Trong bốn Tin Mừng, chỉ có Tin Mừng Gio-an
nói đến Đấng Pa-rác-lê (tiếng Hy Lạp: Paraklêtos,
Anh: the Paralete, Pháp: le Paraclet). Trong toàn bộ Kinh Thánh danh xưng
Pa-rác-lê chỉ xuất hiện 4 lần trong Tin Mừng Gio-an (Ga 14,16.26; 15,26; 16,7)
và 1 lần trong thư thứ nhất Gio-an (1Ga 2,1). Ở 1Ga 2,1, “paraklêtos” áp dụng
cho Đức Giê-su, khác với “paraklêtos” trong Tin Mừng Gio-an được đồng hóa “Thần
Khí sự thật” (to pneuma tês alêtheias) và “Thánh Thần” (to pneuma to hagion).
Vai trò của Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng Gio-an được trình bày qua năm đoạn
văn: (1) 14,15-17; (2) 14,25-26; (3) 15,26-27; (4) 16,7-11; (5) 16,12-15. Cả
năm đoạn văn này thuộc về Ga 14–16. Chi tiết các đoạn văn này sẽ trình bày
trong phần phân tích dưới đây.
Các bản dịch Kinh Thánh dùng nhiều từ khác
nhau để nói về Đấng Pa-rác-lê (Paraklêtos). Chẳng hạn, tiếng
Việt: “Đấng Bảo Trợ” (NPD/CGKPV); “Đấng Bàu Chữa” (Nguyễn Thế Thuấn, 1976); tiếng Pháp: “Le
Consolateur” (Louis Segond, 1910); tiếng Anh: “The Comforter” (KJV, 1997), “the Counsellor” (NIV, 1984); “the Helper” (NKJV, 1982); “the Advocate” (NRS, 1989). Một số bản dịch tiếng Việt dùng
từ: “Đấng Bảo Trợ”, “Đấng Bàu Chữa”. Chúng tôi đề nghị không dịch từ
“paraklêtos” mà giữ nguyên ngữ và chuyển âm tiếng Việt: (Đấng) Pa-rác-lê.
Tại sao lại giữ nguyên ngữ? Để tìm hiểu về Đấng Pa-rác-lê và trả lời câu hỏi
này, phần sau sẽ trình bày bốn mục: (1) Nghĩa của từ paraklêtos trong văn
chương Hy Lạp; (2) Nghĩa của từ paraklêtos trong Tin Mừng thứ tư; (3) So sánh
hai nghĩa trên để kết luận: không thể dịch được từ “paraklêtos” trong Tin Mừng
thứ tư; (4) Tiếng Hy Lạp “Paraklêtos” và chuyển âm tiếng Việt: “Đấng Pa-rác-lê”.
1) “Paraklêtos” trong văn chương Hy Lạp
Trong văn chương Hy-lạp, danh từ paraklêtos
chỉ một người bênh vực (défenseur), một luật sư (avocat). Philon
d’Alexandrie viết: “Bạn không có chút thuận lợi nào để mong chờ ở người
nắm quyền lực. Chúng ta phải tìm một người bênh vực (paraklêton) có toàn quyền
để làm cho Caius [Hoàng đế Caligula] thuận theo chúng ta” (In Flaccum, 22. Trích dẫn lấy trong Les œuvres de Philon
d’Alexandrie, XXXI, In Flaccum [dịch giả: A. PELLETIER], Paris, Le
Cerf, 1967, p. 58-61). Danh từ paraklêtos trong văn chương Hy Lạp
chuyển hóa từ động từ parakaleô, có nghĩa: “được gọi đến bên cạnh” (appeler
auprès de, à côté de). M. Gourgues định nghĩa danh từ “paraklêtos” như sau:
“Đấng Pa-rác-lê chỉ người – bằng những lời khuyên của mình, bằng sự hiện diện
của mình, bằng lời chứng của mình – đứng ra bảo vệ một người khác khi cần
thiết. Theo sát nghĩa, đó là người đứng
bên cạnh một người khác để
trợ giúp người ấy” (M. GOURGUES, En Esprit et en Vérité, Piste
d’exploitation de l’évangile de Jean, (Sciences Bibliques 11),Montréal,
Médiaspaul, 2002, p. 284).
Nói chung, trong văn
chương Hy Lạp, “paraklêtos” là
người can thiệp trong khung cảnh một vụ kiện. Ignace de La Poterie nhận xét:
“Trong những bản văn cổ Hy Lạp cũng như trong các tài liệu của các thầy Do
Thái, từ này luôn đặt chúng ta trong bối cảnh ít nhiều mang tính pháp lý: ‘Một
pa-rác-lê’ là người đến giúp đỡ người nào đó, thường là người bị buộc tội, bằng
cách hiện diện như là luật sư của người ấy, như là người bảo vệ hay người
chuyển cầu của người ấy” (I. de LA POTTERIE, La
vérité dans saint Jean, t.
I, Le Christ et la vérité. L’Esprit
et la vérité, (AnBib 73), Rome, Biblical Institute
Press, 1977, p. 332).
Tóm lại, “paraklêtos” trong văn chương Hy Lạp là người có vai trò pháp lý trong khung cảnh một vụ
kiện. Paraklêtos là người đứng ra bênh vực người đang bị kiện cáo trước toà.
Theo nghĩa này, có thể dịch “paraklêtos”
là “trạng sư”, “luật sư”, “người bào chữa”, “người bênh vực”... Tuy nhiên,
trong bối cảnh văn chương Tin Mừng thứ tư, “paraklêtos” làm nhiệm vụ gì và liệu có thể dịch được từ này
hay không?
2) “Paraklêtos” trong Tin Mừng thứ tư
Trong Tin Mừng thứ tư, hoạt động của Đấng
Pa-rác-lê được thực hiện trong bối cảnh pháp lý. Điều này phù hợp với thần học
Tin Mừng Gio-an. Thực vậy, toàn bộ sách Tin Mừng được trình bày như một vụ
kiện, đó là vụ kiện giữa Ánh Sáng và bóng tối, giữa Đức Giê-su và những kẻ
chống đối, vụ kiện giữa các môn đệ và thế gian thù ghét. Trong bối cảnh vụ kiện
này, Đấng Pa-rác-lê sẽ làm chứng (marturêsei) cho Đức Giê-su (15,26) và Người
sẽ chứng minh (elegzei) thế gian sai lầm (16,8). Tuy nhiên, theo thần học Tin
Mừng thứ tư, Đấng Pa-rác-lê không liên hệ trực tiếp với những kẻ chống đối và
thế gian thù ghét. Đức Giê-su nói rõ với các môn đệ: “Thần Khí sự thật là Đấng
thế gian không thể đón nhận, vì thế
gian không thấy, không biết
Người” (14,17a). (Các trích dẫn lấy trong Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ, Hy Lạp – Việt). Thế gian chống đối, không tin, ghét Đức
Giê-su và ghét các môn đệ, nên thế gian “không thấy”, “không biết” và “không
đón nhận Đấng Pa-rác-lê”. Vì không có sự giao tiếp giữa “thế gian” và “Đấng
Pa-rác-lê” nên không có chuyện Đấng Pa-rác-lê biện hộ cho các môn đệ trước tòa
án thế gian. Vậy, “Đấng Pa-rác-lê” làm gì? Đọc năm đoạn văn về Đấng pa-rác-lê
(14,15-17; 14,25-26; 15,26-27; 16,7-11; 16,12-15) sẽ thấy vai trò và sứ vụ của
Đấng Pa-rác-lê theo thần học Tin Mừng thứ tư.
a) Đấng Pa-rác-lê ở lại mãi mãi nơi các môn đệ
Đoạn văn thứ 1: Ga 14,15-17. Đức Giê-su nói
với các môn đệ: “15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của
Thầy; 16 và chính Thầy sẽ can thiệp với Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng
Pa-rác-lê khác để Người ở với anh em mãi mãi. 17 Thần Khí sự thật là Đấng thế gian không thể đón nhận,
vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Người. Còn
anh em, anh em biết Người, vì Người ở lại giữa anh em và Người sẽ ở trong anh
em.”
Đặc điểm thứ nhất về vai trò của Đấng Pa-rác-lê là Người “ở lại mãi mãi” nơi
các môn đệ. Bản văn nhấn mạnh đề tài “ở lại” này bằng cách dùng ba giới từ Hy
Lạp: meta (với), para (giữa) và en (trong). Đấng Pa-rác-lê là Đấng “ở với các
môn đệ”, “ở trong từng môn đệ” và “ở giữa cộng đoàn các môn đệ”. Đặc điểm của
sự “ở lại” này là “mãi mãi”. Có lẽ cộng đoàn Gio-an đang ở trong hoàn cảnh khó
khăn, thử thách, cộng đoàn đã không nhận ra Đấng Pa-rác-lê đang ở với và đang
đồng hành với mình, nên bản văn đã nhấn mạnh đề tài “ở lại” trong đoạn văn thứ
nhất về Đấng Pa-rác-lê (xem hoàn cảnh của các môn đệ trong: KHỦNG HOẢNG VÀ
GIẢI PHÁP cho các môn đệ trong Tin Mừng thứ tư,
tr.77-194).
b) Đấng Pa-rác-lê “dạy” và “làm
cho nhớ lại”
Đoạn văn thứ 2: Ga 14,25-26. Đức Giê-su nói
với các môn đệ: “25 Những điều này Thầy đã nói với anh em khi còn ở lại với anh
em; 26 nhưng Đấng Pa-rác-lê, Thánh Thần, Đấng mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy.
Đấng Pa-rác-lê sẽ
dạy anh em tất cả và sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả những gì [chính] Thầy đã
nói với anh em.”
Đoạn văn thứ hai nói về vai trò giảng dạy của
Đấng Pa-rác-lê. Đối tượng giảng dạy là các môn đệ. Nội dung giảng dạy là tất cả
những gì Đức Giê-su đã nói. Cách thức giảng dạy gồm hai khía cạnh: (1) Những gì
Đức Giê-su đã nói mà các môn đệ chưa biết, chưa hiểu thì Đấng Pa-rác-lê sẽ dạy
cho các môn đệ biết. (2) Những gì các môn đệ đã biết, đã hiểu nhưng quên, thì
Đấng Pa-rác-lê sẽ “làm cho các môn đệ nhớ lại”. Như thế, trong đoạn văn này,
Đấng Pa-rác-lê giữ vai trò Thầy dạy, chứ không phải là luật sư hay người bênh
vực.
c) Đấng Pa-rác-lê làm chứng
Đoạn văn thứ 3: Ga 15,26-27. Đức Giê-su nói
với các môn đệ: “26 Khi Đấng Pa-rác-lê đến, Đấng mà chính Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi
Cha, Người là Thần Khí sự thật, Người xuất phát từ nơi Cha,Đấng Pa-rác-lê sẽ làm chứng về Thầy. 27 Cả anh em,
anh em cũng làm chứng, vì từ khởi đầu, anh em ở với Thầy.”
Trong đoạn văn thứ ba này, Đấng Pa-rác-lê giữ
vai trò “làm chứng cho Đức Giê-su” (15,26) và nối kết với vai trò làm chứng của
các môn đệ (15,27). Như đã trình bày ở trên, thế gian không thấy, không biết,
không đón nhận Đấng Pa-rác-lê, nên Đấng Pa-rác-lê không làm chứng cho Đức
Giê-su trước thế gian. Nhưng Đấng Pa-rác-lê, ở trong các môn đệ, sẽ làm chứng
về Đức Giê-su trước và trong các môn đệ. Nghĩa là Đấng Pa-rác-lê
làm chứng về Đức Giê-su trướccác
môn đệ, để các môn đệ vững tin và không vấp ngã vì thử thách và bách hại. Đồng
thời, Đấng Pa-rác-lê làm chứng trong các môn đệ, để các môn đệ can đảm làm
chứng cho Đức Giê-su, khi phải đối diện trực tiếp với thế gian thù ghét.
d) Đấng Pa-rác-lê chứng minh thế gian sai lầm
Đoạn văn thứ 4: Ga 16,7-11. Đức Giê-su nói
với các môn đệ: “7 Chính Thầy nói sự thật với anh em: Sẽ có lợi cho anh em nếu
Thầy ra đi. Nếu Thầy không ra đi, Đấng Pa-rác-lê sẽ không đến với anh em; nhưng
nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em. 8 Khi Đấng ấy đến, Người sẽ
chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử. 9 Về tội:
Họ không tin vào Thầy. 10 Về sự công chính: Thầy đi về với Cha, và anh em không
còn thấy Thầy. 11 Về sự xét xử: Thủ lãnh của thế gian này đã bị xét xử.”
Trong Tin Mừng thứ tư, Đấng Pa-rác-lê chỉ
hoạt động nơi các môn đệ mà thôi. Vì thế nội dung đoạn văn thứ 4 này được hiểu
là Đấng Pa-rác-lê sẽ chứng minh cho các môn đệ biết là thế gian sai lầm (16,8).
Đấng Pa-rác-lê sẽ cho các môn đệ biết ba điều: 1) Thế gian có tội (16,9), 2) Sự
công chính thuộc về Đức Giê-su (16,10), 3) Thủ lãnh thế gian đã bị xét xử rồi
(16,11). Nghĩa là Đấng Pa-rác-lê sẽ làm cho các môn đệ biết sự thật về thế gian
thù ghét và về số phận của thủ lãnh thế gian.
e) Đấng Pa-rác-lê dẫn đường, loan báo và tôn
vinh
Đoạn văn thứ 5: Ga 16,12-15. Đức Giê-su nói
với các môn đệ: “12 Thầy vẫn có nhiều điều để nói với anh em, nhưng bây giờ anh
em không thể mang nổi. 13 Khi Đấng Pa-rác-lê đến, Thần Khí sự thật, Đấng ấy sẽ dẫn
anh em đi trong sự thật toàn vẹn; Người sẽ không nói tự mình, nhưng tất cả
những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và Người sẽ loan báo cho anh em những điều sẽ xảy
đến. 14 Đấng ấy sẽ tôn
vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. 15 Mọi sự Cha có đều là của Thầy. Vì điều này Thầy đã
nói: ‘Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.’”
Trong đoạn văn thứ năm này, Đấng Pa-rác-lê
giữ vai trò dẫn đường. Đấng Pa-rác-lê sẽ dẫn các môn đệ đi trong sự thật toàn
vẹn (Ga 16,12). Con đường ấy là Đức Giê-su và sự thật ấy cũng chính là Đức
Giê-su, vì Người đã nói với các môn đệ: “Chính Thầy là con đường và là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha
mà không qua Thầy” (14,6). Kế đến, Đấng Pa-rác-lê sẽ lấy những gì là của Đức
Giê-su mà loan báo cho các môn đệ và Đấng ấy sẽ tôn vinh Đức Giê-su.
Trên đây là 5 đoạn văn trong Tin Mừng thứ tư
mô tả vai trò và sứ vụ của “Đấng Pa-rác-lê”; so sánh ý nghĩa của danh từ
“paraklêtos” trong Tin Mừng Gio-an và trong văn chương Hy Lạp sẽ cho thấy nét
độc đáo của thần học Tin Mừng thứ tư.
3) “Paraklêtos” trong Tin Mừng và trong văn
chương Hy Lạp
Nét độc đáo của Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng
thứ tư là ba khía cạnh hoạt động của Đấng này: (a) Làm cho các môn đệ biết sự
thật về thế gian; (b) Làm cho các môn đệ biết mặc khải của Đức Giê-su qua việc
“dạy”, “làm cho nhớ lại” (14,26), “nói” và “loan báo” (16,13); (c) Làm chứng về
Đức Giê-su trước và trong các môn đệ. É. Cothenet viết: “Hoạt
động của Đấng Pa-rác-lê Thần Khí không chỉ được thực hiện trong khung cảnh vụ
kiện chống lại thế gian. Hoạt động của Đấng này còn bao hàm chức năng giảng
dạy” (É. COTHENET, La chaîne des témoins dans l’évangile de Jean, De
Jean-Baptiste au disciple bien-aimé, (Lire la Bible 142), Paris, Le Cerf, 2005, p. 109). X. Léon-Dufour tóm kết nhiệm vụ của Đấng Pa-rác-lê trong Tin
Mừng thứ tư như sau: “Nhiệm vụ của Đấng Pa-rác-lê nhận nơi Cha và nơi Con có
thể đưa về ba chức năng: 1) Ở với và ở trong các môn đệ; 2) Dạy các môn đệ; 3)
Làm chứng cho Đức Giê-su” (X. LÉON-DUFOUR, Lecture
de l’Évangile selon Jean, t.
III,Paris, Le Seuil, 1993, p. 238). Những
trích dẫn năm đoạn văn trên cho thấy Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng Gio-an có
những nhiệm vụ phong phú, đa dạng so với nghĩa pháp lý của từ “paraklêtos”
trong văn chương Hy Lạp.
Có thể so sánh hai nghĩa của từ “paraklêtos”
như sau: Trong văn chương Hy Lạp, “paraklêtos” thi hành nhiệm vụ trong một vụ
kiện, “paraklêtos” là người bênh vực cho bị cáo trước toà, như là một luật sư,
trạng sư... Trong Tin Mừng thứ tư, Đấng Pa-rác-lê không biện hộ cho các môn đệ
trước toà thế gian vì thế gian không biết và không đón nhận Đấng Pa-rác-lê.
Nhiệm vụ của Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng Gio-an có thể tóm kết qua tám đặc
điểm:
(1) Đấng
Pa-rác-lê là “Thần Khí sự thật”, là “Thánh Thần”.
(2) Đấng
Pa-rác-lê là “Đấng hiện diện với”. Người “ở với”, “ở giữa”, “ở trong” các môn
đệ “mãi mãi”.
(3) Đấng
Pa-rác-lê là “Thầy dạy”. Người sẽ dạy các môn đệ tất cả và làm cho các môn đệ
nhớ lại tất cả những gì Đức Giê-su đã nói.
(4) Đấng
Pa-rác-lê là “Chứng Nhân”. Người làm chứng về Đức Giê-su trước và trong các môn đệ.
(5) Đấng
Pa-rác-lê là “Đấng mặc khải”, “Đấng làm cho biết”. Người sẽ chứng minh cho các
môn đệ biết là thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử.
(6) Đấng
Pa-rác-lê là “Đấng dẫn đường”. Người sẽ dẫn các môn đệ đi trong sự thật toàn
vẹn.
(7) Đấng
Pa-rác-lê giữ vai trò “ngôn sứ”. Người sẽ nói và loan báo cho các môn đệ những
điều sẽ xảy đến, Người loan báo cho các môn đệ những gì là của Đức Giê-su.
(8) Đấng
Pa-rác-lê là “Đấng tôn vinh Đức Giê-su”.
Tên gọi và sứ vụ của Đấng Pa-rác-lê diễn tả qua
những động từ Hy Lạp trình bày trong bảng sau:
Cả tám đặc điểm trên đều vượt khỏi phạm vi
pháp lý của từ “paraklêtos” trong văn chương Hy Lạp, hơn nữa Đấng Pa-rác-lê
trong Tin Mừng thứ tư không đối diện trực tiếp với thế gian. Tác giả sách Tin
Mừng đã dùng từ Hy Lạp “paraklêtos” để xây dựng thần học riêng về “Đấng
Pa-rác-lê” với những nghĩa mới. “Paraklêtos”trong
Tin Mừng Gio-an không giữ vai trò của một luật sư hay một trạng sư (avocat),
không giữ vai trò của người bảo vệ (défenseur), không phải là người an ủi
(consolateur), cũng không phải là người chuyển cầu (intercesseur). “Paraklêtos” trong Tin Mừng
Gio-an là “Thần Khí sự thật”, là “Thánh Thần”, là “Đấng hiện diện với”, là
“Thầy dạy”, là “Chứng Nhân”, là “Đấng mặc khải”, là “Đấng dẫn đường”, là “ngôn
sứ” (loan báo những điều sẽ xảy đến)
và là “Đấng tôn vinh Đức Giê-su”. Với những nhiệm vụ và hoạt động đa dạng như
trên, không một ngôn ngữ nào có thể dịch được hết nghĩa của từ “paraklêtos”
trong Tin Mừng thứ tư.
Chúng tôi đồng thuận với
nhiều tác giả và nhiều bản dịch lựa chọn giữ nguyên ngữ từ
“parraklêtos” trong Tin Mừng thứ tư như: “Paracletus” (VUL, 1983); “Le Paraclet” (TOB, 1998; BJ, 2000; OSTY, 1973; JEANNE D’ARC, Évangile
selon Jean, Présentation du texte grec, traduction et notes, [Les évangiles], Paris, Les Belles
Lettres – DDB, 1990; Y. SIMOENS, Selon Jean, 1.
Une traduction,[IET 17], Bruxelles, IET, 1997); “The Paraclete” (NJB, 1985…).
Gọi “Paraklêtos” trong Tin Mừng là “Đấng
Pa-rác-lê” cho phép bảo toàn nhiệm vụ phong phú, đa dạng và mới mẻ của Đấng này
so với nghĩa gốc trong văn chương Hy Lạp, đồng thời chú trọng đến các tương
quan đặc thù của Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng thứ tư với Chúa Cha, với Đức
Giê-su, với các môn đệ và với thế gian. Xem phân tích chi tiết các tương quan
này trong ĐẤNG PA-RÁC-LÊ –
Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư, tr.205-270. Đến đây có
thể trả lời câu hỏi: Tiếng Hy Lạp có bốn âm tiết: Pa-rak-lê-tos, tại sao khi
chuyển âm sang tiếng Việt chỉ lấy ba âm tiết: Pa-rác-lê?
4) “Pa-rak-lê-tos” và chuyển âm “Đấng
Pa-rác-lê”
Những phân tích trên lý giải cho lựa chọn
chuyển âm tiếng Hy Lạp “paraklêtos” sang tiếng Việt “Đấng Pa-rác-lê”, vì không
thể dịch được hết ý nghĩa của từ này, nhưng chọn chuyển âm như thế nào? Danh từ
Hy Lạp paraklêtos có bốn âm tiết: “Pa-rak-lê-tos”, nếu giữ được cả bốn âm tiết trong
tiếng Việt thì rất tốt, vì sát với tiếng gốc Hy Lạp. Tuy nhiên nếu giữ cả bốn
âm tiết e rằng quá xa lạ và quá chuyên môn đối với nhiều độc giả. Để dễ đọc và
không quá xa lạ với tiếng Việt, thiết nghĩ giữ ba âm tiết là đủ và chuyển âm
sang tiếng Việt là “Pa-rác-lê”. Ba âm tiết này sẽ dễ đọc hơn và gần gũi với
tiếng Việt hơn. Ngay cả tiếng Pháp và tiếng Anh cũng chỉ lấy ba âm tiết đầu của
danh từ Hy Lạp “paraklêtos”: “Le Paraclet”
(tiếng Pháp), “The
Paraclete” (tiếng Anh).
Việc chuyển âm danh từ Hy Lạp “paraklêtos”
sang tiếng Việt “Đấng Pa-rác-lê” cũng
không hoàn toàn xa lạ, vì một số tước hiệu của Đức Giê-su trong Tân Ước cũng
được giữ nguyên ngữ và chuyển âm sang tiếng Việt như: “Khristos” (Đức Ki-tô), “Messias” (Đấng Mê-si-a). Từ “Đấng” được thêm vào “Pa-rác-lê” (Đấng Pa-rác-lê) để bày tỏ sự kính trọng, cũng
như các từ “Đức” trong “Đức Giê-su” và “Đấng” trong “Đấng Mê-si-a”. Trong
bản văn Hy Lạp (Paraklêtos, Khristos, Messias) không có các từ “Đức” và “Đấng”.
Kết luận
Phân tích trên trình bày vắt tắt vai trò của
Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng Gio-an và góp phần trả lời các câu hỏi liên quan
đến việc chuyển âm từ “Paraklêtos” sang “Đấng Pa-rác-lê” và vai trò của Đấng
này trong Tin Mừng Gio-an. “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật” chỉ xuất hiện
trong Tin Mừng thứ tư (thuật ngữ gọi là “hapax johannique”) là một trong những
đóng góp độc đáo của thần học Tin Mừng thứ tư. Việc đề nghị dùng danh xưng
“Đấng Pa-rác-lê” nhằm đề cao những nhiệm vụ và vai trò đặc biệt phong phú, đa
dạng của “Đấng Pa-rác-lê” nơi các môn đệ. Với tám đặc điểm về hoạt động của
Đấng Pa-rác-lê như trên, Tin Mừng thứ tư mời gọi người tin qua mọi thời đại
nhận ra Đấng Pa-rác-lê đã và đang hiện diện nơi mình. Người đã và đang ở giữa
cộng đoàn người tin mãi mãi. Ước mong độc giả nhận ra công việc Đấng Pa-rác-lê
thực hiện nơi người tin để thấy rằng Đấng Pa-rác-lê là quà tặng lớn lao dành
cho các môn đệ qua mọi thời đại. Với sự hiện diện và hoạt động của Đấng
Pa-rác-lê, người môn đệ sẽ vượt qua mọi thử thách và có khả năng trung tín với
Đức Giê-su cho đến cùng. Chính Đấng Pa-rác-lê sẽ làm cho các môn đệ đón nhận sự
sống dồi dào Đức Giê-su ban tặng, nhờ sự hiện diện, giảng dạy và hướng dẫn của
Đấng Pa-rác-lê.
Vẫn còn nhiều điều để nói về Đấng Pa-rác-lê
trong Tin Mừng thứ tư, chẳng hạn tại sao lại gọi “Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự
thật” là “Đấng Pa-rác-lê khác” (14,16)? Tương quan giữa Đức Giê-su và Đấng
Pa-rác-lê như thế nào? Có những điểm gì giống nhau và khác nhau giữa Đức Giê-su
và Đấng Pa-rác-lê? Sự hiện diện của Đấng Pa-rác-lê có thay thế sự hiện diện của
Đức Giê-su nơi các môn đệ hay không? v.v... Độc giả có thể tìm thấy phần nào
câu trả lời trong tập sách: ĐẤNG PA-RÁC-LÊ –
Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư./.
Ngày 17 tháng 10 năm 2012
Email: josleminhthong@gmail.com
Nguồn: http://tungubontinmung.blogspot.com/2012/10/pa-rac-le-ang-dt-parakletos-trong-tin.html
Xem bài:
Ga 16,4b-11:
Đấng Pa-rác-lê và thế gian
Giới thiệu TỪ NGỮ BỐN TIN MỪNG