Nội dung
I. Bản văn Ga
4,5-15
II. Dẫn nhập
III. Phân tích
1. Ngôn ngữ biểu tượng và nghịch lý
2. Kỹ thuật hành văn dị nghĩa, gây
hiểu lầm
3. Cuộc gặp gỡ, đối thoại vượt trên
mọi thứ rào cản
IV. Kết luận
I. Bản văn Ga
4,5-15 (Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA
THƯ)
5 Vậy Người [Đức
Giê-su] đến một thành Sa-ma-ri, gọi là Xy-kha, gần thửa đất mà Gia-cóp đã cho
Giu-se, con của ông ấy. 6 Ở đó có giếng Gia-cóp. Đức Giê-su vất vả vì đi đường
nên ngồi xuống bờ giếng. Lúc đó khoảng giờ thứ sáu [12 giờ trưa].
7 Có một người
phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với chị ấy: “Cho Tôi uống với.” 8
Vì các môn đệ của Người đã đi vào thành để mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri
nói với Người: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nước uống, mà tôi là một phụ nữ Sa-ma-ri?” Vì
người Do Thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri.
10 Đức Giê-su trả
lời và nói với chị ấy: “Nếu chị nhận biết ân huệ của Thiên Chúa và ai là người
nói với chị: ‘Cho Tôi uống với’, hẳn chị đã xin người ấy và người ấy đã ban cho
chị nước sự sống.” 11 [Chị ấy] nói với Người: “Thưa Ông, Ông không có gầu và
giếng lại sâu. Vậy, Ông có nước sự sống từ đâu? 12 Chẳng lẽ Ông lớn hơn cha của
chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này, chính người đã uống nơi giếng này, cả con cháu và đàn
gia súc của người nữa?”
13 Đức Giê-su trả
lời và nói với chị ấy: “Bất kỳ ai uống nước này sẽ lại khát. 14 Nhưng ai uống
nước mà chính Tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không khát. Nhưng nước mà Tôi sẽ
ban cho người ấy sẽ trở nên nơi người ấy một mạch nước vọt lên sự sống đời đời.”
15 Người phụ nữ nói với Người: “Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi
hết khát và khỏi phải đến đây múc nước.”
II. Dẫn nhập
Đoạn văn Ga
4,5-15 thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ
giếng Gia-cóp vào lúc giữa trưa, khi ấy Đức Giê-su vất vả vì đi đường nên ngồi
xuống bờ giếng (4,6). Đoạn Tin Mừng này vừa là ví dụ điển hình của việc tin vào
Đức Giê-su, nghĩa là dám từ bỏ con đường mình đang đi để tuyên xưng niềm tin
vào Người, vừa là mặc khải về căn tính của Đức Giê-su một cách nghịch lý: Người
có nước sự sống lại đang khát nước và phải xin nước để uống.
Câu chuyện về
người phụ nữ Sa-ma-ri chỉ có trong Tin Mừng Gio-an và được trình bày cách độc
đáo với kiểu hành văn đặc thù của Tin Mừng Gio-an, phần sau sẽ phân tích ba đề
tài trong đoạn văn Ga 4,5-15:
(1) Ngôn ngữ biểu
tượng và nghịch lý: “Khát nước hằng ngày” và “khát nước sự sống”.
(2) Kỹ thuật hành
văn dị nghĩa, gây hiểu lầm, nhằm giúp độc giả hiểu đúng mặc khải.
(3) Cuộc gặp gỡ
và đối thoại vượt trên mọi thứ rào cản như: Tôn giáo, phái tính và nơi thờ
phượng. Đây là cuộc gặp gỡ có khả năng làm nẩy sinh sự đón nhận lẫn nhau và dẫn
đến sự sống đích thực, sự thờ phượng đích thực và niềm tin đích thực.
III. Phân tích
1. Ngôn ngữ biểu
tượng và nghịch lý
Cuộc gặp gỡ giữa
Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp mô tả sự tìm kiếm của
hai con người. Đức Giê-su là người xin nước uống vì Người vất vả đi đường lúc
giữa trưa. Người nói với người phụ nữ: “Xin chị cho Tôi nước uống” (4,7). Còn
người phụ nữ Sa-ma-ri là người thường xuyên vất vả tới giếng múc nước nên cũng
xin nước uống. Chị ấy nói với Đức Giê-su: “Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước
ấy [nước sự sống], để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4,15). Câu
chuyện về “khát nước” và “lấy nước” bên bờ giếng mở đầu và kết thúc bằng hai
lời xin: Người có “nước hằng sống” (dịch sát: “nước sự sống”) thì xin “nước
hằng ngày”. Còn người có gầu để múc nước giếng, nghĩa là có “nước hằng ngày”
lại xin “nước sự sống”.
Câu chuyện nói
đến hai thứ nước và hai thứ khát. Đức Giê-su nói về sự khác biệt giữa “nước
giếng” và “nước sự sống” như sau: “13 Bất kỳ ai uống nước này [nước giếng] sẽ lại
khát. 14 Nhưng ai uống nước mà chính Tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không
khát. Nhưng nước mà Tôi sẽ ban cho người ấy sẽ trở nên nơi người ấy một mạch
nước vọt lên sự sống đời đời” (4,13-14). “Nước hằng ngày” là thứ nước uống vào
sẽ lại khát, còn “nước sự sống” là thứ nước uống vào sẽ không bao giờ khát nữa.
Như thế trong
cuộc đối thoại, danh từ “nước” (hudôr) và động từ “khát” (dipsaô) vừa có nghĩa
đen, vừa có nghĩa biểu tượng. Nghĩa đen là nước uống hằng ngày, nghĩa biểu
tượng là “nước đích thực” mà Đức Giê-su ban tặng cho những ai tin vào Người. Để
phân biệt, Đức Giê-su gọi thứ nước này là “nước sự sống” (hudôr zôn). “Khát
nước” theo nghĩa đen là khát nước uống hằng ngày. “Khát” theo nghĩa biểu tượng
là “khát nước sự sống”, nghĩa là khao khát sự thật, khát được biết ai là đấng
cứu độ trần gian, khát tâm linh, khát sự thờ phượng đích thực, khao khát gặp
được ai đó đáng tin và để tin. Như thế, nghĩa biểu tượng của “nước” và “khát
nước” nhằm trình bày mặc khải. Tuy nhiên trong mạch văn, nghĩa đen của việc
“khát nước” cũng mặc khải về căn tính của Đức Giê-su: Đức Giê-su là con người
như bao người khác và nhân tính của Đức Giê-su được tỏ lộ qua kiểu hành văn
tương phản, hài hước và nghịch lý: Người tự cho mình có “nước sự sống”, uống
vào thì đời đời sẽ không khát, nhưng người ấy lại đang khát và phải xin người
phụ nữ Sa-ma-ri nước để uống: “Chị cho Tôi uống với” (4,7). Theo mạch văn, nước
hằng ngày quan trọng, vì chính Đức Giê-su đã mệt mỏi vì đi đường và Người xin
nước uống. Như thế, nhu cầu về nước hằng ngày diễn tả thân phận làm người của
Đức Giê-su. Người là con người như mọi người, sống trọn vẹn thân phận làm
người. Người cũng đói, khát, vất vả thi hành sứ vụ như bao người khác.
Đồng thời bản văn
cho phép hiểu đói, khát, vất vả theo nghĩa biểu tượng. Đức Giê-su khao khát rao
giảng Tin Mừng. Người chấp nhận vất vả để dẫn đưa những con chiên lạc về cùng
một ràn chiên. Nghĩa biểu tượng của động từ “khát” được gợi ý trong cách kể
chuyện. Thực vậy, điều nói rõ trong bản văn là Đức Giê-su khát nước và Người
xin nước để uống, nhưng trình thuật không kể việc Đức Giê-su uống nước mà đi
thẳng vào trọng tâm câu chuyện là mặc khải của Đức Giê-su về căn tính và sứ vụ
của Người. Khi người phụ nữ hỏi: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nướcuống, mà tôi là một phụ nữ Sa-ma-ri?”
(4,9), Đức Giê-su không trả lời câu hỏi này mà đi thẳng vào điều Người muốn mặc
khải cho chị: “Nếu chị nhận biết ân huệ của Thiên Chúa và ai là người nói với
chị: ‘Cho Tôi uống với’, hẳn chị đã xin người ấy và người ấy đã ban cho chị
nước sự sống” (4,10).
Chi tiết Đức
Giê-su xin nước uống vừa là mặc khải về nhân tính của Đức Giê-su, vừa đề cao
vai trò của người phụ nữ. Đức Giê-su đang cần đến sự giúp đỡ của chị, đồng thời
Người đề nghị với chị thứ nước Người có khả năng ban cho chị: “Nước sự sống”.
Đức Giê-su tôn trọng quá khứ, hiện tại và tương lai của chị, Người mặc khải để
chị biết Người là ai và chị được tự do lựa chọn con đường của mình, lựa chọn
tin vào ai và tin vào điều gì.
2. Kỹ thuật hành
văn dị nghĩa, gây hiểu lầm
Hành trình tìm
kiếm của người phụ nữ Sa-ma-ri được trình bày qua kỹ thuật hành văn gây hiểu
lầm. Trước hết chị hiểu lầm “nước giếng” là “nước sự sống”, vì chị nói với Đức
Giê-su: “Thưa Ông, Ông không có gầu và giếng lại sâu. Vậy, Ông có nước sự sống
từ đâu?” (4,12). Trong mạch văn, quà tặng của Đức Giê-su là “nước sự sống”,
dịch sát: “nước sống” (hudôr zôn) theo nghĩa nước sống động, sinh động (living
water) chứ không phải nước tù trong ao. Người phụ nữ đã hiểu “nước sống” theo
nghĩa đen. Thứ đến, chị hiểu lầm về “khát nước giếng” và “khát nước sự sống”
khi chị nói với Đức Giê-su: “Thưa Ông, xin ông cho Tôi thứ nước ấy, để tôi hết
khát và khỏi phải đến đây múc nước” (4,15).
Trao đổi về đề
tài “nước uống” và “khát nước” kết thúc ở đây (4,15) vì xem ra chị ấy hoàn toàn
không hiểu ý nghĩa của “nước sự sống” như Đức Giê-su muốn. Để tiếp tục cuộc đối
thoại, Đức Giê-su quyết định thay đổi đề tài, Người với chị: “Hãy đi gọi chồng
của chị, rồi trở lại đây” (4,16). Mục đích kỹ thuật hành văn gây hiểu lầm trên
đây muốn nói với độc giả rằng: Đừng nghĩ và đừng hiểu sai như nhân vật trong
câu chuyện. Nói cách khác, nhờ sự hiểu lầm của người phụ nữ Sa-ma-ri trong
trình thuật mà độc giả có cơ may hiểu đúng và phân biệt rõ nghĩa đen và nghĩa
biểu tượng của “nước giếng” và “nước sự sống”. Nhờ đó độc giả hiểu tại sao Đức
Giê-su có “nước sự sống” mà phải “xin nước giếng” để uống.
Đến cuối trình
thuật (4,39-42), độc giả sẽ nhận ra rằng không phải dùng gầu để múc “nước sự
sống” như người phụ nữ Sa-ma-ri đã nghĩ (4,11), nhưng để có nước sự sống, con
người cần đón nhận và tin vào Đức Giê-su. Câu chuyện kết thúc khi những người
Sa-ma-ri trong thành Xy-kha đến gặp Đức Giê-su và họ nói với người phụ nữ:
“Không còn phải vì lời của chị mà chúng tôi tin. Vì chính chúng tôi đã nghe và đã
biết rằng Người thật là Đấng cứu độ thế gian.” Như thế, “TIN”,
“NGHE”, “BIẾT” Đức Giê-su
và tuyên xưng Người là “ĐẤNG CỨU ĐỘ TRẦN GIAN” thì có “nước sự sống” nơi mình.
Đó là thứ nước “sẽ trở nên nơi người ấy một mạch nước vọt lên sự sống đời đời”
(4,14).
3. Cuộc gặp gỡ,
đối thoại vượt trên mọi thứ rào cản
Ý nghĩa thứ ba
của trình thuật là cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri đã vượt
trên mọi thứ rào cản. Câu chuyện mở đầu với sự ngạc nhiên của người phụ nữ:
“Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nước uống, mà tôi là một phụ nữ Sa-ma-ri?”
(4,9). Câu hỏi này cho thấy khoảng cách giữa hai bên, cụ thể là sự khác biệt về
nguồn gốc và niềm tin (Do Thái – Sa-ma-ri),
rào cản phái tính (nam – nữ), khác nhau về nơi thờ phượng (Giê-ru-sa-lem – Gơ-ri-dim).
Tuy vậy, câu chuyện kết thúc
trong niềm tin và đón nhận lẫn nhau. Nhờ lời loan báo của người phụ nữ, những
người Sa-ma-ri trong thành Xy-kha đến với Đức Giê-su và “xin Người ở lại với
họ, và Người đã ở lại đó hai ngày” (4,40). Cuộc gặp gỡ kết thúc tốt đẹp khi
người thuật chuyện cho biết kết quả việc Đức Giê-su ở lại với họ như sau:
“Nhiều người hơn nữa đã tin, nhờ lời của Người” (4,41). Cuộc gặp gỡ mở đầu với
nhiều trở ngại, nhưng Đức Giê-su
đã vượt trên mọi thứ rào cản để dẫn người nghe đến lựa chọn đón
nhận lời mặc khải và tin vào Người.
IV. Kết luận
Có thể rút ra từ
Ga 4,5-15 ba bài học: (1) Ngôn ngữ và văn chương Gio-an. (2) Hành trình tìm
kiếm nước sự sống. (3) Cách thức gặp gỡ và đối thoại đích thực.
(1) Bài học thứ
nhất liên quan đến ngôn ngữ và văn chương Gio-an. Trong Tin Mừng Gio-an, tác
giả thường dùng ngôn ngữ biểu tượng, dị nghĩa và gây hiểu lầm. Trong Ga 4,7-15,
danh từ “nước” và động từ “khát” vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa biểu tượng và cả
hai nghĩa đều quan trọng. Các từ dị nghĩa trong bản văn thường làm cho người
nghe hiểu lầm. Đức Giê-su nói theo nghĩa biểu tượng thì người nghe hiểu theo
nghĩa đen. Đây là kỹ thuật hành văn nhằm giúp độc giả hiểu đúng lời Đức Giê-su,
nghĩa là nhận ra nhân vật trong câu chuyện hiểu sai, hiểu lầm lời của Người.
Tin Mừng Gio-an
thường trình bày đề tài cách nghịch lý. Chẳng hạn người ban nước sự sống lại
phải xin nước uống. Kiểu hành văn này làm lộ ra căn tính của Đức Giê-su: Người
là Con Thiên Chúa (ban nước sự sống) và Người là con người (khát nước và xin
nước uống). Sự nghịch lý này sẽ đạt đến đỉnh cao trên thập giá: Chết trên thập
giá là tôn vinh.
(2) Bài học thứ
hai là hành trình tìm kiếm “nước sự sống”. Câu chuyện mời gọi độc giả hãy coi
trọng cả hai thứ nước: “nước sự
sống” và “nước hằng ngày”. Đừng chỉ chú trọng tìm “nước sự sống” mà xem nhẹ
công việc làm ăn để “có nước hằng ngày”. Cách hiểu của người phụ nữ Sa-ma-ri:
“Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây
múc nước” là đã hiểu sai về “nước sự sống”. Để có “nước sự sống” con người cần
không ngừng khao khát đối thoại với Đức Giê-su và hiểu đúng lời mặc khải của
Người. Từ đó, “đến với”, “tin” và “ở lại” với Người. Đó là cách con người đón
nhận “nước sự sống”, thứ nước sẽ làm thoả mãn mọi khát vọng của con người.
(3) Bài học thứ
ba là cách thức gặp gỡ và đối thoại với người khác. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su
và người phụ nữ Sa-ma-ri đã diễn ra ở một nơi cụ thể: giếng Gia-cóp, gần thành
Xy-kha miền Sa-ma-ri. Đồng thời trình thuật mời gọi độc giả áp dụng cuộc gặp gỡ
bên bờ giếng Gia-cóp vào những cuộc gặp gỡ hằng ngày trong hoàn cảnh cụ thể của
mỗi người. Đó là những cuộc gặp gỡ có khả năng giải thoát khỏi mọi hình thức
ngăn cách và khác biệt về niềm tin, giới tính hay nơi thờ phượng. Từ đó làm nẩy
sinh đối thoại đích thực trong sự chia sẻ và tôn trọng lẫn nhau. Nếu như đối
thoại và gặp gỡ dẫn đến sự hiểu biết “Đức Giê-su là ai” và “nước sự sống là gì”
thì độc giả đang sống Lời Chúa và đang làm sống lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su
và người phụ nữ Sa-ma-ri trong thế giới hôm nay./.
Ngày 03 tháng 03 năm 2013.
Email:
josleminhthong@gmail.com
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/03/ga-45-15-khat-nuoc-hang-ngay-khat-nuoc.html