đón những người Việt di cư, tị nạn từ chế độ cộng sản sau cuộc chiến tàn
phá đất nước chúng ta. Hãy nhìn TV, hãy nghe tin tức: người di cư ngày nay từ
Mỹ La-tinh, từ Phi Châu, từ Trung Đông bị mọi nước từ chối, xa lánh như những người
cùi, như mối đe dọa. Cái gì đã thay đổi? Trên chuyến bay từ Bagdad về Rô-ma
ngày 8/3 vừa qua ĐTC Phan-xi-cô đặt vấn đề: “Ai bán vũ khí cho những cuộc
chiến tàn phá vùng Trung Đông, gây ra cảnh tàn phá, chết chóc, nghèo đói, di cư?”
1. Thiên Chúa đã
giáo dục tổ phụ Áp-ra-ham thế nào.
Trong cái thế giới
đầy ngẫu thần, đầy những cái phàm tục trở thành thánh thiêng, thần linh. Ông
Áp-ra-ham nghe tiếng Thiên Chúa gọi, ra đi vào một cuộc phiêu lưu do Thiên Chúa
dẫn ông từng bước, đối xử với ông như một người bạn. Thiên Chúa là bảo đảm duy
nhất cho ông và tương lai của ông. Nơi nào ông cũng là người lạ, là người ngụ
cư. Thiên Chúa hứa cho ông một phần đất, nhưng khi vợ ông chết ông phải đi mua
miếng đất với giá cắt cổ để mai táng bà và sau này ông sẽ đoàn tụ với bà tại
đó. Sống làm kẻ ngụ cư, chết vẫn là thân ngụ cư.
Thiên Chúa đích
thân giáo dục, dạy dỗ ông rằng Ngài là gia nghiệp, là tất cả cho ông và chỉ có
lời của Ngài đưa dẫn ông trên mặt đất này:
Ở tuổi 75, tuổi mà
người ta đã an phận, ông đã tin Lời Thiên Chúa hứa, bỏ tất cả ra đi: “Hãy
rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho
ngươi. 2Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta
sẽ cho tên tuổi ngươi được lừng lẫy, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.”
Có lúc ông đã gặp
khủng hoảng và thưa với Thiên Chúa:
Sau các việc đó, có
lời ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram trong một thị kiến rằng :
“Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi ; phần thưởng của
ngươi sẽ rất lớn.” 2Ông Áp-ram thưa : “Lạy ĐỨC CHÚA là
Chúa Thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì ? Con ra đi mà không con cái.” (St 15,1-2).
Thiên Chúa đưa ông
ra ngoài cái lều du mục tăm tối, bảo ông nhìn lên bầu trời đầy sao khẳng định
lại với ông: “Rồi Người đưa ông ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời,
và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không.” Người lại phán : “Dòng dõi ngươi
sẽ như thế đó !” 6Ông tin ĐỨC CHÚA, và vì thế, ĐỨC CHÚA kể
ông là người công chính”.
Thiên Chúa mượn
nghi lễ thề long trọng nhất để cam kết theo phong tục thời đó để thề hứa với
ông. Nhưng Ngài tiếp tục để cho ông sống “hy vọng khi không còn gì để hy
vọng”. Ngài ban cho ông món quà mừng đại thọ một trăm tuổi: được ẵm
đưa con trai do bà vợ già 90 tuổi sinh cho ông. Nhưng rồi Ngài lại thử thách ông
đến tột cùng khi đòi ông đem đứa con ấy lên một ngọn núi do Ngài chọn để dâng
làm của lễ toàn thiêu cho Ngài. Ông cũng lẳng lặng làm theo. Ông sẵn sàng trở
về điểm khởi đầu, từ số không. Khi mọi sự sẵn sàng, con một mà ông yêu dấu,
niềm an ủi hy vọng của ông, đã nằm yên trên bàn thờ, trên đống củi do chính cậu
vác lên núi thì Thiên Chúa can thiệp:
Rồi
ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình .
11Nhưng sứ thần
của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông:
“Áp-ra-ham ! Áp-ra-ham !” Ông thưa : “Dạ, con đây !” 12Người
nói : “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó ! Bây giờ Ta biết ngươi là
kẻ kính sợ Thiên Chúa : đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi,
ngươi cũng chẳng tiếc !” (St 22, 10-12)
Đó là thử thách
cuối cùng, bài tập cuối cùng về lòng tin. Ông Áp-ra-ham đã vượt qua và trở
thành cha của những kẻ có lòng tin.
2. Thiên Chúa đã
giáo dục dòng dõi Áp-ra-ham
450 năm sau, Thiên
Chúa lại đem con cái ông ra khỏi đống đất làm gạch và cuộc sống khổ sai giữa
một dân đầy ngẫu thần và bắt đầu giáo dục họ, đưa họ vào một cuộc lưu lạc 40
năm qua hoang địa, để dạy cho họ biết đâu là sự thánh thiêng đich thật, và tiếp
tục công cuộc giáo dục này trong miền Đất Hứa. Thiên Chúa rất kiên nhẫn, Ngài
thách đố sự cứng đầu cứng cổ của dòng dõi Áp-ra-ham suốt 15 thế kỷ. Mô-sê và
các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa sai đến giáo dục họ. Các vị ấy đều
đã phải trả giá đắt, bị chính dân mình bắt bớ và phần nhiều trả giá bằng chính
mạng sống của mình như Chúa Giê-su đã tóm tắt (X. Mt 23,33-38)
Cuối cùng Thiên
Chúa đã sai Lời của Ngài, Con Một yêu dấu của Ngài đến làm người, sống trọn
kiếp người, từ lòng mẹ đến lòng đất, kể cho chúng ta về Thiên Chúa là Cha của
Ngài, là Đấng Thánh duy nhất, là nguồn mạch và điểm tới của tất cả công trình
tạo dựng. Thiên Chúa đã trả cái giá lớn nhất, trao nộp Con yêu dấu của mình cho
sự độc ác tàn bạo mà tội lỗi đã dạy con người. Rồi đã cho Con Một, thắng cả tội
lỗi và cái chết để cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và dạy cho chúng biết
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU và dạy cho chúng ta biết thế nào là tình yêu đích thật,
làm sao sống và yêu như Thiên Chúa hằng sống đã yêu chúng ta đến nỗi ban Con
Một cho chúng ta, và Con Một, hình ảnh toàn hảo của Cha đã yêu chúng ta đến
cùng: hiến mạng vì chúng ta. Bài học cuối cùng cho chúng ta là yêu mến anh em đến
thí mạng sống mình vì anh em. Và niềm hy vọng mới Thiên Chúa bảo đảm với chúng
ta là điều chúng ta tuyên xưng cuối cùng: Tôi trông đợi kẻ chết sống
lại và sự sống đời sau.
Mọi giá trị được
phục hồi nhờ và trong Chúa Giê-su Ki-tô:
Anh em hãy vui
mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng
phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng.
13Người đã giải
thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí
ái; 14trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội
lỗi .
15Thánh Tử là
hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ
tạo ,
16vì trong
Người,muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình.
Dẫu là hàng dũng
lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới,
tất cả đều do Thiên
Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người.
17Người có trước
muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người .
18Người cũng
là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh ;
Người là khởi
nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại,
để trong mọi sự
Người đứng hàng đầu .
19Vì Thiên Chúa đã
muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người,
20cũng như
muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình .
Nhờ máu Người đổ ra
trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an
cho mọi loài dưới
đất và muôn vật trên trời. (Cl 1,12-20)
Phẩm giá thật của
con người được phục hồi:
“Dù cả thế gian
này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh
em, 23mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại
thuộc về Thiên Chúa “Tất cả thuộc về anh em, anh em thuộc về Chúa
Ki-tô.” (1 Cr 3,22-23).
Chúng ta đừng quên
rằng đời sống đức tin từ thời Áp-ra-ham tới chúng ta vẫn là cuộc lội ngược
dòng, cuộc chạy ngược chiều với “thế gian”, tức là cái thế giới dưới quyền của
sự giả dối thiên hình vạn trạng, kể từ khi Xa-tan lừa dối được con người đầu
tiên. Chúa Giê-su nói cái thế gian đó sẽ luôn thù ghét các môn đệ của Chúa cũng
như nó đã ghét Chúa:
“Nếu thế gian ghét
anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19Giả như anh em thuộc
về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em
không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên
thế gian ghét anh em. 20Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ
không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.
Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. 21Nhưng họ sẽ
làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ
không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15,18-21).
VI. Truyền đạt đức tin cho người trẻ hôm nay
Tôi phải nói ngay:
Tôi không có câu trả lời sẵn, tôi chỉ rút từ những thách đố đã phân tích trên
đây và gợi ý một chút để anh chị em suy nghĩ, trao đổi với nhau theo bối cảnh
từng nơi anh chị em sống, nhận diện những thách đố anh chị em và con cái anh
chị em phải đương đầu.
Điều căn bản mà
thời hậu vô thần tạo ra là hủy bỏ khái niệm thánh thiêng, hủy bỏ mọi giá trị.
Chẳng có gì là thánh thiêng, tất cả ở trong tay con người nhờ khoa học kỹ
thuật. Con người hoàn toàn tự do sử dụng tất cả để thỏa mãn chính mình.
Sách Thánh đã đúc
kết sư phạm của Thiên Chúa đã giáo dục dân của Cựu Ước. Đứng đầu là sách Sáng
Thế. Với trình thuật tạo dựng, dùng ngôn ngữ và hình ảnh của thời đó dạy
cho người ta biết giá trị thật của mọi sự và sự cao cả đặc biệt của phẩm giá
con người. Mọi sự do Tình Yêu và quyền năng của Thiên Chúa trao cho con người,
để đưa con người tập làm con Thiên Chúa trên trần gian và tham dự sự sống vinh
quang vĩnh cửu của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là bảo đảm cho phẩm giá con
người và giá trị của thọ tạo.
Chúng ta cũng phải
bắt đầu từ đó. Ngược dòng với xu hướng phá bỏ mọi giá trị, từ phẩm giá con
người tới mọi sự vật trên trời dưới đất, dưới nước và trong lòng đất. Tiêu thụ
và vứt bỏ. Số lượng thực phẩm các nước giàu vứt bỏ hàng ngày đủ nuôi cả phân
nửa nhân loại sống tại các nước nghèo.
Con cái chúng ta
thoát tầm tay chúng ta rất sớm để ở dưới quyền dạy dỗ của các phương tiện
truyền thông.
“Dạy con từ thuở
còn thơ”, dạy cho trẻ giá trị của mọi thứ, từ ly sữa, miếng bánh hàng ngày.
Sớm cho nó ý thức rằng nhờ tình thương của cha mẹ nó mới có miếng bánh, ly sữa
chứ không phải tự dưng mà tới tay nó...
Khi nó bắt đầu biết
nhận thức, nên cho nó thấy hình ảnh những trẻ em nghèo đói ở các nước nghèo, để
nó biết nó được may mắn ra sao.
Khi con bắt đầu sử
dụng các phương tiện truyền thông, cần tập cho nó biết phê phán, cần dành thời
gian nói chuyện với con, để nó sống với người thật việc thật chứ không chỉ sống
với không gian ảo, với “người ảo...”
Bao lâu con còn
sống trong gia đình thì gương sống đức tin của cha mẹ trong mọi lãnh vực là yếu
tố quyết định cho việc giáo dục đức tin. Có gia đình cha mẹ đi lễ hàng ngày
nhưng các con lại chẳng tha thiết gì tới nhà thờ, tới các bí tích, tới cầu
nguyện... Tại sao? Nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng đó? Có gia đình mẹ là
giáo lý viên, nhưng các con của bà lại sống như không có đức tin. Tại sao?
Thiếu cái gì?
Đến đây thì tôi
nhường cho chính các bậc cha mẹ, gặp gỡ, chia sẻ với nhau về kinh nghiệm của
mình với con cái mình.
Nhưng trước hết và
trên hết đừng bao giờ quên ĐỨC TIN LÀ MỘT ƠN THIÊN CHÚA BAN NHƯNG KHÔNG, như
Thiên Chúa đã ban cho tổ phụ Áp-ra-ham. Chúng ta cần xin Chúa thêm đức tin cho
chúng ta và ban cho con cái chúng ta. Chính các Tông Đồ đã xin Chúa Giê-su : “Xin
Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
Thánh nữ Mô-ni-ca
là gương mẫu cho chúng ta: ngài đã tha thiết cầu xin bao nhiêu năm cho người
con trai là Âu-tinh (Augustin), say mê triết học Rô-ma, mất đức tin, để Chúa
ban đức tin cho con. Và Âu-tinh đã trở thành thánh Giám mục tiến sĩ [Thầy Dạy
đức tin] của Hội Thánh.
[1] Đền thờ ở núi Serabit El Khadem ở vùng Xi-nai, nơi
người ta đến cầu khấn khi đi tìm đá quý.
[2] Tiếng Việt dịch là Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng từ
dùng trong bản văn là từ chung, nghĩa là “thần” thôi.
[3] Khi Gia-cóp trở về đây lấy vợ là người trong gia
đình cậu ruột, rồi tới lúc lại phải phải dẫn vợ con trốn về Đất Hứa, bà vợ cưng
là Ra-khen lấy trộm các tượng thần của cha đem theo... (St 31,19.34-35). Đây có
thể coi là chuyện châm biếm sâu sắc, độc địa nhất về các ngẫu tượng: Ra-khen
lấy trộm được, rồi sẽ giấu ở dưới yên lạc đà, ngồi lên trên, Laban lùng sục hết
mọi ngóc ngách trong lều và đồ đạc để tìm, bà viện cớ đang “vướng cái thường
tình của người phụ nữ”. Trong Sách Thánh thì người phụ nữ đang khi có “cái
thường tình” là ô uế, và cái khăn (ngày nay là băng vệ sinh) được dùng như
biểu tượng của cái ô uế nhất!
[4] ds: các kẻ đứng đầu dân
[5] ds: hướng về phía mặt trời. – Phải chăng ám chỉ việc
thờ thần mặt trời mà sách Ê-dê-ki-en 8,16 còn nói tới, diễn ra ngay tại trong
Đền Thờ; Giê-rê-mi-a 7,18; 44,17-19 sẽ nói tới việc thờ Mặt Trăng như Nữ Thiên
Hoàng. Điều này giúp ta đọc chương đầu sách Sáng Thế, nói về việc Thiên Chúa
tạo dựng mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao... Giê-rê-mi-a nói rõ, làm như thế
là tự làm nhục chính mình (7,19).
[6] Vai trò các thẩm phán là do lệnh Thiên Chúa hay do
Mô-sê? Vì mỗi thẩm phán phải giết những kẻ đã bán mình cho thần Ba-an Pơ-o
[7] Thành Giê-ru-sa-lem nằm giữa hai thung lũng Kit-rôn
(phía Đông, ngăn với núi Ô-liu và thung lũng Ghê-him-non phía Tây, hai thung
lũng này nhập lại ở phía nam chạy về phía Biển Chết. Phía cuối Ghê-him-non là
nơi đổ và đốt rác nên dùng làm biểu tượng cho hỏa ngục, từ La-tinh “Gehenna” sẽ
đi vào các ngôn ngữ phương Tây để nói về hỏa ngục.
[8] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/toan-van-cuoc-phong-van-dtc-tren-chuyen-bay-tu-iraq-ve-roma-41581
[9] Cuộc chiến tranh 30 năm giữa Công Giáo và Tin Lành
1618-1648, kết thúc bằng hiệp ước Westphalie làm nước Đức kiệt quệ. Đêm lễ
thánh Ba-tô-lô-mê-ô: Cuộc tàn sát người Tin Lành đêm 24 sang 25 tháng 8 năm 1572
tại Paris, do vua Charles IX tổ chức dưới sự thúc đẩy của bà Catherine de
Médicis.
[10] Mẹ Tê-rê-sa Côn-cát-ta kể câu chuyện này có thể minh
họa cho chúng ta: Mẹ đem một bịch gạo tới thăm một gia đình nghèo, mẹ góa con
côi. Bà mẹ gia đình nhận bịch gạo, cám ơn rồi vội vàng chia làm hai. Xách phân
nửa chạy đi. Mẹ Tê-rê-sa không hiểu bà xách đi đâu. Lát sau bà trở về, Mẹ
Tê-rê-sa hỏi, bà giải thích: mẹ con tôi mới có một ngày chưa có gì ăn, còn gia
đình kia ba mẹ con, mà ba ngày rồi chưa có gì ăn...
[11] Cf. Hr 12,5-13 nói về các thử thách, đau khổ là
cách Thiên Chúa giáo dục như một người cha sửa dạy con. Nếu không được sửa dạy
thì không phải là con.
[12] Hãy tưởng tượng nếu những người ấy sinh ra trong một
gia đình Hồi Giáo ở một nước Hồi giáo và theo các nhóm cực đoan thì họ sẽ ra
sao ?