Tin Mừng Mác-cô: Tin Mừng của sự ngạc nhiên

 

 

Nội dung

 

I. Động từ “thambeô” (sững sờ, kinh ngạc, kinh hoàng)

II. Động từ “ekplêssô” (sửng sốt, kinh ngạc)

III. Động từ “existêmi” (sửng sốt, mất trí)

IV. Danh từ “ekstasis” (sự sửng sốt, sự kinh ngạc)

V. Kết luận

 

 

Tin Mừng Mác-cô dùng ba động từ và một danh từ để diễn tả sự sững sờ, kinh ngạc và kinh hoàng của thính giả. Các trích dẫn lấy trong Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt.

 

I. Động từ “thambeô” (sững sờ, kinh ngạc, kinh hoàng)

 

Động từ “thambeô” có nghĩa “sững sờ”, “kinh ngạc”, “kinh hoàng”, xuất hiện 3 lần trong Tin Mừng Mác-cô (1,27; 10,24.32).

 

1) Những người nghe kinh ngạc vì thán phục uy quyền Đức Giê-su (1,27). Sau khi Đức Giê-su trục xuất thần ô uế trong hội đường Ca-phác-na-um, người thuật chuyện cho biết: “Mọi người đều kinh ngạc (ethambêthêsan) đến nỗi bàn tán với nhau rằng: ‘Điều này là gì? Giáo huấn mới mẻ, kèm theo uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng tuân lệnh Ông ta.’” (1,27).

 

2) Các môn đệ kinh ngạc vì lời Đức Giê-su khó hiểu (10,24). Sau câu chuyện người giàu có không dám từ bỏ của cải để trở thành môn đệ (10,17-22), Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thật khó biết bao cho những người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23), các môn đệ đã “sững sờ (ethambounto) về những lời của Người” (10,24).

 

3) Kinh hoàng vì khiếp sợ (10,32). Trước khi tiên báo Thương Khó – Phục Sinh lần thứ ba, người thuật chuyện kể ở 10,32: “Họ đang trên đường đi lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su dẫn đầu họ. Họ kinh hoàng (ethambounto), còn những kẻ theo sau thì sợ hãi. Người lại đem theo mình Nhóm Mười Hai, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho Người” (10,32).

 

II. Động từ “ekplêssô” (sửng sốt, kinh ngạc)

 

Động từ “ekplêssô” có nghĩa “sửng sốt”, “kinh ngạc”, xuất hiện 5 lần trong Tin Mừng Mác-cô (1,22; 6,2; 7,37; 10,26; 11,18).

 

1) Sửng sốt vì thán phục cách giảng dạy của Đức Giê-su (1,22). Khi nghe Đức Giê-su giảng dạy lần đầu tiên trong hội đường Ca-phác-na-um, “Họ sửng sốt (exeplêssonto) về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy họ như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (1,22).

 

2) Sửng sốt vì xem ra có mâu thuẫn nơi con người Đức Giê-su (6,2), đó là mâu thuẫn giữa uy quyền của Người và Người là con bà Ma-ri-a. Điều nghịch lý này đã làm cho người ta vấp ngã (6,3). Người thuật chuyện kể ở 6,1-3: “1 Ra khỏi đó, Người [Đức Giê-su] đến quê quán của Người và các môn đệ của Người đi theo Người.2 Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường,nhiều người nghe sửng sốt (exeplêssonto) nói rằng: “Bởi đâu Ông ta được như thế? Sự  khôn ngoan được ban cho Ông ấy và những phép lạ như thế nhờ tay Ông ấy nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Ma-ri-a   anh em của Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của Ông ấy không là lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người.”

 

3) Đức Giê-su đã làm cho những người điếc nghe được và những người câm nói được (7,37) nên người ta kinh ngạc vì thán phục. Sau khi chứng kiến phép lạ, đám đông phản ứng như sau: “Họ hết sức kinh ngạc (exeplêssonto) và nói: ‘Ông ấy làm mọi sự một cách tốt đẹp, Ông ấy làm cho những người điếc nghe được và những người câm nói được’” (7,37).

 

4) Các môn đệ kinh ngạc vì lời Đức Giê-su khó hiểu (10,26). Trong bối cảnh câu chuyện người giàu có không dám từ bỏ của cải để trở thành môn đệ (10,17-22), Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 10,24b-25: “24b Các con ơi, thật là khó biết bao để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa. 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim thì dễ hơn người giàu đi vào Vương Quốc Thiên Chúa.” Người thuật chuyện cho biết phản ứng của các môn đệ: “Các ông hết sức kinh ngạc (exeplêssonto) nói với nhau: ‘Vậy thì ai có thể được cứu?’” (10,26). Hai động từ “thambeô” (10,24) và “ekplêssô” (10,26) trong câu chuyện này (10,23-27) diễn tả hai sắc thái khác nhau của sự ngạc nhiên liên quan đến sự khó hiểu của lời Đức Giê-su.

 

5) Đám đông sửng sốt về giáo huấn của Đức Giê-su (11,18). Sau trình thuật Đức Giê-su đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ(11,15-17), tác giả cho biết phản ứng của các thượng tế và kinh sư: “Các thượng tế và các kinh sư đã nghe và họ tìm cách làm thế nào để giết Người. Bởi vì họ sợ Người,  vì tất cả đám đông đều sửng sốt (exeplêsseto) về giáo huấn của Người” (11,18).

 

III. Động từ “existêmi” (sửng sốt, mất trí)

 

Động từ “existêmi” có nghĩa “sửng sốt” hay “mất trí”, xuất hiện 4 lần trong Tin Mừng Mác-cô (2,12; 3,21; 5,42; 6,51).

 

1) Sửng sốt, thán phục và tôn vinh Thiên Chúa (2,12). Sau khi ĐứcGiê-su tuyên bố lời tha tội và lời chữa lành người bại liệt có bốn người khiêng (2,1-11), người thuật chuyện kể: “Anh ta trỗi dậy và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến mọi người sửng sốt (existasthai) và tôn vinh Thiên Chúa. Họ nói rằng: ‘Chúng ta chưa bao giờ thấy như thế’” (2,12).

 

2) Thân nhân cho là Đức Giê-su mất trí (3,21). Động từ “existêmi” ở 3,21 có nghĩa “mất trí”. Người thuật chuyện kể ở 3,20-21: “20 Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, đến nỗi họ không thể ăn bánh. 21 Khi thân nhân của Người nghe biết, họ đến bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí (exestê).”

 

3) Sửng sốt trước phép lạ Đức Giê-su thực hiện (5,42). Người thuật chuyện kể phép lạ Đức Giê-su cứu sống con gái ông trưởng hội đường ở 5,41-42 như sau: “41 Người cầm lấy tay đứa bé và nói với nó: ‘Ta-li-tha kum’, dịch ra là ‘Này cô bé, Thầy bảo con: Hãy trỗi dậy.’ 42 Và lập tức cô bé đứng dậy và đi lại vì nó đã mười hai tuổi. [Lập tức], người ta sửng sốt (exestêsan) kinh ngạc (ekstasei) vô cùng. Ở 5,42 xuất hiện động từ “existêmi” (sửng sốt) danh từ“ekstasis” (sự kinh ngạc) sẽ bàn đến dưới đây.

 

4) Các môn đệ vô cùng sửng sốt khi Đức Giê-su làm cho biển yên, gió lặng (6,51). Khi các môn đệ đang vất vả chèo chống trên Biển Hồ Ga-li-lê vì ngược gió thì vào khoảng canh tư, Đức Giê-su đi trên Biển Hồ đến với các ông và Người muốn vượt qua các ông (6,48-49). Thấy Đức Giê-su đi trên biển các môn đệ tưởng là ma, nhưng Đức Giê-su trấn an họ: “Hãy yên tâm. Chính là Thầy. Đừng sợ”(6,50). Người thuật chuyện kể tiếp ở 6,51-52: “51 Người lên thuyền với các ông và gió lặng. Các ông rất [bàng hoàng] sửng sốt (existanto), 52 vì các ông không hiểu gì về những cái bánh, lòng các ông còn chai đá.”

 

IV. Danh từ “ekstasis” (sự sửng sốt, sự kinh ngạc)

 

Danh từ “ekstasis” có nghĩa “sự sửng sốt”, “sự kinh ngạc” chỉ xuất hiện 1 lần trong Tin Mừng Mác-cô ở 5,42. Tiếng Pháp “extase”, cùng gốc từ “ekstasis”,  nghĩa: “xuất thần”, “nhập định”, “mê ly”,“ngây ngất”. Đặc biệt Mc 5,24 vừa dùng trạng từ “euthus” (lập tức), vừa dùng động từ “existêmi” (sửng sốt), vừa dùng danh từ “ekstasis” (kinh ngạc), vừa dùng tính từ “mêgas” (lớn) để nhấn mạnh sự ngạc nhiên. Sau khi Đức Giê-su cầm tay đứa bé gái 12 tuổi đã chết và Người nói: “‘Ta-li-tha kum’, nghĩa là ‘Này cô bé, Thầy bảo con: Hãy trỗi dậy!’, lập tức cô bé đứng dậy và đi lại” (5,41-42a), thì “lập tức người ta sửng sốt kinh ngạc vô cùng (exestêsan [euthus) ekstasei megalê)” (5,42b).

 

V. Kết luận

 

Đề tài “kinh ngạc”, “sửng sốt”, “ngạc nhiên” trước lời nói và việc làm của Đức Giê-su là đặc điểm riêng của Tin Mừng Mác-cô. Đức Giê-su đã làm cho thính giả (nhân vật trong câu chuyện) sửng sốt kinh ngạc và làm cho độc giả qua mọi thời đại ngạc nhiên về con người Đức Giê-su và ngạc nhiên về cách kể chuyện lạ lùng của người thuật chuyện trong Tin Mừng Mác-cô. Nhiều tác giả đề nghị gọi Tin Mừng Mác-cô là “Tin Mừng của sự ngạc nhiên”. Như thế, nếu đọc Tin Mừng Mác-cô mà độc giả chưa cảm thấy sững sờ kinh ngạc và nhận ra sự lạ lùng trong câu chuyện thì chưa thực sự đọc Tin Mừng Mác-cô. Xem mục III.5. “Lối hành văn ngạc nhiên, bí ẩn và nghịch lý” trong bài viết: “Đặc điểm và đề tài trong Tin Mừng Mác-cô”./.

 

Ngày 07 tháng 04 năm 2013.

Giuse Lê Minh Thông, O.P.

Email: josleminhthong@gmail.com

Nguồn:

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/04/tin-mung-mac-co-tin-mung-cua-su-ngac.html

 

 

Các mục từ liên hệ:

KINH HOÀNG, đt., thambeô, trong Mác-cô, x. KINH NGẠC, KINH HOÀNG

KINH NGẠC (sự), dt., ekstasis, trong Mác-cô

KINH NGẠC, KINH HOÀNG, đt., thambeô, trong Mác-cô

MẤT TRÍ, đt., existêmi, trong Mác-cô, x. SỬNG SỐT, MẤT TRÍ

NGẠC NHIÊN, đt, trong Mác-cô x. SỬNG SỐT, KINH NGẠC

SỮNG SỜ, đt., trong Mác-cô x. SỬNG SỐT, KINH NGẠC

SỬNG SỐT, đt., ekplêssô, trong Mác-cô

SỬNG SỐT, MẤT TRÍ, đt., existêmi, trong Mác-cô

 


Mục Lục Kinh Thánh