Dẫn nhập
Danh từ Hy
Lạp “sêmeion” có nghĩa là “dấu chỉ”, riêng trong Tin Mừng Gio-an có thể dịch
sang tiếng Việt: “dấu lạ” (tiếng Anh: sign; Pháp: signe). Thông thường,
“sêmeion” có nghĩa là “dấu chỉ” (signe, sign). Dựa vào “dấu chỉ”, cho phép kết
luận một điều gì đó mà dấu chỉ nhắm tới. Chẳng hạn, hiện tượng sốt là dấu chỉ
bị viêm nhiễm. Từ “dấu chỉ” (signe, sign) còn dùng trong các ký hiệu ngôn ngữ
hay toán học. Nói chung, “dấu chỉ” (signe, sign) chỉ có ý nghĩa khi được đặt
trong một hệ thống. Một số “dấu lạ” (sêmeion) trong Tin Mừng Gio-an song song
với “phép lạ” trong Tin Mừng Nhất Lãm, tuy nhiên Tin Mừng Gio-an không dùng từ
“phép lạ” (dunamis) mà dùng từ “dấu lạ” (sêmeion) để nói về “các việc lạ lùng
Đức Giê-su thực hiện.
Từ “dấu
lạ” (sêmeion) xuất hiện 17 lần trong Tin Mừng Gio-an ở các nơi: 2,11.18.23;
3,2; 4,48.54; 6,2.14.26.30; 7,31; 9,16; 10,41; 11,47; 12,18.37; 20,30. Trong
đó, có 11 lần ở số nhiều: “sêmeia” (những dấu lạ), xuất hiện ở 2,11.23; 3,2;
4,48; 6,2.26; 7,31; 9,16; 11,47; 12,37; 20,30; và 6 lần ở số ít: “sêmeion” (dấu
lạ), xuất hiện ở 2,18; 4,54; 6,14.30; 10,41; 12,18. Phần sau sẽ tìm hiểu từ
“sêmeion” (dấu lạ) trong Tin Mừng Gio-an qua ba mục: (I) Dấu lạ Đức Giê-su làm;
(II) Nói về các dấu lạ của Đức Giê-su; (III) Cách dùng khác của từ “dấu lạ”.
I. Dấu lạ
Đức Giê-su làm
Từ
“sêmeion” (dấu lạ) xuất hiện 7 lần trong Tin Mừng Gio-an để xác định những dấu
lạ Đức Giê-su làm (2,11; 4,54; 7,31; 6,14.26; 9,16; 12,18). Trong mạch văn, có
thể nói đến 8 dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an. Trong đó, sáu dấu lạ được xác định
bằng từ “sêmeion” (dấu lạ): (1) Nước hoá thành rượu ở Ca-na (2,1-12); (2) Cứu
sống con trai quan chức nhà vua (4,43-54); (3) Chữa người bại liệt 38 năm tại
hồ Bết-da-tha (5,1-18); (4) Bánh hoá nhiều (6,1-15); (5) Chữa lành người mù từ
thuở mới sinh (9,1-41); (6) Gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46). Hai dấu lạ không
được xác định bằng từ “sêmeion” (dấu lạ), nhưng có những chi tiết lạ lùng
nên có thể gọi là dấu lạ: Dấu lạ thứ 7 là Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ
Ti-bê-ri-a (6,16-20) và dấu lạ thứ 8 là mẻ cá lạ lùng ở Ga 21,1-14. Sau đây là
chi tiết 8 dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an.
1) Nước lã
hoá thành rượu ngon ở Ca-na (2,1-12)
Sau khi
Đức Giê-su hoá nước thành rượu ngon trong tiệc cưới ở Ca-na (2,1-10), người
thuật chuyện cho biết: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na, miền
Ga-li-lê, Người đã tỏ vinh quang của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào
Người” (2,11). Câu “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này” dịch sát tiếng Hy
Lạp: “Đây là lần đầu tiên của các dấu lạ (tôn sêmeiôn) Đức Giê-su đã làm”. Từ
“tôn sêmeiôn” là danh từ sêmeion ở thuộc cách (genitive) số nhiều (sêmeiôn) có
mạo từ (tôn). Như thế, dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su làm tại Ca-na là dấu lạ thứ
nhất trong một chuỗi các dấu lạ (số nhiều) Đức Giê-su thực hiện. Dấu lạ đầu
tiên đã gợi đến những dấu lạ khác kế tiếp trong trình thuật Tin Mừng.
2) Cứu
sống con trai quan chức nhà vua (4,43-54)
Dấu lạ thứ
hai được nói rõ trong Tin Mừng Gio-an là trình thuật Đức Giê-su cứu sống con
trai một quan chức nhà vua (4,43-54). Trình thuật kết luận như sau: “Đó là dấu
lạ (sêmeion) thứ hai Đức Giê-su đã làm, khi Người từ Giu-đê đến Ga-li-lê”
(4,54). Dấu lạ thứ hai xảy ra ở Ca-na (4,46), gợi lại dấu lạ thứ nhất ở Ca-na:
Nước lã hoá thành rượu ngon (2,1-12).
3) Chữa
người bại liệt tại hồ Bết-da-tha (5,1-18)
Trong
trình thuật Đức Giê-su chữa lành người bại liệt đã 38 năm (5,1-18) không xuất
hiện từ “dấu lạ”. Tuy nhiên, những tranh luận giữa Đức Giê-su với những người
Do Thái ở 7,14-29 có nhắc đến việc Đức Giê-su chữa lành một bệnh nhân vào ngày
sa-bát. Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 7,23: “Nếu người ta chịu phép
cắt bì trong ngày sa-bát để luật Mô-sê không bị vi phạm, sao các ông nổi giận
với tôi, vì tôi đã làm cho toàn thân một người được khoẻ mạnh trong ngày
sa-bát?” Chi tiết: “Làm cho toàn thân một người được khoẻ mạnh trong ngày
sa-bát?” (7,23b) gợi lại trình thuật chữa lành người bại liệt đã 38 năm
(5,1-18) vào ngày sa-bát ở 5,1-18.
Khi tóm
kết tranh luận trong phần 7,14-29, người thuật chuyện
kể lại lời đám đông nói đến các dấu lạ Đức Giê-su làm: “Trong đám đông, nhiều
người đã tin vào Người [Đức Giê-su], họ nói: ‘Khi Đấng Ki-tô đến, Người sẽ làm
nhiều dấu lạ hơn dấu lạ Ông này đã làm không?’” (7,31). Mạch văn
cho phép hiểu từ “các dấu lạ” (số nhiều) trong câu nói trên của đám đông, bao
gồm cả dấu lạ Đức Giê-su chữa lành người bại liệt ở 5,1-18.
4) Hoá
bánh ra nhiều (6,1-15)
Dấu lạ thứ
tư là bánh hoá nhiều (6,1-15). Người thuật chuyện kể ở 6,14: “Khi thấy dấu lạ
(sêmeion) Người [Đức Giê-su] làm, người ta nói: ‘Ông này thực sự là vị ngôn sứ,
Đấng phải đến thế gian.’” Sau đó, dân chúng đi tìm và gặp Đức Giê-su vào ngày
hôm sau (6,25) ở bên kia Biển Hồ, họ nói với Người: “Thưa Ráp-bi, Thầy đến đây
bao giờ?” (6,25). Đức Giê-su trả lời họ: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông:
Các ông tìm Tôi không phải vì đã thấy những dấu lạ (sêmeia), nhưng vì các ông
đã ăn bánh và đã được no nê” (6,26). Trong câu này, Đức Giê-su dùng từ “dấu lạ”
ở số nhiều, Người nói về dấu lạ bánh hoá nhiều và những dấu lạ khác Người đã
làm. Điều trớ trêu là đám đông chỉ thấy sự kiện lạ lùng qua việc bánh hoá nhiều
chứ không thấy dấu lạ, nghĩa là họ đã không hiểu điều mà dấu lạ muốn nhắm tới.
Ý nghĩa của dấu lạ bánh hoá nhiều sẽ được Đức Giê-su mặc khải trong diễn từ
bánh sự sống (6,25-59).
5) Chữa
lành người mù từ thuở mới sinh (9,1-41)
Dấu lạ thứ
năm là Đức Giê-su cho người mù từ thuở mới sinh được thấy (9,1-41). Trình thuật
chữa lành không nói rõ ràng đây là một dấu lạ, nhưng nhận định của những người
Pha-ri-sêu cho thấy rằng việc “người mù từ thuở mới sinh được thấy” là một dấu
lạ. Người thuật chuyện kể: “Vậy một số người trong nhóm Pha-ri-sêu nói: ‘Ông ta
không phải là người đến từ Thiên Chúa, vì Ông ta không giữ ngày
sa-bát.’ Những người khác nói: ‘Làm sao một người tội lỗi có thể làm được những
dấu lạ (sêmeia) như thế?’ Và đã có sự chia rẽ giữa họ” (9,16). Danh từ “dấu lạ”
ở số nhiều “những dấu lạ” (9,16), vừa nói đến dấu lạ ngay trước đó (người mù từ
thuở mới sinh được thấy), vừa gợi đến các dấu lạ khác Đức Giê-su đã làm.
6) Gọi
La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46)
Dấu lạ thứ
sáu là Đức Giê-su gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46). Câu chuyện này được bản
văn xác định là “dấu lạ” trong trình thuật Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem
(12,12-19). Người thuật chuyện kể về việc đám đông cầm nhành lá thiên tuế đón Đức
Giê-su vào Giê-ru-sa-lem như sau: “17 Vậy đám đông làm chứng, họ là những người
đã có mặt với Người, khi Người gọi La-da-rô ra khỏi mồ và làm cho anh ấy trỗi
dậy từ giữa những kẻ chết. 18 Vì lẽ đó, đám đông đến đón Người, bởi họ nghe
biết Người làm dấu lạ (sêmeion) đó” (12,17-18). Dấu lạ này có tầm quan trọng
đặc biệt, vì là dấu lạ cuối cùng trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Đức
Giê-su thực hiện dấu lạ này để mặc khải về ý nghĩa “sự chết” và “sự sống lại”
của Người cũng như “sự sống và sự chết” của người tin qua mọi thời đại.
7) Đức
Giê-su đi trên mặt biển hồ Ga-li-lê (6,16-20)
Trình
thuật Đức Giê-su đi trên mặt biển hồ Ga-li-lê (6,16-20) tiếp nối dấu lạ bánh
hoá nhiều (6,1-15) và chỉ có các môn đệ được chứng kiến. Bản văn không nói rõ
biến cố này là dấu lạ. Tuy nhiên trình thuật có hai chi tiết lạ lùng: (1) Đức
Giê-su đi trên Biển Hồ và đến với các môn đệ. Người thuật chuyện kể ở 6,19-20:
“19 Khi đã chèo được khoảng 25 đến 30 dặm, các ông [các môn đệ] thấy Đức Giê-su
đi trên Biển Hồ và đang tới gần thuyền, các ông sợ hãi. 20 Nhưng Người nói với
các ông: ‘Chính là Thầy, đừng sợ!’” (6,19-20). (2) Chi tiết lạ lùng thứ hai là
cách thức thuyền được đưa vào bờ: “Các ông [các môn đệ] muốn đưa Người [Đức
Giê-su] lên thuyền, và ngay lúc đó thuyền đã tới đất liền nơi các ông đi đến”
(6,21). Qua những chi tiết lạ lùng này, có thể xem trình thuật Đức Giê-su đi
trên mặt biển hồ Ti-bê-ri-a (6,16-20) là dấu lạ.
8) Mẻ cá
lạ lùng (21,1-14)
Tương tự
như trình thuật Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ, trình thuật “Mẻ cá lạ lùng” ở
chương cuối sách Tin Mừng (21,1-14), cũng ở biển hồ Ti-bê-ri-a, không được bản
văn nói rõ là dấu lạ. Tuy nhiên câu chuyện xảy ra cách lạ lùng như sau: Các môn
đệ đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì (21,3b). Khi trời sáng, Đức Giê-su
đứng trên bãi biển và nói với họ: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền, và anh em
sẽ tìm thấy” (21,6a). Sự lạ lùng đã xảy ra qua lời kể của người thuật chuyện:
“Vậy các ông thả lưới, và rồi không sao kéo lên nổi vì đầy cá”
(21,6b). Trình thuật này có thể kể là dấu lạ thứ 8 trong Tin Mừng Gio-an.
Tóm lại,
Tin Mừng dùng 7 lần từ “sêmeion” (2,11; 4,54; 7,31; 6,14.26; 9,16; 12,18), ở số
ít và số nhiều, để nói đến 6 dấu lạ Đức Giê-su đã thực hiện. Trong đó bốn trình
thuật được xác định rõ ràng là “dấu lạ”: (1) Nước hoá thành rượu ngon (2,11);
(2) Chữa lành con trai viên quan chức nhà vua (4,54); (3) Bánh hoá nhiều (6,14)
(4) Gọi La-da-rô ra khỏi mồ (12,18). Hai dấu lạ được nói đến gián tiếp chứ
không xác định rõ: (5) Chữa lành người bại liệt 38 năm (7,31); (6) Chữa người
mù từ thuở mới sinh (9,16). Riêng hai dấu lạ cuối cùng: (7) Đức Giê-su đi trên
mặt biển hồ Ti-bê-ri-a (6,16-20) và (8) Mẻ cá lạ lùng (21,1-14) có thể gọi là
dấu lạ vì sự lạ lùng của sự kiện.
II. Nói về
các dấu lạ của Đức Giê-su
Từ
“sêmeion” (dấu lạ) xuất hiện 6 lần trong Tin Mừng Gio-an để nói về các dấu lạ
Đức Giê-su đã làm (3,2; 11,47; 2,23; 6,2; 12,37; 20,30). Cụ thể là (1)
Ni-cô-đê-mô nói về dấu lạ của Đức Giê-su; (2) Thượng Hội Đồng Do Thái nói về
dấu lạ Đức Giê-su làm; (3) Người thuật chuyện nói về dấu lạ 4 lần ở 2,23; 6,2;
12,37; 20,30.
1)
Ni-cô-đê-mô nói về dấu lạ Đức Giê-su làm (3,1-12)
Trong
trình thuật, Ni-cô-đê-mô đến gặp Đức Giê-su ban đêm (3,1-12), ông ấy đã nói với
Đức Giê-su về các dấu lạ Người đã làm. Ni-cô-đê-mô nói với Đức Giê-su: “Thưa
Ráp-bi, chúng tôi biết rằng: Ngài là một vị Thầy đến từ Thiên Chúa, vì
không ai có thể làm được những dấu lạ (sêmeia) Ngài làm, nếu Thiên Chúa không ở
với người ấy” (3,2). Ngay từ đầu sách Tin Mừng, Ni-cô-đê-mô là một người trong
những người Pha-ri-sêu và là một thủ lãnh của những người Do Thái, đã biết đến
Đức Giê-su như là “Người thực hiện các dấu lạ.” Dấu lạ là đề tài quan trọng
trong Tin Mừng Gio-an, trong sứ vụ công khai, Đức Giê-su làm nhiều dấu lạ, và cũng
vì các dấu lạ mà Người bị kết án chết (11,47-53).
2) Thượng
Hội Đồng nói về dấu lạ của Đức Giê-su (11,47)
Nhóm nhân
vật “các thượng tế và những người Pha-ri-sêu” xác nhận Đức Giê-su đã làm nhiều
dấu lạ. Ở Ga 11,47, họ triệu tập Thượng Hội Đồng và nói với nhau về Đức Giê-su:
“Chúng ta làm gì đây vì người này làm nhiều dấu lạ (sêmeia)?” (11,47). Sau đó
họ đã theo lời đề nghị của Cai-pha như sau: “49b Các ông không biết gì cả, 50
các ông cũng chẳng nghĩ rằng: Điều lợi cho các ông là một người chết cho dân và
toàn thể dân tộc không bị tiêu diệt” (11,49-50). Người thuật chuyện cho biết
quyết định của Thượng Hội Đồng Do Thái ở 11,53: “Vậy từ ngày đó, họ quyết định
giết Người.” Như thế, Đức Giê-su đã bị kết án chết vì những dấu lạ Người đã
thực hiện và dấu lạ Người vừa làm ngay trước quyết định trên là gọi
La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46).
3) Người
thuật chuyện nói về dấu lạ
Người
thuật chuyện dùng từ “sêmeion” (dấu lạ) bốn lần (2,23; 6,2; 12,37; 20,30) để
nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm. Lần thứ nhất ở phần tóm kết ở cuối ch. 2
(2,23-25). Người thuật chuyện kể: “23 Trong lúc Người [Đức Giê-su] ở
Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào danh của Người khi thấy
các dấu lạ mà Người đã làm. 24 Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì
Người biết tất cả, 25 và Người không cần có ai làm chứng về con người, vì chính
Người biết có gì nơi con người” (2,23-25). Nhiều người đã tin vào Đức Giê-su
khi thấy những dấu lạ (sêmeia) Người làm, nhưng Đức Giê-su đã không tin vào
niềm tin của họ. Đây là trường hợp tin nhờ dấu lạ nhưng chưa phải là lòng tin
đích thực. Niềm tin được củng cố thêm qua việc lắng nghe và đón nhận giáo
huấn của Đức Giê-su.
Lần thứ
hai xuất hiện đầu ch. 6. Đây là chương xuất hiện nhiều nhất từ “dấu lạ” (4 lần:
6,2.14.26.30) trong Tin Mừng Gio-an. Dấu lạ bánh hoá nhiều (6,4-15) mở đầu bằng
việc nhắc lại “những dấu lạ Đức Giê-su đã làm” (6,2). Người thuật chuyện kể ở
6,1-3: “1 Sau những điều đó, Đức Giê-su đi qua bên kia biển hồ Ga-li-lê, gọi là Ti-bê-ri-a. 2 Một đám đông lớn đi theo
Người, vì họ đã thấy những dấu lạ (sêmeia) Người làm cho những kẻ đau ốm. 3 Đức
Giê-su lên núi và ngồi ở đó với các môn đệ của Người.” Như thế, dấu lạ bánh hoá
nhiều Đức Giê-su sắp thực hiện được nối kết với các dấu lạ khác, đặc biệt là hai
dấu lạ chữa lành trước đó: Cứu sống con trai quan chức nhà vua (4,43-54) và chữa
người bại liệt tại hồ Bết-da-tha (5,1-18).
Lần thứ ba
người thuật chuyện dùng từ “dấu lạ” là ở 12,37. Những dấu lạ Đức Giê-su làm
trong Tin Mừng Gio-an không nhất thiết làm cho người chứng kiến tin vào Đức
Giê-su. Nhận xét của người thuật chuyện vào cuối sứ vụ công khai của Đức Giê-su
cho thấy điều này: “Người [Đức Giê-su] đã làm quá nhiều dấu lạ (sêmeia) trước
mặt họ, mà họ không tin vào Người” (12,37). Nhận xét này vừa đề cao sự xung đột
trong Tin Mừng Gio-an, vì Tin Mừng Gio-an được trình bày như một vụ kiện giữa
ánh sáng và bóng tối; vừa hướng về biến cố Giờ của Đức Giê-su: Biến cố Thương
Khó – Phục Sinh, vì biến cố này giúp nhận ra Đức Giê-su thực sự là ai. Vì không
đón nhận, không tin vào Đức Giê-su mà những kẻ chống đối đã tìm cách giết Đức
Giê-su.
Lần thứ
tư, người thuật chuyện kết luận sách Tin Mừng bằng “dấu lạ Đức Giê-su đã làm” ở
20,30-31: “30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ (sêmeia) khác trước mặt các môn đệ
[của Người]; chúng không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã
được ghi chép là để anh em tin rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa;
và nhờ tin, anh em có sự sống trong danh của Người” (20,30-31).
Tóm lại,
sách Tin Mừng Gio-an mở đầu bằng dấu lạ (2,11), nội dung Tin Mừng thuật lại các
dấu lạ (ch 4–9), sứ vụ công khai của Đức Giê-su kết thúc bằng dấu lạ (ch. 11)
và cuối cùng, kết luận sách Tin Mừng nói đến dấu lạ (20,30). Như thế, “dấu lạ”
là một trong những đề tài chính của Tin Mừng Gio-an. Ngoài ra còn có một số
cách dùng khác của từ “dấu lạ”.
III. Cách
dùng khác của từ “dấu lạ”
Từ
“sêmeion” (dấu lạ) trong Tin Mừng Gio-an được nói đến theo quan điểm của người
khác và theo nghĩa khác. Phần sau sẽ tìm hiểu ba ý: (1) Hai lần người ta xin
Đức Giê-su Đức Giê-su làm dấu lạ (2,18; 6,30); (2) Một lần Tin Mừng cho biết,
Gio-an Tẩy Giả không làm dấu lạ (10,41). (3) Một lần, Đức Giê-su dùng kiểu nói:
“Các dấu lạ và những điềm thiêng (sêmaia kai terata)” (4,48).
1) Xin Đức
Giê-su làm dấu lạ (2,18; 6,30)
Hai lần từ
“dấu lạ” (số ít) ở 2,18 và 6,30 cho biết các thính giả đòi Đức Giê-su làm dấu
lạ. Sau khi Đức Giê-su đuổi những kẻ buôn bán khỏi Đền Thờ (2,13-17), những
người Do Thái chất vấn Đức Giê-su: “Bằng dấu lạ (sêmeion) nào Ông chứng tỏ cho
chúng tôi là Ông có quyền làm những điều đó?” (2,18). Lần thứ hai
được thuật lại trong diễn từ bánh sự sống (6,25-59). Sau khi đám đông chứng kiến
dấu lạ bánh hoá nhiều ở 6,1-15, họ gặp lại Đức Giê-su ngày hôm sau (6,25) và mở
đầu diễn từ bánh sự sống (6,25-59). Trong phần đối thoại, đám đông hỏi
Đức Giê-su ở 6,30: “Vậy chính Ông, Ông làm dấu lạ (sêmeion) nào để chúng tôi
thấy và chúng tôi tin Ông? Ông sẽ làm việc gì?” (6,30). Trong cả hai trường hợp
họ xin Đức Giê-su làm dấu lạ trên đây (2,18; 6,30) đều đặt trong bối cảnh thách
thức và xung đột, vì thế Đức Giê-su đã không thực hiện dấu lạ nào cho họ.
2) Gio-an
Tẩy Giả không làm dấu lạ (10,41)
Trong lần
tranh luận cuối cùng giữa Đức Giê-su và những người Do Thái ở Ga 10,22-38,
những người này tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng người thuật chuyện cho biết:
“Người [Đức Giê-su] đã thoát khỏi tay họ. Người lại ra đi, sang bên kia
Gio-đan, đến chỗ trước kia Gio-an đã làm phép rửa, và Người ở lại đó”
(10,39b-40). Trong câu tiếp theo, người thuật chuyện kể: “41 Nhiều người đến
với Người [Đức Giê-su] và họ nói rằng: ‘Gio-an đã không làm một dấu lạ
(sêmeion) nào cả, nhưng mọi điều Gio-an nói về người này là thật.’ 42 Ở đó,
nhiều người đã tin vào Người” (10,41-42). Nhận định này gợi đến những dấu lạ
Đức Giê-su đã làm theo nghĩa: Gio-an Tẩy Giả không làm dấu lạ, nhưng Đức Giê-su
thì làm nhiều dấu lạ. Điều này được minh chứng qua sáu dấu lạ Đức Giê-su thực
hiện trước đó (từ ch. 2 đến ch. 9).
3) “Các
dấu lạ và những điềm thiêng” (4,48)
Trong Tin
Mừng Gio-an, từ “dấu lạ” (sêmeion) xuất hiện 1 lần trong cụm từ “Các dấu lạ và
những điềm thiêng” (sêmaia kai terata) ở Ga 4,48. Khi viên quan chức nhà vua
xin Đức Giê-su chữa bệnh cho đứa con trai ở Ca-phác-na-um (4,46-47), Đức Giê-su
nói với ông ấy: “Nếu các ông không thấy dấu lạ, điềm thiêng (sêmeia kai
terata), chắc chắn các ông không tin” (4,48). Sau đó Đức Giê-su đã chữa lành
con trai của viên quan chức nhà vua bằng một lời nói. Người thuật chuyện kể: “Đức Giê-su nói với ông ấy: ‘Ông hãy đi về, con ông
sống.’ Người này tin vào lời Đức Giê-su nói với mình và đi về” (4,50).
Trong Tin
Mừng Nhất Lãm, cụm từ “Các dấu lạ và những điềm thiêng” (sêmeia kai terata)
xuất hiện trong diễn từ cánh chung ở Mc 13,22 // Mt 24,24. Đức Giê-su nói với
các môn đệ ở Mc 13,22: “Vì sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, làm
những dấu lạ và những điềm thiêng (sêmeia kai terata) để lừa gạt những người
được tuyển chọn, nếu có thể.” Từ “dấu lạ” (sêmeion) trong cụm từ “Các dấu lạ và
những điềm thiêng” (sêmaia kai terata) có nghĩa khác với từ “dấu lạ” (sêmeion) theo
thần học Tin Mừng Gio-an để nói về những hành động quyền năng Đức Giê-su đã
thực hiện.
Kết luận
Tóm lại,
17 lần từ “sêmeion” trong Tin Mừng Gio-an xuất hiện trong các trường hợp sau:
* Các dấu
lạ Đức Giê-su thực hiện (7 lần)
- Dấu lạ
nước hoá thành rượu ngon, 1 lần 2,11.
- Dấu lạ
cứu sống con trai một viên quan chức, 1 lần: 4,54.
- Dấu lạ
chữa người bại liệt 38 năm, 1 lần: 7,31.
- Dấu lạ
bánh hoá nhiều, 2 lần: 6,14.26.
- Dấu lạ
chữa người mù từ thuở mới sinh, 1 lần: 9,16.
- Dấu lạ
gọi La-da-rô ra khỏi mồ, 1 lần: 12,18.
* Người
khác nói về dấu lạ của Đức Giê-su (6 lần)
-
Ni-cô-đê-mô nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm, 1 lần: 3,2.
- Thượng
Hội Đồng Do Thái nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm, 1 lần: 11,47.
- Người
thuật chuyện nói về các dấu lạ Đức Giê-su làm, 4 lần: 2,23; 6,2; 12,37; 20,30.
* Cách
dùng khác (4 lần)
- Xin Đức
Giê-su làm dấu lạ, 2 lần: 2,18; 6,30.
- Gio-an
Tẩy giả không làm dấu lạ, 1 lần: 10,41.
- Kiểu
nói: “Các dấu lạ và những điềm thiêng”, 1 lần: 4,48.
Những cách
dùng khác nhau của từ “dấu lạ” trong Tin Mừng Gio-an như trên cho thấy ý nghĩa
của đề tài “dấu lạ” khá phức tạp. Cần đặt từ “dấu lạ” trong bối cảnh của từng
đoạn văn để hiểu. Các nhân vật trong Tin Mừng nói đến “dấu lạ” với cách hiểu
khác nhau. Các thượng tế và những người Pha-ri-sêu nói về dấu lạ, nhưng họ
không hiểu dấu lạ theo nghĩa như Đức Giê-su muốn. Vì nếu họ thực sự hiểu ý
nghĩa của dấu lạ thì họ đã tin vào Đức Giê-su.
Trong kết
luận thứ nhất (20,30-31), tác giả muốn người đọc nhận ra tầm quan trọng của các
dấu lạ Đức Giê-su đã làm. Cách thức tác giả Tin Mừng thuật lại các dấu lạ kèm
với diễn từ giải thích của Đức Giê-su, giúp độc giả lĩnh hội ý nghĩa của dấu lạ
để tin vào Người. Với những đặc điểm riêng của từ “dấu lạ” như trên, cần xác
định rõ: “dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an” để phân biệt với nghĩa của từ “sêmeion”
trong cách dùng thông thường: “dấu” hay “dấu chỉ”, nghĩa này được dùng trong
Tin Mừng Nhất lãm và trong các bản văn khác của Tân Ước.
Một số tác
giả xem trình thuật “Đức Giê-su thanh tẩy đền thờ” (2,13-22) và trình thuật
“Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ” (13,1-19) là dấu chỉ (sêmeion). Tuy nhiên,
bản văn Tin Mừng không nói rõ các trình thuật này là “sêmeion” (dấu chỉ, dấu
lạ). Tin Mừng Gio-an dùng từ “sêmeion” để nói về những hành động quyền năng Đức
Giê-su thực hiện, và chỉ một mình Đức Giê-su là Đấng mặc khải mới có thể cho
biết ý nghĩa của dấu lạ. Vì thế trong Tin Mừng Gio-an, sau các dấu lạ thường
kèm theo một diễn từ, như diễn từ sau dấu lạ chữa lành người bại biệt (ch. 5),
diễn từ sau dấu lạ bánh hoá nhiều (ch. 6), tranh luận sau dấu lạ chữa lành
người mù từ thuở mới sinh (ch. 9). Ở ch. 11, Đức Giê-su mặc khải ý nghĩa biến
cố trước khi gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46).
Tin Mừng
Gio-an thuật lại bảy dấu lạ trong 12 chương đầu (Ga 1–12) và một dấu lạ trong
chương cuối (ch. 21). Dựa vào đặc điểm này, người ta thường gọi 12 chương đầu
của sách Tin Mừng (Ga 1–12) là “Sách Các Dấu Lạ”, phần còn lại, Ga 13–21,
là “Sách Giờ Tôn Vinh”, bởi vì Ga 13–21 cho biết ý nghĩa của biến cố Thương Khó
– Phục Sinh (ch. 13–17) và thuật lại diễn tiến của biến cố này (ch. 18–21). Hai
phần này liên kết chặt chẽ với nhau và soi sáng cho nhau.
Mỗi dấu lạ
mặc khải một số khía cạnh liên quan đến ba câu hỏi quan trọng: Đức Giê-su từ
đâu tới? Người là ai? Sứ vụ của Người là gì? Các dấu lạ của Đức Giê-su còn liên
hệ mật thiết với biến cố thập giá. Chính vì những dấu lạ Đức Giê-su đã thực
hiện mà Thượng Hội Đồng Do Thái đã quyết định giết Đức Giê-su (11,47-53). Nói
cách khác, các dấu lạ trong Tin Mừng dẫn Đức Giê-su đến biến cố “Giờ của Người”
và ngược lại biến cố nghịch lý: “Giờ tôn vinh trên thập giá” giúp các môn đệ và
độc giả hiểu ý nghĩa đích thực các dấu lạ Đức Giê-su đã làm trong sứ vụ công
khai. Biến cố thập giá là biến cố nền tảng giúp hiểu căn tính của Đức Giê-su và
nhờ dấu lạ, độc giả có thể tin vào Người, đây là mục đích của sách Tin Mừng,
được nói đến trong phần kết luận (20,30-31)./.
Ngày 20
tháng 01 năm 2013
Email:
josleminhthong@gmail.com
Nguồn: http://tungubontinmung.blogspot.com/2013/01/dau-la-dt-semeion-trong-tin-mung-gio-an.html
Bài viết
liên quan:
- Tin Mừng Gio-an chỉ có “DẤU LẠ”, không có “PHÉP LẠ”.
- There are no
“MIRACLES” but “SIGNS” in the Gospel of John.
- SIGN, n. sêmeion, in
the Gospel of John