“TÔNG ĐỒ GIO-AN” trong Tin Mừng Nhất Lãm và “NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU YÊU MẾN” trong Tin Mừng thứ tư

 

Dẫn nhập

 

Nhằm làm nổi bật vai trò đặc biệt quan trọng của “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến” trong Tin Mừng thứ tư (Tin Mừng Gio-an), bài viết này sẽ so sánh hai nhân vật: “Tông đồ Gio-an” trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca) với “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến” trong Tin Mừng thứ tư. Có thể xem phân tích chi tiết về người môn đệ độc đáo và bí ẩn này trong tập sách: Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư là ai? Nội dung bài viết này lấy lại mục “Tông đồ Gio-an và môn đệ Đức Giê-su yêu mến”, trong tập sách trên, tr. 178-186.

 

Tác giả Édouard Cothenet đã lựa chọn đồng hóa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến với Tông đồ Gio-an vì hai lý do:

1) Tông đồ Gio-an và Phê rô thường đi với nhau trong một số sách Tân Ước: Tin Mừng Nhất Lãm, Công Vụ các Tông đồ và thư Ga-lát (Gl 2,9). Cũng thế, trong Tin Mừng thứ tư, Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến thường hiện diện với nhau (Ga 13,23-26; 20,3-10; 21,20-23).

2) Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến có thể là một trong hai người con ông Dê-bê-đê nói đến ở Ga 21,2: “Si-môn Phê-rô, Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các con ông Dê-bê-đê và hai người khác thuộc nhóm môn đệ của Người, các ông đang ở với nhau.” 

Xem É. COTHENET, “Le quatrième évangile”, dans M.-É. BOISMARD, É.COTHENET, La tradition johannique, 1977, p. 288. Các trích dẫn Tin Mừng Gio-an lấy trong tài liệu: Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư, Hy Lạp – Việt.

 

Những phân tích sau đây sẽ cho thấy hai lý do É. Cothenet đưa ra khó đứng vững vì có sự khác biệt quá lớn giữa hai nhân vật: “Tông đồ Gio-an” trong Tin Mừng Nhất Lãm và “môn đệ Đức Giê-su yêu mến” trong Tin Mừng thứ tư.

 

I. Tông đồ Gio-an và Phê-rô thường đi với nhau

 

Về lý do thứ nhất, theo É. Cothenet thì Tông đồ Gio-an và Phê-rô thường đi với nhau. Lý do này không đủ đề đồng hóa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến với Tông đồ Gio-an. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Tông đồ Gio-an thuộc nhóm ba môn đệ được Đức Giê-su tách ra: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Tương quan giữa ba môn đệ này với Đức Giê-su hoàn toàn khác với tương quan giữa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến và Đức Giê-su trong Tin Mừng thứ tư. Những so sánh trong các đoạn văn dưới đây cho thấy sự khác biệt giữa Tông đồ Gio-an và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến.

 

1. Mc 10,35-41

 

Trước hết, Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại câu chuyện Gio-an và Gia-cô-bê xin được ngồi bên hữu và bên tả Đức Giê-su trong vinh quang của Người ở Mc 10,35-41:

“35 Những người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đến nói với Người: ‘Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy làm cho chúng con điều chúng con xin Thầy.’ 36 Người nói với các ông: ‘Các anh muốn Thầy làm gì cho các anh?’ 37 Các ông nói với Người: ‘Xin cho chúng con được ngồi một người bên hữu và một người bên tả của Thầy trong vinh quang của Thầy.” 38 Đức Giê-su nói với các ông: ‘Các anh không biết các anh xin gì. Các anh có thể uống chén mà Thầy sắp uống hay chịu phép rửa mà Thầy sắp chịu không?’ 39 Các ông nói với Người: ‘Chúng con có thể.’ Đức Giê-su nói với họ: ‘Chén mà Thầy uống, anh em sẽ uống; và phép rửa mà Thầy chịu, anh em sẽ chịu. 40 Còn ngồi bên hữu của Thầy hay bên tả, Thầy không có quyền, nhưng là dành cho ai mà điều ấy được chuẩn bị cho.’ 41 Nghe vậy, mười người kia bắt đầu tức giận với Gia-cô-bê và Gio-an.” 

 

Trong câu chuyện này, Tông đồ Gio-an đã không hiểu Đức Giê-su vì Người nói: “Các anh không biết các anh xin gì” (Mc 10,38a). Trong mạch văn, Gio-an và Gia-cô-bê muốn có được những chỗ danh dự và dẫn đến sự bất bình và tức giận của các môn đệ khác (Mc 10,41). So với người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư có những điểm khác biệt sau:

1) Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến không xuất hiện với Gia-cô-bê.

2) Người môn đệ này không xin Đức Giê-su được ngồi bên hữu hay bên tả trong vinh quang của Người.

3) Không có sự hiểu lầm hay không hiểu giữa người môn đệ này và Đức Giê-su trong Tin Mừng thứ tư.

4) Các môn đệ khác không có thái độ bất bình hay không bằng lòng với người môn đệ Đức Giê-su yếu mến trong Tin Mừng thứ tư.

Tóm lại, trong trình thuật Mc 10,35-41 không có điểm chung nào giữa Tông đồ Gio-an và môn đệ Đức Giê-su yêu mến.

 

2. Lc 9,49-50

 

Câu chuyện thứ hai liên quan đến Tông đồ Gio-an ở Lc 9,49-50: “49 Gio-an lên tiếng nói: ‘Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng với chúng con đi theo Thầy’. 50 Đức Giê-su bảo ông: ‘Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta’!”

 

Trong đoạn văn này, Gio-an nói nhân danh các môn đệ khác: “Chúng con thấy” (ngôi thứ nhất số nhiều). Câu trả lời của Đức Giê-su ngược hoàn toàn với việc làm của các môn đệ. Nếu Gio-an và một số các môn đệ đã cố ngăn cản những người nhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ thì Đức Giê-su bảo họ “Đừng ngăn cản người ta...” Nhiệt tình của các môn đệ, mà Tông đồ Gio-an là người đại diện để trình bày với Đức Giê-su, cho thấy họ đã không hiểu Đức Giê-su. Trong khi đó, không có dấu hiệu gì trong Tin Mừng thứ tư cho thấy môn đệ Đức Giê-su yêu mến không hiểu Đức Giê-su.

 

3. Lc 9,51-56

 

Câu chuyện tiếp theo ở Lc 9,51-56. Bản văn này trình bày phản ứng của Tông đồ Gio-an xa lạ với thái độ của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư.

Tin Mừng Lu-ca (9,51-56) kể: “51 Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. 52 Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54 Thấy thế, hai môn đệ của Người là Gia-cô-bê và Gio-an nói rằng: ‘Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?’ 55 Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. 56 Rồi Thầy trò đi sang làng khác.” 

 

Khi những người Sa-ma-ri không đón nhận Đức Giê-su và các môn đệ, phản ứng của Gia-cô-bê và Gio-an là “muốn khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó” (Lc 9,54). Cách xử sự này hoàn toàn không phù hợp với ý định của Đức Giê-su và Người đã quở mắng các ông. Môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng ít nói hơn và nói chính xác hơn, Đức Giê-su không hề than phiền hay quở trách người môn đệ này.

 

4. Mc 14,32-42

 

Câu chuyện khác xảy ra trong vườn Ghết-sê-ma-ni (Mc 14,32-42) đã cho thấy sự khác biệt lớn lao giữa Tông đồ Gio-an và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Ba môn đệ (Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an) được Đức Giê-su chia sẻ giờ hấp hối của Người, nhưng cả ba môn đệ này đã ngủ li bì khi Thầy của họ đang đối diện với sự chết. Tin Mừng Mác-cô kể: Đức Giê-su đi cầu nguyện, ba lần Người quay lại thì cả ba lần Người thấy ba môn đệ này đang ngủ (Mc 14,37.40.41), tác giả giải thích: vì “mắt của họ nặng trĩu và các ông không biết trả lời làm sao với Người” (Mc 14,40). Khi Đức Giê-su bị bắt: “Tất cả các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn” (Mc 14,50). Tông đồ Gio-an cũng như các môn đệ khác, họ chỉ gặp lại Đức Giê-su sau khi Người đã Phục Sinh.

 

5. Khuôn mặt người môn đệ Đức Giê-su yêu mến

 

Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su cũng báo cho các môn đệ biết trước giờ các môn đệ bị phân tán: “Này đến giờ, - và đã đến rồi -, anh em sẽ bị phân tán mỗi người về nhà mình và bỏ lại Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình, vì Cha ở với Thầy” (Ga 16,32). Lời báo trước này không dành cho người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Bởi vì, khác với Nhóm Mười Hai trong Tin Mừng Nhất Lãm, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến đã hiện diện dưới chân thập giá. Hơn nữa, Đức Giê-su cho người môn đệ này được làm con của thân mẫu Người và người môn đệ này đón nhận thân mẫu về nhà mình (Ga 19,26-27). Đặc biệt, môn đệ này đã làm chứng về những điều xảy ra trước và sau khi Đức Giê-su chết trên thập giá (Ga 19,35-37).

 

Những so sánh trên cho thấy: Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Tông đồ Gio-an cũng như các Tông đồ khác thường là không hiểu Đức Giê-su, bị Đức Giê-su quở trách, không có đủ sức để canh thức với Thầy trong giờ Thầy hấp hối, không đủ can đảm để hiện diện với Thầy dưới chân thập giá. Trong khi đó, Tin Mừng thứ tư trình bày hình ảnh người môn đệ Đức Giê-su yêu mến hoàn toàn khác. Đây là người môn đệ đặc biệt về nhiều phương diện: Người môn đệ này xuất hiện lần đầu tiên trong Tin Mừng thứ tư ở đầu chương 13 (trình thuật bữa tiệc ly). Trong bữa tiệc đó, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến có vị trí danh dự: “Tựa vào lòng Đức Giê-su” (Ga 13,23). Người môn đệ này hiện hiện dưới chân thập giá (Ga 19,26-27) và là người đầu tiên tin dù chưa thấy Đấng Phục Sinh (Ga 20,8).

 

Trong tương quan với Phê-rô, Tông đồ Gio-an trong Tin Mừng Nhất Lãm thuộc nhóm ba môn đệ thường được Đức Giê-su tách riêng ra (Phê-rô, Gia-cô-bê, Gio-an). Trong nhóm ba môn đệ này, Phê-rô giữ vai trò nổi bật hơn Gio-an. Chẳng hạn, trong trình thuật Đức Giê-su biến đổi hình dạng trên núi, chính Phêrô đưa ra đề nghị làm ba lều (Mc 9,5). Ở Xê-da-rê Phi-líp-phê, Phê-rô đại diện nhóm tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô” (Mc 8,29). Ngược lại, trong Tin Mừng thứ tư, vai trò của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến nổi bật hơn Phê-rô. Phê-rô giữ vai trò trưởng nhóm, nhưng trong tương quan với Thầy, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến hiểu Thầy và gần gũi Thầy hơn Phê-rô.

 

Trong bữa tiệc ly, Phê-rô phải nhờ người môn đệ này hỏi Đức Giê-su để biết ai là người sẽ nộp Thầy (Ga 13,23-24). Phê-rô không có vị trí sát bên Đức Giê-su trong bữa ăn như người môn đệ này. Trong trình thuật Ga 13, Phê-rô được trình bày như một nhân vật không hiểu Đức Giê-su: Phê-rô không hiểu ý nghĩa việc rửa chân (Ga 13,6-10), không hiểu ý nghĩa việc đi theo Thầy (Ga 13,36-37) và Đức Giê-su báo trước Phê-rô sẽ chối Thầy ba lần (Ga 13,38). Ngược lại, Tin Mừng thứ tư không nói gì về những yếu đuối của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Khác với Phê-rô, không có sự hiểu lầm hay không hiểu giữa Đức Giê-su và người môn đệ này.

 

Tóm lại, trong Tin Mừng thứ tư, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trổi vượt hơn Phê-rô về ba phương diện:

1) Về vị trí, người môn đệ này gần Đức Giê-su hơn Phê-rô trong bữa tiệc ly (Ga 13,23).

2) Về lòng tin, người môn này “đã thấy và đã tin” (Ga 20,8), khi đứng trước ngôi mộ trống, trong khi lòng tin của Phê-rô và các môn đệ khác chưa được nói đến (Ga 20,9).

3) Về sự hiểu biết, người môn đệ này nhận ra Chúa, trước Phê-rô và các môn đệ khác khi họ đánh cá ở biển hồ Ga-li-lê (Ga 21,7).

 

Như thế, lý do mà É. Cothenet đưa ra: người môn đệ Đức Giê-su yêu mến thường hiện diện với Phê-rô trong Tin Mừng thứ tư không đủ để đồng hóa người môn đệ này với Tông đồ Gio-an trong Tin Mừng Nhất Lãm.

 

II. Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến có thể là một trong hai người con ông Dê-bê-đê nói đến ở Ga 21,2

 

Về lý do thứ hai, É. Cothenet cho rằng: Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến có thể là một trong hai người con ông Dê-bê-đê nói đến ở Ga 21,2. Lý do này khó chấp nhận, vì một số tác giả cũng dựa vào Ga 21,2 để loại trừ việc đồng hóa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến với Tông đồ Gio-an.

 

M.-É. Boismard nhận định: “Như các tác giả R. Brown, R. Schanckenburg và một số tác giả khác, người môn đệ Đức Giê-su yêu mến phải là một trong ‘hai môn đệ khác’ nói đến ở Ga 21,2.” [“Comme l’ont bien vu, entre autres, R. Brown et R. Schanckenburg, le disciple que Jésus aimait doit être l’un des ‘deux autres disciples’ que mentionne le verset 2” (M.-É. BOISMARD, “Le disciple que Jésus aimait d’après Jn 21,1ss et 1,35ss”,Revue Biblique 105/1 (1998) p. 78)].

 

Thực vậy, người thuật chuyện nói tới “hai môn đệ khác” ở Ga 21,2: “Si-môn Phê-rô, Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các con ông Dê-bê-đê và hai người khác thuộc nhóm môn đệ của Người, các ông đang ở với nhau.” “Hai môn đệ khác” ở 21,2 là hai môn đệ vô danh, môn đệ Đức Giê-su yêu mến cũng là một môn đệ vô danh và cũng được gọi là “môn đệ khác” ở 20,2. Với những lý do này, chúng tôi đồng thuận với ý kiến của các tác giả trên: Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến không phải là một trong hai người con ông Dê-bê-đê (Gia-cô-bê và Gio-an) mà là một trong hai môn đệ vô danh ở 21,2.

 

Tông đồ Gio-an được Tin Mừng thứ tư nhắc tới cách gián tiếp trong kiểu nói: “Hai người con ông Dê-bê-đê” (Ga 21,2). Theo Tin Mừng Nhất Lãm, kiểu nói “các con ông Dê-bê-đê” (Mt 10,2; 20,20; 26,37) ám chỉ hai Tông đồ Gia-cô-bê và Gio-an. Trong Tin Mừng thứ tư, kiểu nói này chỉ xuất hiện một lần ở Ga 21,2. Còn người môn đệ Đức Giê-su yêu mến là một môn đệ vô danh cũng được nói đến ở 21,2. Trong cách hiểu này, môn đệ Đức Giê-su yêu mến và Tông đồ Gio-an, cả hai cùng hiện diện ở Ga 21,2. Hai nhân vật này cùng hiện diện ở Ga 21,2 là bằng chứng không thể đồnghóa người môn đệ Đức Giê-su yêu mến với Tông đồ Gio-an.

 

Kết luận

 

Những phân tích trên cho thấy cả hai lý do mà É. Cothenet dựa vào để đồng hóa “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến” với “Tông đồ Gio-an” không đủ sức thuyết phục. Để làm nổi bật khuôn mặt độc đáo của “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến” trong Tin Mừng thứ tư, thiết nghĩ nên tôn trọng sự khác biệt giữa Tông đồ Gio-an trong Tin Mừng Nhất Lãm và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư, như bản văn đã trình bày cho độc giả. 

Để tìm hiểu tại sao truyền thống đồng hoá Tông đồ Gio-an với người môn đệ Đức Giê-su yêu mến, và cũng theo truyền thống, Tông đồ Gio-an là tác giả Tin Mừng thứ tư, xin đọc tập sách: Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng thứ tư là ai? Tập sách này tìm hiểu khuôn mặt của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến và bàn đến vấn đề tác giả sách Tin Mừng thứ tư.

 

 

Ngày 07 tháng 08 năm 2011.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/08/tong-o-gio-trong-tin-mung-nhat-lam-va.html

Email: josleminhthong@gmail.com

 

Được đăng bởi joseph leminhthong op vào lúc Chủ nhật, tháng tám 07, 20112 nhận xét  

Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên TwitterChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Google Buzz 

Nhãn: tìm hiểu TM Gio-an

Ngày 24 tháng 7 năm 2011

Chia sẻ TM Mt 14,13-21: “Hãy tìm đến” với Đức Giê-su và “hãy cộng tác” với Người

 

 

 Như đám đông dân chúng, hãy tìm đến với Đức Giê-su

để được yêu thương, được chữa lành và được nuôi dưỡng.

Như các môn đệ, hãy cộng tác với Đức Giê-su

để phân phát của ăn đích thực cho mọi người.

 

 

Bản văn Mt 14,13-21 (NPD/CGKPV)


13 Nghe tin ấy (Gio-an Tẩy Giả bị chém đầu, Mt 14,3-12), Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người.

14 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.
15 Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn."

16 Đức Giê-su bảo: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn."

17 Các ông đáp: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!"

18 Người bảo: "Đem lại đây cho Thầy!"

19 Rồi sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng.

20 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy.

21 Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.

 

 

1. Dẫn nhập

 

Đoạn Tin Mừng Mt 14,13-21 kể lại việc Đức Giê-su lánh đến nơi hoang vắng sau khi nghe biết ông Gio-an Tẩy Giả đã bị Hê-rô-đê giết chết (Mt 14,3-12). Điều đáng chú ý là Đức Giê-su đã gây được ảnh hưởng nơi dân chúng. Hình như nhân vật chính của bài Tin Mừng không phải là Đức Giê-su mà là đám đông dân chúng và các môn đệ. Chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của đám đông và của các môn đệ trong đoạn Tin Mừng Mt 14,13-21.

 

2. Dân chúng tìm đến với Đức Giê-su

 

Bản văn cho biết Đức Giê-su muốn lánh đi một nơi hoang vắng riêng biệt. Nghĩa là Ngài không có ý định đến với đám đông, Người cũng không có ý định giảng dạy dân chúng. Điểm độc đáo của bản văn là thay vì Đức Giê-su đến với dân chúng thì dân chúng lại “tìm gặp”, “đi theo” và “đến với” Đức Giê-su. Tin Mừng kể: “Nghe biết vậy, đám đông dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người.”

 

Dân chúng đến với Đức Giê-su không phải từ một nơi, từ một thành phố, mà là từ nhiều thành phố. Câu 14,13b: “Đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người” dịch sát: “Từ các thành phố (apo tôn poleôn), các đám đông (hoi okhloi) đi theo Người bằng cách đi bộ.” Hình ảnh “các đám đông”, từ “các thành phố” khác nhau, dường như cùng lúc biết tin là “Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt” (14,13) cho thấy tầm ảnh hưởng sâu rộng của Đức Giê-su trong dân chúng. Người đã thu hút được dân chúng, nên từ khắp nơi, họ tự nguyện, nhanh chóng và hăng hái tìm đến với Người.

 

Đức Giê-su thực hiện dự định “lánh khỏi nơi đó” bằng cách “đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt”. Người không biết là có nhiều đám đông đang đi bộ theo mình, nhưng độc giả thì biết, vì qua bản văn, tác giả cho độc giả biế là kẻ đi bộ, người đi thuyền đang tiến về cùng một nơi. Chi tiết được đề cao là dân chúng chủ động loan tin, họ cho nhau biết hành trình của Đức Giê-su để cùng nhau tìm đến với Người. Có lẽ họ đã vội vã bước đi không trì hoãn, vì khi Đức Giê-su xuống khỏi thuyền thì “một đám đông lớn” đã hiện diện ở đó.

 

3. Phản ứng của Đức Giê-su khi gặp dân chúng

 

Đối với Đức Giê-su, đây là cuộc gặp gỡ bất ngờ. Đức Giê-su muốn lánh ra một nơi hoang vắng không có ai, nhưng khi ra khỏi thuyền thì Người lại thấy “một đám đông lớn” (polun okhlon).” “Đám đông lớn” này là do “các đám đông” từ nhiều thành phố đổ về. Chính họ đã làm cho nơi hoang vắng trở thành nơi quy tụ và gặp gỡ. Đức Giê-su đã phản ứng thế nào và Người làm gì với đông đảo dân chúng trong nơi hoang vắng này?

 

Một đàng Đức Giê-su “muốn” lánh vào nơi hoang vắng, một đàng dân chúng “muốn” gặp Đức Giê-su, hai “ý muốn ngược nhau” này đã tạo nên một cuộc gặp gỡ độc đáo. Có thể ví đây là một cuộc gặp gỡ bất ngờ và thú vị giữa một bên là “những người hâm mộ Đức Giê-su” (họ nhận ra quyền năng và lòng thương xót của Người) và một bên là “người được hâm mộ” (Đức Giê-su là Người đem đến sự sống và sức sống cho dân chúng). Đây là cuộc gặp gỡ của lòng mến, của lòng ái mộ. Vì thế, cho dù không chờ đợi và bất ngờ, Đức Giê-su đã “chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” (14,14).

 

Ở nơi hoang vắng, cuộc gặp gỡ đề cao sự thân mật và chia sẻ. Điều lạ là những gì Đức Giê-su làm cho dân chúng trong ngày hôm đó chỉ tóm gọn trong mấy chữ: “Chữa lành các bệnh nhân của họ” (14,14), bởi vì câu tiếp theo đã nói đến chia tay vì đã xế chiều. Tác giả kể: “Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: ‘Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn’” (14,15). Như thế, theo mạnh văn, suốt ngày hôm đó Đức Giê-su “sống với” và “chia sẻ” với dân chúng bằng cách bày tỏ “lòng thương xót” và “chữa lành bệnh nhân của họ”.

 

Có thể nói, điều dân chúng cần là “chia sẻ” và “ở với” họ chứ không phải là “nghe giảng”. Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng hôm nay không giảng dạy. Bản văn không trình bày Đức Giê-su như một thầy dạy, nhưng như một mục tử. Người thực hiện vai trò mục tử: Yêu thương chăm sóc đoàn chiên, cụ thể là nuôi ăn qua trình thuật hoá bánh ra nhiều trong phần chính của bài Tin Mừng (14,15-21).

 

4. Phép lạ bánh hoá nhiều và vai trò của các môn đệ

 

Nếu như việc đám đông đến với Đức Giê-su là sáng kiến của chính họ, thì các môn đệ là những người đã lo lắng đến của ăn cho đám đông. Chính các môn đệ đi bước trước, các ông đã đề nghị với Đức Giê-su một giải pháp khi nói: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (14,15). Lời đề nghị này cho thấy các môn đệ trong bản văn giữ vai trò chủ động. Nhờ gợi ý của họ mà Đức Giê-su thực hiện phép lạ bánh hoá nhiều. Sau lời đề nghị của các môn đệ, Đức Giê-su nói với họ: “Họ không cần đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (14,16).

 

Qua câu nói trên, Đức Giê-su đề cao vai trò của các môn đệ khi nói khẳng định chính các môn đệ sẽ cho dân chúng ăn. Thật vậy, sau khi Đức Giê-su cần lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, Người bẻ bánh ra, trao cho môn đệ và “môn đệ trao cho dân chúng” (14,19). Mạch văn cho phép hiểu: Đức Giê-su làm phép lạ, nhưng chính các môn đệ “cho dân chúng ăn”. Trình thuật đề cao sự cộng tác tích cực của các môn đệ vào vai trò mục tử của Đức Giê-su.

 

5. Những con số trong phép lạ

 

Cuối trình thuật phép lạ bánh hoá nhiều, Tin Mừng nói trực tiếp đến dân chúng và các môn đệ qua những con số: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những miếng còn thừa được 12 giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con” (14,20-21). Quyền năng của Đức Giê-su tỏ lộ cách gián tiếp qua các chi tiết liên quan đến đám đông và các môn đệ: “Mọi người ăn no nê”, “dư 12 giỏ đầy” với một số lượng lớn người ăn: “5.000 người đàn ông không kể đàn bà và trẻ.”

 

Độc giả có thể liên tưởng con số 12 với 12 Tông Đồ. 12 giỏ bánh có hai đặc tính: “đầy” và “dư”. “Dư” không phải là thứ bỏ đi mà là thứ còn lại sau khi đã ăn và ăn no nê. Trong mạch văn, “12 giỏ đầy bánh còn dư” vừa là bằng chứng hiển nhiên về phép lạ bánh hoá nhiều, vừa ám chỉ sự dồi dào của lương thực Đức Giê-su ban tặng, vừa gợi ý đến sự cộng tác của Nhóm 12 Tông Đồ vào vai trò mục tử của Đức Giê-su là Đấng có khả năng làm no thoả khát vọng của con người.

 

Bài Tin Mừng kết thúc với con số 5.000 người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con (14,21). Chi tiết này cho biết cụ thể “các đám đông” từ “các thành phố” (14,13), đi theo Đức Giê-su là bao nhiêu. Con số: “hơn 5.000 thực khách” tạo ra tương phản mạnh mẽ trong phép lạ bánh hoá nhiều. Một bên là “nơi hoang vắng”, không có người qua lại, không có của ăn, một bên là “một bữa ăn no thoả” cho một đám đông hơn 5.000 người. Đồng thời, tạo nên tương phản giữa “ít” (5 chiếc bánh và 2 con cá) và “nhiều”, dồi dào, phong phú (hơn 5.000 người ăn no nê và còn dư 12 giỏ đầy).

 

Ẩn phía sau câu chuyện, Đức Giê-su là nhân vật chính của bài Tin Mừng, tuy nhiên, trong cách kể chuyện, tác giả đề cao sáng kiến tìm gặp Đức Giê-su của đám đông, và đề cao vai trò của các môn đệ. Sau một thời gian thi hành sứ vụ rao giảng và chữa lành, đoạn văn Mt 14,13-21 cho thấy phần nào sự thành công của Đức Giê-su. Cụ thể là đám đông dân chúng tự nguyện tìm đến với Người và các môn đệ đã tích cực cộng tác với Người trong sứ vụ mục tử.

 

Đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay không nói đến nội dung giáo huấn của Đức Giê-su, Người không giảng dạy trong đoạn Tin Mừng này. Trình thuật đề cao nhu cầu của dân chúng: “tìm đến” và “gặp gỡ” Đức Giê-su, để được Người chữa lành và được Người nuôi dưỡng bằng lương thực tâm linh dồi dào phong phú mà phép lạ bánh hoá nhiều là hình ảnh.

 

6. Kết luận

 

Đầu bài Tin Mừng, dân chúng chủ động đến với Đức Giê-su, giữa bài Tin Mừng các môn đệ giữ vài trò quan trọng trong việc cho dân chúng ăn. Cuối bài Tin Mừng các môn đệ và dân chúng được đề cập đến: “Ai nấy đều ăn và được no nê.” Những gì được thuật lại trong bài Tin Mừng Mt 14,13-21 cho thấy sự trưởng thành của đám đông và của các môn đệ. Đám đông dân chúng nhanh chóng loan tin cho nhau và cùng nhau tìm đến với Đức Giê-su. Nhóm các môn đệ đã giữ vai trò chủ động khi họ đề nghị Đức Giê-su tìm cách cho dân chúng ăn. Đức Giê-su đã đề cao sự cộng tác của các môn đệ khi Người nói: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Các môn đệ đã góp phần đắc lực vào sứ vụ mục tử của Đức Giê-su.

 

Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su giữ vai trò thụ động, nhưng trình thuật cho thấy Người đã thành công trong sứ vụ rao giảng và Người đang thi hành sứ vụ mục tử qua những hành động yêu thương, chăm sóc và nuôi dưỡng đàn chiên. Tuy nhiên, sự chủ động của các nhân vật “đám đông dân chúng” và “các môn đệ” làm cho các nhân vật này trở thành nhân vật chính của đoạn Tin Mừng Mt 14,13-21. Độc giả có thể rút ra hai lời mời gọi từ bản văn:

 

-   Tin Mừng Mt 14,13-21 mời gọi độc giả hãy như đám đông: Loan tin cho cho mọi người biết Đức Giê-su để trở thành “các đám đông” từ “các thành phố” cùng nhau tìm đến với Người. Nhờ đó, chúng ta được gặp gỡ Người, được ở với Người, được chia sẻ, được chữa lành và được Người nuôi dưỡng.

 

-   Tin Mừng Mt 14,13-21 mời gọi độc giả hãy như các môn đệ: Tích cực tham gia vào sứ vụ mục tử của Đức Giê-su. Chính Đức Giê-su làm phép lạ bánh hoá nhiều, nhưng Người muốn các môn đệ “hãy cho dân chúng ăn”, hãy phân phát bánh và cá cho mọi người. Độc giả được mời gọi trở thành những người cộng tác viên để tiếp nối sứ vụ của Đức Giê-su./.

 

 

Ngày 24 tháng 07 năm 2011.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/07/chia-se-tm-mt-1413-21-hay-tim-en-voi-uc.html

Email: josleminhthong@gmail.com

 


Trang Kinh Thanh