Điều
Kiện Để Được Sai Đi Rao Giảng Tin Mừng Theo Thánh Mác-cô
https://dongten.net
Trong chu kỳ phụng vụ năm B
này, chúng ta đã đọc Tin Mừng theo thánh Mác-cô từ Chúa nhật đầu Mùa Chay với
trình thuật Chúa đối đầu với Xa-tan trong sa mạc, Lễ Lá và lễ Phục Sinh chúng
ta đã đọc trình thuật Thương Khó và Phục Sinh, và sẽ tiếp tục đọc sách Tin Mừng
này mỗi Chúa nhật thường niên.
Trong thánh lễ các ngày trong
tuần suốt 9 tuần đầu của Mùa Thường Niên vừa qua, chúng ta đọc Tin Mừng theo
thánh Mác-cô, bắt đầu từ khi Chúa Giê-su khởi sự rao giảng và gọi
các môn đệ đầu tiên (1,14-20) cho tới chương 12, 38-44, kể về bà góa dâng cúng
hai đồng kẽm (trị giá một khúc bánh mì đủ thòm thèm một bữa), nhưng được Chúa
coi là “người dâng cúng nhiều hơn cả, vì bà đã dâng cúng tất cả những gì bà
có để sống.”
Trong thánh lễ Chúa nhật và
trên các trang mạng không thiếu bài giảng, bài suy niệm cho mỗi chúa nhật. Tôi
chỉ mời độc giả chú ý tới một điểm có vẻ là nhỏ, nhưng thật ra là mấu chốt của
sách Tin Mừng này. Đặc biệt đang “mùa phong chức phó tế và linh mục”, là ông
già chống gậy đã phục vụ 51 năm trong sứ vụ linh mục, tôi xin viết ra để tặng
các tân phó tế và tân linh mục.
1.
Chúa Giê-su mở đầu bước đường rao giảng Tin Mừng
Tin Mừng Mác-cô kể
việc đầu tiên khi bắt đầu đi rao giảng, Chúa gọi bốn môn đệ đầu tiên là hai cặp
anh em: Si-mon và An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an, khi họ đang hành nghề chài lưới
trên Biển Hồ (1,14-20). Vài ngày sau, Chúa gọi người môn đệ thứ năm là một ông
thu thuế tên là Lê-vi (2,13-14). Tin Mừng Lu-ca cũng cho tên
là Lê-vi; riêng Tin Mừng Mát-thêu cho tên ông là Mát-thêu
(9,9); trong danh sách 12 người được chọn làm Tông Đồ thì chúng ta thấy Mát-thêu kể
tên Mát-thêu và nói rõ là người thu thuế (Mt 10,3); còn Mc 3,
18 và Lc 6,15 chỉ kể tên Mát-thêu mà không chú thích.
Sách Công Vụ (1,15) kê khai danh sách 11 tông đồ còn lại, cũng
kể tên là Mát-thêu.
Hai sách Tin Mừng Mát-thêu và Mác-cô kể
về cách thức Chúa Giê-su gọi năm môn đệ đầu tiên này giống nhau: Chúa Giê-su đi
dọc bờ biển, Chúa thấy, Chúa gọi, và lập tức
các ông bỏ tất cả : lưới, thuyền – anh em nhà Dê-bê-đê bỏ cả cha mà đi theo[1].
Trong bốn sách Tin Mừng,
thì Mác-cô là sách phanh phui không nể nang sự ngu dốt của
nhóm Mười Hai Tông Đồ, nhưng đồng thời cũng là sách nói về sứ mạng rao giảng
Tin Mừng phổ cập nhất: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo
Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (16,15). Hai điều này phối hợp với nhau
như thế nào?
2.
Các ông không hiểu những điều then chốt trong đời sống và lời rao
giảng của Thầy.
Sau ngày “ra mắt” tại Hội Đường
ở Cap-phác-na-um, Chúa rao giảng và trừ quỷ, khiến mọi người bỡ ngỡ và tiếng
đồn về Ngài vang đi rất mau, Thầy trò về nhà hai anh em ông Si-môn và An-rê gần
đó. Chúa chữa bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, và bà dậy lo cơm nước cho
cả nhà. Rồi vì đã hết ngày Sa-bát, nên người ta đem mọi kẻ ốm đau, quỷ ám đến
đầy trước nhà. Chúa chữa lành hết.
Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt,
Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. 36Ông Si-môn và
các bạn kéo nhau đi tìm. 37Khi gặp Người, các ông thưa : “Mọi
người đang tìm Thầy đấy !” 38Người bảo các ông : “Chúng
ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó
nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” 39Rồi Người đi khắp
miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ. (1,35-39)
Ngẫm nghĩ câu đầu tiên các môn
đệ thưa với Thầy, và câu trả lời của Thầy chúng ta có thể mỉm cười: nếu mọi
người đang tìm Thầy thì sao lại muốn Thầy đóng đô ở Ca-phác-na-um!
Ngay ngày đầu này các môn đệ
đầu tiên đã tỏ ra không hiểu ba điều:
1/ nhịp sống: rao giảng
Tin Mừng và cầu nguyện là nhịp sống của Thầy;
2/ vị trí : ở giữa đám
đông để rao giảng, chữa lành, và lánh ra nơi thanh vắng một
mình để ở lại với Thiên Chúa;
3/ Thầy được sai đến để đi gặp
mọi người mà rao giảng Tin Mừng và chữa lành chứ không phải để ngồi chờ người
ta đến tìm mình.
Đến cuối, khi Chúa đã hoàn tất
phần sứ mạng của mình trong một khoảng thời gian và không gian có giới hạn,
Người sẽ trao cho các ông tiếp tục sứ mạng không biên giới: ĐI KHẮP TỨ PHƯƠNG
THIÊN HẠ, LOAN BÁO TIN MỪNG CHO MỌI LOÀI THỌ TẠO.
3.
Chúa Giê-su thiết lập nhóm mười Hai
Khi hai nhóm vốn đối nghịch
nhau là Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê, đã liên kết với nhau đe dọa mạng sống của Chúa
(3, 6), Người phản ứng ra sao? Dụ ngôn “những người làm vườn nho sát nhân”
(12,1-7) lý giải cách ứng xử của Thiên Chúa: giết người này Thiên Chúa sai
nhiều người khác[2]… Họ mưu giết Chúa Giê-su thì Chúa
chuẩn bị Mười Hai Người để sai đi rao giảng với cùng một quyền năng trừ
quỷ, vốn là kẻ thù chính, đối thủ thật sự của Thiên Chúa từ ban đầu là Xa-tan,
muốn giành giật loài người từ tay Thiên Chúa. Trong Vườn Địa Đàng nó mượn con
mãng xà làm bình phong, trong lịch sử nó núp sau mọi người và mọi thứ có thể
dùng làm công cụ.
Sách Khải Huyền khích
lệ các tín hữu không phải bằng lời vuốt ve: “Không sao đâu, cứ yên trí, cuộc
thử thách sắp chấm dứt thôi mà!”, nhưng bằng cách cho biết là cuộc chiến sẽ
ngày càng ác liệt hơn, và cuối cùng Con Chiên sẽ thắng. Khi ngôn sứ Ê-li-a chạy
trốn hoàng hậu Dê-da-ben, vì bà đã thề sẽ giết ông nội ngày mai, sau một ngày
đi trong hoang địa, ông mệt mỏi chán chường, xin Chúa cho ông được chết, và ông
nằm dưới bóng cây chờ chết. Thiên sứ đến hai lần mang bánh và nước tăng sức cho
ông để ông đi tới núi Khô-rép.
Tin Mừng Lu-ca kể
khi tới giờ chịu khổ nạn, Chúa Giê-su xin: “Nếu Cha muốn, xin cất chén này
xa con, nhưng đừng cho ý con, mà ý Cha được thể hiện” (22,42); chén mà Chúa
Giê-su xin Cha cất xa mình là cái chết cay đắng trên thập giá. Có thiên sứ từ
trời đến tăng sức, nhưng bằng cách nào mà sau đó: “44Lòng
xao xuyến bồi hồi, nên Người càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những
giọt máu rơi xuống đất.” (22,43-44). Như vậy thiên
sứ tăng sức bằng cách cho Chúa Giê-su biết rõ ý Cha là Người phải chết, không
có “nếu…”. Chúa Giê-su chỉ còn một lời để cầu nguyện: “Xin cho ý Cha
thể hiện”.
Trong Tin Mừng Mác-cô, khi
mạng sống của Chúa bị đe dọa, Người đối phó bằng cách lập nhóm Mười
Hai:
Người lên núi và gọi đến với
Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với
Người. 14Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với
Người và để Người sai các ông đi rao giảng, 15với quyền trừ quỷ. 16Người
lập Nhóm Mười Hai… (3,13-16).
Ngoài năm môn đệ đầu tiên, gồm
hai cặp anh em làm nghề chài lưới và một ông thu thuế, cùng ở bờ biển hồ
Ga-li-lê – hai nghề chẳng thân thiện với nhau hơn hai phe Pha-ri-sêu
và Hê-rô-đê[3], Mác-cô không cho ta
biết những môn đệ khác đã được gọi lúc nào và trong hoàn cảnh nào.
Mác-cô cũng không cho chúng ta
biết Chúa Giê-su dựa vào tiêu chuẩn nào mà chọn Mười Hai môn đệ này : “Những
kẻ Người muốn”, và nhóm này không chỉ là tạm thời, nhưng là một nhóm được
THIẾT LẬP vững chắc, cố định, làm nòng cốt cho Hội Thánh của Chúa sau này. Khi
Chúa đã Phục Sinh, Người sẽ tỏ mình ra cho các ông và sai các ông đi. Các sách
Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca cũng cho thấy rõ
điều ấy, và sách Công Vụ sẽ kể rõ hơn.
Ngày Chúa Giê-su lập nhóm Mười
Hai là ngày Chúa thiết lập Hội Thánh. Mác-cô và Lu-ca đều
kể sự việc diễn ra trên núi. Có lẽ gợi nhớ việc Thiên Chúa ngự xuống trên Núi
Xi-nai để thiết lập Giao Ước, qui tụ con cái Ít-ra-en và đám dân hỗn tạp đã
theo Mô-sê ra khỏi ách nô lệ Ai cập (x. Xh 12,38-24,8).
Sách Khải Huyền sẽ
nói tới 24 vị Kỳ Mục (4,10) phủ phục thờ lạy Đấng ngự trên ngai và trước mặt
Con Chiên, tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm (5,8) sau khi Con
Chiên được trao cuốn sách – tượng trưng cho quyền điều khiển lịch sử. Chương 21
sẽ nói rõ hơn ý nghĩa của 24 vị, tượng trưng cho 12 chi tộc It-ra-en và Mười
Hai Tông Đồ của Con Chiên (x. 21,10-12).
4.
Nhóm Mười Hai không nắm được chìa khóa đưa vào mầu nhiệm Chúa
Giê-su Ki-tô.
Mác-cô dùng phương pháp kể
chuyện để đưa người đọc vào mầu nhiệm Chúa Giê-su Ki-tô, rất ít bài giảng;
nhiều lần nói đến Chúa giảng dạy trong các Hội Đường. nhưng không nói nội dung.
Một số cuộc tranh luận thì có nội dung. Bài giảng đầu tiên Mác-cô kể cho chúng
ta diễn ra ở bờ Biển Hồ, là các dụ ngôn, chủ yếu xoay quanh hạt giống và người
gieo giống. Chen vào giữa là hai dụ ngôn nhỏ về cái đèn và cái đấu. Dụ ngôn
chiếm vị trí quan trọng hơn cả là dụ ngôn mở đầu: người gieo giống (4,1-9), sau
đó là cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su với những người thân cận và nhóm Mười Hai
(4,10-13), rồi lời Chúa giải thích ý nghĩa (4,14-20).
Xin chú ý tới cuộc đối thoại
giữa Chúa Giê-su với các người thân cận và nhóm Mười Hai trong trình thuật
của Mác-cô, vì có những khác biệt quan trọng với trình thuật
của Mt (13,10-17) và Lc (8,9-10). Trong trình
thuật của Mt và Lc thì “các môn đệ hỏi về
dụ ngôn người gieo giống”, còn Mc thì nói rõ “Khi còn
một mình Đức Giê-su, những người thân cận cùng với nhóm Mười Hai hỏi Người về
các dụ ngôn ấy”, ngay sau khi kể dụ ngôn người gieo giống. Phần đầu câu trả
lời của Chúa trong Mt, Mc và Lc giống nhau.
Nhưng Mc có một, hay đúng hơn, hai điểm riêng: “Người còn
nói với các ông: “Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được tất
cả các dụ ngôn. Người gieo giống đây là người gieo Lời” (4,13-14).
Mc kể thêm hai dụ ngôn nữa
về hạt giống:
1/ hạt giống gieo xuống đất,
nếu không gặp những cản trở đã kể trong ngụ ngôn thứ nhất làm mất đi, thì đêm
hay ngày, người gieo giống thức hay ngủ, và cũng chẳng biết bằng cách nào, từ
trong lòng đất, hạt giống sẽ nảy mầm và tự nó mọc lên từ trong lòng
đất, theo trình tự của cây lúa, dẫn tới mùa gặt.
3/ dụ ngôn hạt cải, với một
nhập đề “long trọng”, khác thường như để kéo sự chú ý. “Hạt giống nhỏ nhất
lúc gieo xuống đất, mọc lên thành cây lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá sum xê,
đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Trình thuật Chúa chịu cám dỗ đã
gợi lại ba chương ở đầu sách Sáng Thế. Thiên Chúa dựng nên
A-đam rồi mới trồng một Vườn Cây và đặt con người vào đó. Trong vườn này Thiên
Chúa tìm cho A-đam một người bạn xứng hợp, trước hết là các loài thú vật, nhưng
không thú vật nào xứng làm bạn của A-đam. Cuối cùng Thiên Chúa mới lấy một
chiếc xương sườn của A-đam và làm nên người nữ, A-đam thức dậy sau một giấc ngủ
dài, vui mừng nhận ra người nữ là “xương tôi, thịt tôi”. Đôi bạn xứng
đôi vừa lứa dạo chơi trong vườn, có mọi loài cầm thú vây quanh, thưởng thức mọi
thứ trái cây trong Vườn. Xa-tan mượn con mãng xà để xúi con người muốn trở nên
ngang hàng với Thiên Chúa bằng cách ăn trái “cây biết lành biết
dữ” để tự mình định đoạt cái gì là tốt cái gì là xấu.
Kết quả là cả hai bị đuổi
ra khỏi vườn, ra khỏi vườn Thiên Chúa đã trồng tức là vào hoang địa, vì
lúc đó “chưa có bụi cây nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ nào mọc lên ngòai
đồng…” Hai vợ chồng phải đổ mồ hôi tìm miếng ăn từ trong lòng đất, nhưng
đất cũng nổi loạn với con người, sinh ra gai góc cho con người.
Khởi đầu công trình tạo dựng,
Thiên Chúa sai Thần Khí bay là là trên mặt nước hoang sơ, và Thiên Chúa dùng
Lời của Ngài để cho mọi loài thọ tạo xuất hiện trên trời, dưới biển và trên mặt
đất. Nay Thiên Chúa đã xé trời, gởi Thần Khí xuống dưới hình dạng chim bồ câu,
đậu trên Đức Giê-su Na-da-rét vừa chịu phép rửa từ tay ông Gio-an, từ dưới sông
Gio-đan bước lên. Tiếng Thiên Chúa từ trời vọng xuống xác nhận: “Con là Con
yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Nước và Thần Khí dưới hình dáng
bồ câu gợi lại cuộc tạo dựng và cuộc tái tạo sau nạn Hồng Thủy. Chúa Giê-su,
một người từ Na-da-rét tới, hòa mình giữa đám đông, hạ mình vâng phục, chịu
phép rửa, dược Thần Khí và Chúa Cha chứng thực là con người mới, là người con
đẹp lòng Thiên Chúa, là “khởi đầu” mới.
Mác-cô dùng lại kiểu nói trong
sách Sáng Thế: “Thần Khí liền đẩy [ds theo St 3,23, đuổi]
Người vào hoang địa”, nơi A-đam đã bị đuổi vào sau khi muốn nên bằng Thiên
Chúa. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa, với quyền năng Thần Khí, đến tìm con người
để làm cuộc khởi đầu mới cho loài người. Xa-tan đã nghe lời Thiên Chúa giới
thiệu Con yêu dấu lập tức đến thử xem có đúng không. Nhưng nó lại vờ xúi Chúa
Giê-su thử xem Lời Thiên Chúa đã nói có đúng không, như Mát-thêu và Lu-ca kể:
“Nếu ông là Con Thiên Chúa thì…”
Mác-cô không kể ba chước cám dỗ
như Mát-thêu và Lu-ca, nhưng cho chúng ta chứng
kiến sự đảo ngược tình thế sau khi Xa-tan ra tay: “Con yêu dấu của Thiên
Chúa” bây giờ lại “ở giữa các loài dã thú” như A-đam ở trong Vườn.
Thiên sứ đã cầm gươm lửa chặn cửa Vườn, không cho A-đam trở lại, bây giờ đến “hầu
hạ” Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Hoang địa trở lại làm thửa vườn mới. Thế la
Xa-tan đã biết sự thật. Và nó sẽ phá đám bằng cách mách lẻo để người ta khỏi
tha thiết nghe lời Chúa Giê-su nói và chứng kiến việc Người làm. Mỗi lần Chúa
lại ra lệnh cấm nó nói. Tin Mừng phải được người ta đích thân nhận ra
bằng cách nghe Lời Chúa nói và nhìn việc Chúa làm và tin.
Chúa Giê-su khởi đầu lại
lịch sử, đó là Tin Mừng, và con người cũng phải chấp nhận khởi đầu lại
với Người bằng cách hoán cải và tin vào Tin Mừng. hoán cải và tin
không thể tách rời nhau, muốn tin phải chấp nhận hoán cải, và có tin
thì mới biết đường mà hoán cải. Chúa Giê-su bắt đầu đi rao giảng
từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem, và Nhóm Mười Hai sẽ phải tiếp tục từ
Giê-ru-sa-lem đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ
tạo. Nhưng trước hết chính họ phải mở tai mà nghe, mở mắt mà nhìn và mở lòng mà
tin. Chúa sẽ phải vất vả huấn luyện họ, như Thiên Chúa đã huấn luyện dân của
Giao Ước Xi-nai.
5.
Chúa Giê-su vừa là người gieo giống vừa là hạt giống
Cách thức Mác-cô kể
về việc Chúa gọi năm người môn đệ đầu tiên bằng một lời: “Hãy theo tôi”,
và hiệu quả tức khắc, gợi cho ta nhớ Thiên Chúa tạo dựng mọi sự bằng Lời Người
phán: “Hãy có ánh sáng, lập tức có ánh sáng… “ (St 1,3)
Thánh vịnh 146/147 diễn tả bằng ngôn
ngữ thi ca:
Người ấn định con số các vì
sao, và đặt tên cho từng ngôi một (câu 4)
Sách ngôn sứ Ba-rúc cũng
diễn tả:
Người sai ánh sáng, ánh sáng
liền đi;
gọi ánh sáng lại, ánh sáng run
rẩy vâng lời.
34Các tinh tú, mỗi ngôi ở vị
trí mình, tưng bừng chiếu sáng.
35Người gọi chúng, chúng thưa: Có
mặt,
và hân hoan chiếu sáng mừng
Đấng tạo nên mình. (3,33-35).
Nhưng hạt giống phải được gieo
xuống đất và mọc lên từ trong lòng đất (x. Ga 12,34)
Là hạt giống, Chúa Giê-su phải đi vào trong
lòng đất bằng cái chết.
Là người gieo giống, Chúa phải chỗi dậy để tiếp
tục gieo giống qua những người Chúa đã chọn và chuẩn bị.
Dụ ngôn hạt giống tự nảy mầm và
mọc lên… và dụ ngôn hạt cải nói lên sự chiến thắng mà cái chết không cản được.
Dụ ngôn cái đèn và cái đấu nói về người nghe, đặc biệt là nhóm Mười Hai và
những người thân cận (các môn đệ) của Chúa. Họ phải thành những ngọn đèn, nhưng
muốn được như vậy họ phải thành những cái đấu lớn để đón nhận Lời!
Vì thế nếu không hiểu dụ ngôn
người gieo giống thì làm sao hiểu được các dụ ngôn khác! Đó là chìa khóa để đi
vào mầu nhiệm của Chúa Giê-su và con đường Chúa phải đi để thực hiện ơn cứu độ
với tư cách là ĐẤNG KI-TÔ CON THIÊN CHÚA, mà Mác-cô đã đặt làm tựa đề cho cuốn
sách, đồng thời hiểu được vai trò và sứ mạng của mình với tư cách là những
người đã được chọn để ở với Chúa và để Chúa sai đi rao giảng với quyền trừ quỷ,
và trở thành những ngọn đèn…
6.
Điểm qua phản ứng của các giới thính giả, như những mẫu đất khác
nhau.
Như để chuẩn bị cách riêng
những người sẽ tếp tục công việc “gieo Lời”, Chúa Giê-su kiên nhẫn kèm riêng
cho các môn đệ, sau khi giảng cho đám đông (4,34). Ngay sau buổi rao giảng bằng
các dụ ngôn, đến chiều Người truyền cho các môn đệ qua bờ bên kia. Họ được một
kinh nghiệm đặc biệt trong đêm ấy. Như áp dụng dụ ngôn “hạt giống tự
mọc lên, đem hay ngày, dù người gieo thức hay ngủ…” Chúa ngủ trên thuyền,
sóng gió nổi lên bất ngờ trong đêm. Các môn đệ hoảng hốt, kêu cứu. Chúa ngăm đe
gió và biển, gió liền tắt, biển lặng như tờ. Nhưng các ông cũng đã biết thắc
mắc: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Câu trả lời đã nằm trong câu hỏi: ai có quyền ra lệnh cho gió và biển? Họ đặt
câu hỏi và dừng ở đó. Dù sao đang khi người gieo ngủ thì hạt giống đã nảy mầm,
tuy chưa mọc lên. Chúa quở trách các ông là “chưa có lòng tin”.
Qua bờ bên kia là bờ
dân ngoại, ở phía Đông, Chúa ra lệnh cho cả một đạo binh quỷ, chúng cũng
tuân lệnh. Nhưng dân vùng đó lại lên tiếng nài xin Người rời khỏi vùng đất của
họ. Nhưng chính kẻ được giải thoát khỏi quyền lực đạo binh quỷ đã thành người
được sai đi rao giảng có hiệu quả, bằng cách kể lại kinh nghiệm bản thân được
ơn cứu độ: “Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả
những gì Đức Giê-su đã làm cho anh ta. Ai nấy đều kinh ngạc”.
Về lại bờ Ít-ra-en, gặp một ông trưởng Hội Đường
và một người phụ nữ có lòng tin.
Về quê hương Na-da-rét, Chúa Giê-su lấy làm lạ vì họ
không tin
Nhóm Mười Hai được sai đi thực tập rao
giảng với quyền trừ quỷ. Thành công.
Hê-rô-đê bị ám ảnh về cái chết của
ông Gio-an Tẩy giả và thắc mắc về Chúa Giê-su.
Nhóm Mười Hai trở về vui mừng kể những
thành công khi họ đi “gieo Lời”. Chúa Giê-su cho họ thực tập một bước
nữa: nuôi đám đông bằng bánh, như trong Cựu Ước. Thiên Chúa nuôi dân bằng Bánh
và Lời.
Một kinh nghiệm mới: lần này không phải là giông
bão, chỉ là gió ngược chiều làm các ông vất vả chèo chống. Chúa đi trên mặt
nước đến với các ông. Lần này thì Mác-cô nói rõ: “lòng trí
các ông còn ngu muội”. Không hiểu về bánh và không hiểu sao Chúa lại đi
trên mặt nước.
Các ông không hiểu cuộc tranh luận của Chúa
với Pha-ri-sêu về “cái gì làm cho người ta ra ô uế.”
Chúa lên phần đất dân ngoại ỏ
phía Bắc, gặp lòng tin mãnh liệt và khiêm tốn của một người mẹ, Người
cho con gái bà được lành vì những lời bày tỏ lòng tin khiêm tốn của bà.
Sau khi bẻ bánh nuôi đám đông
lần thứ hai, người Pha-ri-sêu thử thách Chúa bằng cách xin một
dấu lạ từ trời. Chúa từ chối và bỏ họ đó mà xuống thuyền qua bờ bên kia.
Các môn đệ lại không hiểu lời
Chúa căn dặn đề phòng men Phari-sêu và Hê-rô-đê. Chúa quở trách họ: Lòng
anh em ngu muội thế! 18Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà
không nghe ư? Anh em không nhớ sao… Anh em chưa hiểu ư? (Mc
8,17-18.23; x. Đnl 29,3).
7.
Tia chớp trong lóe lên trong ông Si-môn Phê-rô.
Mác-cô tổng kết giai đoạn huấn
luyện thứ nhất với lời quở trách của Chúa, gợi lại lời Mô-sê đã nói với dân của
Giao Ước Xi-nai sau 40 năm dạy dỗ họ từ Ai-cập cho tới bờ Đất Hứa,. Mác-cô như
cho thấy nhóm Mười Hai tỏ ra “càng học càng ngu muội”. Chúa Giê-su dẫn các
ông đi lên phía Đông Bắc.
“Đức Giê-su và các
môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường,
Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai ?” 28Các ông đáp
: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là
ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” 29Người
lại hỏi các ông : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”
Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô.” 30Đức Giê-su liền
cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người.” (8,27-30)
Hai điểm khiến chúng ta ngạc
nhiên: Chúa vừa quở các ông là “ngu muội” sao bỗng dưng ông Phê-rô lại
tỏ ra hiểu biết như thế? Sao Chúa lại cấm ngặt các ông không được nói với ai về
Người?
Mác-cô không giải thích trực
tiếp, vì phương pháp của Mác-cô là kể chuyện theo lối nghệ
thuật “viết”[4] tranh ảnh thánh phương Đông, đặt tất
cả trên một mặt phẳng. Người xem phải nhìn kỹ, đúng hơn là chiêm ngắm để đọc ra
ý nghĩa của mỗi chi tiết và tự mình nối kết các chi tiết mà hiểu.
Trước khi Chúa quở trách nhóm
Mười Hai là “mê muội”. Mác-cô đã kể việc Chúa chữa một
người vừa điếc vừa cà-lăm ở vùng Thập Tỉnh, mở tai và miệng cho anh, khiến anh
nói được rõ ràng, mọi người sửng sốt tột cùng và nói: “Họ hết sức kinh ngạc,
và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và
kẻ câm nói được.” (7,37; x. Is 29,18; 35,5).
Sau khi Chúa quở trách nhóm
Mười Hai, thì Mác-cô kể việc Chúa chữa một người mù tại
Bết-sai-đa, sinh quán của ông Si-mon. Một chút hóm hỉnh của Mác-cô!
Cả hai trường hợp chữa lành này
Chúa đều đưa người bịnh riêng ra xa đám đông, hoặc ra ngoài làng, và chỉ
có Mác-cô kể thôi.
Liền sau việc chữa người mù ở
Bét-sai-đa Mác-cô kể lời tuyên xưng của ông Phê-rô. Vậy thì
ông Phê-rô thấy được và mở miệng tuyên xưng được là do một ơn “chữa lành” của
Chúa.
8.
Đêm tối mù mịt hơn
Nhưng tất cả mới lóe lên như
một tia chớp, rồi cả nhóm Mười Hai lại rơi vào đêm tối mù mịt hơn khi Chúa bắt
đầu bài học mới:
Rồi Người bắt đầu dạy cho các
ông biết: Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng
kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại. 32Người
nói rõ điều đó, không úp mở. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra
và bắt đầu trách Người. 33Nhưng khi Đức Giê-su quay
lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phê-rô: “Xa-tan ! Lui
lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa,
mà là của loài người”
Con người vừa mở miệng tuyên
xưng “Thầy là Đức Ki-tô” bỗng trở thành “phát ngôn viên của
Xa-tan, kéo Thầy ra một bên để “cám dỗ” Thầy, xúi
Thầy đừng đi con đường thập giá để là Ki-tô. Chúa đuổi ông trở
về vị trí: môn đệ thì đi đàng sau, đừng đòi đi ngang với Thầy hay đi trước
[như Tôn Ngộ Không] để chỉ đường cho Thày. Thập giá là “tư tưởng
của Thiên Chúa”, Xa-tan thì xúi đi đường tắt như đã xúi con người trong
Vườn xưa.
9.
Ánh sáng trên núi
Nhưng Chúa Giê-su đã chọn nhóm
Mười Hai thì Chúa không lùi bước. Chúa đưa Phê-rô và hai anh em nhà Dê-bê-đê
vốn là bạn chài của Phê-rô theo, như hai nhân chứng về đặc ân Chúa làm cho ông
trên núi. Mác-cô không nói Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện
như Lu-ca (9,28-36), cho ta cảm tưởng như Chúa đưa Phê-rô và
hai bạn theo lên núi chỉ với mục đích cho thấy ánh sáng vinh quang của
Đức Ki-tô thôi. Trong ánh sáng ấy có cả vị đại diện các ngôn sứ là
Ê-li-a và người đã vào trong mây với Thiên Chúa để đón nhận Luật Giao Ước ở núi
Xi-nai, là Mô-sê tới đàm đạo với Đức Ki-tô, như để làm chứng tiếng Thiên Chúa
vang lên từ trong đám mây: “Đây là Con yêu dấu của Ta, hãy nghe lời Người”.
Lời Người dạy mới là “TƯ TƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA”. Người đã nói con đường của Đức
Ki-tô là con đường thập giá thì đúng là đường lối, tư tưởng của Thiên
Chúa đấy.
10. Đêm tối mù mịt hơn: đi ngược
chiều với Thầy
Từ trên núi xuống, Chúa nói lần
thứ hai về con đường của Đức Ki-tô, “nhưng các ông không hiểu lời đó, và
không cám hỏi”. Bấy lâu nay chuyện gì không hiểu cũng hỏi, sao lần này “không
dám hỏi”? Sợ cái gì? Không phải sợ Thầy không trả lời hay quở trách. Lần
đầu Thầy đã quở trách Phê-rô trước mặt anh em rồi!
Lần này tệ hơn nhiều! Không dám
hỏi nhưng đi ngược chiều với Thầy: dọc đường họ bàn tán với nhau… Thầy nghe
thấy, nhưng cứ đi, chờ về đến nhà mới sửa dạy. Chuyện gì cũng vừa đi vừa nói
với các ông, nhưng chuyện này quan trọng nên Thầy dạy long trọng hơn bao giờ:
Sau đó, Đức Giê-su và
các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà,
Đức Giê-su hỏi các ông : “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?” 34Các
ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. 35Rồi
Đức Giê-su ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói : “Ai
muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi
người.” 36Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa
các ông, rồi ôm lấy nó và nói : 37“Ai tiếp đón một em nhỏ như
em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy ; và ai tiếp đón Thầy, thì không
phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.” (9,33-37).
Nghe Thầy hỏi là đã cúi mặt
« ngậm miệng”, vì xấu hổ về những gì đã bàn tán với nhau.
Nhân dịp này Chúa long trọng dạy về ý nghĩa của thập giá trong dời sống môn
đệ: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm
người phục vụ mọi người.” Thánh Phao-lô sẽ giải nghĩa và ứng dụng
trong thư Phi-lip-phê 2,1-12.
11. Đỉnh cao của sự mê muội tự phơi
bày
Tới gần Giê-ri-khô là trạm dừng
chân cuối cùng trên đường lên Giê-ru-sa-lem, nơi Chúa sẽ thực hiện những gì đã
loan báo hai lần cho nhóm Mười Hai, Chúa loan báo lần thứ ba rõ hơn, như vẽ ra
trước mắt các ông những gì Chúa phải chịu trước khi sống lại từ cõi chết. Lần
này Mác-cô không kể phản ứng chung của nhóm, nhưng kể hành
động của hai anh em nhà Dê-bê-đê. Hai anh em đã được chọn làm nhân chứng về ánh
sáng trên núi, bây giờ thành hai kẻ đồng lõa mưu đồ tương lai riêng cho gia
đình mình. Ỷ vào sự ưu ái của Chúa, hai anh em đến nói nhỏ với Chúa để xin hai
ghế quan trọng nhất trong triều đình mà họ nghĩ Thầy sẽ thiết lập tại
Giê-ru-sa-lem. Chúa ân cần nghe và nhẹ nhàng ra điều kiện. Sự ngu muội của họ
bộc lộ tột cùng. Họ tỏ ra chẳng hiểu gì về sứ mạng của Chúa, về bản chất Nước Thiên
Chúa, về con đường của Chúa và con đường làm môn đệ, cũng chẳng hiểu ý nghĩa
các điều kiện Chúa đặt ra bằng những biểu tượng “chén” Chúa phải uống và “phép
rửa” Chúa phải chịu. Hai anh em chấp nhận hết mà không biết mình chấp nhận cái
gì. Nhưng chắc phải chưng hửng vì câu trả lời cuối cùng: “Đức Giê-su bảo:
“Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống ; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng
sẽ chịu. 40Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy
không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”
(10,32-40) Chúa cho họ điều kiện họ đã dồng ý, bởi vì Chúa đã ưu ái
chọn họ vào nhóm Mười Hai. Nhưng phần thưởng thuộc quyền Cha trên trời phân
phát.
Trước đó ông Phê-rô đã hỏi Chúa
về phần thưởng sẽ được vì đã bỏ mọi sự mà theo Chúa: “Ông Phê-rô lên
tiếng thưa Người : “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo
Thầy !” 29Đức Giê-su đáp : “Thầy bảo thật anh em :
Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì
Thầy và vì Tin Mừng , 30mà ngay bây giờ, ở đời
này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp
trăm, cùng với sự ngược đãi , và sự sống vĩnh cửu ở đời sau. ”
(10,28-30).
Tuy hai anh em nói riêng với
Chúa, nhưng không hiểu sao mười ông kia cũng nghe thấy và phản ứng tức tối với
hai anh em nhà này. Chúa dùng dịp này để dạy lần cuối về con đường làm môn đệ:
Nghe vậy, mười môn đệ
kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an. 42Đức Giê-su gọi
các ông lại và nói : “Anh em biết : những người được coi là thủ lãnh các dân
thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản
dân. 43Nhưng giữa anh em thì không được như vậy : ai muốn làm
lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em ; 44ai muốn
làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. 45Vì Con Người
đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống
làm giá chuộc muôn người. (10,42-45)
12. Người mù được thấy và đi theo
Người trên con đường Người đi
Kết thúc gai đoạn thứ nhất Chúa
đã quở trách các ông “lòng ngu muội, có mắt mà không thấy” …
(x.8,17-18). Cuối giai đoạn thứ hai, ta thấy tình trạng tồi tệ hơn. Khi ra khỏi
Giê-ri-khô, để bước vào giai đoạn cuối cùng trên đường lên Giê-ru-sa-lem, một
người mù ngồi ăn xin bên lề đường kêu xin Chúa Giê-su với danh hiệu mới: “Lạy
Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Những người cùng đi với Chúa gạt
bỏ anh, vì người mù vẫn bị coi là chịu hậu quả của tội lỗi (x. Ga 9,2),
anh kêu to hơn. Chúa dừng lại và bảo gọi anh ta tới. Người ta đổi giọng, khích
lệ anh. “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” 50Anh
mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. 51Người
hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn
thấy được.” 52Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức
khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
(10,46-52)
Chúa đã nói điều kiện để theo
Chúa là bỏ hết mọi sự, không cứ là nhiều hay ít mà “tất cả”. Anh mù ngồi ăn xin
bên lề đường thì có gì ngoài cái áo choàng, đêm làm mền đắp, ngày thì làm nệm
ngồi. Anh vất cái áo choàng lại là bỏ tất cả những gì anh có rồi. Anh chỉ xin
cho được thấy. Chúa cho liền. Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi
theo Người trên con đường Người đi. Nhóm Mười hai theo Chúa bấy
lâu nhưng có mắt mà không thấy; chân thì đi theo nhưng nhìn hướng khác và lòng
đi ngược với Chúa, còn anh mù nhìn thấy được và đi theo Ngừơi trên con đường
Người đi. Từ kẻ ngồi ăn xin bên lề đường, anh đã trở thành người môn đệ chân
chính. Con đường Chúa đang đi là con đường lên Giê-ru-sa-lem đón nhận thập giá.
(10,47-52)
Anh còn đi trước dân
Giê-ru-sa-lem một bước khi kêu cầu Chúa Giê-su với danh hiệu Con Vua
Đa-vít. Dân Giê-ru-sa-lem sẽ tung hô: “Chúc tụng triều đại đang tới,
triều đại Vua Đa-vít, tổ phụ chúng tôi” (11,10).
Sự mê muội dẫn đến hậu quả là
khi “hạt giống đã gieo xuống đất”, Thầy Giê-su bị bắt thì cả nhóm Mười
Hai bỏ Người mà chạy trốn hết. Phê-rô muốn tỏ ra mình gan dạ hơn những người
khác, theo xa xa, rồi vào tận trong dinh thượng tế, chen vào ngồi sưởi chung
giữa đám thuộc hạ. Kết cục là bị cặp mắt dao cau của một cô đầy tớ nhận
diện, ông chối hai lần, nhưng vẫn nấn ná đứng giữa đám thuộc hạ. Cái giọng
Ga-li-lê của ông khiến bọn đàn ông cũng nhận ra và quả quyết ông đúng là môn đệ
của người đang bị xét xử, sỉ nhục ở trước Hội Đồng trong phòng họp. Ông liền
thề độc mà chối. Tiếng gà gáy lần thứ hai vang lên đâu đó, nhắc ông nhớ lời
Thầy đã báo trước sự việc này. Ông òa khóc như một đứa trẻ và chạy ra ngoài.
Chẳng ai thèm đuổi theo bắt ông…
Rồi Thầy bị kết án, một mình
vác thập giá thì có ông Si-mon Ky-rê-nê bị lính bắt vác đỡ. Khi Thầy bị treo
lên thập giá thì chỉ có mấy phụ nữ đã theo Thầy từ Ga-li-lê tới đây, đứng xa xa
mà nhìn. Mác-cô chẳng nói có ông nào trong nhóm Mười Hai bén
mảng dọc đường hay tới nơi Thầy bị treo.
Thầy tắt hơi trên thập giá, thì
viên sĩ quan chỉ huy cuộc hành quyết chứng kiến và trở thành người tuyên
xưng: Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy
Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên
Chúa.”
Ông trả lời cho câu hỏi
các môn đệ đặt ra sau khi Thầy ra lệnh và sóng gió tuân phục (x.4,42). Ông chưa
bao giờ nghe Chúa giảng hay chứng kiến Chúa làm phép lạ, ra lệnh cho sóng gió
hay cả đạo binh quỷ. Ông chỉ là một sĩ quan nhận và thi hành lệnh chỉ huy cuộc
hành quyết tử tội Giê-su bằng thập giá. Ông phải kiêm cả vai trò chứng nhân xác
nhận là tử tội đã chết, nên ông phải nhìn rõ là tử tù đã trút hơi trên thập
giá.
Coi như đến đây Mác-cô đã
trình bày xong chủ đề: Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên
Chúa.
Tuy nhiên Mác-cô còn
kể tiếp “hạt giống rơi xuống đất” như thế nào với việc mai táng. Lại xuất hiện
một môn đệ ẩn danh, tên là Giô-xép, người thành A-ri-ma-thê. Ông có uy thế
để dám một mình đi gặp Tổng Trấn Phi-la-tô, xin lãnh xác tử tội Giê-su để
mai táng. Tử tội bị xử treo thập giá thì người ta chỉ xô xuống hố hay cứ treo
đó, làm mồi cho thú dữ và ác điểu. Phi-la-tô ân cần tiếp ông. Cho gọi viên sĩ
quan chỉ huy cuộc hành quyết để xác nhận tử tội đã thật sự chết. Biết chắc rồi,
Phi-la-tô không ngần ngại trao cho ông Giu-se lo việc mai táng.
Tuy là chiều áp lễ trước ngày
sabbath, nhưng ông còn đủ thời giờ đi mua tấm vải mới để liệm, và đặt xác Thầy
vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấc cửa mộ. Chỉ thấy hai người
phụ nữ là Maria Mác-đa-la đi theo và bà Maria mẹ ông Giô-xét đi
theo, “để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.”
Hạt giống đã rơi xuống
đất. Đêm hay ngày… hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên…
14. “Sáng tới rồi tuy vẫn còn
đang đêm” (Is 21,12)
Câu trong sách I-sai-a trên
đây có thể dịch hai cách. Bản của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ chúng tôi chọn: “Sáng
đến rồi và cả đêm cũng đến!” Dịch cách nào thì cũng là một câu rất khó
hiểu. Tôi chọn cách dịch trên đây để áp dụng vào đoạn cuối của Tin Mừng Mác-cô.
Mác-cô mở đầu kể tiếp về từ lúc hai bà
đã theo ông Giô-xép và để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người. Bây
giờ ta mới biết chủ đích của hai bà: hai bà rủ thêm bà Sa-lô-mê lo việc ướp xác
Thầy (16,1), vì lúc mai táng không kịp ướp[5]. Ngày xưa chưa có đồng hồ như ngày nay,
nên khi mặt trời lặn và có thể thấy được ba vì sao trên trời là hết ngày
sabbath. Người ta có thể mua bán. Ba bà này đi mua sẵn dầu thơm, chờ đến sáng
trở ra mộ ướp xác Thầy.
2Sáng
tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các
bà ra mộ.
3Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn
tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” 4Nhưng vừa ngước mắt lên,
các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.”
Chú ý tới yếu tố ánh
sáng chỉ có Mác-cô nói rõ “lúc mặt trời hé
mọc”. Tuy ngày thứ nhất bắt đầu từ chiều tối như đã nói trên, nhưng
nghệ thuật kể chuyện của Mác-cô như nghệ thuật điện ảnh hay
sân khấu ngày nay, ánh sáng là yếu tố quan trọng. Ánh sáng nhẹ nhàng của mặt
trời hé mọc mở ra trước mắt người đọc một cái gì mới mẻ, vui tươi ngược với khi
mai táng hai ngày trước là lúc đêm xuống. Ánh sáng đã bắt đầu vươn lên, nhưng
các bà vẫn còn đi trong bóng tối của lúc đi theo ông Giô-xép và để ý
nhìn xem chỗ họ mai táng Người. Trên đường các bà mới chợt nhớ tới cửa
mộ có tảng đá to lấp, và ước lượng ba người phụ nữ súm lại cũng không đủ sức
lăn nó ra. Nhưng các bà cũng chưa nghĩ tới quay về tìm người giúp thì đã tới
nơi. Và điều bất ngờ đã xảy ra: các bà thấy tảng đá đã lăn ra một bên
rồi. Mác-cô còn “ghi chú” thêm là “tảng đá ấy lớn lắm”.
Thấy cửa mộ đã mở, các bà cũng chẳng thắc mắc gì, cứ thế bước vào.
Bất ngờ lớn hơn. Lúc mai tang,
hai bà (chứ không phải một!) đã để ý nhìn xem chỗ họ mai táng, nên không thể
vào lầm một ngôi mộ khác. Họ thấy gì?
Vào trong mộ, các bà
thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng
sợ. 6Nhưng người thanh niên liền nói : “Đừng hoảng sợ ! Các bà
tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì ! Người đã trỗi
dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này ! 7Xin các
bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ
đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như
Người đã nói với các ông.”
Ngôi mộ khoét trong vách đá thì
bên trong người ta để bên tay mặt cao, bên trái thì có lối vào rộng đủ cho hai
người khiêng xác vào, đặt lên bệ cao rồi đi ra, lăn tảng đá lấp cửa mộ. Người
thanh niên áo trắng ngồi bên phải, tức là trên nơi đặt xác. Người thanh niên
nói cho hai bà biết là mình biết lý do tại sao các bà vào đây, Người thanh niên
còn tỏ ra mình là người được giao nhiệm vụ ngồi chờ sẵn để giải thích cho các
bà cho các bà tại sao xác Đức Giê-su không còn đó, bằng chứng là người thanh
niên ngồi ngay “chỗ đã đặt xác Người” và chuyển cho các bà nhiệm vụ “đi nhắn
tin cho các môn đệ và ông Phê-rô biết cả điểm hẹn để gặp
Người nữa!
Người thanh niên áo trắng này
là ai? Tại sao tin nhắn lại kể riêng ông Phê-rô? Xin hẹn bài khác.
Phản ứng của các bà:
8Vừa ra khỏi
mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì
với ai, vì sợ hãi.
Đến đây coi như người kể đã trình
bày xong câu chuyện theo tựa đề và áp dụng dụ ngôn hạt giống: hạt giống đã mọc
lên và phơi mình dưới ánh mặt trời. Người nghe có thể cười khi nhìn cảnh ba bà
hoảng sợ, chạy trốn. Các bà chẳng nói thì họ đã được nghe Má-cô rồi!
Nhưng còn phải kể tiếp: làm sao
hạt giống lớn lên và sinh nhiều hạt lúa mới[6]. Đoạn tiếp theo tóm tắt những lần Chúa
Phục Sinh tỏ mình cho những người khác, có kể trong Tin Mừng Lu-ca (24,1-35
và Gio-an 20,1-18). Nhưng cốt cho thấy là nhóm Mười Hai (đã
mất một người là Giu-đa), vẫn còn trong bóng đêm dày đặc:
Sau khi sống lại vào lúc
tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su hiện ra trước tiên với
bà Ma-ri-a Mác-đa-la, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. 10Bà
đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. 11Nghe
bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.
12Sau đó, Người tỏ mình ra dưới
một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi
về quê. 13Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông
ấy cũng không tin hai người này.
Chú ý tới cái hài hước
của Mác-cô: Các bà theo Thầy từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem thì
đứng xa xa nhìn Thầy bị treo trên thập giá, rồi theo ông Giô-xép đi mai táng,
sáng sớm đem dầu thơm ra mộ để ướp xác, được sai đi báo Tin Mừng thì hoảng sợ
và chạy trốn, không nói gì với ai. Đàn ông là những người đã được “Chúa
tuyển chọn để ở với Người và để Người sai đi” (3,13-19) thì bỏ chạy khi
Chúa bị bắt, ông cầm đầu thì chối Thầy ba lần, rồi ngồi khóc trong đêm. Bây giờ
cả nhóm đóng cửa ngồi trong nhà, buồn bã khóc lóc, tiếp tục hòa chung tiếng
khóc của ông Phê-rô trong đêm. Những người đi ra thì thấy “Sáng tới rồi”,
nhưng các ông ngồi trong nhà thì “vẫn đang còn trong đêm”, cái đêm của
sự hèn nhát bỏ Thầy chạy trốn và chối Thầy.
15. Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.
Sau cùng, Người tỏ mình ra cho
chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các
ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy
Người sau khi Người trỗi dậy.
Thế là kết thúc giai đoạn huấn
luyện thứ hai nhóm Mười Hai có vẻ mê muội thêm, rơi vào bóng đêm dày đặc không
ai kéo ra được. Chúa Phục Sinh đích thân đến, đem ánh sáng vào tận trong
nhà đánh thức các ông, để hoàn thành dư định của Chúa. Họ đã bỏ không ở lại với
Chúa, nhưng Chúa không bỏ họ. Chúa đến quở trách rồi lập tức sai đi, không phải
đi thực tập như lần trước quanh vùng Ga-li-lê, rồi quay về báo cáo, nhưng là đi
khắp tứ phương thiên hạ; không chỉ rao giảng cho đồng bào ở Ga-li-lê, mà
cho mọi loài thọ tạo. Chúa không ngồi chờ các ông ở Ga-li-lê, nhưng
ngự bên hữu Thiên Chúa ở trên trời. Các dấu lạ bây giờ đi theo những người
tin để xác nhận lòng tin của họ là đúng.
15Người nói
với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi
loài thụ tạo. 16Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai
không tin, thì sẽ bị kết án. 17Đây là những dấu lạ sẽ đi theo
những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những
tiếng mới lạ. 18Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc
độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những
người này sẽ được mạnh khoẻ.”
Có vẻ Chúa không trao cho các
ông quyền trừ quỷ, chữa bệnh nữa, nhưng Chúa đích thân làm để xác nhận lời rao
giảng của các ông là đúng:
Nói xong, Chúa Giê-su được
đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20Còn các Tông Đồ thì
ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những
dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
Hai “tông đồ” dược Thánh Thần
sai đi (Cv 13,1-5), không thuộc nhóm Mười Hai: Phao-lô và
Bác-na-ba, sẽ nói lên kinh nghiệm này sau chuyến rao giảng đầu tiên cho dân
ngoại:
Hai ông vượt biển
về An-ti-ô-khi-a, là nơi trước đây các ông đã được giao phó cho ân
sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành.
27Khi tới nơi, hai ông tập họp
Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai
ông.” (Cv 14, 26-27).
Trong thư 1 Cô-rin-tô thánh
Phao-lô trở lại dụ ngôn hạt giống và hình ảnh xây nhà (x. Lc 6,46-49; Mt 7,24-27)
và nói rõ hơn về vai trò của mỗi người và của thiên Chúa:
Vậy A-pô-lô là gì
? Phao-lô là gì ? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin,
mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. 6Tôi trồng,
anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. 7Vì
thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên
Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. 8Kẻ trồng người
tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình. 9Thật
vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em
là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên. (1Cr 3,
5-9).
Vậy thì người được sai đi rao
giảng có đạt kết quả cũng đừng hỉnh mũi, ưỡn ngực. Những người đã đón nhận đức
tin cũng đừng bám vào người đã được sai đến rao giảng Tin Mừng cho mình.
Đó là hai nọc độc của Con Mãng Xà để gây chia rẽ, gieo cỏ lùng vào cánh đồng
của Thiên Chúa, và ngầm phá ngôi nhà của Thiên Chúa tận nền móng là Lời của
Ngài, Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã chiến thắng Xa-tan và quyền lực của nó để lên
ngự bên hữu Thiên Chúa, để từ nay vừa là người gieo, vừa là hạt giống và cũng
là Đấng làm cho hạt giống mọc lên.
16. Tin Mừng cho mọi thọ tạo
Một chiều kích mới của ơn Cứu
Độ và của việc loan báo Tin Mừng mà chỉ có Mác-cô nói lên.
Khi kể việc Chúa Giê-su được
Thánh Thần “đuổi vào hoang địa” để đương đầu với Xa-tan, kẻ thù đầu tiên
và cuối cùng của Thiên Chúa và loài người (1,1-13), Mác-cô đã
gợi cho chúng ta nhớ lại câu chuyện trong Vườn Địa Đàng và gợi lên hiệu quả của
ơn cứu độ mà Chúa Giê-su sẽ đem lại trong cuộc chiến thắng cuối cùng. Khi giết
được con người bằng nọc độc mãng xà của nó, nó phá cả ba mối tương quan Thiên
Chúa đã thiết lập trong công trình tạo dựng: giữa con người với Thiên Chúa,
giữa con người với nhau và với thọ tạo. Chúa Giê-su tái lập cả ba khi Phục Sinh
và lên ngự bên hữu Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô sẽ nói trong thư
Roma:
Muôn loài thụ tạo những
ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái
Người. 20Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo,
không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên,
vẫn còn niềm trông cậy 21là có ngày cũng sẽ được giải
thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái
Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. 22Thật vậy,
chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn
quại như sắp sinh nở. 23Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng
ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu,
nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu
chuộc thân xác chúng ta nữa. (8,19-23)
17. Điều kiện để được sai đi rao
giảng Tin Mừng
Đến đây chúng ta thấy Mác-cô coi
như điều kiện để được sai đi rao giảng Tin Mừng là đã thấy Đức Giê-su
Ki-tô Con Thiên Chúa sống lại.
Chúa quở các ông vì “không
chịu tin những người đã thấy Người sống lại”, và sau khi chính họ được thấy
Người đã sống lại thì lập tức sai họ đi… Và Chúa cùng hành động với họ bằng
quyền năng của Chúa.
Thấy Chúa sống lại đã thay đổi
cuộc sống của họ, nên họ có thể rao giảng như những người làm chứng bằng chính
cuộc sống. Chúa gọi riêng một số người để sai đi, nhưng tất cả những ai đã
“thấy Chúa sống lại” nhờ con mắt đức tin, mỗi người tín hữu và cả cộng đoàn tín
hữu, cả Hội Thánh phải làm chứng bằng đời sống.
Riêng người được trao sứ mạng
rao giảng càng phải sống mãnh liệt hơn, như lời giám mục nói khi trao Sách Tin
Mừng cho tân phó tế sau khi đã đọc lời nguyện phong chức:
Con hãy tin điều
con đọc, giảng điều con tin và sống điều
con giảng.
Đọc – tin – sống – giảng: đó là
bốn bước (hiểu ngầm bước thứ năm là hiểu điều con đọc), coi
như bốn bước để có thể bước lên bục giảng.
Ước mong sao đừng vị nào nhảy
thẳng lên bục giảng!
Chúc các tân phó tế và tân linh
mục ghi nhớ và thực hành lời căn dặn này suốt đời! AMEN.
Giê-ru-sa-lem, Lễ Thánh Tâm
Chúa Giê-su 2021
L.M. Giu-se Nguyễn công Đoan,
S.J.
----------------------------------------
[1] Lời kể với ba động từ làm
tôi nhớ tới bức thư nổi tiếng của Cesar gởi cho thương viện Rô-ma báo tin đã
chinh phục hòn đảo lớn nay là nước Anh: Veni, vidi, vici [tôi đã tới,
tôi đã thấy và tôi đã thắng.]
[2] Thời vua nước Anh ly
khai, nhiều tu sĩ Dòng Tên bị giết hại. Thánh Edmond Campion (lễ nhớ ngày 1/12)
viết cho ban Tư Vấn của Nữ hoàng (khoảng ngày 19/7/1580) bức thư nói lên 10 lý
do tại sao Dòng Tên không lùi bước: “Chúng tôi đã bắt đầu công trình; nó là của
Thiên Chúa, không thể chống lại đâu. Cái giá phải trả đã tính sẵn rồi. Bao lâu
còn một người cho các vị treo cổ ở Tyburn… chúng tôi vẫn vui vẻ chấp nhận…
[3] Việc thu thuế thời đó
giao cho “nhà thầu”, phục vụ cho những kẻ nắm quyền đô hộ; Pha-ri-sêu là phe
chống ách đô hộ của Rô-ma, còn Hê-rô-đê là tay sai của Rô-ma, người Ê-đôm, vốn
là cừu địch của dân Ít-ra-en, được giải thích trong truyện Ê-sau và Gia-cóp
(x. St 25,19-37,1). Hê-rô-đê đã trốn qua Rô-ma và vận động
được hoàng đế Rô-ma phong làm vua toàn vùng Ga-li-lê và Giu-đa năm 42 trCGS.
Được quân đội Rô-ma yểm trợ ông dùng võ lực tiêu diệt dòng họ Mác-ca-bê vào năm
37 trCGS. Ông theo đạo Do Thái và xây lại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thật nguy nga,
để lấy lòng người Do Thái (x. Ga 2,18-20).
[4] Người phương Đông không
nói vẽ i-côn (tranh thánh) mà viết i-côn, bởi
vì i-côn như một chương sách về một đề tài thần học.
[5] Xin đừng lộn với Tin
Mừng Gio-an 19,39), ông Ni-cô-đê-mô đã đem tới một trăm cân
dầu thơm để tẩm liệm.
[6] Các nhà nghiên cứu tranh
luận nhiều về nguồn gốc đoạn kết dài (16,9-20). Ở đây chúng ta chỉ dành tâm trí
vào tìm hiểu như thấy trong sách mà Hội Thánh trao cho chúng ta như là sách Tin
Mừng theo thánh Mác-cô, đọc trong phụng vụ.