Tìm hiểu TM Mc: “Anh em ngu muội như thế sao?” (7,18)

 “Hành trình của các môn đệ” nói gì với độc giả?

 

 

 

Nội dung

 

Dẫn nhập

1. “Người ở trong” và “kẻ ở ngoài” (4,11) là ai? 

2. Đức Giê-su trách các môn đệ điều gì?

3. Hành trình “đi xuống” của Phê-rô, Tông Đồ trưởng.

4. Các môn đệ “đi xuống” để độc giả có cơ may “đi lên”.

Kết luận

 

 

Dẫn nhập

 

Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su kêu gọi các môn đệ từ những chương đầu tiên (ch. 1–2): Si-môn và An-rê (1,16-18); Gia-cô-bê và Gio-an (1,19-20); Lê-vi (2,14). Sau đó Người thiết lập Nhóm Mười Hai (3,13-19) “để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (3,14). Theo mạch văn, Mc 4,11 đánh dấu một bước tiến triển mới. Sau khi Đức Giê-su giảng dạy đám đông bằng dụ ngôn “gieo giống”, Người nói với các môn đệ: “Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được ban cho anh em; nhưng những người kia là những kẻ ở ngoài, thì mọi sự xảy đến trong dụ ngôn” (4,11). Như thế, các môn đệ được Đức Giê-su đưa “vào trong”, các ông được Đức Giê-su tuyển chọn và huấn luyện để sai đi rao giảng (3,14). 

 

Nhưng khi đọc Tin Mừng, độc giả ngạc nhiên vì nhận thấy càng về cuối Tin Mừng các môn đệ càng không hiểu Đức Giê-su. Đức Giê-su đã trách các môn đệ “nặng lời” bằng những từ: “ngu muội”, “không hiểu”, “không biết” nhất là các môn đệ là những người “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (8,18). Tại sao các môn đệ lại được trình bày theo chiều hướng “thụt lùi” như vậy? Tại sao Đức Giê-su lại trách các môn đệ nặng lời đến thế?

 

Khi bản văn Tin Mừng Mác-cô được viết ra cuối thập niên 60 (khoảng năm 67–69), Nhóm Mười Hai đã là những cột trụ trong Hội Thánh. Cùng với Phê-rô và Phao-lô, tất cả các Tông Đồ đã xác tín niềm tin vào Đức Giê-su, các ngài ra đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi và can đảm làm chứng cho Tin Mừng và các ngài đã trung tín với Đức Giê-su cho đến chết. Vậy câu chuyện về các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô có ý nghĩa gì?

 

Trình thuật Tin Mừng được viết ra cho cộng đoàn vào cuối thế kỷ I, những gì xảy ra cho các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô là nhằm gửi đến độc giả một sứ điệp. Vậy, sự “ngu muội” của các môn đệ nói gì với độc giả? “Sự cứng lòng tin của các môn đệ” có thể ám chỉ đến “sự cứng lòng tin của của độc giả” hay không? Có thể bản văn muốn nói nhiều điều quan trọng với độc giả qua nhóm nhân vật “các môn đệ” trong Tin Mừng Mác-cô.

 

Chúng ta cùng tìm hiểu “mặt tối” của nhóm các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô (cứng lòng, không biết, không hiểu) để may ra độc giả được “sáng lên” đôi điều chăng? (tin, biết, hiểu…). Để tìm hiểu hành trình “tụt dốc” của các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô, phần sau sẽ phân tích các mục:

1. “Người ở trong” và “kẻ ở ngoài” (4,11) là ai? 

2. Đức Giê-su trách các môn đệ điều gì?

3. Hành trình “đi xuống” của Phê-rô, Tông Đồ trưởng.

4. Các môn đệ “đi xuống” để độc giả có mơ may “đi lên”.

 

1. “Người ở trong” và “kẻ ở ngoài” (4,11) là ai? 

 

Theo trình thuật Tin Mừng Mác-cô, kể từ Mc 4,11-12, các môn đệ trở thành “những người ở trong”. Thực vậy, sau khi thuật lại việc Đức Giê-su nói với đám đông (có các môn đệ hiện diện) dụ ngôn gieo giống (Mc 4,1-9), người thuật chuyện tạm ngưng việc Đức Giê-su giảng dạy đám đông để thuật lại một câu chuyện khác, liên quan đến một nhóm nhỏ hơn: Các môn đệ và những kẻ ở chung quanh Đức Giê-su (không có đám đông dân chúng).

 

Người thuật chuyện kể ở Mc 4,10-12:

(Bản văn Tin Mừng Mác-cô trong bài viết này lấy trong: Giu-se Lê Minh Thông, Tin Mừng Mác-cô, Hy Lạp – Việt, 2011, sắp xuất bản).

4,10 Khi Người ở một mình, những kẻ ở chung quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai, hỏi Người về các dụ ngôn.

11 Người nói với họ: “Mầu nhiệm Vương Quốc Thiên Chúa được ban cho anh em; nhưng những người kia là những kẻ ở ngoài thì mọi sự xảy đến trong các dụ ngôn,

12 để họ nhìn đi nhìn lại mà không thấy, nghe đi nghe lại mà không hiểu, kẻo họ trở lại và được tha thứ.”

 

Đoạn văn Mc 4,10-12 là phần chuyển tiếp giữa dụ ngôn gieo giống (4,1-9) và áp dụng dụ ngôn gieo giống (4,10-20). Đoạn văn 4,10-12 được đặt trong một khung cảnh khác: “Khi Người ở một mình, những kẻ ở chung quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai, hỏi Người về các dụ ngôn” (4,10). Như thế, 4,10-12 là đoạn văn ở ngoài khung cảnh và thời gian của câu chuyện, vì việc Đức Giê-su giảng dạy dụ ngôn đặt trong bối cảnh Đức Giê-su ở trên thuyền và Người nói với đám đông ở trên bờ Biển Hồ (4,1). Đoạn văn chèn vào từ 4,10 sẽ kéo dài cho đến 4,25, trong phần này không có sự hiện diện của dân chúng. Sau đó, tiếp nối việc Đức Giê-su lại giảng dạy đám đông bằng dụ ngôn ở 4,26-32.

 

Theo mạch văn, phần nói với đám đông gồm ba dụ ngôn: Dụ ngôn gieo giống (4,1-9), dụ ngôn về đất tự sinh hoa trái (4,26-29) và dụ ngôn hạt cải (4,30-32). Phần nói riêng được chèn vào (4,10-25) nói với Nhóm Mười Hai và những kẻ ở chung quanh Người gồm có các phần: Áp dụng dụ ngôn gieo giống (4,10-20), hình ảnh cái đèn (4,21-23) và hình ảnh đấu đong (4,24-25).

 

Kiểu “hành văn chèn vào” này nhằm mục đích minh hoạ cho hoạt động của Đức Giê-su gồm hai giai đoạn được nói đến trong phần kết chương 4 ở Mc 4,33-34: “33 Với nhiều dụ ngôn tương tự, Người nói Lời cho họ theo như họ có thể nghe. 34 Người không nói với họ nếu không dùng dụ ngôn. Nhưng khi ở riêng, Người giải thích mọi điều cho các môn đệ của Người.” Như thế, hoạt động giảng dạy của Đức Giê-su gồm hai bước: (1) “Giảng dạy dân chúng bằng dụ ngôn” và (2) “Giải thích cho các môn đệ các dụ ngôn đó khi các môn đệ ở riêng với Người”. 

 

Câu hỏi đặt ra: Đại từ “anh em” (ngôi thứ hai số nhiều) tạm gọi là “những người ở trong” (4,11a) và những kẻ bản văn gọi là “những người kia là những kẻ ở ngoài” (4,11b) là ai? Ai là “những người ở trong”? Ai là “những kẻ ở ngoài”?

 

Có sự phân biệt giữa hai nhóm ở 4,11: (1) “Những kẻ ở chung quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai” thì được ban cho “mầu nhiệm của Vương Quốc Thiên Chúa”. (2) “Những kẻ ở ngoài” thì mọi sự xảy đến trong dụ ngôn. Những kẻ ở ngoài có phải là đám đông hay không? Các nhà phê bình lịch sử cho rằng “những kẻ ở ngoài” ám chỉ những kẻ chống đối Đức Giê-su (phân biệt với đám đông). J. Lagrange cho rằng phân biệt “bên trong”, “bên ngoài” ở đây có tính nguyên tắc, đó là phân biệt giữa những kẻ thuộc về Đức Giê-su và tất cả những người không thuộc về Đức Giê-su.

 

Theo Tin Mừng Mác-cô, có thể hiểu “những kẻ ở ngoài” vào thời Đức Giê-su là các kinh sư, những người Pha-ri-sêu, gia đình Đức Giê-su đã chống lại và  không đón nhận Người. Vào thời cộng đoàn Mác-cô, “những kẻ ở ngoài” là tất cả những người ngoài cộng đoàn Ki-tô hữu (chống đối hay dửng dưng).

 

Điều lạ trong Tin Mừng Mác-cô là “các môn đệ” là “những người ở trong”, những người được chọn, được Đức Giê-su huấn luyện cách đặc biệt: Người giảng dạy đám đông bằng dụ ngôn “nhưng khi ở riêng, Người giải thích mọi điều cho các môn đệ của Người” (4,34). Được ở với Đức Giê-su, được huấn luyện riêng, nhưng càng về cuối Tin Mừng, các môn đệ càng “không hiểu”. Càng ngày Đức Giê-su càng trách các môn đệ nặng lời hơn. Những điều Đức Giê-su trách các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô theo dòng trình thuật là gì?

 

2. “Điểm yếu” của các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô.

 

a) Không hiểu (4,13)

 

Ngay trong chương 4 của Tin Mừng Mác-cô, vừa sau khi Đức Giê-su đã “ban cho các môn đệ mầu nhiệm của Vương Quốc Thiên Chúa” (4,11), Người lại nói về sự “thiếu hiểu biết” của các môn đệ. Đức Giê-su nói với họ: “Anh em không hiểu biết (ouk oidate) dụ ngôn này (dụ ngôn người gieo giống), thì làm sao hiểu được tất cả các dụ ngôn?” (4,13)

 

b) Nhát đảm, chưa có lòng tin (4,40)

 

Đến cuối chương 4, sự không hiểu biết của các môn đệ đã trở nên trầm trọng hơn. Câu chuyện xảy ra khi Đức Giê-su và các môn đệ đi thuyền ngang qua Biển Hồ.

Người thuật chuyện kể ở Mc 4,37-40:

37 Và xảy đến một trận cuồng phong lớn, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đã bị đầy ngập. 38 Còn Người, Người đang ở đàng lái, dựa vào chiếc gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói với Người: “Thưa Thầy, Thầy không lo là chúng ta chết sao?” 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và Người nói với biển: “Im đi. Câm đi.” Gió liền ngưng và biển hoàn toàn yên lặng. 40 Và Người bảo các ông: “Tại sao anh em nhát đảm (deiloi)? Anh em chưa có lòng tin sao (oupô ekhete pistin)?”

 

c) Ngu muội, không hiểu (7,18)

 

Đến chương 7, Đức Giê-su dạy đám đông và các môn đệ dụ ngôn liên quan đến điều làm cho con người ra ô uế, Người nói: “Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm ô uế người ấy, nhưng những gì từ trong con người ra mới làm cho người ta ô uế” (7,15). Người thuật chuyện kể tiếp: “Khi Người rời khỏi đám đông về nhà, các môn đệ của Người hỏi Người về dụ ngôn ấy” (7,17). Đức Giê-su trả lời họ: “18 Cả anh em nữa, anh em cũng ngu muội (asunetoi) như thế sao? Anh em không hiểu (ou noeite) rằng: Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm ô uế người ấy, 19 bởi vì nó không đi vào trong lòng người ấy, nhưng vào bụng và được thải ra ngoài?” (7,18).

 

d) Chưa hiểu, chưa nhận ra, lòng chai đá

 

Sang chương 8, trong câu chuyện liên quan đến “bánh” và “men Hê-rô-đê”, Đức Giê-su đã trách các môn đệ nặng lời. Trong đoạn văn đã có bảy câu hỏi (8,17.18.19.20.21) dành cho các môn đệ. Đọc đoạn văn 8,14-21 sẽ thấy “khả năng tri thức” của các môn đệ ở mức nào. Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ đến bảy câu hỏi trong đó chỉ có hai câu được các môn đệ trả lời ngắn ngủi bằng những con số: 12 (8,19) và 7 (8,20). Đây là lối hành văn rất ngắn gọn và sinh động của Tin Mừng Mác-cô.

 

Mc 8,14-21

14 Và các ông quên đem bánh theo; chỉ có một cái bánh với các ông trên thuyền. 15 Người căn dặn các ông rằng: “Anh em hãy chú ý, hãy coi chừng men của những người Pha-ri-sêu và men của Hê-rô-đê.” 16 Các ông bàn tán với nhau là các ông không có bánh. 17 Biết thế, Người nói với họ: “Sao anh em lại bàn tán là anh em không có bánh? Anh em chưa nhận biết cũng chẳng hiểu ư? Sao lòng anh em vẫn còn chai đá thế? 18 Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không nhớ sao, 19 khi Thầy bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mảnh vụn?” Các ông nói với Người: “Mười hai.” 20 “Và với bảy cái bánh cho bốn ngàn người, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mảnh vụn?” Các ông nói [với Người]: “Bảy.” 21 Người nói với các ông: “Anh em chưa hiểu ư?”

 

Đức Giê-su trách các môn đệ bằng bốn câu hỏi:

Anh em chưa nhận biết cũng chẳng hiểu ư? (8,17b)

Sao lòng anh em vẫn còn chai đá thế? (8,17c)

Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? (8,18)

Anh em chưa hiểu ư? (8,21)

 

Điều lạ trong bản văn là người thuật chuyện “không cho các môn đệ trả lời” hay “thanh minh” về sự không hiểu biết của họ. Có lẽ bản văn muốn người khác trả lời chứ không phải các môn đệ. Vậy ai có thể sẽ trả lời những câu hỏi này? Chúng ta sẽ bàn tới trong phần sau.

     

Đặc biệt, câu trách nặng lời: “Có mắt không thấy, có tai mà không nghe” (8,18) làm cho các môn đệ trở thành “những người ở ngoài” như Đức Giê-su đã nói với các môn đệ ở 4,11-12: “11 Mầu nhiệm Vương Quốc Thiên Chúa được ban cho anh em; nhưng những người kia là những kẻ ở ngoài thì mọi sự xảy đến trong các dụ ngôn, 12 để họ nhìn đi nhìn lại mà không thấy, nghe đi nghe lại mà không hiểu, kẻo họ trở lại và được tha thứ.”

 

Điều châm biếm và hài hước là sự đảo lộn từ “bên trong” ra “bên ngoài” nơi nhóm nhân vật “các môn đệ”. Thực vậy, các môn đệ được Đức Giê-su lựa chọn, được đưa “vào trong”, “để các ông ở với Đức Giê-su và để Người sai các ông đi rao giảng” (3,14). Điều phân biệt “người ở trong” với “những kẻ ở ngoài là vì “Họ nhìn đi nhìn lại mà không thấy, nghe đi nghe lại mà không hiểu” (4,12). Nhưng đến chương 8, thì các môn đệ lại bị trách giống như “những kẻ ở ngoài”: “Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư?” (8,18). Điều trớ trêu là sau một hành trình dài 4 chương (Mc 4–8), các môn đệ là “người ở trong” đã trở thành “người ở ngoài” vì “không nghe”, “không thấy”, “không hiểu”, “ngu muội”, “nhát đảm” và “cứng lòng”.

 

Tin Mừng Mác-cô đã vẽ nên một bức tranh tương phản mạnh mẽ và độc đáo về nhóm nhân vật “các môn đệ”. Trước khi bước qua phần tìm hiểu ý nghĩa của bức tranh này, chúng ta cùng quan sát khuôn mẫu của sự đảo ngược từ “biết” thành “không biết” nơi môn đệ Phê-rô, người đứng đầu Nhóm Mười Hai.

 

3. Hành trình “đi xuống” của Phê-rô, Tông Đồ trưởng.

 

Nếu nhìn từ góc độ “điểm yếu” của Phê-rô, thì có thể nói hành trình của nhân vật Phê-rô trong Tin Mừng Mác-cô là hành trình đi xuống, đi từ “trong” ra “ngoài”, đi từ “biết” đến “không biết”, với những nét tương phản mạnh mẽ.

 

a) “Hãy đi sau Thầy, Xa-tan” (8,33).

 

Nhân vật Phê-rô được Đức Giê-su kêu gọi từ chương 1 và được Người giáo huấn đến chương 8. Ở 8,29, khi Phê-rô vừa tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô” (8,29) thì lại bị Đức Giê-su quở trách: “Hãy đi sau Thầy, Xa-tan, vì anh không suy nghĩ  theo suy nghĩ của Thiên Chúa, nhưng theo suy nghĩ của loài người” (8,33). Phản ứng của Phê-rô sau lời Đức Giê-su báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh (8,31) là “kéo Người ra và bắt đầu trách Người” (8,32). Hành động này cho thấy Phê-rô không hiểu đúng về tư cách Mê-si-a (Ki-tô) của Đức Giê-su. Lời mắng của Đức Giê-su rất nặng vì Phê-rô Tông Đồ trưởng đang làm việc của Xa-tan và được đồng hoá với Xa-tan, vì Đức Giê-su gọi Phê-rô là Xa-tan.

 

b) Quả quyết không chối nhưng lại chối Thầy.

 

Điểm yếu thứ hai của Phê-rô là ông quả quyết không bỏ Thầy, nhưng lại chối Thầy. Phê-rô quả quyết mạnh mẽ với Đức Giê-su trước các môn đệ khác: “Dù tất cả sẽ vấp ngã, nhưng con thì không” (14,29). Nhưng Đức Giê-su báo cho ông biết trước: “A-men, Thầy nói cho anh: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, chính anh, anh đã chối Thầy ba lần” (14,30). Cứ sự thường, khi đã được báo trước thì sẽ không chối, nhưng Phê-rô lại chối Thầy ba lần đúng như Đức Giê-su đã báo trước (14,66-72). Người đọc có cảm giác là lời cảnh báo của Đức Giê-su không có tác dụng.

 

Nếu liệt kê hết các điểm yếu của các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô thì vẫn còn nhiều chi tiết cho thấy các môn đệ “chưa biết”, “chưa hiểu” Đức Giê-su là ai. Điều quan trọng hơn cần tìm hiểu là tất cả những phân tích trên liên quan đến những điểm yếu của các môn đệ có ý nghĩa gì cho độc giả. Tình trạng các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô nói gì với độc giả vào cuối thế kỷ I, và nói gì với độc giả qua mọi thời đại, là tất cả chúng ta?

 

4. Các môn đệ “đi xuống” để độc giả có cơ may “đi lên”.

 

Qua những “điểm yếu” của nhóm nhân vật “các môn đệ”  trong Tin Mừng Mác-cô như trên, độc giả đừng vội chê các môn đệ và tự hỏi: Tại sao các môn đệ lại chậm hiểu và cứng lòng tin như thế? Thực ra, việc người thuật chuyện trình bày các môn đệ từ “ở trong” thành “ở ngoài”, từ “biết Đức Giê-su” trở thành “không biết”, “không hiểu”, cũng như việc Phê-rô chối Thầy, là muốn nhắn gửi đến độc giả một điều gì đó. Có thể rút ra những ý nghĩa quan trọng qua cách trình bày độc đáo và tương phản của Tin Mừng Mác-cô về các môn đệ qua hai ý như sau:

 

1) Qua hành trình “đi xuống” của các môn đệ, độc giả nhận ra rằng: Không phải trở thành môn đệ Đức Giê-su là đương nhiên hiểu được Người. Qua đó, độc giả đừng tưởng rằng mình đã hiểu được Đức Giê-su rồi, không cần phải tìm hiểu hay học hỏi gì thêm nữa. Các môn đệ sống với Đức Giê-su, được Người dạy dỗ, mà chưa hiểu đúng về Người, thì độc giả cần cố gắng suốt cả đời để hiểu Đức Giê-su, để hiểu giáo huấn của Người. Đừng bao giờ nghĩ là mình đã biết, đã hiểu Đức Giê-su. Như thế, sự không biết, không hiểu của các môn đệ vừa là lời cảnh báo độc giả: Không dễ dàng để biết Đức Giê-su; vừa là lời mời gọi độc giả không ngừng học hỏi và suy gẫm để thấm nhuần giáo huấn của Người.

 

2) Con người và căn tính của Đức Giê-su là một huyền nhiệm. Những gì các môn đệ đã hiểu lầm, hiểu sai, đã bị Đức Giê-su trách, là để độc giả tránh và không hiểu như thế, không suy nghĩ như thế. Như vậy, hành trình “đi xuống” của các môn đệ là để độc giả có cơ may “đi lên”, nghĩa là biết đúng và hiểu đúng về Đức Giê-su.

 

Sự không hiểu của các môn đệ mời gọi độc giả đọc kỹ bản văn, tránh những cách hiểu sai đã bị Đức Giê-su quở trách.

Nhờ các môn đệ không hiểu, nên độc giả có những lời giải thích của Đức Giê-su. Những gì Đức Giê-su soi sáng cho các môn đệ cũng là điều Người soi sáng cho độc giả. Nhờ đó, độc giả có thể hiểu đúng về Đức Giê-su và hiểu đúng giáo huấn của Người.

 

Cách trình bày độc đáo của Tin Mừng Mác-cô về các môn đệ là các môn đệ từ chỗ “người ở trong” (insider) bị thành “người ở ngoài (outsider)”. Như vậy, độc giả có cơ may trở thành “người ở trong”, nghĩa là độc giả có thể hiểu đúng về Đức Giê-su. Nói cách khác, “những điểm yếu” của các môn đệ trở thành “những điểm mạnh” cho độc giả, vì nhờ đó độc giả có thể hiểu được Đức Giê-su, đón nhận Người và trở thành môn đệ của Người, nghĩa là thực sự trở thành “người ở trong”, được “ở với Đức Giê-su” và được “Người sai đi rao giảng” (3,14). Có thể minh hoạ tiến trình “ở trong” và “ở ngoài” theo sơ đồ sau:

 

 

Các môn đệ được Đức Giê-su chọn, trở thành môn đệ của Người, các ông được đưa vào trong từ 4,11, nhưng càng đọc Tin Mừng độc giả nhận ra các môn đệ càng ngày càng không hiểu Đức Giê-su. Đến chương 8, độc giả nhận thấy các môn đệ hoàn toàn bị đưa ra ngoài vì các môn đệ “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (8,18). Điều này cũng là định nghĩa về “những kẻ ở ngoài” mà Đức Giê-su đã nói ở 4,12: “Họ nhìn đi nhìn lại mà không thấy, nghe đi nghe lại mà không hiểu”. 

 

Kiểu hành văn độc đáo này trong Tin Mừng Mác-cô là dành cho độc giả. Khi bắt đầu học Tin Mừng độc giả là “người ở ngoài”, vì chưa biết Đức Giê-su, những nhờ sự không biết, không hiểu của các môn đệ, độc giả có cơ may biết đúng và hiểu đúng về Đức Giê-su để từ đó trở thành môn đệ của Người, nghĩa là trở thành “người ở trong”.

 

Kết luận

 

Khi nói về “điểm yếu” của các môn đệ trong trong Tin Mừng Mác-cô chúng ta không đánh giá thấp sự hiểu biết của các môn đệ. Chúng ta biết các môn đệ, nhất là Nhóm Mười Hai, đã sống trọn vẹn niềm tin vào Đức Giê-su, đã can đảm làm chứng đến hy sinh mạng sống mình, kể từ ngày Lễ Ngũ Tuần (Cv 2). Chúng ta không quên chính các Tông Đồ đã đặt nền tảng cho Hội Thánh tiên khởi và niềm tin của chúng ta dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Tuy nhiên, cách trình bày nhân vật các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô rất độc đáo, vì qua sự không hiểu của các môn đệ, bản văn nói với độc giả hai điều:

 

1) Đừng bao giờ nghĩ mình đã biết hết về Đức Giê-su, cần không ngừng tìm hiểu và học hỏi để hiểu đúng về Đức Giê-su và hiểu đúng về giáo huấn của Người, nghĩa là cần học hỏi suốt cả đời để làm môn đệ và để được ở với Người.

 

2) Tin Mừng Mác-cô không cho biết sau khi Đức Giê-su khiển trách, các môn đệ có hiểu hơn hay không. Chắc chắn là có hiểu hơn, nhưng bản văn không nói ra điều đó để độc giả tự trả lời. Vì trình thuật được viết ra cho độc giả, nên câu hỏi đặt ra cho độc giả: Qua sự không hiểu của các môn đệ, liệu độc giả có hiểu được Đức Giê-su hơn hay không? Liệu qua đó độc giả có hiểu đúng giáo huấn của Người hay không? Trong viễn cảnh này, có thể tóm kết “sự không hiểu của các môn đệ trong Tin Mừng Mác-cô” muốn nói với độc giả rằng:

 

Các môn đệ “không hiểu” dụ ngôn (4,13), để độc giả có thể “hiểu dụ ngôn”.

Các môn đệ “nhát đảm, chưa có lòng tin” (4,40), để độc giả đừng sợ hãi và hãy tin.

Các môn đệ “ngu muội” và “chưa thấu hiểu” (7,18), để độc giả có thể bớt ngu muội và thấu hiểu giáo huấn của Đức Giê-su (7,18).

Lòng các môn đệ còn “chai đá” (7,17), để lòng độc giả đừng chai đá.

-   Các môn đệ “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (8,18), để độc giả có thể thực sự thấy Đức Giê-su và có thể nghe giáo huấn của Người.

-   Phê-rô trở thành Xa-tan (8,33), để độc giả đừng là Xa-tan, nhưng hãy là môn đệ thực sự của Đức Giê-su.    

-   Phê-rô chối Thầy (14,68), để độc giả đừng chối Đức Giê-su dù phải chịu bắt bớ vì Người.

 

Với những gợi ý trên đây, sự kiện các môn đệ “đi xuống”, “đi ra ngoài” trong Tin Mừng Mác-cô thật sự đáng để độc giả suy gẫm để có thể “đi lên” và “đi vào trong”, nghĩa là để sống với Đức Giê-su và đón nhận giáo huấn của Người. Cách Tin Mừng Mác-cô trình bày nhóm nhân vật “các môn đệ” thực sự độc đáo và thú vị cho độc giả, nhưng chưa hết, hãy còn nhiều điểm độc đáo và thú vị khác nữa trong Tin Mừng Mác-cô đang chờ được khám phá và thưởng thức..../.      

 

 

Ngày 06 tháng 05 năm 2011

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ - email: josleminhthong@gmail.com