Tác giả: Giuse
LÊ MINH THÔNG, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
josleminhthong@gmail.com
Ngày 15 tháng 07 năm
2012
Here is the article in
English: Meanings
of the word “PNEUMA”(Spirit, spiritual, wind…) in the Gospel of John
I. Dẫn nhập
Trong Kinh Thánh, danh
từ “THẦN KHÍ” tiếng Hy Lạp: “pneuma”, gốc tiếng Híp ri: “ruah” có nghĩa khởi
đầu: “hơi thở”. Danh từ “pneuma” xuất hiện 24 lần trong Tin Mừng thứ tư ở các
nơi: 1,32.33a.33b; 3,5.6a.6b.8a.8b.34; 4,23.24a.24b; 6,63a.63b; 7,39a.39b;
11,33; 13,21; 14,17.26; 15,26; 16,13; 19,30; 20,22. Từ “pneuma” có nghĩa là
“Thần Khí” (viết hoa) không xuất hiện trong 10 chương (Ga 2; 5; 8–13; 17; 21)
và xuất hiện nhiều nhất trong ch. 3 (6 lần). Các nghĩa của từ “pneuma” trong
Tin Mừng thứ tư có thể phân loại thành sáu nhóm nghĩa.
II. Sáu nhóm nghĩa của danh từ “pneuma”
1. “Pneuma” chỉ “Thần Khí” Thiên Chúa
Nghĩa
thứ nhất của từ “pneuma” chỉ Thần Khí Thiên Chúa và được viết hoa. Nghĩa này
xuất hiện 14 lần trong Tin Mừng thứ tư dưới ba danh xưng: (1) “Thần Khí”
(pneuma), xuất hiện 8 lần (1,32.33; 3,5.6.8.34; 7,39a.39b); (2) “Thánh Thần” (pneuma
to hagion), dịch sát: “Thần Khí Thánh”, xuất hiện 3 lần (1,33; 14,26; 20,22);
(3) “Thần Khí sự thật” (pneuma tês alêtheias) xuất
hiện 3 lần (14,17; 15,26; 16,13). Dưới đây là một vài trích dẫn minh hoạ:
- Ga 7,37b-38
Vào
ngày cuối cùng dịp lễ Lều, đó là ngày long trọng nhất của dịp lễ, Đức Giê-su
tuyên bố: “Nếu ai khát hãy đến với
Tôi và hãy uống. Người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: ‘Từ
lòng người ấy sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống’” (Ga 7,37b-38). Trong câu
tiếp theo (7,39), người thuật chuyện giải thích cho độc giả ý nghĩa lời tuyên
bố của Đức Giê-su: “Điều đó, Người [Đức Giê-su] nói về Thần Khí (pneumatos) mà
những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Tuy nhiên, Thần Khí (pneuma)chưa có, vì Đức
Giê-su chưa được tôn vinh” (7,39). Ga 7,39 xuất hiện 2 lần từ “pneuma” với nghĩa “Thần Khí” (viết
hoa). Xem bản dịch: Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA
THƯ, Hy Lạp – Việt.
- Ga 1,33-34
Khởi
đầu Tin Mừng thứ tư, Gio-an Tẩy Giả làm chứng về Đức Giê-su ở 1,33-34: “Phần
tôi, tôi đã không biết Người [Đức Giê-su]. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước, Đấng ấy đã nói
với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí (pneuma) xuống và ở lại trên ai, thì người đó là
Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần’ (pneuma hagiô). Phần tôi, tôi đã thấy và đã
làm chứng rằng: Chính Người là Con Thiên Chúa.” Trong hai câu 1,33-34, Gio-an
Tẩy Giả nhắc đến Thiên Chúa là đấng sai ông đến làm chứng (1,6); nhắc đến Thần
Khí (pneuma) và Thánh Thần (pneuma hagiô); cuối cùng ông xác nhận Đức Giê-su là
Con Thiên Chúa.
- Ga 14,15-17.26
Trong
Ga 14, tác giả sách Tin Mừng đồng hoá “Đấng
Pa-rác-lê (paraklêtos) với “Thần
Khí sự thật” và “Thánh Thần”. Đức Giê-su hứa với các
môn đệ ở 14,15-17: “Nếu anh em
yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy; và chính Thầy sẽ can thiệp
với Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Pa-rác-lê khác (allon paraklêton)
để Người ở với anh em mãi mãi. Thần Khí sự thật (pneuma tês alêtheias) là Đấng
thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Người. Còn
anh em, anh em biết Người, vì Người ở lại giữa anh em và Người sẽ ở trong anh
em”.
Trong
đoạn văn này “Đấng Pa-rác-lê
khác” (14,16) chính là “Đấng
Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” (15,26). Đến 14,26, “Đấng Pa-rác-lê” được đồng hoá với “Thánh Thần”. Đức Giê-su nói với các
môn đệ: “Đấng Pa-rác-lê (ho
paraklêtos), Thánh Thần (to pneuma to hagion), Đấng mà Cha sẽ sai đến nhân danh
Thầy. Đấng Pa-rác-lê sẽ dạy anh em tất cả và sẽ làm cho anh
em nhớ lại tất cả những gì [chính] Thầy đã nói với anh em” (14,26). Như thế,
bản văn dùng ba tước hiệu để nói về“Đấng Pa-rác-lê” (ho paraklêtos): “Đấng Pa-rác-lê khác (allos
paraklêtos), “Thần Khí sự thật” (pneuma
tês alêtheias) và “Thánh Thần” (pneuma to hagion).
2. “Pneuma” có thể hiểu là “Thần Khí” Thiên Chúa hay “tâm linh”
Trong
bản văn Hy Lạp của các sách Tân Ước, danh từ “pneuma”
được viết toàn bộ bằng chữ hoa (PNEUMA) hay chữ thường (pneuma). Bản văn Hy Lạp
Tân Ước chúng ta có ngày nay lên đến thế kỷ II, tất cả các thủ bản cổ này được
viết toàn bộ bằng chữ hoa (PNEUMA). Từ thế kỷ IX, bản văn Tân Ước mới được sao
chép bằng chữ thường (pneuma). Vì thế, có hai lần trong Tin Mừng thứ tư (4,24a;
6,63a), danh từ “pneuma” có thể
hiểu một trong hai nghĩa: “Thần Khí” Thiên Chúa (viết hoa) hay “thần khí” (viết
thường) theo nghĩa “tâm linh”, “linh thiêng”. So sánh một số bản dịch dưới đây
cho thấy lựa chọn cách dịch khác nhau từ “pneuma”.
- Ga 4,24
Trong
Ga 4,24 xuất hiện 2 lần từ “pneuma” và có ba cách dịch hai cụm từ: “THIÊN CHÚA
LÀ THẦN KHÍ” (4,24a) và “THỜ PHƯỢNG TRONG THẦN KHÍ” (4,24b).
a. Danh từ “thần khí” viết thường trong cả hai cụm từ.
NPD/CGKPV
(Nhóm Phiên Dịch / Các Giờ Kinh Phụng Vụ, 2011), Ga 4,24: “Thiên Chúa là
thần khí (pneuma), và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí
(pneumati) và sự thật.”
NJB
(New Jerusalem Bible, 1985), Jn 4,24: “God is spirit (pneuma), and those who worship must
worship in spirit (pneumati) and truth.”
b. “Thần khí” viết hoa trong cụm từ thứ nhất và viết thường trong cụm từ
thứ hai.
Giu-se
LÊ MINH THÔNG, Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA
THƯ, Hy Lạp – Việt, 2011, Ga 4,24: “Thiên
Chúa là Thần Khí (pneuma), và
những kẻ thờ phượng Người phải
thờ phượng trong thần khí (pneumati) và sự thật.”
NKJV
(The New King James Version, 1982), Jn 4,24: “God is Spirit(pneuma), and those
who worship Him must worship in spirit (pneumati)and
truth.”
c. “Thần khí” viết hoa trong cả hai cụm từ
NAB/RE
(New
American Bible, Revised Edition, 1991 - Present), Jn4,24: “God is Spirit (pneuma), and those who
worship him must worship in Spirit (pneumati) and truth.”
NOV
(Nova Vulgata Version) Jn 4,24 : “Spiritus (pneuma) est Deus, et eos,
qui adorant eum, in Spiritu (pneumati) et veritate oportet adorare.”
- Ga 6,63
Trong
câu Ga 6,63, xuất hiện 2 lần từ “pneuma”. Trong cụm từ thứ nhất “THẦN KHÍ thì
làm cho sống” (6,63a) có hai cách hiểu: “Thần Khí” (viết hoa) hay “thần khí”
viết thường. Trong cụm từ thứ hai “Những lời chính Thầy [Đức Giê-su] nói với
anh em [các môn đệ] là thần khí” (6,63b), hầu hết các bản dịch lựa chọn viết
thường từ “thần khí”.
a. Dịch Ga 6,63a: “Thần khí thì làm cho sống” (viết thường từ “thần khí”)
NPD/CGKPV
(Nhóm Phiên Dịch / Các Giờ Kinh Phụng Vụ, 2011), Ga 6,63: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác
thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.”
Giu-se
LÊ MINH THÔNG, Bản văn Gio-an,
2011, Ga 6,63: “Thần khí thì làm
cho sống, xác thịt chẳng có ích gì. Những lời chính Thầy nói với anh em là thần
khí và là sự sống.”
NAB/RE
(New
American Bible, Revised Edition, 1991
- Present), Jn6,63: “It is the spirit that
gives life, while the flesh is of no avail. The words I have spoken to you are
spirit and life.”
NJB
(New Jerusalem Bible, 1985), Jn 4,24: “It is the spirit that
gives life, the flesh has nothing to offer. The words I have spoken to you are
spirit and they are life.”
b. Dịch Ga 6,63a: “Thần Khí làm cho sống” (viết hoa từ “Thần Khí”)
TOB
(Traduction Œcuménique de la Bible, 1988), Jn 6,63: “C’est l’Esprit
qui vivifie, la chair ne sert de rien. Les paroles que je vous ai dites sont
esprit et vie.”
NASB (The New American
Standard Bible, 1995) Jn 6,63: “It is the Spirit who gives life; the flesh
profits nothing; the words that I have spoken to you are spirit and are life.”
NIV (The New
International Version, 1984) Jn 6,63: “The Spirit gives life; the flesh counts
for nothing. The words I have spoken to you are spirit and they are life.”
Tóm
lại, trong các cách dịch trên, nếu dịch là “Thần Khí” (viết hoa) thì hiểu là
Thần Khí Thiên Chúa (nghĩa thứ nhất của từ pneuma).
Nếu dịch là “thần khí” (viết thường) thì hiểu theo nghĩa “linh thiêng”, “tâm
linh”, tức là nghĩa thứ ba của từ “pneuma” được bàn đến dưới đây.
3. “Pneuma” có nghĩa “linh
thiêng”, “tâm linh” (sens spirituel)
Nghĩa
thứ ba của từ “pneuma”, xuất hiện 4 lần (3,6; 4,23.24b; 6,63b), theo nghĩa
“linh thiêng”, “tâm linh”. Ở 3,6, xuất hiện 2 lần từ “pneuma”. Lần thứ nhất chỉ
“Thần Khí” (viết hoa). Lần thứ
hai có nghĩa “tâm linh”, “linh thiêng”. Đức Giê-su nói với Ni-cô-đê-mô: “Điều
gì sinh ra bởi xác thịt là xác thịt; và điều gì sinh ra bởi Thần Khí (pneumatos)
là thần khí (pneuma)” (Ga 3,16).
Ở
4,23-24, xuất hiện 2 lần cụm từ “thờ phượng trong thần khí và sự thật”, phần
lớn các bản dịch hiểu từ “thần khí” (viết thường) theo nghĩa “tâm linh” nên
dịch là “thần khí”. Tuy nhiên, vẫn có một số bản dịch viết hoa từ “Thần Khí”
như đã trình bày. Đức Giê-su nói với người phụ nữ Sa-ma-ri ở 4,23-24: “Nhưng
giờ đến – và là bây giờ –, khi mà những người thờ phượng đích thực sẽ thờ
phượng Cha trong thần khí (pneumati) và sự thật. Vì Cha tìm kiếm
những kẻ thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí (pneuma), và những kẻ
thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí (pneumati) và sự thật.”
Ở
6,63, xuất hiện 2 lần từ “pneuma”. Từ “pneuma” trong cụm từ Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Những
lời chính Thầy nói với anh em là thần khí (pneuma) và là sự sống” (6,63b), có
nghĩa “tâm linh” nên dịch là “thần khí” (xem trích dẫn các bản dịch trên đây).
4. “Pneuma”
chỉ “thần khí” hay “tâm trí” con người
Tin
Mừng thứ tư dùng 2 lần từ “pneuma” theo nghĩa “thần khí” hay “tâm trí” của con
người. Ở 11,33; 13,21, từ “pneuma” được dùng để nói đến “thần
khí” hay “tâm trí” của Đức Giê-su. Trong câu chuyện La-da-rô ở Ga 11, lúc
Ma-ri-a và những người Do-thái khóc thương La-da-rô đã chết, người thuật chuyện
kể: “Khi Đức Giê-su thấy cô ấy khóc, và những người Do Thái đi với cô ấy cũng
khóc, Người thổn thức trong tâm
trí (pneumati) và xao xuyến” (11,33).
Ở
13,21, từ “pneuma” cũng chỉ “tâm thần”, “tâm trí” của Đức Giê-su. Sau khi Người
nói với các môn đệ ý nghĩa việc rửa chân (13,12-20), người thuật chuyện kể:
“Nói những điều đó xong,
Đức Giê-su xao xuyến trong tâm thần (pneumati). Người làm chứng và nói: ‘A-men,
a-men, Thầy nói cho anh em: Một người trong anh em sẽ nộp Thầy’” (13,21).
5. “Pneuma” chỉ “thần khí” của Đức Giê-su và gợi ý đến “Thần
Khí” Thiên Chúa
Nghĩa thứ năm chỉ xuất
hiện 1 lần ở 19,30. Từ “pneuma” ở đây có ẩn ý đặc
biệt: Vừa ám chỉ thần khí của Đức Giê-su vừa ám chỉ Thần Khí (Thánh Thần).
Người thuật chuyện kể về biến cố Đức Giê-su chết trên thập giá như sau: “Khi đã
nếm giấm, Đức Giê-su nói: ‘Đã hoàn tất’ rồi Người gục đầu xuống trao thần khí (pneuma)”
(19,30).
Văn chương Hy-lạp
không dùng kiểu nói “trao thần khí” (paradiômi to pneuma) để mô tả việc tắt thở
của người hấp hối. Khi người thuật chuyện mô tả biến cố Đức Giê-su chết một
cách bất thường như trên, rất có thể câu văn hàm chứa ẩn ý thần học. Thực vậy,
theo thần học Tin Mừng thứ tư, giờ chết của Đức Giê-su cũng là giờ Người được
tôn vinh (12,23.28; 13,31-32). Khi chết treo trên thập giá là lúc Đức Giê-su
được giương cao trong vinh quang (12,31-32).
Trong viễn cảnh này,
lúc Đức Giê-su trút hơi thở cuối cùng trùng khớp với lúc Người trao ban Thần
Khí cho thế gian. Đây là lúc người tin đón nhận Thần Khí như người thuật chuyện
đã báo trước ở 7,37-39: “Vào ngày cuối cùng, ngày long trọng nhất của dịp lễ, Đức
Giê-su đứng lên và lớn tiếng nói: ‘Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống.
Người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng người ấy sẽ tuôn chảy những dòng nước sự
sống.’ Điều đó, Người nói
về Thần Khí (pneumatos) mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Tuy nhiên, Thần
Khí (pneuma) chưa có, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh.”
Câu
“Thần Khí chưa có, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (7,39b) gợi đến biến cố
Đức Giê-su chết trên thập giá, nghĩa là lúc Người được tôn vinh. Trước khi xảy
ra biến cố thập giá, người tin chưa lãnh nhận Thần Khí (7,39a); người tin sẽ
lãnh nhận Thần Khí qua biến cố “chết – tôn vinh” trên thập giá. Điểm thần học
này diễn tả qua câu: “[Đức Giê-su] trao thần khí (paredôken to pneuma)” ở Ga
19,30. Câu này có hai ý nghĩa: “Đức Giê-su trao thần khí của Người” nghĩa là
“Người trút hơi thở cuối cùng”, đồng thời gợi đến việc “Đức Giê-su trao ban
Thần Khí cho người tin”. Như vậy, kiểu nói “TRAO THẦN KHÍ” vừa diễn tả sự chết
của Đức Giê-su, vừa gợi đến thời điểm thần học quan trọng. Việc trao ban Thần
Khí được làm rõ sau biến cố Phục Sinh. Chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức
Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, “Người thổi hơi và nói với các ông:
‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (pneuma hagion)’” ( Ga 20,22b).
6. “Pneuma” có nghĩa là “gió”
Nghĩa thứ sáu của từ “pneuma” là “khí” hay “gió”. Nghĩa này chỉ xuất hiện một lần
trong Tin Mừng Gio-an ở 3,8. Đức Giê-su mặc khải cho Ni-cô-đê-mô: “Gió (pneuma) muốn thổi ở đâu, ông nghe tiếng của nó, nhưng ông
không biết nó từ đâu đến và đi đâu. Mọi
kẻ được sinh ra bởi Thần Khí (pneumatos) thì cũng như vậy” (3,8). Trong câu này, xuất hiện 2 lần danh từ “pneuma”, ở
đầu câu có nghĩa là “gió” và từ“pneuma” ở cuối câu có nghĩa là “Thần Khí”.
III.
Kết luận
Tóm
lại, 24 lần từ “pneuma” xuất hiện trong Tin Mừng thứ tư được chia thành sáu
nhóm nghĩa:
1.
“Pneuma” là “Thần Khí” (Thiên Chúa): 14 lần. Trong Tin Mừng Gio-an, “Thần Khí”
được đồng hoá với “Thần Khí sự thật”, “Thánh Thần” và “Đấng Pa-rác-lê” (Ga
14–16).
2.
“Pneuma” có thể hiểu là “Thần Khí” Thiên Chúa (viết hoa) hay “thần khí” (viết
thường): 4,24a; 6,63a.
3.
“Pneuma” có nghĩa “tâm linh”, “linh thiêng”: 3,6; 4,23.24b; 6,63b.
4.
“Pneuma” chỉ “thần khí” hay “tâm trí” con người: 11,33; 13,21.
5. “Pneuma” với hai nghĩa ở 19,30, nghĩa thứ nhất (thần
khí của Đức Giê-su) gợi đến nghĩa thứ hai (Thần Khí của Thiên Chúa).
6. “Pneuma” có nghĩa “gió”.
Bối cảnh văn chương trong bản văn cho phép xác định ý
nghĩa của một từ. Những quan sát vắn tắt trên đây cho thấy sự phong phú về ý
nghĩa của từ “pneuma” trong Kinh Thánh nói chung và trong Tin Mừng Gio-an nói
riêng. Những nghĩa trên của thuật ngữ “pneuma” không xuất hiện trong các tự
điển đại cương mà chỉ xuất hiện trong các tự điển chuyên môn Kinh Thánh, đặc
biệt trong các sách chú giải Tin Mừng thứ tư. Xem phân tích chi tiết về các
nghĩa của từ “pneuma” trong tập sách Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự
thật trong Tin Mừng thứ tư, tr.
142-149./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/07/cac-nghia-cua-tu-pneuma-than-khi-tam.html