Ý
Nghĩa Từ Ha-lê-lui-a
Tác giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.
Email: josleminhthong@gmail.com
Thứ hai tuần bát nhật Phục Sinh, ngày
22/04/2019.
“Ha-lê-lui-a”
gốc tiếng Híp-ri: הַ֥לְלוּ
יָ֙הּ (viết và đọc từ
phải qua trái), chuyển tự: “halǝlû yāh”. Tiếng Hy Lạp
trong bản LXX và Tân Ước giữ nguyên ngữ: ἁλληλουϊά (hallêlu-ia). Chuyển âm tiếng
Việt: “Ha-lê-lui-a”.
Từ Híp-ri “halǝlû yāh” gồm hai yếu
tố: (a) “halǝlû” là động
từ ở dạng Piel, lối mệnh lệnh, giống đực, ngôi thứ hai, số nhiều, nghĩa: “Hãy
ngợi khen”; (b) “yāh” là danh xưng
Đức Chúa của Ít-ra-en. Đây là cách viết khác của thánh danh Đức Chúa: YHWH.
Người Do Thái chỉ viết chứ không đọc bốn phụ âm này. Khi gặp từ YHWH người Do
Thái đọc là “aʾdōnāy” (A-đô-nai). Vậy nghĩa từ “Ha-lê-lui-a”
là “hãy ngợi khen Thiên Chúa”.
Trong Cựu Ước,
một số thánh Vịnh bắt đầu bằng từ “Ha-lê-lui-a”, chẳng hạn Tv 111 (110) – 114
(113a); 146 (145) – 150. Trong Tân Ước, từ “Ha-lê-lui-a” chỉ xuất hiện 4 lần
trong sách Khải Huyền (Kh 19,1.3.4.6) và đặt trong bối cảnh phụng vụ. Dưới đây là
bản văn Kh 19,1-7, lấy trong Sách Khải Huyền, Hy Lạp – Việt, 2011:
« 19,1 Sau
những điều đó, tôi nghe như một tiếng lớn của đoàn người đông đảo trên trời
rằng: “Ha-lê-lui-a, ơn cứu độ, vinh quang và quyền năng thuộc về Thiên Chúa của
chúng ta, 2 vì những phán quyết của Người thì chân thật và
công minh vì Người đã kết án Con Điếm khét tiếng, từng phá huỷ mặt đất bằng sự
gian dâm của nó, và Người bắt nó đền nợ máu của các tôi tớ của
Người đã bị giết bởi tay nó.” 3 Lần thứ hai họ nói:
“Ha-lê-lui-a, và khói của nó bốc lên đời đời kiếp kiếp.” 4 Và hai mươi bốn vị
Kỳ Mục và bốn sinh vật phủ phục thờ lạy Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai rằng:
“A-men, ha-lê-lui-a.” 5 Rồi một tiếng từ ngai phát ra nói rằng: “Hãy ca ngợi
Thiên Chúa chúng ta, hỡi tất cả các tôi tớ của Người, [và]
những kẻ kính sợ Người, những kẻ bé và những người lớn.” 6 Và tôi nghe như
tiếng của đoàn người đông đảo, như tiếng nước lũ và như tiếng sấm dữ dội nói
rằng: “Ha-lê-lui-a, vì Đức Chúa, Thiên Chúa [của chúng ta], Đấng Toàn Năng, đã
hiển trị. 7 Chúng ta hãy vui mừng, hãy hoan hỷ và hãy dâng lên Người sự tôn
vinh, vì hôn lễ của Con Chiên đã tới và Hôn Thê của Người đã tự chuẩn bị, 8 và
đã ban cho nàng được mặc áo vải gai mịn, sáng chói và tinh
tuyền.” – Vải gai mịn là những việc công chính của các thánh –. »
Ở Kh 19,1, từ
“Ha-lê-lui-a” đứng trước lời tung hô của đoàn người đông đảo trên trời. Từ
“Ha-lê-lui-a” ở 19,3 đứng trước lời xét xử thành Rô Ma. Lời này có ý ngợi khen
Thiên Chúa, vì Người đã xét xử công minh cho những người bị Rô Ma bách hại và
giết chết. Lần cuối cùng từ “Ha-lê-lui-a” đặt trước lời ca tụng: “Ha-lê-lui-a,
vì Đức Chúa, Thiên Chúa [của chúng ta], Đấng Toàn Năng, đã hiển trị”
(19,6). Các câu
Kh 19,1-2 và 5-7 dùng làm thánh ca trong Phụng vụ Các Giờ Kinh:
1 Ha-lê-lui-a. Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu Độ,
Đấng vinh hiển uy quyền. *
2 Những lời Người phán quyết
đều chân thật công minh. Ha-lê-lui-a.
5 Ha-lê-lui-a. Nào ca ngợi Chúa đi,
hỡi tất cả tôi trung của Chúa, *
hỡi những ai lớn nhỏ
hằng kính sợ Người. Ha-lê-lui-a.
6 Ha-lê-lui-a. Đức Chúa là Thiên Chúa toàn năng
đã lên ngôi hiển trị : *
Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ
dâng Chúa lời tôn vinh. Ha-lê-lui-a.
7 Ha-lê-lui-a. Vì nay đã tới ngày
cử hành hôn lễ Chiên Thiên Chúa, *
và Hiền Thê của Người
đã điểm trang lộng lẫy. Ha-lê-lui-a.
(bản dịch Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ).
“Ha-lê-lui-a” đã
quen dùng trong phụng vụ Ki-tô Giáo, đặc biệt trong mùa Phục Sinh. Phụng vụ mời
gọi cộng đoàn tung hô “Ha-lê-lui-a” (hãy ngợi khen Thiên Chúa) vì Người đã bày
tỏ quyền năng cứu độ nhân loại qua biến cố Đức Giê-su Phục Sinh.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2019/04/y-nghia-tu-ha-le-lui-a.html