Trước
tiên, xin nói về Sa-lô-môn, một vị đại đế nổi tiếng là khôn ngoan và giàu
có, ông là con trai và người kế vị vua Ða-vít. Có lẽ, cũng như các vua khác,
ông hoàn toàn xa lạ với phần đông trong chúng ta xét về địa vị xã hội, tuy
nhiên, ta cũng có thể rút được đôi bài học liên quan đến sự giàu có của riêng
ông cũng như của toàn dân Ít-ra-en : sự giàu có đến mức cực thịnh, dưới
vương triều của ông, mang ý nghĩa gì ? ông đã làm gì với sự giàu có như
vậy ?
Ðời vị
vua này, ta có thể kể thành hai giai đoạn : giai đoạn thứ nhất, khi còn trẻ,
ông là một người đạo đức và khôn ngoan, biết kính sợ ÐỨC CHÚA và thờ kính
Người. Nhờ vậy, ông đã được thành công trọn vẹn. Dưới vương triều của ông, bờ
cõi được mở mang hơn hết so với các vương triều trước ; và sau ông, uy tín ông
lan rộng bốn phương , sự giàu có của riêng ông được kể là vô
hạn , và hơn nữa ảnh hưởng của sự thịnh vượng đó lan đến cả toàn Dân. Và giai
đoạn thứ hai, đến khi về già, ông đã yếu đuối chiều theo các bà vợ ; ông
đã xây cho các bà những nơi tế tự các thần ngoại bang . Ðiều này đi
ngược lại ý muốn của Thiên Chúa. Nó đã làm cho ÐỨC CHÚA nổi giận, Người đã
tuyên bố trừng phạt dòng dõi ông : quốc gia sẽ phải bị chia đôi và sự
thịnh vượng không còn nữa.
2. Sự giàu sang ăn rễ nơi Thiên Chúa, một phản ánh
về chính Người
Ông được kể như là người giàu có và sang trọng, sự
giàu sang của ông được coi là bao trùm thiên hạ. Ở đây, dường như các soạn giả
cố tình để qua một bên những đế quốc khổng lồ chung quanh (như Ai-cập và
Át-sua) để mô tả về ông như một vị đệ nhất đại đế trong thiên hạ, trong
vùng, vào thời đó. Ðiều này, có lẽ, đúng nếu ta chỉ so sánh vương triều của
Sa-lô-môn với các tộc dân nho nhỏ chung quanh trong vùng đất dọc bờ biển Ðịa
Trung Hải (như dân Phi-li-tinh, dân Am-mon, dân Mô-áp, dân Ga-la-át, v.v.). Vì
ta để ý thấy các con số được sử dụng để nói về sự giàu có của ông rất chẵn . Ví
dụ như : số vàng ông thu hàng năm là 20.000 kg (1V 10,14), số ngựa ông có
là 12.000 con và 1.400 cỗ xe (1V 10,26), ông có 700 bà vợ chính thức và 300
cung phi (1V 11,3), v.v. Dường như chúng muốn nói một điều gì đó khác hơn nữa
(nhưng điểm này không thuộc về chủ đề của chúng ta, xin nhường cho các chuyên
gia về chú giải Thánh Kinh). Ðiều quan trọng, có lẽ là, đối với các soạn giả
Thánh Kinh, sự giàu sang tột đỉnh vị vua này đến từ một chúc lành và đồng hành
của Thiên Chúa. Cụ thể hơn, chúng đi kèm theo sự khôn ngoan tột bực mà chính
ÐỨC CHÚA đã ban thể theo lời cầu xin của ông, khi còn thiếu thời, lúc ông mới
lên ngôi vua chưa được bao lâu (xin xem 1V 3,5-14). Sự giàu sang đó được coi là
mang một chiều kích vô cùng khiến không có gì so sánh được với nó.
Thật vậy, vì nó đã được liệt kê ra nhằm phản ánh chính sự giàu sang của Thiên
Chúa.
3. Thịnh vượng dưới sự dẫn dắt của ÐỨC CHÚA
Ðiều quan trọng khác, sự giàu sang riêng có của ông
đã lan trải đến mọi thần dân của ông, những người dân của Chúa. Dưới vương
triều ông, theo lời kể, vốn là một phóng đại trong Thánh Kinh, không có thần
dân nào của ông phải làm nô lệ cho ông hoặc cho bất cứ ai khác, vì các nô lệ
được lấy từ những người ngoại quốc (xin xem 1V 9,20-22). Ðiều này muốn nói
rằng, dưới vương triều Sa-lô-môn, chính Thiên Chúa đã điều hành đất nước và
đưa nó đến sự thịnh vượng tuyệt đối . Trong đó, cũng phải
kể đến sự đồng lòng của toàn dân : chấp nhận đi dưới sự chăn dắt của chính
ÐỨC CHÚA, qua công cụ là vua Sa-lô-môn.
Thật vậy, vì thể theo lời hứa từ ngàn xưa :
mỗi khi Dân chấp nhận để cho Thiên Chúa dẫn dắt và mỗi khi họ quyết tâm đi theo
đường lối của Người, thì chính ÐỨC CHÚA sẽ làm cho họ trở nên hùng mạnh hơn mọi
dân chung quanh và sự giàu có sẽ đến với họ. Ta nhớ lại trường hợp của các vị
tổ phụ đầy lòng trung tín trong các bài trước, Áp-ra-ham, I-sa-ác và
Gia-cóp : mặc dù họ chỉ luôn là một nhóm nhỏ, nhưng không một quyền lực lớn hơn
nào có thể khuất phục được họ, vì ÐỨC CHÚA luôn ở cùng họ, kèm theo đó là sự
giàu có khôn tả .
Trái lại, khi Dân quay đầu trở mặt và quên lãng ÐỨC
CHÚA, chạy theo các thần ngoại bang thì các tai ương như chiến tranh loạn
lạc hoặc đất nước bị ngoại bang xâm chiếm sẽ lại bao trùm trên Dân, cùng với
bao nhiêu chuyện khác nữa sẽ xảy đến. Ðiều này đã chớm nở vào cuối đời
Sa-lô-môn, khi ông làm những điều nghịch lại lệnh truyền của Thiên Chúa. Ông đã
xây các nơi thờ tự cho các thần ngoại. Và Thiên Chúa đã tuyên án trên đất nước và
dòng dõi tiếp sau ông (xin xem 1V 11,9-13).Ta đã có dịp nghe những điều tương
tự khi các ngôn sứ lên án và chúc dữ trên Dân qua những nhà lãnh đạo bất
trung , trong bài 9 ( ngoài ra, ta còn có thể thấy điều này trong các
chuyện kể về các vị vua trong các sách Các Vua và các sách Sử biên niên. Ta sẽ
không đề cập đến chúng).
Qua
các điều nói trên, ta nhận rõ một chủ đề thần học quan trọng về chủ quyền và ân
sủng của Thiên Chúa trên Dân, một trong những chủ đề chính yếu của Thánh Kinh.
Ðồng thời, ta cũng thấy một đề tài khác có liên quan đến điều chúng ta muốn tìm
hiểu : sự giàu có vật chất luôn là kết quả của lòng tín trung tuân giữ
Lề Luật và, ngược lại, sự bất trung sẽ đưa đến suy tàn. Nơi các vị
vua, cụ thể là nơi vua Sa-lô-môn mà ta vừa nói trên, điều này thật rõ
ràng : một mặt, với sự khôn ngoan và giàu sang tột bực do ơn Chúa mà ông
đã lãnh nhận, ông đã biết cách làm cho toàn dân của ông được hưởng lây, cũng
như Danh Chúa được các lân bang biết đến. Mặt khác, vì bị siêu lòng trước các
bà vợ ngoại quốc, cũng với sự giàu có đó ông đã thực hiện chính điều Thiên Chúa
tuyệt đối cấm : xây tế đàn cho các thần ngoại. Ðó là một trọng tội chống
lại Ðức Chúa : đối xử bất công với Người . Và Thiên Chúa đã tuyên án trên
dòng dõi ông và trên đất nước.
Trở
ngược dòng xa hơn một chút nữa, ta có câu chuyện thú vị khác liên quan tới
Thánh Vương Ða-vít : chuyện ông bị ngôn sứ Na-than nhân danh Ðức Chúa
khiển trách sau khi ông đã phạm trọng tội giết người đoạt vợ . khi
ông giết vị tướng trung thành của ông là U-ri-gia, người gốc Khết. Ta đọc thấy
rằng : tình cờ nhìn thấy Bát Se-va, vợ của U-ri-gia, một phụ nữ nhan sắc
tuyệt vời, vì dục vọng Ða-vít đã cho đòi nàng đến và đã ăn nằm với nàng ;
nàng đã có thai với vua; sau đó, do đã không thể gạt được U-ri-gia lãnh trách
nhiệm về bào thai đó, vua đã mượn tay quân thành Ráp-ba, thuộc dân Am-mon, để
giết chết vị tướng trung thành này ; rồi ông đã lấy nàng làm vợ (xin xem 2
Sm 11).
Sau
khi nhận ra rằng ngôn sứ Na-than có ý quở trách mình, Ða-vít đã ăn năn hối lỗi
và Thiên Chúa đã tha tội cho ông. Luôn luôn, mỗi khi con người ăn năn hối lỗi
thì tội của họ sẽ được Thiên Chúa tha ngay ; hơn nữa, Người còn hứa tiếp
tục thực hiện nơi họ lời hứa với Áp-ra-ham, vị tổ phụ của mọi người về mặt đức
tin. Ðó là một trong những mặc khải quan trọng trong Thánh Kinh : Thiên
Chúa, Ðấng có lòng nhân từ và thương xót vô biên.
Một
điều đáng thắc mắc ở đây, vị ngôn sứ lại dùng một dụ ngôn kể về một người nhà
giàu và một anh nhà nghèo nhằm thức tĩnh nhà vua về tội này. Dụ ngôn như
sau : Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, một
người nghèo. Người giàu có chiên dê và bò, nhiều lắm. Còn người nghèo chẳng có
gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở
bên ông, cùng với con cái ông, nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với
ông, ngủ trong lòng ông : ông coi nó như một đứa con gái. Có khách đến
thăm người giàu, ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bó của mình mà làm
thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo mà
làm thịt đãi người đến thăm ông. (2Sm 12, 1-4).
Dụ
ngôn này được xây trên hai nhân vật tương phản nhau, một người giàu và một
người nghèo, sống trong cùng một thành : người giàu có rất nhiều gia súc,
còn người nghèo chỉ có độc nhất một con chiên cái đã mua được ; người giàu
có khách đến thăm, còn người nghèo thì không.
Con chiên của người nghèo nọ đã bị
ông nhà giàu bắt làm thịt đãi khách của mình chỉ vì ông này tiếc của không
muốn đụng đến số gia súc của mình. Ðiều này làm
ta nhớ lại điều đã nói trong bài trước : quả là không hiển nhiên, đối với
nhiều người, trong việc nhìn nhận là mình đã có đủ hoặc đã có dư thừa của cải
vật chất. Ỏ đây, mặc dù đã có nhiều lắm , ông nhà giàu này
vẫn chưa chịu nhìn nhận rằng ông đã có đủ tài sản theo lòng ông mong
muốn : có lẽ, ông vẫn luôn cảm thấy còn thiếu và, do đó, còn phải tìm cách
tích lũy thêm nữa mới thoả lòng.
Con
chiên duy nhất đó chính là tất cả gia tài của anh nghèo. Thật vậy, tuy chỉ có
mỗi con chiên nhỏ, nhưng anh nghèo kia dường như cũng không có đủ phương tiện
để chăm nuôi như người ta thường làm đối với gia súc của mình. Anh ta nuôi nó
bằng cách nhường bớt phần lương thực của mình cho nó. Anh ta không có chuồng
trại riêng cho nó, cho nên nó ngủ chung với con cái trong nhà, vì thế nó đã trở
thành thân quen với chúng. Hơn nữa, đó là một con chiên cái , có thể
ngầm hiểu là anh nghèo nuôi trong nó một hy vọng rằng nó sẽ có thể sinh sôi nảy
nở thêm cho anh. Ðó là một ước mơ chính đáng của con người, nói chung. Ta còn
đọc thấy rằng anh ta yêu quí nó như con gái anh ta.
Thế
mà, cuối cùng, vì một lý do hoàn toàn không chính đáng và không dính dáng gì
đến anh, vì lòng hiếu khách của ông nhà giàu nọ muốn tiếp người lữ
khách của ông, vì lòng tham lam và tiếc của của ông nhà giàu, mà bao nhiêu
công lao chắt chiu dành dụm và chờ đợi, bao nhiêu hy vọng chính đáng của anh
nghèo đã dồn vào con chiên cái bé bỏng kia, chúng đã bị cướp đi và biến mất một
cách tàn nhẫn. Sự việc này được vị ngôn sứ trình thuật theo một diễn tiến hoàn
toàn suông sẻ, không hề thấy có chút dấu hiệu trở ngại hoặc khó khăn nào. Quyền
lực của kẻ mạnh trên người cô thế được đặt thành vấn đề ở đây.
Trong dụ ngôn, quyền lực của ông nhà giàu được hiểu
là một thứ quyền lực kinh tế dựa trên sự giàu có. Thật vậy, sự kiện ông nhà
giàu bắt con chiên cái độc nhất của người nghèo nọ để đãi khách của mình được
dụ ngôn kể một cách tự nhiên và liên tục, nó khiến ta có cảm giác rằng người
giàu nọ có toàn quyền trên anh nghèo kia trong việc chiếm đoạt số tài sản vốn
đã ít ỏi của anh. Ta không nghe nói gì về việc người nghèo thấp cổ bé
miệng nọ tỏ thái độ hoặc lên tiếng phản kháng hay, đúng hơn phải nói cách
khác, anh nghèo không có , cho dù chỉ một điều kiện đủ, một cơ hội hay một khả
năng cần thiết để phản kháng. Ðiều này, dường như, muốn chỉ ra cái quyền lực
đáng sợ của người giàu trên người nghèo. Ðấy mới là vấn đề xã hội
đáng kể. Ðiều này có thể được so sánh với sự cô thế của vị tướng U-ri-gia trước
quyền lực lấn át của vua Ða-vít.
Như
vừa nói trên, điểm chung giữa dụ ngôn và tội phạm của Ða-vít là vấn đề
quyền lực : quyền lực của vua trên thuộc hạ của mình. Tuy nhiên, sự khác
biệt về lĩnh vực áp dụng giữa hai tình huống, một bên là quyền lực chính trị
còn một bên là quyền lực kinh tế, đã khiến cho Ða-vít không thể nhận ra rằng
ngôn sứ Na-than muốn ám chỉ đến tội phạm của vua khi ông sử dụng dụ ngôn này.
Vì thế, vua Ða-vít đã nỗi cơn phẫn nộ và buông lời phán quyết : Có
ÐỨC CHÚA hằng sống ! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết ! Nó phải đền
gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương
xót (2Sm 5b-6). Nhưng chính sự phẫn nộ đó đã trở lại thành lời kết án
trên chính hành vi của vua : tội lạm dụng quyền lực vốn được ủy thác và ban cho
bởi Trên, chứ không phải tự thân mà có được, để cướp đoạt vợ người khác và còn
giết chết người ấy bởi tay ngoại bang.
Không
phải chỉ có tội ngoại tình và tội giết người, nhưng theo tinh thần của Mười
Ðiều Răn, cũng là tinh thần của văn hóa Ít-ra-en từ xưa, vợ cũng được xem là
tài sản của một người mà người khác không được phép xâm phạm (xin xem Xh
20,17 ; Ðnl 5,21). Hơn thế nữa, việc giết vị tướng trung thành này
lại được thực hiện bằng cách mượn tay của kẻ thù qua một trận đánh không cân
sức (xin xem 2Sm 11,14-17). Tội của vua này quả là đa dạng và đáng kể.
Thật
vậy, tội lỗi thường và luôn mang bộ mặt đa dạng với những vi phạm đồng thời
của nhiều tội khác nhau. Các tội thường có dây mơ rễ má với nhau.
Do đó, dù chỉ phạm một tội nào đó, thường thì ta sẽ bị sa vào cả một mạng lưới
chằng chịt của nhiều tội liên quan. Ðó là một trong những điều quan
trọng cần lưu ý mỗi khi ta ngồi nhìn lại vào tận sâu thẳm tâm can mình, khi có
điều kiện và khi thực sự muốn làm điều này.
III. VẪN CHUYỆN BẤT CÔNG XÃ HỘI
Các câu chuyện trên, một lần nữa cho ta một phản
ánh về tình trạng xã hội nhiễu nhương trong xã hội Dân Chúa. Nó không hề vắng
bóng cho dù là dưới các vương triều có tiếng là mẫu mực và thịnh
vượng. Nguyên nhân của nó chính là do sự lạm dụng quyền lực và dùng
sai mục đích của cải vật chất. Chúng mang lại những bất công và bất
chính dưới nhiều hình thức khác nhau trong xã hội. Hậu quả là những
người nghèo cô thế bị áp bức bất công dưới quyền lực lấn át của những kẻ bất
nhân mạnh thế. Ðiều này không chỉ được thực hành bởi các vị vua bất trung
với Thiên Chúa mà còn bởi chính các vị vua nỗi tiếng là đạo đức và thánh
thiện như Ða-vít, khôn ngoan và giàu sang như Sa-lô-môn. Với Ða-vít và
Sa-lô-môn mà hiện tình đã thế, thì sẽ còn tồi tệ hơn nhiều dưới sự cai trị của
các triều vua khác vốn được đánh giá là những kẻ chỉ vì tư lợi mà không khước
từ các thực hành bất công và tội lỗi. Ðiều này giúp hiểu rõ hơn những gì đã
được nói về việc các ngôn sứ lên tiếng phản kháng các bất công xã hội trong bài
9.
Trên
đây, ta đã gặp lần lượt trở lại tất cả những chủ đề đã được bàn đến trong các
bài trước : chúc lành của Thiên Chúa luôn kèm theo sự giàu có, những
người trung tín sẽ được chúc lành, lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa lớn
hơn lỗi phạm của con người, sự bất tín đối với Thiên Chúa (nghĩa là đối xử bất
công với Người) sẽ đưa đến những vi phạm về công bình xã hội. Chính vì
vậy, cần phải rất thận trọng trong việc sử dụng tiền của. Của cải vật chất có
giá trị của nó, nhưng bên trên nó còn có nhiều điều khác mang giá trị cao hơn
như lòng trung tín, đức thương người, sự khôn ngoan, v.v. Các nhà Khôn
ngoan, thuộc nền văn chương khôn ngoan Lưỡng Hà Ðịa, sẽ không quên nhắc nhở Dân
về điểm này.
10/05/2002