[The article in English]
Mk 10:17-31. Leave everything to receive a hundredfold
Tác giả: Giuse LÊ
MINH THÔNG, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
josleminhthong@gmail.com
Ngày 07 tháng 10 năm 2012
Nội dung
I. Bản văn Mc
10,17-31
1. Đoạn văn trước: 10,13-16.
2. Đoạn văn phân tích: 10,17-31.
3. Đoạn văn tiếp theo: 10,32-34.
II. Bối cảnh và
cấu trúc Mc 10,17-31
1. Bối cảnh
2. Cấu trúc
III. Phân tích
1. “Của cải” và “làm môn đệ Đức Giê-su” (10,17-22)
2. Vào Vương Quốc của Thiên Chúa (10,23-27)
3. Phần thưởng dành cho môn đệ (10,28-30)
4. Nguyên tắc: “Đứng đầu – đứng chót” (10,31)
IV. Kết luận
Thư mục
I. Bản văn Mc 10,17-31
Chúng tôi sẽ phân tích đoạn văn Mc 10,17-31, tuy nhiên đoạn văn
này liên kết với đoạn văn trước (10,13-16) và đoạn văn sau nó (10,32-34). Vì
thế, phần sau sẽ trình bày cả ba đoạn văn: Đoạn văn liền trước: 10,13-16; đoạn
văn phân tích: 10,17-31; và đoạn văn tiếp theo: 10,32-34. Đọc cả ba đoạn văn
này giúp độc giả đặt đoạn văn phân tích vào bối cảnh văn chương của nó, nhờ đó
hiểu được thông điệp của đoạn văn 10,17-31. Bản văn Tin Mừng Mác-cô lấy trong, Tin Mừng Mác-cô, Hy Lạp – Việt.
Xem quy định cách trình bày bản dịch trong phần trích đoạn sách.
Vương Quốc Thiên Chúa và trẻ em
13 Và họ dẫn đến với Người [Đức Giê-su] các trẻ em để Người chạm
vào chúng, nhưng các môn đệ la rầy chúng. 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bực mình và
nói với các ông: “Hãy để các trẻ em đến với Thầy, hãy đừng ngăn cấm chúng, vì
Vương Quốc của Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 15 A-men, Thầy nói
cho anh em: Người nào không đón nhận Vương Quốc Thiên Chúa như một trẻ em thì chắc chắn người ấy không được vào đó.” 16 Và Người
ôm lấy chúng, Người đặt tay ban phúc lành cho chúng.
2. Đoạn văn phân tích:
10,17-31, gồm 3 tiểu đoạn
a) 10,17-22: Làm gì để có sự sống đời đời?
17 Người vừa lên đường, một người chạy đến quỳ xuống trước Người
và hỏi Người: “Thưa Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để có sự sống đời đời làm
gia nghiệp?” 18 Đức Giê-su nói với người ấy: “Sao anh nói Tôi là tốt lành?
Không có ai tốt lành, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Anh biết các điều răn: Ngươi
không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không
làm hại ai, ngươi hãy thảo kính cha mẹ của ngươi.” 20 Anh ta xác nhận với
Người: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã giữ từ thời niên thiếu.” 21 Đức
Giê-su nhìn anh ta, Người yêu mến anh ta và nói với anh: “Anh còn thiếu một
điều: Anh hãy ra đi, hãy bán những gì anh có và cho người nghèo, anh sẽ có một
kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Tôi.” 22 Nhưng anh ta sầm mặt lại vì lời
ấy và anh ta buồn rầu bỏ đi, vì anh ta
có nhiều của cải.
b) 10,23-27: Khó vào Vương Quốc Thiên Chúa
23 Rảo mắt nhìn chung quanh, Đức Giê-su nói với các môn đệ của
Người: “Thật khó biết bao cho những người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa.”
24 Các môn đệ sững sờ về những lời của Người. Đức Giê-su lại lên tiếng nói với
các ông: “Các con ơi, thật là khó biết bao để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa. 25
Con lạc đà chui qua lỗ kim thì dễ hơn người giàu đi vào Vương Quốc Thiên Chúa.”
26 Các ông hết sức kinh ngạc nói với nhau: “Vậy thì ai có thể được cứu?” 27
Nhìn thẳng vào các ông, Đức Giê-su nói: “Đối với loài người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì mọi sự đều có thể
đối với Thiên Chúa.”
c) 10,28-31: Bỏ mọi sự sẽ được gấp trăm
28 Phê-rô lên tiếng nói với Người: “Thầy
coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy.” 29 Đức Giê-su xác nhận:
“A-men, Thầy nói cho anh em: Không ai bỏ nhà cửa, hay anh em, chị em, mẹ, cha,
con cái, ruộng đất, vì Thầy và vì tin mừng, 30 mà không nhận được gấp
trăm, bây giờ, trong thời gian này, nhà cửa và anh em, chị em, mẹ, con cái,
ruộng đất, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời trong thời đang đến. 31
Nhưng nhiều kẻ đứng đầu sẽ đứng chót và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu.”
3. Đoạn văn tiếp theo: 10,32-34. Báo
Thương Khó lần III
32 Họ đang trên đường đi lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su dẫn đầu
họ. Họ kinh hoàng, còn những kẻ theo sau thì sợ hãi. Người lại đem theo mình Nhóm
Mười Hai, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho Người: 33
“Này chúng ta đi lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và
các kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. 34 Họ sẽ
nhạo báng Người và sẽ khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn Người và sẽ giết chết Người, và sau ba ngày, Người sẽ
sống lại.”
II. Bối cảnh và cấu trúc Mc 10,17-31
1. Bối cảnh
Đoạn văn Mc 10,17-31 thuộc phần giảng dạy của Đức Giê-su về
Vương Quốc của Thiên Chúa. Đoạn văn trước đoạn văn này (10,13-16), thuật lại
giáo huấn của Đức Giê-su liên quan đến “trẻ em” và cách thức “vào Vương Quốc
Thiên Chúa”. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 10,14b-15: “Hãy để các trẻ
em đến với Thầy, hãy đừng ngăn cấm chúng, vì Vương Quốc của Thiên Chúa là của
những ai giống như chúng. 15 A-men, Thầy nói cho anh em: Người nào không đón
nhận Vương Quốc Thiên Chúa như một trẻ em thì chắc chắn người ấykhông được vào
đó.” Giáo huấn này nối kết với đề tài trong đoạn văn 10,17-31: “Có sự sống đời
đời làm gia nghiệp” (10,17) và “đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23.24.25.27).
Đoạn văn 10,17-31 nối tiếp bởi đoạn văn 10,32-34. Trong đoạn văn
này, Đức Giê-su và các môn đệ lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Trên đường đi, Đức
Giê-su báo trước lần thứ III cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người. Người nói
với các môn đệ: “Này chúng ta đi lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho
các thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân
ngoại. 34 Họ sẽ nhạo báng Người và sẽ khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn Người
và sẽ giết chết Người, và
sau ba ngày, Người sẽ sống lại” (10,33-34). Lời báo trước này nối kết với đoạn
văn trước nó qua ba đề tài: (1) Lời mời gọi từ bỏ mọi sự để theo Đức Giê-su,
(2) Sự bách hại được nói đến ở 10,30, (3) Nguyên tắc đảo ngược: “kẻ đứng đầu sẽ
đứng chót và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” ở 10,31. Nguyên tắc này có thể áp
dụng cho biến cố Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giê-su. Tóm lại, đoạn văn
10,17-31 liên kết chặt chẽ với đoạn văn trước (10,13-16) và đoạn sau (10,32-34).
2. Cấu trúc
Đoạn văn Mc 10,17-31 có thể cấu trúc thành ba tiểu đoạn và một
nguyên tắc đảo ngược.
Tiểu đoạn thứ nhất (10,17-22) thuật lại câu chuyện về một người
muốn có sự sống đời đời làm gia nghiệp. Khởi đầu xem ra đây là một người tốt
lành và đạo đức, bởi vì anh đã tuân giữ các điều răn (10,19) từ thời niên thiếu
(10,20). Tuy nhiên, khi Đức Giê-su đề nghị với anh ta: “Anh hãy ra đi, hãy bán
những gì anh có và cho người nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi hãy
đến theo Tôi”, anh ta đã từ chối và “buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của
cải” (10,22). Như thế, của cải có thể trở thành chướng ngại lớn cho quyết định
làm môn đệ Đức Giê-su. Đề tài “của cải” và “làm môn đệ” sẽ được phân tích trong
mục thứ nhất dưới đây.
Tiểu đoạn thứ hai (10,23-27) là phần Đức Giê-su nói với các môn
đệ sau khi người có nhiều của cải đã đi khỏi. Ý tưởng “thật là khó biết bao để
đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” được Đức Giê-su nói đến 2 lần (10,23.24). Sự khó
khăn này không chỉ đối với “người có của” mà còn mở rộng đến mọi người. Hơn
nữa, không chỉ là “khó” mà Đức Giê-su còn nhấn mạnh qua lời nói: “Con lạc đà
chui qua lỗ kim thì dễ hơn người giàu đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,25).
Như thế, trước là “khó vào”, sau là “không thể vào”, nhưng “mọi sự đều có thể
đối với Thiên Chúa” (10,27). Tại sao “vào Vương Quốc Thiên Chúa” lại khó khăn
như thế? Đề tài “có sự sống đời đời làm gia nghiệp” hay “vào Vương Quốc Thiên
Chúa” sẽ được trình bày trong mục thứ hai.
Trong tiểu đoạn thứ ba (10,28-30), Đức Giê-su hứa phần thưởng
cho những ai đã bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giê-su (10,28). Phần thưởng dành cho
các môn đệ vừa ở hiện tại: “trong thời gian này” (10,30a) vừa ở tương lai:
“trong thời đang đến” (10,30b). Tại sao mạch văn đang nói đến phần thưởng gấp
trăm lại nói đến “cùng với sự ngược đãi” (10,30)? Sự nghịch lý này sẽ được bàn
tới trong mục thứ ba: “Phần thưởng dành cho các môn đệ”.
Câu cuối cùng của đoạn văn 10,17-31 là một nguyên tắc đảo ngược:
“Nhiều kẻ đứng đầu sẽ đứng chót và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” (10,31). Ai
là người đứng đầu? Ai là người đứng chót? Câu nói trên của Đức Giê-su sẽ được
phân tích trong mục thứ tư.
III. Phân tích
Chúng tôi sẽ phân tích đoạn văn 10,17-31 theo diễn tiến của
trình thuật qua bốn mục: (1) Của cải và làm môn đệ Đức Giê-su (10,17-22); (2)
Vào Vương Quốc Thiên Chúa (10,23-27); (3) Phần thưởng dành cho các môn đệ
(10,28-30); (4) Nguyên tắc đảo ngược: “Kẻ đứng đầu sẽ đứng chót và những kẻ
đứng chót sẽ đứng đầu” (10,31).
1. “Của cải” và “làm môn đệ Đức Giê-su” (10,17-22)
Trình thuật bắt đầu khi có một người chạy đến quỳ xuống và hỏi
Đức Giê-su: “Thưa Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia
nghiệp?” (10,17) Để trả lời câu hỏi này, Đức Giê-su nói đến hai ý tưởng. Trước
hết, Đức Giê-su dành cho Thiên Chúa phẩm chất “tốt lành”. Người nói với anh ta:
“Sao anh nói Tôi là tốt lành? Không có ai tốt lành, trừ một mình Thiên Chúa”
(10,18b). Trong truyền thống Do Thái, phẩm chất “tốt lành” dành cho Thiên Chúa
và cũng được áp dụng cho những thực tại khác (xem St 1,4.10.12.18; v.v…). Ở đây
(Mc 10,18) lời nói của Đức Giê-su gợi đến điều răn nền tảng trong sách Đệ Nhị
Luật: “4 Nghe
đây, hỡi Ít-ra-en ! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. 5 Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên
Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em)” (Đnl 6,4-5, NPD/CGKPV).
J. Marcus viết về liên hệ trong câu trả lời của Đức Giê-su với 10 điều răn như
sau: “[Điều răn đứng đầu này (Đnl 6,4-5)] được người Do Thái và Ki-tô hữu thời
sơ khai xem như tương đương với phần đầu của 10 điều răn [phiến đá thứ nhất của
Thập Điều], trong đó nói về tương quan giữa con người và Thiên Chúa. Phần thứ
hai của câu trả lời [10,19] trích dẫn từ phần thứ hai của 10 điều răn [phiến đá
thứ hai của Thập Điều], trong đó nói đến tương quan giữa người với người” (J.
MARCUS, Mark 8–16, 2009, tr. 725). Trong phần mở đầu
cuộc đối thoại ở Mc 10,17-18, Đức Giê-su dành phẩm chất “tốt lành” cho một mình
Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của mọi sự tốt lành và là Đấng duy nhất có thể
ban tặng “sự sống đời đời” (10,17). Qua lời xác nhận nguồn gốc của sự tốt
lành, Đức Giê-su đã hướng người muốn “có sự sống đời đời làm gia nghiệp”
về phía Thiên Chúa, bởi vì trước hết, “có sự sống đời đời” hay “vào Vương Quốc
Thiên Chúa” là quà tặng của Thiên Chúa.
Việc tuân giữ các điều răn của anh ta được trình bày trong phần
đầu trình thuật (10,19-20). Chỉ đến cuối câu chuyện, độc giả mới biết “anh ta
có nhiều của cải” (10,22b). Mở đầu câu chuyện, anh ta được trình bày như là một
người tốt và đạo đức, bởi vì anh ta đã tuân giữ rất tốt các điều răn về tương
quan giữa người với người. Ngay từ thời niên thiếu (10,20), anh ta đã “không
giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm
hại ai, thảo kính cha mẹ” (10,19). Trong danh sách các điều răn này, Đức Giê-su
đã thay đổi thứ tự của điều răn thứ năm: “ngươi hãy thảo kính cha mẹ của ngươi”
trong danh sách Mười Điều Răn ở Xh 20,12-16; Đnl 5,16-20. Vì thế, thứ tự các
điều răn ở Mc 10,19 là 6, 7, 8, 9, 10, 5. Phần trình thuật tiếp theo cho thấy
việc tuân giữ cẩn thận các điều răn trên đây chưa đủ để “có sự sống đời đời làm
gia nghiệp” (10,17). Đức Giê-su nói với anh ta: “Anh còn thiếu một điều”. Điều
còn thiếu này gợi ý rằng việc tuân giữ điều răn của người này chưa trọn vẹn.
Thật trớ trêu khi người này dường như đã có tất cả (đạo đức và của cải), nhưng
lại thiếu một điều quan trọng. Đó là điều gì?
Đức Giê-su đề nghị anh ta thực hiện điều còn thiếu: “Anh hãy ra
đi, hãy bán những gì anh có và cho người nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên
trời, rồi hãy đến theo Tôi” (10,21b). Có hai hướng di chuyển trong lời đề nghị
của Đức Giê-su: “HÃY ĐI” và “HÃY ĐẾN”. Lời mời gọi “hãy ra đi, hãy bán những gì
anh có và cho người nghèo” làm cho anh ta không còn của cải gì nữa, nhưng anh
ta sẽ “có một kho tàng trên trời” (10,21b). Nghĩa là anh ta lại trở nên giàu có,
vì có cả “một kho tàng”, nhưng đây là kho tàng trên trời chứ không phải là kho
tàng ở trần gian này. Sự thay đổi từ “kho tàng trần thế” thành “kho tàng trên
trời” làm cho anh ta được tự do, không còn bị ràng buộc vào của cải trần thế
nữa. Nhờ đó anh ta có thể đến và đi theo Đức Giê-su (10,21c).
Trong truyền thống Cựu Ước, giàu có và của cải vật chất được xem
là ân huệ Thiên Chúa ban (xem G 1,10; Tv 128,1-2; Is 3,10). Một người đạo đức
thường mong ước trở nên thịnh vượng, phát đạt, rồi từ đó chia sẻ và giúp đỡ
những người khác, và họ trở thành ân nhân của những người nghèo khổ (xem G
1,1-5; 29,1-25). Thông thường người làm ơn sẽ trở thành ân nhân và được những
người thụ ơn kính trọng và biết ơn. Những người chia sẻ của cải của họ cho
người khác còn được tiếng tốt trong xã hội. Tuy nhiên, trong trường hợp Mc
10,21, Đức Giê-su không đề nghị anh ta chia sẻ của cải cho những người túng
thiếu để trở thành ân nhân của họ. Trong bản văn, Đức Giê-su đề nghị anh ta từ
bỏ tất cả của cải anh ta có, làm một lần cho tất cả, và như thế, anh ta cũng
mất luôn khả năng trở thành “ân nhân”, vì sau đó anh ta chẳng còn của cải gì
nữa để ban phát. Anh ta phải lựa chọn một trong hai điều này: Giữ lấy
nhiều của cải của mình hay đi theo Đức Giê-su và làm môn đệ của Người. Trong bối
cảnh thời Đức Giê-su, Người mời gọi anh ta giải thoát khỏi mọi thứ ràng buộc để
có thể tự do đi theo Người, đó là cuộc sống nay đây mai đó trong hành trình đi
rao giảng. Người “có nhiều của cải” không thích hợp với lối sống này.
Đáng tiếc là anh ta muốn giữ lấy “nhiều của cải” của anh ta,
điều này làm cho anh ta không thể đi theo Đức Giê-su và trở thành môn đệ của
Người được. Trường hợp này gợi ý rằng người “có nhiều của cải” có thể dành suy
nghĩ và năng lực của mình để thu tích của cải và xem nhẹ việc tìm kiếm Vương
Quốc Thiên Chúa. Khi sự giàu có, quyền lực làm nẩy sinh an toàn giả tạo nơi con
người, thì Đức Giê-su lại loại bỏ chúng và xem như đó là một trong những điều
kiện để vào Vương Quốc Thiên Chúa.
Trên bình diện văn chương, sự thay đổi nhanh chóng từ nhiệt tình
hăm hở “chạy đến quỳ xuống trước Đức Giê-su và hỏi Người “phải làm gì để có sự
sống đời đời làm gia nghiệp” đến thái độ “sầm mặt lại” và “buồn rầu bỏ đi” là
một trong những nét độc đáo trong nghệ thuật hành văn của Tin Mừng Mác-cô.
2. Vào Vương Quốc của Thiên
Chúa (10,23-27)
Sau khi người “có nhiều của cải” “buồn rầu bỏ đi” (10,22), Đức
Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh và nói với các môn đệ: “Thật khó biết bao
cho những người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23). Sự ngạc nhiên của
các môn đệ tăng lên với những lời tuyên bố của Đức Giê-su. Những lời khẳng định
của Đức Giê-su tiến triển từ “khó” đến “không thể” vào Vương Quốc Thiên Chúa.
Điều này không chỉ áp dụng cho “người có của cải” mà còn áp dụng cho tất cả mọi
người. Những ý tưởng này thể hiện qua cấu trúc đoạn văn 10,23-27:
Cấu trúc trên cho thấy ba ý chính trong đoạn văn 10,23-27. Phần
thứ nhất (10,23-24) nói đến ý tưởng “khó” vào Vương Quốc của Thiên Chúa. Trước
hết là “khó cho những người có của cải”, Đức Giê-su tuyên bố: “Thật khó biết
bao cho những người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23), kế đến là
“khó cho mọi người”, vì Đức Giê-su nói: “Các con ơi, thật là khó biết bao để đi
vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,24b). Câu này xuất hiện trong nhiều thủ bản Hy
Lạp cổ. Một số thủ bản khác viết: “Các con ơi, thật là khó cho những kẻ cậy dựa
vào của cải để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,25), có lẽ cụm từ “những kẻ
cậy dựa vào của cải” đã được thêm vào để trùng khớp với ý lời Đức Giê-su đã nói
trước đó ở 10,23 (xem chi tiết các thủ bản ở chú thích Mc 10,24 trong Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt).
Chúng tôi theo bản văn Hy Lạp Mc 10,24 của Nestle-Aland, Novum Testamentum Graece, (27th Revised Edition), Stuttgart,
Deutsche Bibelgesellschaft, 1996: “Thật là khó biết bao để đi vào Vương Quốc
Thiên Chúa” (10,24b). Trong trường hợp này, sự khó khăn để vào Vương Quốc Thiên
Chúa được mở rộng đến mọi người. Ở giữa hai khẳng định: “Khó cho những người có
của cải” và “khó cho mọi người” là sự “sững sờ kinh ngạc” của các môn đệ
(10,24a).
Phần thứ hai (10,25-26) có ý tưởng chính là “không thể” vào
Vương Quốc Thiên Chúa. Trước hết là “không thể” cho người giàu. Ý tưởng “không
thể” diễn tả qua câu nói của Đức Giê-su: “Con lạc đà chui qua lỗ kim thì dễ hơn
người giàu đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,25). Lạc đà là thú vật nuôi lớn
nhất ở vùng Pa-lét-tin biểu thị cho hình dạng to lớn, trong khi lỗ kim biểu thị
cho cái nhỏ nhất. Việc “con lạc đà chui qua lỗ kim” là điều “không thể”. Hơn
nữa, ý tưởng “người giàu “không thể” vào Vương Quốc Thiên Chúa còn được nhấn
mạnh vì “con lạc đà chui qua lỗ kim” còn dễ hơn, nghĩa là “hoàn toàn không thể”.
Có lẽ ngạc nghiên bởi sự cường điệu quá mức giữa “con lạc đà” và
“lỗ kim” nên một số thủ bản Hy Lạp cố gắng làm giảm bớt sự tương phản, để cái
“không thể” trở thành “khả thể” hơn một chút. Thực vậy, một số thủ bản Hy Lạp đã
thay thế danh từ Hy Lạp “kamêlon” (con lạc đà, camel) bằng từ gần giống:
“kamilon” (giây thừng, rope). Cho dù, xỏ dây thừng qua lỗ kim cũng là việc
không thể làm được, nhưng dù sao cũng không đến nỗi cường điệu như hình ảnh
“con lạc đà chui qua lỗ kim.” Giải thích khác cho rằng ở Giê-ru-sa-lem đã từng
có cổng thành mang tên “lỗ kim” (Eye of the Needle Gate), đây là cách giải
thích giảm nhẹ sự tương phản và thiếu cơ sở. J. R. Donahue and D. J. Harrington
nhận định: “Ý tưởng về hiện hữu một ‘cổng thành lỗ kim’ (Eye of the Needle
Gate) hay ‘cổng thành lạc đà’ (Camel’s Gate) ở Giê-ru-sa-lem là không có nền
tảng lịch sử và cũng chỉ để giảm nhẹ sự cường điệu” (J. R. DONAHUE; D. J.
HARRINGTON, Gospel of Mark, 2002, p. 304). Cũng vậy, theo P.
Minear, những cách hiểu trên đây là “thu nhỏ con lạc đà và mở rộng lỗ kim” (P. MINEAR,
“Needle’s eye”, p. 169).
Thực ra, câu nói của Đức Giê-su về tương quan giữa “lạc đà – lỗ
kim” và “người giàu vào Vương Quốc Thiên Chúa” là phù hợp với bối cảnh văn
chương của đoạn văn 10,17-31. So sánh của Đức Giê-su qua hình ảnh “con lạc đà
chui qua lỗ kim thì dễ hơn người giàu đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,25) là
nhấn mạnh thêm ý tưởng Người đã nói trước đó: “Thật khó biết bao cho những
người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23). J. Marcus nối kết hình ảnh
“lạc đà” và “của cải” như sau: “Đã không thể thực hiện được việc một con vật lớn chuiqua lỗ kim, lại còn trở nên vô lý hơn nữa khi con vật được chất đầy tài sản” (J. MARCUS, Mark
8–16, 2009, tr. 731). Như cấu
trúc cho thấy, câu nói của Đức Giê-su về con lạc đà và lỗ kim đã làm cho các
môn đệ “hết sức kinh ngạc nói với nhau: ‘Vậy thì ai có thể được cứu?’” (10,26).
Trong câu hỏi này, các môn đệ đã mở rộng sự “không thể” đến tất cả mọi người
khi dùng đại từ “ai”.
Trước sự “khó khăn” rồi “không thể” “vào Vương Quốc Thiên Chúa”,
không chỉ đối với người giàu mà còn đối với tất cả mọi người, Đức Giê-su đưa ra
lời giải đáp tích cực, mở lối hy vọng cho con người: “Đối với loài người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì mọi sự đều có thể
đối với Thiên Chúa” (10,27). Đây là ý tưởng nền tảng và quan trọng, bởi vì
trước hết “vào Vương Quốc Thiên Chúa” là quà tặng của Thiên Chúa. Thực vậy,
trong đoạn văn trước đoạn văn 10,17-31, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ về trẻ
em và Vương Quốc Thiên Chúa: “14b Hãy để các trẻ em đến với Thầy, hãy đừng ngăn
cấm chúng, vì Vương Quốc của Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. 15
A-men, Thầy nói cho anh em: Người nào không đón nhận Vương Quốc Thiên Chúa như
một trẻ em thì chắc chắn người ấykhông được vào
đó” (10,14b-15). Lời khẳng định này cho thấy con người chỉ có thể vào Vương
Quốc Thiên Chúa bằng cách đón nhận điều ấy như là quà tặng của Thiên Chúa.
Trước sự bất lực của con người để vào Vương Quốc Thiên Chúa, giải pháp là “mọi
sự đều có thể đối với Thiên Chúa” (10,27b). Quyền năng của Thiên Chúa và quà
tặng của Người nối kết với đoạn văn trước (10,17-22) nhằm trả lời cho câu hỏi:
“Phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (10,17b)
Nói cách khác, mọi người điều có thể vào Vương Quốc của Thiên
Chúa nếu như họ không để của cải làm cản trở đến quyết định ĐẾN VỚI Đức Giê-su,
ĐI THEO Người và TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ của Người. Làm môn đệ Đức Giê-su hàm ẩn tuân
giữ giáo huấn và các điều răn của Người, đồng thời con người cần mở lòng ra đón
nhận quà tặng của Thiên Chúa. Trong đoạn văn tiếp theo (10,28-30), giọng văn có
phần lạc quan hơn về phía con người. Thực vậy, các môn đệ đã từ bỏ mọi
sự, nhưng họ không những không mất gì cả mà còn nhận lại được gấp trăm.
3. Phần thưởng
dành cho môn đệ (10,28-30)
Lời Phê-rô nói với Đức Giê-su: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà đi
theo Thầy”, tương phản với quyết định bỏ đi của “người có nhiều của cải” trong
đoạn văn 10,17-22. Thực vậy, khi Đức Giê-su đề nghị anh ta từ bỏ của cải để
theo Người, người thuật chuyện cho biết: “Anh ta sầm mặt lại vì lời ấy và anh ta buồn rầu bỏ đi” (10,22).
Người này đã từ chối trở thành môn đệ Đức Giê-su, anh ta không muốn “từ bỏ mọi
sự mà đi theo Đức Giê-su”, như trong lời nói của Phê-rô.
Câu trả lời của Đức Giê-su cho các môn đệ ở 10,29-30 mô tả tương
phản mạnh mẽ khác: Các môn đệ từ bỏ mọi sự để theo Đức Giê-su, nhưng họ không
mất gì cả, ngược lại họ nhận được gấp trăm những thứ mà họ đã từ bỏ. Tìm hiểu
cấu trúc lời Đức Giê-su tuyên bố ở 10,29-30 sẽ cho thấy nhiều điểm thú vị.
Những ý tưởng ở 10,29 song song với 10,30. Phần đầu (10,29) gồm
8 yếu tố. Phần sau (10,30) chia thành hai giai đoạn: (I) “Bây giờ, trong thời
gian này” và (II) “trong thời đang đến”. Danh sách phần thưởng “trong thời này”
song song với 8 yếu tố trong phần thứ nhất (10,29), ngoại trừ yếu tố thứ 5
không có trong phần sau (yếu tố 5’ ở 10,30). Thực vậy, yếu tố “cha” trong danh
sách từ bỏ (yếu tố 5 ở 10,29), không xuất hiện trở lại trong danh sách “nhận
lại”, cấu trúc trên cho thấy yếu tố 5’ bỏ trống. Một chi tiết khác là yếu tố 8’
ở 10,30: “cùng với sự ngược đãi” không phải là phần thưởng. Bốn điểm dưới đây
sẽ nhận xét về cấu trúc cũng như giải thích những điểm lạ thường trong cấu trúc
trên.
(1) Cấu trúc song song giữa 10,29 và 10,30 nhấn mạnh ý tưởng
này: Khi các môn đệ bỏ mọi sự để theo Đức Giê-su thì họ không mất gì cả mà còn
nhận lại được gấp trăm. Điều này diễn tả qua việc những yếu tố trong “danh sách
từ bỏ” (10,29) sẽ được thay thế bằng các yếu tố tương tự trong “danh sách nhận
lại gấp trăm” (10,30).
(2) Tại sao không có yếu tố 5’ (10,30) song song với yếu tố 5
(yếu tố “cha”) ở 10,29? Có thể giải thích rằng Thiên Chúa là “Cha” của các môn
đệ, thay thế cho “cha” trần thế. Thực vậy, ở Mc 11,25, Đức Giê-su dạy các môn
đệ cầu nguyện như sau: “Khi anh em đứng cầu nguyện, anh em hãy tha thứ nếu anh
em có gì bất bình với người nào, để Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, cũng
tha cho anh em những lỗi lầm của anh em” (11,25). “Cha của anh em, Đấng ngự
trên trời” là Cha của các môn đệ Đức Giê-su.
Đồng thời, hình ảnh “cha” cũng có thể áp dụng cho chính Đức
Giê-su. Danh từ Hy Lạp “teknon” (con) ở số nhiều: “tekna” (các con, con cái)
xuất hiện 2 lần ở 10,29 và 10,30 trong các yếu tố song song: 6 // 6’. Yếu tố
“con cái” này trình bày cùng với các yếu tố khác trong quan hệ gia đình: “cha”,
“mẹ”, “anh em”, “chị em”. Điều lạ lùng là Đức Giê-su cũng dùng từ “tekna” (các
con, con cái) để gọi các môn đệ ở 10,24. Người nói với các môn đệ: “Các con ơi
(tekna), thật là khó biết bao để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,24).
Có thể hiểu rằng, vào thời điểm biên soạn Tin Mừng Mác-cô, Đức
Giê-su đã được cộng đoàn tuyên xưng là Chúa, Người thực là Con Thiên Chúa
(15,39), và sau biến cố Thương Khó – Phục Sinh, Đức Giê-su “được đưa lên trời
và ngự bên hữu Thiên Chúa” (16,19). Đức Giê-su là đối tượng niềm tin của cộng
đoàn, nên hình ảnh “Cha” có thể được gán cho Đức Giê-su qua cách Người xưng hô
với các môn đệ: “các con” (10,24).
(3) Cụm từ “cùng với sự ngược đãi” (yếu tố 8’) ở 10,30 không
phải là phần thưởng, đồng thời làm gián đoạn các yếu tố tích cực. Tuy vậy, sự
xuất hiện yếu tố “ngược đãi” có ý nghĩa quan trọng. Yếu tố 8’ ở 10,30 này song
song với yếu tố 8 ở 10,29: “vì Thầy và vì tin mừng”. Trong thế gian này, các
môn đệ có thể bị ngược đãi, bị bách hại “vì Đức Giê-su và vì tin mừng.” Sự xuất
hiện yếu tố 8’: “cùng với sự ngược đãi” nhắc nhở cộng đoàn môn đệ rằng việc
tham dự vào Vương Quốc Thiên Chúa bây giờ, không loại bỏ mầu nhiệm thập giá.
Đối với các môn đệ, những phần thưởng “trong thời gian này” và “trong thời đang
đến” (10,30) là quá lớn lao và quá tuyệt vời, không thể so sánh được với bất kỳ
thứ gì khác. Vì thế, người môn đệ dám hy sinh tất cả mọi thứ khác, kể cả mạng
sống của mình khi cần thiết “để có sự sống đời đời làm gia nghiệp” (10,17).
(4) Có sự tương phản đáng chú ý giữa (a) sự quá phong phú của
các phần thưởng “bây giờ, trong thời gian này” với 6 yếu tố và nhận được
gấp trăm: “nhà cửa và anh em, chị em, mẹ, con cái, ruộng đất” (10,30a) với (b)
chỉ duy nhất một phần thưởng “trong thời đang đến” là “sự sống đời đời”
(10,30b). Sự tương phản này làm nổi bật phần thưởng quý giá nhất là “sự sống
đời đời”, như thể chỉ một phần thưởng “sự sống đời đời” đã có giá trị hơn tất
cả những phần thưởng khác “bây giờ, trong thời gian này.” Như thế, những phần
thưởng gấp trăm trong thời gian này là sự nếm hưởng trước phần thưởng “sự sống
đời đời” trong thời đang đến. Nói cách khác, “Danh sách phần thưởng mô tả sự mở
đầu hay tham dự vào những khía cạnh của Vương Quốc Thiên Chúa, đã được trải
nghiệm trong cộng đoàn Ki-tô hữu” (J. R. DONAHUE; D. J. HARRINGTON, Gospel of Mark, 2002, tr. 305-306).
4. Nguyên tắc:
“Đứng đầu – đứng chót” (10,31)
Lời nói của Đức Giê-su ở 10,31: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ đứng chót
và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” như thể là một lời độc lập, bị lạc khỏi bối
cảnh văn chương của nó và được đặt vào đây (10,31). Tuy nhiên, nếu liên kết lời
này (10,31) với bối cảnh văn chương trước (10,17-30) và sau (10,32-34) nó, thì
đây là nguyên tắc quan trọng với nhiều cách áp dụng. Thực vậy, nguyên tắc đảo
ngược (10,31) có thể áp dụng cho “người có nhiều của cải”, cho các môn đệ, và
ngay cả có thể áp dụng vào cuộc đời Đức Giê-su. Từ Hy Lạp: “nhiều người”
(polloi) ở đầu câu 31 chỉ ra rằng, không phải tất cả “đứng đầu sẽ đứng chót” mà
là “nhiều người”. Có thể áp dụng nguyên tắc đảo ngược này theo hai nhóm: (1)
Đảo ngược một chiều gồm hai ý: (a) “đứng đầu sẽ đứng chót”, (b) “đứng chót sẽ đứng
đầu”. (2) Đảo ngược hai chiều: “Đứng đầu sẽ đứng chót, sau đó, đứng chót sẽ
đứng đầu”.
(1) Đảo ngược một chiều
(a) Đảo ngược một chiều thứ nhất “kẻ đứng đầu sẽ đứng chót” có
thể áp dụng cho người giàu hay cho các môn đệ. Đối với người có nhiều của cải
như ở 10,22, nếu họ chỉ cố gắng làm họ thành “kẻ đứng đầu” bằng cách thu tích
và trông cậy vào của cải “trong thời gian này” (đời này), họ sẽ trở thành “kẻ
đứng chót” “trong thời đang đến” (đời sau).
Đối với các môn đệ, những phần thưởng “trong thời này” (10,30)
có thể xem là những giá trị cao quý. Tuy nhiên, nguyên tắc “kẻ đứng đầu sẽ đứng
chót” có thể hiểu như lời cảnh báo về sự kiêu căng tự mãn của các môn đệ trong
cộng đoàn. Một số môn đệ có thể tự mãn về những phần thưởng “trong thời này”,
và nghĩ rằng họ là “người đứng đầu”. Trong trường hợp này, họ sẽ trở thành
“đứng chót” “trong thời đang đến” theo nguyên tắc đảo ngược “kẻ đứng đầu sẽ
đứng chót”. Chẳng hạn, khi các môn đệ tranh luận với nhau ai là người lớn nhất
(Mc 9,34), nghĩa là ai cũng muốn làm “người đứng đầu”, Đức Giê-su nói với các
môn đệ: “Nếu ai muốn là người đứng đầu, sẽ là người đứng sau mọi người và là người phục vụ mọi người” (9,35).
Thực ra, bất cứ ai, kể cả các môn đệ, đều có thể bị cám dỗ trở thành “kẻ đứng
đầu” trong thế gian này.
(b) Đảo ngược một chiều thứ hai “kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” có
thể áp dụng cho hoàn cảnh của các môn đệ. Họ là những người đã từ bỏ mọi sự để
theo Đức Giê-su. Họ trở thành “kẻ đứng chót”, vì thế, theo nguyên tắc đảo
ngược, họ sẽ trở thành “kẻ đứng đầu”, họ được thừa hưởng một gia đình mới là
cộng đoàn Hội Thánh và có Cha là Thiên Chúa. Với những phần thưởng như đã phân
tích, các môn đệ trở thành “kẻ đứng đầu” “trong thời gian này” và thừa hưởng
“sự sống đời đời” “trong thời đang đến” (Mc 10,30).
(2) Đảo ngược hai chiều
Đảo ngược hai chiều “kẻ đứng đầu sẽ đứng chót”, “kẻ đứng chót sẽ
đứng đầu” có thể áp dụng cho cuộc đời của Đức Giê-su và của các môn đệ. Trong
mạch văn 10,17-31, nguyên tắc đảo ngược (10,31) được đặt ngay sau ý tưởng các
môn đệ bị ngược đãi (10,30) và được đặt ngay trước lời Đức Giê-su báo trước
Thương Khó và Phục Sinh của Người (10,32-34). Đức Giê-su nói với Nhóm Mười Hai
ở 10,33-34: “Này chúng ta đi lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các
thượng tế và các kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người
và sẽ nộp Người cho dân ngoại. 34 Họ sẽ nhạo báng Người và sẽ
khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn Người và sẽ giết chết Người, và sau ba ngày, Người sẽ
sống lại.”
Đức Giê-su là “Đấng đứng đầu”, Người là Con Thiên Chúa, nhưng đã
trở nên “đứng chót” vì đã chịu đau khổ và chết trên thập giá. Nhưng theo vế thứ
hai của nguyên tắc đảo ngược “kẻ đứng chót sẽ đứng đầu”, biến cố Phục Sinh đã
làm cho Đức Giê-su trở thành “Đấng đứng đầu”. Các môn đệ cũng theo tiến trình
này trong hoàn cảnh bị ngược đãi và bách hại. Họ trở thành “kẻ đứng chót” khi
đi theo Đức Giê-su trên con đường thập giá. Vì trung tín với Đức Giê-su cho đến
chết, họ sẽ được phục sinh và sống hạnh phúc trong Vương Quốc Thiên Chúa.
Tóm lại, cuộc đời của Đức Giê-su và của các môn đệ có thể áp
dụng vào nguyên tắc đảo ngược hai chiều: Từ “đứng đầu” trở thành “đứng cuối” để
rồi sau đó lại được nâng lên thành “đứng đầu”. Trong mạch văn 10,17-31, nguyên
tắc này cũng có thể áp dụng cho mọi người. Thay vì trở nên “kẻ đứng đầu” bằng
cách thu tích của cải và dựa trên những giá trị trần thế chóng qua, Đức Giê-su
mời gọi mọi người can đảm trở thành “kẻ đứng chót”, đi theo Người và làm môn đệ
của Người để trở thành “kẻ đứng đầu”.
IV. Kết luận
Trong đoạn văn Mc 10,17-31, trước hết, Đức Giê-su trả lời câu
hỏi của người đã chạy đến quỳ xuống trước Người và hỏi: “Thưa Thầy tốt lành,
tôi phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (10,17) trong tiểu đoạn
10,17-22. Kế đến, Đức Giê-su nói về tình trạng của các môn đệ là những người đã
bỏ mọi sự để theo Đức Giê-su (10,28-30). Đoạn văn ở giữa (10,23-37) bàn về
“không thể” và “có thể” vào Vương Quốc Thiên Chúa. Điều này không chỉ liên quan
đến người giàu mà còn liên quan đến tất cả mọi người. Đoạn văn kết thúc với
nguyên tắc đảo ngược (10,31) có thể áp dụng nhiều cách khác nhau.
Những đề tài trên vẫn mang tính thời sự. Ý nghĩa của đoạn văn
trên đây, trước hết là thông điệp dành cho cộng đoàn Mác-cô vào cuối thế
Điểm nổi bật nhất trong câu chuyện là lời mời gọi đi theo Đức
Giê-su và trở thành môn đệ của Người. Tất cả những thứ làm cản trở tiến trình
“trở thành môn đệ” được đặt vào hàng thứ yếu. Trong viễn cảnh này, J. MARCUS
viết: “Trở nên giàu có không phải là điều xấu, nhưng là trông cậy vào sự giàu
có của mình (cf. 1 Tim 6,17)” (J. MARCUS,Mark 8–16, 2009, tr. 730). Như thế, cụm từ
“người có của” trong câu Đức Giê-su nói: “Thật khó biết bao cho những người có
của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23) có thể hiểu theo nghĩa: “người tin
cậy vào của cải” (those who trust in riches). Theo mạch văn, ý tưởng “tin cậy vào của cải” có thể hiểu theo nghĩa rộng. Đó là
tin tưởng và trông chờ vào của cải vật chất, vào tài năng, vào quyền lực, danh
tiếng, vào sự thành công trong cuộc sống, ngay cả cậy dựa và tự mãn về những
giá trị tinh thần mình có. Tất cả những điều này có thể cản trở quyết định “ĐẾN
VỚI” và “ĐI THEO” Đức Giê-su.
Ý tưởng quan trọng khác trong đoạn văn Mc 10,23-37 là từ “khó
khăn” đến “không thể” vào Vương Quốc Thiên Chúa, và không chỉ áp dụng cho những
người giàu mà còn áp dụng cho tất cả mọi người. Khẳng định này nhắc nhở mọi
người rằng, “Vương Quốc Thiên Chúa” trước hết là quà tặng của Thiên Chúa.
“Không thể” đối với con người nhưng “mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa”
(10,27b). Vì thế, con người cần mở lòng ra đón nhận quà tặng của Thiên Chúa và
thực hiện giáo huấn của Đức Giê-su. Nói cách khác, bất cứ ai can đảm từ bỏ mọi
thứ để trở thành môn đệ Đức Giê-su, người ấy sẽ nhận lại được gấp trăm “bây
giờ, trong thời gian này” và “sự sống đời đời trong thời đang đến” (10,30).
Phần thưởng này thực sự quá lớn lao đến nỗi người môn đệ chấp nhận hy sinh tất
cả mọi thứ khác, ngay cả hiến dâng mạng sống mình nếu cần thiết, vì Đức Giê-su
và vì tin mừng (xem bài viết “Tin mừng trong sách Tin Mừng
Mác-cô”). Đó là nguyên tắc đảo ngược trong giáo huấn của Đức Giê-su:
“Kẻ đứng đầu sẽ đứng chót và những kẻ đứng chót sẽ đứng đầu” (10,31)./.
Thư mục
DONAHUE, J. R.; HARRINGTON, D. J., The Gospel of Mark, (Sacra Pagina 2), Collegeville
(MN), The Liturgical Press, 2002, xv, 488 p.
MANN, C. S., Mark,
A New Translation With Introduction and Commentary, (Anchor Bible 27),
MARCUS, J., Mark
8–16, A New Translation with Introduction and Commentary, (Anchor Yale Bible 27A),
P. MINEAR, “Needle’s eye”, JBL 61 (1942) 157-169.
Ngày 07 tháng 10 năm 2012
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/10/mc-1017-31-tu-bo-moi-su-e-nhan-lai-gap.html