Tác giả: Giu-se
LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email: josleminhthong@gmail.com
Ngày 21 tháng 02 năm 2014.
Nội dung
1. Tác giả
2. Niên biểu và nơi biên soạn
3. Độc giả
4. Thể văn khải huyền
1. Tác giả
Truyền thống cho rằng Gio-an tông đồ là tác giả sách Khải Huyền. Theo
truyền thống, Gio-an tông đồ cũng là tác giả Tin Mừng Gio-an và ba thư Gio-an.
Tuy nhiên, khi dựa vào bản văn sách Khải Huyền, phần lớn các nhà Kinh Thánh
ngày nay phân biệt Gio-an tông đồ và Gio-an tác giả sách Khải Huyền. Bốn lần
tên gọi “Gio-an” xuất hiện trong sách Khải Huyền (1,1.4.9; 22,8) cho phép xác
định đôi nét về tác giả.
(a) Lời tựa sách Khải Huyền (1,1-3) nói về Gio-an ở ngôi thứ ba số ít, nên
phần lời tựa (1,1-3) không phải Gio-an viết mà là một người khác viết lời tựa.
Tác giả lời tựa nói về Gio-an là “người đã làm chứng về lời của Thiên Chúa và
về lời chứng của Đức Giê-su Ki-tô” (1,2a). Những lời chứng của Gio-an qua các
thị kiến được gọi là “sấm ngôn (prophêteia)” (1,3), nên Gio-an được trình bày
như là một ngôn sứ (prophêtês). Ở 22,8-9, khi Gio-an phủ phục dưới chân vị
thiên sứ để thờ lạy, thì thiên sứ nói với Gio-an: “Coi chừng, đừng thế, tôi
cùng là tôi tớ như ông, như các anh em của ông là các ngôn sứ và những người tuân giữ
các lời của sách này. Ông hãy thờ lạy Thiên Chúa.” Gio-an được gọi là “tôi tớ”
(doulos) và xếp vào nhóm các ngôn sứ. Trong sách Khải Huyền, từ “tôi tớ”
(doulos) được dùng để nói về Ki-tô hữu (2,20; 7,3; 19,2.5; 22,3.6) hoặc các
ngôn sứ (10,7).
(b) Từ Kh 1,4, tác giả xưng tên là Gio-an và gọi độc giả là “anh em” (ngôi
thứ 2 số nhiều): “Gio-an gửi bảy Hội Thánh tại A-xi-a. Ân sủng và
bình an cho anh em từ Đấng hiện có, đã có và đang đến...” (1,1a). Cuối câu 5 và
đầu câu 6, tác giả xưng hô: “chúng ta” (ngôi thứ nhất số nhiều). “Người [Đức
Giê-su Ki-tô] đã yêu mến chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi các tội của chúng
ta trong máu của Người” (1,5b); “và làm cho chúng ta thành vương quốc, các tư
tế cho Thiên Chúa là Cha của Người,...” (1,6a). Như thế tác giả Gio-an viết cho
một cộng đoàn và tác giả là thành viên của cộng đoàn. Điều này được làm rõ
trong phần tự giới thiệu ở 1,9.
(c) Tác giả tự giới thiệu ở 1,9: “Tôi là Gio-an, người anh em của anh em, là người cùng chia sẻ gian truân,
vương quyền và sự kiên trì trong Đức Giê-su. Tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì
lời của Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giê-su.” Kiểu nói “người anh em của anh
em” cho thấy tác giả thuộc về cộng đoàn và cùng chia sẻ gian truân mà cộng đoàn
đang trải qua.
Không có dấu hiệu gì trong bản văn cho phép đồng hoá ngôn sứ Gio-an trong
sách Khải Huyền với Tông Đồ Gio-an trong Tin Mừng Nhất Lãm. R. E. BROWN tóm kết
nhận định về tác giả sách Khải Huyền hiện nay như sau: “Sách Khải Huyền được
viết bởi một ngôn sứ, là Ki-tô hữu gốc do thái, tên là Gio-an. Ông Gio-an này
không phải là Gio-an con ông Dê-bê-đê, cũng không phải là người viết sách Tin
Mừng hay ba thư Gio-an” (R. E. BROWN, Que
sait-on du Nouveau Testament?, Paris, Bayard, 2000, [dịch từ: An Introduction to the New
Testament, 1997], p. 831).
2. Niên biểu và nơi biên soạn
Có thể ghi nhận một vài mốc lịch sử sau đây: Trong những năm 60, Phê-rô và
Phao-lô đã chịu tử đạo, các Ki-tô hữu bị bách hại dưới thời hoàng đế Nê-rô. Đến
năm 70–73, quân Rô-ma chiếm Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ bị phá huỷ. Sau năm 73,
xung đột giữa các Ki-tô hữu và những người Do Thái ngày càng tăng và dẫn đến
hậu quả các Ki-tô hữu và những người Do Thái cắt đứt liên hệ với nhau.
Thời hoàng đế Đô-mi-xi-a-nô (81–96), hoàng đế này tiếp tục áp đặt việc tôn
thờ hoàng đế như một vị thần. Điều mà các Ki-tô hữu không thể chấp nhận nên đã
bị bách hại. Có thể sách Khải Huyền được biên soạn khoảng từ năm 92–96 vào cuối
thời hoàng đế Đô-mi-ti-a-nô. Dưới đây là danh sách các hoàng đế thế kỷ I và đầu
thế kỷ II: Octavien Auguste (-27–+14), Tibère (14–37), Gaios Caligula (37–41),
Claude (41–54), Néro (54–68), Galba (68), Vespasien (69–79), Titus (79–81),
Domitien (81–96), Nerva (96–98), Trajan (98–117), Hadrien (117–138).
Ngôn sứ Gio-an thuật lại thị kiến khi ông đang bị cầm tù ở đảo Pát-mô, “vì
lời của Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giê-su” (1,9). Sau khi xuất thần (1,10)
Gio-an được mặc khải bằng thị kiến và nhận mệnh lệnh viết ra các thị kiến cho
bảy Hội Thánh (1,11). Nội dung sách Khải Huyền được gọi là “Mặc khải của Đức
Giê-su Ki-tô” (1,1). Tác giả viết sách Khải Huyền trong thời gian bị cần tù ở
đảo Pát-mô hay ít lâu sau đó. Có thể xác định nơi biên soạn trong vùng Tiểu Á,
khu vực bảy Hội Thánh, mà tác giả là thành viên (1,9).
3. Độc giả
Sách Khải huyền được gửi cho các Hội Thánh ở vùng Tiểu Á, cụ thể có 7 Hội
Thánh được nêu tên trong sách Khải Huyền. Qua con số biểu tượng sự hoàn hảo: số
7, sứ điệp sách Khải Huyền muốn gửi tới tất cả các Hội Thánh đang bị bách hại
vào cuối thế kỷ I. Với tư cách là một bản văn thuộc Quy Điểm Tân Ước của Hội
Thánh Công Giáo, thông điệp sách Khải Huyền luôn có giá trị qua mọi thời đại.
Độc giả ngày nay vẫn tìm thấy trong sách Khải Huyền những vấn đề của thời đại:
Cuộc chiến giữ sự thiện và sự ác sẽ kết thúc thế nào? Phải làm gì khi gặp khó
khăn thử thách trong cuộc sống? Sách Khải Huyền giúp độc giả sống cam đảm,
trung tín, bền chí, trung kiên, dám quảng đại hy sinh vì xác tín vào sự chiến
thắng sau cùng.
4. Thể văn khải huyền
Cần phân biệt thể văn khải huyền với sách Khải Huyền là sách cuối cùng của
Tân Ước. Thể văn khải huyền tìm thấy trong sách Đa-ni-en, Giô-en và một số đoạn
văn khác trong các sách ngôn sứ: I-sai-a (Is 24–27), Ê-dê-ki-en và Da-ca-ri-a
(Dcr 9–11). Trong Tân Ước, ngoài sách Khải Huyền, thể văn khải huyền tìm thấy
trong thư 1Th và 2Th (1Tx 4,15-17; 2Tx 2,1-12) và một số đoạn văn trong Tin
Mừng Nhất Lãm (Mc 13; Mt 24,1-16; Lc 17,22-37; 21,5-33).
Từ “Khải Huyền” (apokalupsis) có nghĩa là “vén màn” cho thấy điều che khuất
bên trong, từ Hy Lạp “apokalupsis” thường được dịch là “mặc khải”
(revelation) hay “khải huyền” (cho biết những điều bị che dấu). Thể văn khải
huyền trình bày mặc khải của Thiên Chúa bằng ngôn ngữ biểu tượng và qua trung
gian các thị kiến. Vì thế cần hiểu ý nghĩa của các biểu tượng để hiểu thông
điệp của sách Khải Huyền. Việc dùng ngôn ngữ biểu tượng là cần thiết trong hoàn
cảnh cụ thể. Thể văn khải huyền thường xuất hiện trong bối cảnh tác giả và cộng
đoàn đang bị bách hại. Ngôn ngữ biểu tượng và các hình ảnh cổ truyền làm cho
người bị bách hại hiểu hiểu ý nghĩa của thông điệp, còn những kẻ đi bách hại,
cụ thể là đế quốc Rô Ma, thì không biết ý nghĩa câu chuyện muốn nói gì.
Qua các thị kiến với ngôn ngữ biểu tượng của văn chương khải huyền, tác giả
vừa trình bày hoàn cảnh khó khăn thử thách trong hiện tại, vừa cho biết quyền
năng và sự chiến thắng cuối cùng thuộc về Thiên Chúa và những ai trung tín với
Người cho đến cùng./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2014/02/tac-gia-nien-bieu-va-van-sach-khai-huyen.html