Bài viết tiếng Pháp:
“Je suis” (egô eimi) dans
l’Évangile de Jean
Tác
giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email:
josleminhthong@gmail.com
Ngày
31 tháng 03 năm 2014.
Nội dung
I. Dẫn nhập
II.
Cách dùng “egô eimi” trong Tin Mừng Gio-an
1. Nghĩa thông thường của “egô eimi”
a) “Egô eimi” nói về nơi chốn hay thuộc về ai
b) Các nhân vật khác dùng “egô eimi”
2. Nghĩa thần học “egô eimi” của Đức Giê-su
a) “Egô eimi” có thuộc từ (14 lần)
b) “Egô eimi” xác định người nói (5 lần)
c) “Egô eimi” không có thuộc từ (4 lần)
III.
“Egô eimi” trong Cựu Ước
1. Nghĩa thông thường của “egô eimi”
2. “Egô eimi” là Danh ĐỨC CHÚA (YHWH, Yahvé)
IV.
“Egô eimi” trong sách Khải Huyền
V.
“Egô eimi” của Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an
1. “Egô eimi” có thuộc từ
2. “Egô eimi” xác định người
nói
a) Chính là
Tôi (egô eimi), người đang nói với chị” (4,26)
b) “Chính là
Thầy (egô eimi), đừng sợ!” (6,20)
c) “Chính là
Tôi (egô eimi)” (18,5)
3. “Egô eimi” không có
thuộc từ
a) “Nếu các ông không
tin rằng: Tôi Là…” (8,24)
b) “Bấy giờ các ông sẽ biết rằng Tôi Là” (8,28)
c) “Trước khi có Áp-ra-ham, Tôi Là” (8,58)
d) “Anh em tin rằng: Thầy Là” (13,19)
VI. Kết luận
VII.
Thư mục
I.
Dẫn nhập
Kiểu nói tiếng Hy
lạp “egô eimi” có nghĩa “chính tôi là” hay “chính là tôi” tuỳ theo văn mạch.
“Egô eimi” có thể có nghĩa thông thường. Chẳng hạn, Gio-an Tẩy Giả trả lời
những kẻ hỏi về ông ở Ga 1,20b:“Chính tôi
không phải là Đấng Ki-tô (egô
ouk eimi ho Khristos)”, hay Phi-la-tô nói
với Đức Giê-su ở 18,35a: “Tôi
là người Do Thái sao? (mêti
egô Ioudaios eimi;)” (Trích dẫn Kinh Thánh lấy trong Bản dịch của NPD/CGKPV, ấn bản 2011, trong
đó Tin Mừng Gio-an và Sách Khải Huyền lấy trong bản dịch song ngữ của Giu-se
Lê Minh Thông).
Đối với Đức
Giê-su, Người dùng kiểu nói “egô eimi” có thuộc ngữ, như khi Người nói với
những người Do Thái: “Chính Tôi là (egô eimi) ánh sáng của thế gian” (8,12),
hay thuộc ngữ được hiểu ngầm để xác định người nói như ở 6,20, Đức Giê-su nói
với các môn đệ: “Chính là Thầy (egô eimi), đừng sợ!” Đặc biệt là kiểu dùng
tuyệt đối “egô eimi” không có thuộc từ. Chẳng hạn, Đức Giê-su nói với những
người Do Thái ở 8,58b: “Trước khi có Áp-ra-ham, Tôi Là (egô eimi).” (Xem sách TÌNH YÊU và TÌNH BẠN trong Ga
15,9-17, tr. 256).
Cụm từ “egô eimi”
được dùng thế nào trong Tin Mừng Gio-an? Kiểu nói “egô eimi” trong Cựu Ứơc nói
đến ai? Nghĩa thần học “egô eimi” của Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an là gì?
Để trả lời những câu hỏi trên, bài viết sẽ trình bày bốn mục chính: (1) Cách dùng
“egô eimi” trong Tin Mừng Gio-an, (2) “Egô eimi” trong Cựu Ước, (3) “Egô eimi”
trong sách Khải Huyền và (4) Cách hiểu “egô eimi” theo thần học Tin Mừng Gio-an.
II. Cách dùng “egô eimi” trong Tin Mừng Gio-an
Trong tiếng Hy Lạp, “egô” là đại từ ngôi thứ
nhất số ít (tôi), “eimi” là động từ “là, ở” (être) chia ở ngôi thứ nhất số ít,
“eimi” có nghĩa “tôi là, je suis.” Trong kiểu nói “egô eimi”, “egô” là hình
thức nhấn mạnh chủ từ nên dịch: “chính tôi là”, (Moi, je suis) hay “chính là
tôi” (c’est moi) tuỳ theo mạch văn.
Như thế có thể dùng “eimi” (tôi là), không có
hình thức nhấn mạnh chủ từ bằng đại từ ngôi thứ nhất “egô”. Chẳng hạn, Đức
Giê-su nói với các môn đệ ở 9,5: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là
(eimi) ánh sáng của thế gian.” Ở 18,37a, Đức Giê-su nói với Phi-la-tô: “Chính
ngài nói rằng Tôi là (eimi) Vua.” Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 13,13: “Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’ và là ‘Chúa’, anh em nói đúng, vì Thầy là thế
(eimi).”
Xem cách dùng “eimi” không có “egô” ở 1,21b; 14,9.
Ngược lại là dùng “egô” không có “eimi”.
Chẳng hạn, Đức Giê-su tuyên bố ở 12,46: “Tôi là (egô) ánh
sáng đến trong thế gian.” Dịch sát: “Tôi, ánh sáng, đến thế gian.” Từ “ánh sáng” theo
sau đại từ “egô” (tôi) làm đồng vị ngữ (apposition) cho chủ từ, nghĩa là Đức
Giê-su đồng hoá mình với ánh sáng, Người là ánh sáng. Ở 1,23a, Gio-an Tẩy Giả
định nghĩa sứ vụ của mình như sau: “Tôi
là (egô) tiếng kêu trong hoang mạc, hãy làm cho thẳng con đường của Chúa…”
Trong bài viết này chúng tôi chỉ bàn đến kiểu nói “egô eimi”.
1. Nghĩa thông thường của “egô
eimi”
Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su dùng kiểu
nói “egô eimi” để nói về nơi chốn hay thuộc về ai. Một số nhận vật khác cũng
dùng kiểu nói “egô eimi”. Trong những trường hợp này, “egô eimi” có nghĩa thông
thường.
a) “Egô eimi”
nói về nơi chốn hay thuộc về ai
Cụm từ “hopou eimi egô” (nơi tôi ở) xuất hiện
ba lần trong Tin Mừng Gio-an ở 7,34.36; 14,3. Đức Giê-su nói với những người
Pha-ri-sêu ở 7,34b: “Nơi Tôi ở (hopou eimi egô), các ông không thể đến được.”
Những người Pha-ri-sêu lặp lại câu này ở 7,36. Cụm từ trên còn xuất hiện ở
14,3, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Nếu Thầy đi và dọn
chỗ cho anh em, Thầy sẽ lại đến và đem anh em theo với Thầy, để Thầy ở đâu (hopou eimi egô),
anh em cũng ở đó.”
Kiểu nói “egô eimi + ek” có nghĩa “thuộc về”.
Cách dùng này xuất hiện bốn lần ở 8,23a.23b; 17,14b.16b. Đức Giê-su nói với
những người Pha-ri-sêu ở 8,23: “Các ông, các ông thuộc về hạ giới; còn Tôi, Tôi
thuộc về thượng giới (egô ek tôn anô eimi). Các ông, các ông thuộc về thế gian
này; còn Tôi, Tôi không thuộc về thế gian này (egô ouk eimi ek tou kosmou
toutou).” Ở 17,14b, Đức Giê-su nói với Cha của Người: “Cũng như chính Con
(kathos egô ouk eimi) không thuộc về thế gian (ek tou kosmou).” Đức Giê-su lặp
lại câu này ở 17,16b: “Cũng như chính Con (kathos egô ouk eimi) không thuộc về
thế gian (ek tou kosmou).”
Trong những trích dẫn trên đây, không phải
chính xác theo thứ tự các từ “egô eimi” nhưng là “hopou eimi egô” (nơi tôi ở),
hay ở thể phủ định: “egô ouk eimi + ek” (tôi không thuộc về). Những cách dùng
này mô tả nơi ở của Đức Giê-su hay khẳng định là Người không thuộc về thế gian.
b) Các nhân vật
khác dùng “egô eimi”
Có bốn nơi trong Tin Mừng Gio-an (1,20; 3,28;
9,9; 18,35) không phải Đức Giê-su nói “egô eimi”. Trước hết, Gio-an Tẩy Giả
dùng hai lần ở thể phủ định “egô ouk eimi” (không phải tôi) ở 1,20; 3,28. Người
thuật chuyện kể ở 1,19-21: “19 Và đây là lời chứng của Gio-an, khi những người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử
các tư tế và các Lê-vi đến [với ông ấy] để họ hỏi ông ấy: ‘Ông là ai?’ 20 Ông
ấy tuyên xưng chứ không chối, Ông ấy tuyên xưng rằng: ‘Chính tôi không phải là
Đấng Ki-tô (egô ouk eimi
ho Khristos).’ 21 Họ hỏi ông ấy: ‘Vậy thì sao?
Ông là Ê-li-a phải không?’ Ông ấy nói: ‘Không phải tôi (ouk eimi).’ – ‘Ông có
phải là vị ngôn sứ chăng?’ Ông ấy đáp: ‘Không (ou).’” Trong ba lần nói “không”
của Gio-an Tẩy Giả, chỉ có lần đầu tiên xuất hiện ở thể phủ định “egô ouk eimi”
(tôi không phải là) ở 1,20b. Ở 3,28b, Gio-an Tẩy Giả lặp lại lời này với các
môn đệ của mình: “Chính tôi không phải là Đấng Ki-tô (ouk eimi egô ho
Khristos).”
Tiếp theo là anh mù từ thuở mới sinh nói “egô
eimi” ở 9,9. Người thuật chuyện kể về anh ở 9,8-9: “8
Những người láng giềng và những kẻ thấy anh ta trước kia là người ăn xin, nói rằng: ‘Anh ta không phải là người vẫn ngồi
ăn xin sao?’ 9 Những người khác nói rằng: ‘Chính anh ta.’ Những người khác nữa nói: ‘Không phải đâu, nhưng là một
người giống anh ta.’ Còn anh ta nói rằng: ‘Chính tôi đây (egô eimi).’” Cuối
cùng là Phi-la-tô dùng kiểu nói “egô eimi” khi ông ấy nói với Đức Giê-su ở
18,35a: “Tôi là người Do Thái sao?(mêti
egô Ioudaios eimi;)”
Tóm lại, những
cách dùng “egô eimi” trên đây: “hopou eimi egô” (nơi tôi ở), “egô ouk eimi”
(tôi không phải là) của Đức Giê-su, cũng như “egô eimi” của Gio-an Tẩy Giả, của
anh mù từ thuở mới sinh và của Phi-la-tô, đều có nghĩa thông thường, không gợi
đến nghĩa thần học.
2. Nghĩa thần học “egô eimi” của Đức
Giê-su
Có thể xem 23 lần
“egô eimi” của Đức Giê-su có nghĩa thần học. Những cách dùng “egô eimi” này gợi
đến căn tính thần linh của Đức Giê-su và có thể xếp thành ba loại:
a) “Egô eimi” có thuộc từ (14 lần)
Trong Tin Mừng Gio-an, 14 lần “egô eimi” có thuộc
từ là những mặc khải về căn tính của Đức Giê-su và về sứ vụ của Người:
1. Chính Tôi là bánh sự sống (4 lần:
6,35.41.48.51).
2. Chính Tôi là ánh sáng của thế gian (1 lần:
8,12), x. 9,5; 12,46.
3. Chính Tôi là người làm chứng về mình (1
lần: 8,18).
4. Chính Tôi là sự sống lại và là sự sống (1
lần: 11,25).
5. Chính Tôi là cửa của đàn chiên (2 lần:
10,7.9).
6. Chính Tôi là mục tử tốt (2 lần: 10,11.14).
7. Chính Tôi là con đường và là sự thật và là sự sống (1 lần: 14,6).
8. Chính Tôi là cây nho đích thật (2 lần:
15,1.5).
b) “Egô eimi”
xác định người nói (5 lần)
Cụm từ “egô eimi” được dùng để xác định người
đang nói xuất hiện 5 lần ở 4,26; 6,20; 18,5.6.8. Đức Giê-su nói với người phụ
nữ Sa-ma-ri về đấng Mê-si-a như sau: “Chính là Tôi (egô eimi), người đang nói
với chị.” Ở 6,20, Đức Giê-su nói với các môn đệ khi Người đi trên Biển Hồ để
đến với các ông: “Chính là Thầy (egô eimi), đừng sợ!” Ở 18,5, Đức Giê-su nói
với những kẻ đến bắt Người: “Chính là Tôi (egô eimi).” Lời này được lặp lại ở
18,5.6.
c) “Egô eimi”
không có thuộc từ (4 lần)
Kiểu dùng tuyệt đối “egô eimi”, không có thuộc
từ, xuất hiện 4 lần ở 8,24.28.58; 13,19. Đức Giê-su nói với những người
Pha-ri-sêu ở 8,24b.28a: “Vì nếu các ông không tin rằng: Tôi Là (egô eimi), các
ông sẽ chết trong tội của các ông” (8,24b); “Khi các ông giương cao Con Người
lên, bấy giờ các ông sẽ biết rằng Tôi Là (egô eimi)” (8,28a). Ở 8,58b, Đức
Giê-su khẳng định với những người Do Thái: “Trước khi có Áp-ra-ham, Tôi Là (egô
eimi).” Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giê-su nói với họ ở 13,19: “Thầy nói với anh em từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra,
anh em tin rằng: Thầy Là (egô eimi).”
Chúng tôi sẽ phân tích 23 lần “egô eimi” trên
đây trong phần sau, bây giờ hãy quan sát cách dùng “egô eimi” trong Cựu Ước và
trong sách Khải Huyền.
III. “Egô eimi” trong Cựu Ước
Cụm từ “egô eimi” trong Cựu Ước có thể có
nghĩa thông thường như đã trình bày. Chúng tôi quan tâm đến nghĩa thần học của
“egô eimi” vì kiểu nói này được dùng thay cho Danh của ĐỨC CHÚA (YHWH, Yahvé).
Bản văn Híp-ri của Kinh Thánh gọi là bản Ma-xo-ra (le texte Massorétique), còn
bản dịch Hy Lạp từ bản văn Híp-ri được gọi là bản Bảy Mươi (LXX, la Septante).
Các từ Híp-ri: “’anî” (tôi là, je suis), “’anî
hû’” hay
“’anokî hû’” (chính là tôi, je le suis, I am he) được Bản
LXX dịch sang tiếng Hy Lạp là “egô eimi”. Tiếng Híp-ri “’anî” hay “’anokî”
là đại từ ngôi thứ nhất số ít: “Tôi” (je, I); còn “hû” tiếng Híp-ri là đại
từ ngôi thứ ba số ít, giống đực: “Người ấy, ông ấy” (il, he).
1.
Nghĩa thông thường của “egô eimi”
Giống như trong Tin Mừng Gio-an, “’anî” (egô, egô eimi) trong Cựu Ước có thể dùng theo nghĩa thông thường,
không nói về Danh của ĐỨC CHÚA (YHWH, Yahvé). Chẳng hạn, Đa-vít thưa cùng
Thiên Chúa (elôhîm) ở 1Sb 21,17: “Chẳng phải chính con (’anî, egô) đã ra lệnh kiểm kê dân số sao?
Con (’anî hû’, egô eimi) mới là
kẻ đã phạm tội, đã làm điều dữ. Còn những người kia, họ chỉ là bầy chiên, họ
đâu có làm gì nên tội! Lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của con, xin tay Ngài cứ
đè nặng trên con và nhà cha con, nhưng xin đừng giáng hoạ xuống dân Ngài!”
ĐỨC CHÚA phán
trong đoạn văn ai ca khóc Ba-by-lon ở Is 47,8-9: “8 Hỡi kẻ ham lạc thú,
ngươi ngồi trên ngai, bình chân như vại và tự nhủ: ‘Chỉ có ta (’anî, egô eimi), đâu còn ai khác! Ta
sẽ chẳng bao giờ mang thân goá bụa, không bao giờ là người mẹ mất con.’ Giờ
đây, hãy nghe điều này: 9 Thình lình cả hai tai hoạ đó, trong một ngày, sẽ
ập xuống trên ngươi: vừa mất con lại vừa goá bụa. Chưa hết tai hoạ này đã đến
tai hoạ khác, chúng ập xuống trên ngươi, dù ngươi cao tay phù chú và lắm trò ma
thuật.” Trong sách ngôn sứ Xô-phô-ni-a,
lời ĐỨC CHÚA phán chống lại Át-sua, kẻ thù Ít-ra-en ở phương Bắc ở Xp 2,15: “Đó
sẽ là số phận của thành phố xưa kia nhộn nhịp, thành đã sống trong cảnh
yên hàn, đã nhủ thầm: ‘Chẳng thành nào sánh được với ta (’anî, egô eimi).’ Cớ
sao thành ấy lại trở nên hoang tàn, nên hang động cho loài dã thú? Bất cứ ai
qua lại cũng huýt sáo vẫy tay.” Cách dùng cụm từ “’anî hû’, egô eimi” trong cách trích dẫn trên
đây có nghĩa thông thường.
2. “Egô eimi” là Danh ĐỨC CHÚA (YHWH,
Yahvé)
Cách dùng đặc biệt
của “egô eimi” xuất hiện trong I-sai-a đệ nhị (le Second Isaïe) gọi là sách an
ủi Ít-ra-en (Is 40–55). Kiểu nói Híp-ri “’anî hû’” hay “’anokî hû’” (Chính là
ta, c’est moi, je le suis, I am he) thay thế cho kiểu nói đầy đủ: “’anî yhwh”
hay “’anokî yhwh” (Ta là ĐỨC CHÚA [YHWH], Je suis Yahvé, I am Yahweh). Bản LXX
dịch cụm từ Híp-ri “’anî yhwh”, “’anokî yhwh” sang tiếng Hy lạp: “egô theos”
(Ta là Thiên Chúa, Je suis Dieu)” (Is 43,11) hay “egô kurios (Ta là Đức Chúa,
Je suis Seigneur)” (Gn 28,13). Ở Ed 20,5 xuất hiện cả hai tước hiệu này: “Chính
Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi (’anî yhwh ’elôhêkem, egô kurios ho
theos humôn).”
Trong I-sai-a đệ
nhị (Is 40–55) kiểu nói “’anî hû’” (tiếng Híp-ri), “egô eimi” (tiếng Hy lạp)
xuất hiện nhiều lần với sự long trọng đặc biệt để nói về ĐỨC CHÚA. Chẳng hạn,
ĐỨC CHÚA phán với vua Ky-rô ở Is 41,2-4: “2 Từ phương đông, ai đã cho xuất
hiện người hùng đi mở đường cho nền công chính? Ai trao vào tay ông các dân các
nước, bắt mọi vua chúa phải phục quyền? Đao kiếm của ông làm chúng hoá ra như
tro bụi, cung nỏ của ông khiến chúng tán loạn tựa cọng rơm. 3 Ông đuổi bắt
thù địch, ông tiến bước an toàn. Trên đường đi, chân ông không chấm đất.
4 Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên? – Chính là Đấng từ nguyên thuỷ
đã an bài cho các thời đại nối tiếp nhau. Chính là Ta (’anî hû’, egô eimi). Ta là ĐỨC CHÚA (’anî yhwh, egô theos), Ta là khởi
nguyên, và giữa những người của thời sau hết, Ta vẫn là Ta (’anî hû’, egô eimi).”
Ở Is 43,10-13,
ngôn sứ I-sai-a nói với dân Ít-ra-en lời ĐỨC CHÚA phán: “10 Chính các
ngươi là nhân chứng của Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA –, là bề tôi Ta đã
tuyển chọn, để các ngươi nhận biết và tin Ta, và hiểu rõ Ta vẫn là Ta (’anî hû’, egô eimi): trước Ta, chẳng
có thần nào khác được hình thành, và sau Ta cũng vậy. 11 Chính Ta, chính
Ta đây là ĐỨC CHÚA (’anokî
’anokî yhwh, egô hô theos), ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ. 12 Chính Ta
đã báo cho biết, đã cứu độ và nói cho nghe, chứ giữa các ngươi, chẳng có thần
lạ nào. Vậy chính các ngươi là nhân chứng của Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA
–, và chính Ta là Thiên Chúa, 13 tự muôn đời, Ta vẫn là Ta (’anî hû’): không ai cứu thoát khỏi
tay Ta, Ta đã làm, ai dám làm ngược lại?”
ĐỨC CHÚA phán ở Is
46,4: “Cho đến khi các ngươi già nua tuổi tác, trước sau gì Ta vẫn là Ta (’anî hû’, egô eimi); cho đến khi các
ngươi da mồi tóc bạc, Ta vẫn còn gánh vác các ngươi. Như xưa nay Ta vẫn từng
đối xử: Ta sẽ nâng niu, gánh vác các ngươi, và ban ơn cứu thoát.” Ở Is 48,12,
ĐỨC CHÚA phán: “12 Hãy nghe Ta, hỡi Gia-cóp, hỡi Ít-ra-en, kẻ Ta đã gọi!
Ta vẫn là Ta (’anî hû’, hon egô
kalô), Ta là (’anî, egô eimi) khởi nguyên, Ta cũng là (’anî, egô eimi) cùng tận.” Ở Is 52,6, Danh ĐỨC CHÚA
được đồng hoá với “egô eimi”, ĐỨC CHÚA phán: “Vì vậy, trong ngày ấy, dân Ta sẽ
nhận biết danh(onoma) Ta, nhận
biết rằng: chính Ta (’anî hû’,
egô eimi) là Đấng đã phán: “Này
Ta đây!” (Is 52,6).
Những trích dẫn
trên đây cho thấy “egô eimi” được dùng để nói về Danh ĐỨC CHÚA là Đấng duy
nhất, như ĐỨC CHÚA đã phán: “Ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ” (Is 43,11b).
Ngoài I-sai-a đệ nhị, có thể xem cách diễn tả: “Ta là ĐỨC CHÚA (’anî yhwh, egô
kurios)” ở St 28,13; Ed 20,5; “Ta Là (’anî, egô eimi) Thiên Chúa Toàn năng (El
Chaddaï)” (St 17,1); “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, cha ngươi” (St 26,24).
Trong I-sai-a đệ
nhị, có kiểu nói lặp lại hai lần “egô eimi” ở Is 43,25 và 51,12. ĐỨC CHÚA phán:
“Nhưng chính Ta đây (’anokî ’anokî hû’, egô eimi, egô eimi), vì danh dự của Ta,
Ta sẽ xoá bỏ các tội phản nghịch của ngươi, và không còn nhớ đến lỗi lầm của
ngươi nữa” (Is 43,25); “Chính Ta, chính Ta đây (’anokî ’anokî hû’, egô eimi,
egô eimi) là Đấng an ủi các ngươi, làm sao ngươi lại sợ những người mang thân
phận phải chết, sợ con cái A-đam mỏng manh như cỏ nội hoa đồng?” (Is 51,12).
Cách dùng lặp lại hai lần “egô eimi, egô eimi” trên đây có thể hiểu theo nghĩa:
“Ta là ‘Đấng TA LÀ’, là Đấng sẽ xoá bỏ các tội phản nghịch của ngươi” (Is
43,25a); “Ta là ‘Đấng TA LÀ’, là Đấng an ủi các ngươi” (Is 51,12a). Như thế,
“TA LÀ” là Danh ĐỨC CHÚA, là chính ĐỨC CHÚA (YHWH, Yahvé).
Ngoài I-sai-a đệ
nhị, cụm từ “egô eimi” nói về Danh ĐỨC CHÚA xuất hiện ở Đnl 32,39. Trong phần
bài ca của ông Mô-sê (Đnl 32–34), ĐỨC CHÚA phán ở Đnl 32,39: “Bây giờ hãy coi
đây: Ta chính là Ta (’anî ’anî hû’, egô eimi), bên cạnh Ta, chẳng có thần
(elôhîm, theos) nào khác, Ta cầm quyền sinh tử, Ta đánh phạt, rồi Ta lại chữa
lành, không ai cứu khỏi tay Ta được.”
“Egô eimi” trong
Tin Mừng Gio-an còn gợi đến Danh của Thiên Chúa trong sách Xuất Hành 3,14. Ở
đây không phải là kiểu nói Híp-ri “’anî hû’” (je le suis, I [am] he) như trên
mà dùng động từ Híp-ri “hâyâh” (là, être, to be). Bản LXX dịch động từ này ở Xh
3,14 bằng “egô eimi.” Đây là bản văn Xh 3,14: “Thiên Chúa phán với ông Mô-sê:
‘Ta là Đấng Hiện Hữu (’ehyeh ’aser
’ehyeh, egô eimi ho ôn).’ Người phán: ‘Ngươi nói với con cái
Ít-ra-en thế này: ‘Đấng Hiện Hữu (’ehyeh, ho ôn) sai tôi đến với anh
em.’” Câu Híp-ri “’ehyeh ’aser
’ehyeh” dịch sát: “Ta là Đấng Ta Là”, tiếng Pháp: “Je suis qui je
suis” hay “je suis celui qui est”. Tiếng Anh: “I am who I am” hay “I am he who
is.” Bản LXX dịch phần thứ hai của câu Hip-ri: “’aser ’ehyeh” là “ho
ôn”, đây là động tính từ của động từ “eimi” ở chủ cách (nominatif), có giá trị
như danh từ. Như thế, “’ehyeh” (tiếng Híp-ri), “ho ôn” (tiếng Hy
Lạp), “Je Suis” (tiếng Pháp), “I Am” (tiếng Anh), “Ta Là” là tên của Thiên Chúa
(’elôhîm, theos).
Tóm lại, kiểu nói
“egô eimi” trong Bản LXX, dịch từ cụm từ tiếng Híp-ri “’anî hû’” (Chính Ta Là)
ou “’ehyeh” (Ta Là) ở Xh 3,14. Trong bối cảnh các câu văn trích dẫn
trên đây, “Ta Là” nói về Danh ĐỨC CHÚA. Trong viễn cảnh này, kiểu nói “egô
eimi” của Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an gợi đến Danh ĐỨC CHÚA trong Cựu Ước
và qua đó Đức Giê-su khẳng định nguồn gốc thần linh của Người. Trước khi phân
tích “egô emi” trong Tin Mừng Gio-an, phần tiếp theo sẽ trình bày vắn tắt cách
dùng “egô eimi” trong sách Khải Huyền.
IV. “Egô eimi” trong sách Khải Huyền
Khẳng định của ĐỨC CHÚA ở Is 48,12:
“12 Hãy nghe Ta, hỡi Gia-cóp, hỡi Ít-ra-en, kẻ Ta đã gọi! Ta vẫn là Ta (’anî hû’, hon egô kalô), Ta là (’anî, egô eimi) khởi nguyên, Ta cũng là (’anî, egô eimi) cùng tận” gợi đến lời Thiên Chúa trong sách Khải
Huyền 1,8: “Chính Ta là (egô eimi) An-pha và Ô-me-ga (to alpha to ô) – Đức Chúa là Thiên Chúa nói – Đấng hiện có,
đã có và đang đến, Đấng Toàn Năng.”An-pha và Ô-me-ga (to alpha to ô) là mẫu tự đầu tiên và
cuối cùng của tiếng Hy lạp. Nên kiểu nói “Đấng là An-pha và Ô-me-ga” có nghĩa là “Đấng
Đầu Tiên và Cuối Cùng.” Đây là những cách nói diễn tả quyền tối thượng của
Thiên Chúa trên mọi thụ tạo, từ khởi đầu cho đến kết thúc lịch sử. Người là
“Đấng Toàn Năng” (Kh 1,8c).Đức Giê-su trong sách Khải Huyền cũng có những tước
hiệu này.Người tuyên bố ở Kh
22,13: “Chính Ta là An-pha và Ô-me-ga, làĐấng Đầu Tiên và Cuối Cùng, là Khởi Nguyên và Tận Cùng.” Ở Kh
2,8, Đức Giê-su nói với Gio-an (tác giả sách Khải Huyền): “Hãy viết cho thiên
sứ của Hội Thánh tại Xi-miếc-na. Đấng Đầu Tiên và Cuối Cùng, Đấng đã chết và đã
lại sống, nói thế này:...”
Trong sách Khải
Huyền, Đức Giê-su có những tước hiệu của Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su không
thay chỗ Thiên Chúa mà có sự phân biệt rõ ràng. Đức Giê-su gọi Thiên Chúa là “Thiên
Chúa của Ta” (Kh 3,12), “Cha của Ta” (Kh 3,21). Với Hội
Thánh tại Phi-la-đen-phi-a, Đức Giê-su nói ở Kh 3,12: “Ai thắng, Ta sẽ
làm người ấy thành cột trụ trong Đền Thờ Thiên Chúa của Ta, người ấy sẽ không
hề đi ra khỏi đó nữa. Ta sẽ ghi trên người ấy danh Thiên Chúa của Ta, tên Thành
đô Thiên Chúa của Ta là Giê-ru-sa-lem mới xuống từ trời,
từ Thiên Chúa của Ta, và tên mới của Ta.” Với Hội Thánh tại Lao-đi-ki-a, lời
hứa ban thưởng của Đức Giê-su: “Ai thắng, Ta sẽ cho người ấy ngồi với Ta trên
ngai của Ta, cũng như chính Ta đã thắng và Ta ngồi với Cha của Ta trên ngai của
Người” (Kh 3,21).
Những tước hiệu
song song giữa Thiên Chúa và Đức Giê-su trên đây giúp chúng ta hiểu kiểu nói
“egô eimi” của Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an.
V. “Egô eimi” của Đức Giê-su trong Tin Mừng
Gio-an
Phần này sẽ phân tích 23 lần “egô eimi” của
Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an. “Egô eimi” trong những trường hợp này mang ý
nghĩa thần học. Như đã xếp loại ở trên, 23 lần “egô eimi” này sẽ được trình bày
trong ba mục: (1) “Egô eimi” có thuộc từ (attribut), (2) “Egô eimi” xác
định người nói (3) “Egô eimi” không có thuộc từ.
1. “Egô eimi” có thuộc từ
Đức Giê-su dùng 14 lần “egô eimi” (Tôi là) có
thuộc từ rõ ràng. Theo thứ tự của bản văn Tin Mừng, những thuộc từ là “bánh sự
sống” (6,35.48), “bánh xuống từ trời” (6,41), “bánh sự sống, xuống từ trời”
(6,51), “ánh sáng của thế gian” (8,12), “người làm chứng” (8,18), “cửa của đàn
chiên” (10,7.9), “mục tử tốt” (10,11.14), “sự sống lại và sự sống” (11,25), “con đường, sự thật và sự sống” (14,6), “cây nho đích thật” (15,1.5). Nếu
chỉ tính những biểu tượng mang lại sự sống cho con người thì có 7 biểu tượng,
đây là con số hoàn hảo chỉ toàn thể (la totalité): (1) bánh, (2) ánh sáng, (3)
sự sống lại, (4) cửa, (5) mục tử, (6) con đường, (7) cây nho.
Tất cả 7 biểu tượng này có liên hệ với sự sống
đời đời mà Đức Giê-su ban tặng cho tất cả những ai tin vào Người. Ở 6,51a, Đức
Giê-su nói: “Tôi là bánh sự sống, bánh xuống từ trời. Nếu ai ăn bánh này sẽ
sống muôn đời.” Những ai đi theo Đức Giê-su là ánh sáng thì “có ánh sáng của sự
sống” (8,12c). Về biểu tượng “cửa” của đàn chiên, Đức Giê-su nói với những
người Pha-ri-sêu ở 10,9: “Chính Tôi là cửa. Ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu.
Nó sẽ vào, sẽ ra và sẽ gặp đồng cỏ”, và ở 10,10b: “Phần Tôi, Tôi đến để chúng
có sự sống và có dồi dào.” Đức Giê-su với tư cách là mục tử tốt, Người nói với
những người Do Thái về đàn chiên của Người ở 10,27-28: “27 Chiên của Tôi nghe
tiếng Tôi; Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, 28 và Tôi ban cho chúng sự sống
đời đời, muôn đời chúng không bị hư mất và không ai cướp được chúng khỏi tay
Tôi.” Ở 11,25, Đức Giê-su mặc khải cho Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là
sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống.” Ở 14,6, biểu tượng con đường đi với
“sự thật và sự sống.” Biểu tượng cuối cùng là cây nho cũng làm nẩy sinh sự
sống. Nhờ ở lại trên cây nho đích thực là Đức Giê-su mà các môn đệ “sinh nhiều
hoa trái” (15,5). Nghĩa là được sống thay vì bị khô héo và bị đốt cháy do không
ở lại trên cây nho. Những lời hứa trên đây sẽ được thực hiện với điều kiện:
“Tin vào Đức Giê-su.”
Uy tín và độ tin cậy của những lời hứa trên
dựa trên kiểu nói long trọng: “egô eimi” (chính Tôi là) của Đức Giê-su. Trong
viễn cảnh này, “egô eimi” đứng trước những quà tặng đem lại sự sống cho con
người diễn tả căn tính thần linh của Đức Giê-su. Người tuyên bố “egô eimi +
thuộc từ” với tư cách là Đấng Cha sai đến, là Con Một Thiên Chúa, là Đấng hằng
ở nơi cung lòng Cha (1,18b). Như thế, những lời nói “egô eimi + thuộc từ”
bảo đảm cho những lời hứa của Đức Giê-su là chân thật.
“Egô eimi” ở 8,18 có thể được hiểu theo hướng
này. Đức Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu ở 8,18a: “Chính Tôi là (egô
eimi) người làm chứng về mình.” “Người làm chứng” trong câu này là động từ
“martureô” ở lối động tính từ, giống đực, chủ cách, có mạo từ: “ho marturôn”
nên có nghĩa như danh từ “người làm chứng.” Trước khi nói câu này (8,18a), Đức
Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu ở 8,17: “Trong Lề Luật của các ông có
chép rằng: ‘Lời chứng của hai người là thật.’” Vậy tại sao Đức Giê-su làm chứng
về Người và lời chứng của Người là thật? Trong bối cảnh 8,17-18, lời chứng của
Đức Giê-su có giá trị vì Người là “egô eimi” theo nghĩa thần học của cụm từ
này. “Egô eimi” này gợi đến những tước hiệu của Đức Giê-su trong Tin Mừng
Gio-an. Người là Lời (Logos) “ở với Thiên Chúa, và là
Thiên Chúa” (1,1b). Với tư cách này, Đức Giê-su làm chứng về chính mình và lời
chứng của Người là thật (x. 8,14). Về mặt ngôn ngữ, “egô eimi” có nghĩa thông
thường, nhưng về mặt thần học, kiểu nói “egô eimi” nói đến tư cách thần linh
của Đức Giê-su.
2. “Egô eimi” xác định người nói
Cách dùng “egô
eimi” để xác định người nói xuất hiện 5 lần: 4,26; 6,20; 18,5.6.8. Trong đó, 2
lần ở 18,6.8 lặp lại “egô eimi” Đức Giê-su đã nói ở 18,5. Như thế có ba lời của
Đức Giê-su: (a) “Chính là Tôi (egô eimi), người đang nói với chị” (4,26), (b)
“Chính là Thầy (egô eimi), đừng sợ!” (6,20), (c) “Chính là Tôi (egô eimi)”
(18,5).
a) Chính là Tôi (egô eimi), người đang nói với chị” (4,26)
Trong bối cảnh
đoạn văn 4,25-26, “egô eimi” ở 4,26 dùng để xác định vị Mê-si-a mà Người phụ nữ
Sa-ma-ri nói đến ở 4,25, chị ta nói với Đức Giê-su: “Tôi biết rằng Đấng Mê-si-a sẽ đến – Đấng được gọi là Ki-tô –. Khi Đấng ấy đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi
mọi sự” (4,25). Đức Giê-su nói với chị ở 4,26: “Chính là Tôi (egô eimi), người
đang nói với chị.” Trong toàn bộ
cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri, “egô eimi” của Đức Giê-su ở 4,26 gợi
đến tư cách đặc biệt của Người. Thực vậy, Đấng Mê-si-a – Giê-su trong đoạn văn
4,5-26 có ba đặc điểm:
(1) Đức Giê-su là Đấng ban “nước sự sống” (4,10). Người nói với người phụ
nữ Sa-ma-ri ở 4,13-14: “13 Bất kỳ ai uống nước này sẽ lại khát. 14 Nhưng ai uống nước mà chính Tôi
sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không khát. Nhưng nước mà Tôi sẽ ban cho người ấy
sẽ trở nên nơi người ấy một mạch nước vọt lên sự sống đời đời.”
(2) Đức Giê-su biết những gì dấu kín trong lòng con người. Sự hiểu biết này
tỏ lộ trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri ở 4,16-18: “16 Người [Đức Giê-su] nói với chị ấy: ‘Chị hãy đi gọi chồng của chị, rồi
trở lại đây.’ 17 Người phụ nữ trả lời và nói với Người: ‘Tôi không có chồng.’
Đức Giê-su nói với chị ấy: ‘Chị nói: ‘Tôi không có chồng’ là phải, 18 vì chị có
năm đời chồng, và người hiện nay chị có, không phải là chồng của chị. Điều này
chị đã nói đúng.’” Độc giả không ngạc nhiên
về sự hiểu biết của Đức Giê-su vì người thuật chuyện đã cho biết ở 2,25: “Người
[Đức Giê-su] không cần có ai làm chứng về con người, vì chính Người biết có gì
nơi con người.”
(3) Đức Giê-su là
Đấng xác định nơi chốn và cách thức thờ phượng Thiên Chúa. Nơi chốn để thờ
phượng đích thực Chúa Cha là tất cả mọi nơi, vì Đức Giê-su nói với người phụ
nữ: “Này chị, hãy tin Tôi, giờ đến, không phải ở trên núi này cũng chẳng phải ở
Giê-ru-sa-lem, các người sẽ thờ phượng Cha.” Cách thức thờ phượng Chúa Cha là
thờ phượng “trong thần khí và sự thật” (4,23).
Ba đặc điểm trên
đây thuộc về Thiên Chúa. Như thế, “egô eimi” của Đức Giê-su ở 4,26 vừa dùng để
đồng hoá Đức Giê-su với Đấng Mê-si-a, vừa gợi đến căn tính thần linh của Người
với tư cách là “Con Một Thiên Chúa” (1,18b).
b) “Chính là Thầy (egô eimi), đừng sợ!” (6,20)
Trình thuật Đức
Giê-su đi trên biển hồ Ti-bê-ri-a (6,16-21) tiếp nối dấu lạ Đức Giê-su hoá bánh
ra nhiều (6,1-15). Người thuật chuyện kể ở 6,16-21: “16 Chiều đến, các môn đệ của Người
xuống bờ Biển Hồ 17 và
xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um, bên kia Biển Hồ. Trời đã tối và Đức
Giê-su chưa đến với các ông. 18 Biển đầy gió lớn đang thổi và giật
mạnh. 19 Khi đã chèo được khoảng 25 đến 30
dặm, các ông thấy Đức Giê-su đi trên Biển Hồ và đang tới gần thuyền, các ông sợ
hãi. 20 Nhưng Người nói với các ông:
‘Chính là Thầy, đừng sợ!’ 21 Các ông muốn đưa
Người lên thuyền, và ngay lúc đó thuyền đã tới đất liền nơi các ông đi đến.”
Sự việc các môn đệ vất vả chèo thuyền trong
đêm tối, chống chọi với sóng to gió lớn trong lúc Đức Giê-su vắng mặt, có thể
gợi đến những khó khăn thử thách đến từ bên trong và bên ngoài nhóm các môn đệ
và cộng đoàn người tin. (Xem nghĩa đen và nghĩa biểu tượng của bóng tối trong
bài viết: “Ánh sáng và bóng tối trong Tin
Mừng Gio-an”). Hành động bước đi trên Biển Hồ (6,19) trong lúc “Biển
đầy gió lớn đang thổi và giật mạnh” (6,18) biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa.
Đoạn văn 6,16-21 gợi đến các trình thuật trong Cựu Ước. Gióp nói về Thiên Chúa
ở G 9,8: “Duy mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả.”
Nghĩa là Thiên Chúa hoàn toàn chế ngự biển cả và sức mạnh của chúng. Ở Kb 3,15,
ngôn sứ Kha-ba-cúc mô tả sức mạnh của ĐỨC CHÚA: “Ngài mở lối cho chiến mã của
Ngài vào biển cả, giữa ba đào cuồn cuộn nước mênh mông” (Kb 3,15).
Đức Giê-su bày tỏ quyền năng của Người khi đi
trên Biển Hồ để đến với các môn đệ (Ga 6,19a). Điều lạ lùng này làm các môn đệ
sợ hãi (6,19b). Câu nói của Đức Giê-su gồm hai phần: Trước hết Người nói: “egô
eimi (Chính là Thầy)” (6,20b). Sau đó Người khích lệ các môn đệ: “Đừng sợ!”
(6,20b). Lời này gợi đến lời an ủi của ĐỨC CHÚA dành cho dân Ít-ra-en ở Is
41,10: “Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của
ngươi. Ta cho ngươi vững mạnh, Ta lại còn trợ giúp với tay hữu toàn thắng của
Ta.”
Dấu lạ Đức Giê-su đi trên Biển Hồ kết thúc
cách lạ lùng ở Ga 6,21: “Các ông [các môn đệ] muốn đưa Người [Đức Giê-su]
lên thuyền, và ngay lúc đó thuyền đã tới đất liền nơi các ông đi đến.” Cuộc
vượt biển nhanh chóng với sự hiện diện của Đức Giê-su gợi đến biến cố dân
Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ (Xh 14). Trong lúc dân Ít-ra-en sợ hãi vì bị quân Ai
Cập đuổi theo, ĐỨC CHÚA đã can thiệp để cứu dân. Người thuật chuyện kể ở Xh
14,21-22: “21 Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, ĐỨC CHÚA cho một cơn
gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn.
Nước rẽ ra, 22 và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước
sừng sững như tường thành hai bên tả hữu.”
Như thế, ba chi
tiết trong đoạn văn Ga 6,20-21: (1) “egô eimi”, (2)“đừng sợ!” (6,20) và (3) “ngay
lúc đó thuyền đã tới đất liền nơi các ông đi đến” gợi đến hành động của ĐỨC
CHÚA trong Cựu Ước. Nên có thể kết luận rằng “egô eimi” của Đức Giê-su ở 6,20
không chỉ đơn giản là một lời để xác định người nói, nhưng là khẳng định sự
hiện diện và can thiệp thần linh nhằm mặc khải cho các môn đệ biết Đức Giê-su
là ai.
c) “Chính là Tôi (egô eimi)” (18,5)
Trình thuật Đức
Giê-su bị bắt được thuật lại ở 18,1-12. Khi Giu-đa dẫn một cơ đội và các thuộc
hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu đến thửa vườn bên kia thung lũng
Kít-rôn để bắt Đức Giê-su, người thuật chuyện kể ở 18,4-9: “4 Đức Giê-su biết
mọi sự sắp xảy đến cho mình, Người đi ra và nói với họ: ‘Các anh tìm ai?’ 5 Họ
trả lời Người: ‘Giê-su người Na-da-rét.’ Người nói với họ: ‘Chính là Tôi (egô
eimi).’ Giu-đa, kẻ nộp Người, đứng với họ. 6 Khi Người vừa nói: ‘Chính là Tôi
(egô eimi)’ họ lùi lại và ngã xuống đất. 7 Người lại hỏi họ: ‘Các anh tìm ai?’ Họ
nói: ‘Giê-su người Na-da-rét.’ 8 Đức Giê-su trả lời: ‘Tôi đã nói với các anh,
chính là Tôi (egô eimi). Vậy nếu các anh tìm Tôi, hãy để những người này đi.’ 9
Thế là nên trọn lời Người đã nói rằng: ‘Những người Cha đã ban cho Con, Con
không để mất một ai.’”
Về hình thức, kiểu
nói “egô eimi” của Đức Giê-su ở 18,5.6.8 nhằm xác định người nói, tuy nhiên có
ba chi tiết cho thấy ý nghĩa thần học quan trọng của “egô eimi”: (1) “Egô eimi”
của Đức Giê-su đã làm cho những kẻ đến bắt Người phải “lùi lại và ngã xuống
đất” (18,6b), (2) Đức Giê-su ra lệnh cho những kẻ đến bắt Người là để cho các
môn đệ đi (18,8), (3) Đức Giê-su có khả năng giữ trọn lời đã hứa với Cha của
Người: “Những người Cha đã ban cho Con, Con không để mất một ai” (18,9). Đức
Giê-su nói với Cha như thế ở 17,12: “Khi Con còn ở với họ, chính Con đã gìn giữ
họ trong danh của Cha, danh mà Cha đã ban cho Con. Con đã canh
giữ và không một ai trong họ hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để Kinh Thánh được
nên trọn.” (x. 17,12; 6,39; 10,28).
Những chi tiết
này cho phép hiểu “egô eimi” của Đức Giê-su ở 18,5 là cách biểu lộ quyền
năng thần linh của Người như một cuộc thần hiện (như Thiên Chúa xuất hiện trên
núi Xi-nai ở Xh 19,16-25). Nếu như chỉ với hai chữ ngắn ngủi “egô eimi” mà
những kẻ đến bắt Người đã phải “lùi lại và ngã xuống đất” (18,6b), thì họ không
thể đụng đến Đức Giê-su được. Nếu như “cơ đội và viên chỉ huy cùng các thuộc hạ
của những người Do Thái bắt
Đức Giê-su và trói Người lại” (18,12) được là vì Đức Giê-su để cho họ làm như
thế. Người tự nguyện bước vào cuộc Thương Khó để bày tỏ tình yêu dành cho Cha
của Người (14,31) và tình yêu dành cho các môn đệ cho đến cùng (13,1;
15,13).
3. “Egô eimi” không có thuộc từ
Có 4 lần “egô
eimi” không có thuộc từ ở 8,24.28.58; 13,19. Trong đó, Đức Giê-su nói với những
người Pha-ri-sêu (8,24.28), với những người Do Thái (8,58) và với các môn đệ
(13,19). “Egô eimi” của Đức Giê-su là đối tượng của hành động tin trong hiện
tại (8,24), tin trong tương lai (13,19) và là đối tượng của sự hiểu biết trong
tương lai (8,28). Ở 8,58, Đức Giê-su mặc khải về sự hiện hữu của Người so với
Áp-ra-ham. Phần sau sẽ phân tích 4 lần “egô eimi” này.
a) “Nếu các ông không tin rằng: Tôi Là…” (8,24)
Người thuật chuyện
kể về trao đổi giữa Đức Giê-su và những người Pha-ri-sêu ở 8,23-26 : “23
Người [Đức Giê-su] nói với họ [những người Pha-ri-sêu]: ‘Các ông, các ông thuộc
về hạ giới; còn Tôi, Tôi thuộc về thượng giới. Các ông, các ông thuộc về thế
gian này; còn Tôi, Tôi không thuộc về thế gian này. 24 Tôi đã nói với các ông
là các ông sẽ chết trong tội của các ông. Vì nếu các ông không tin rằng: Tôi Là
(egô eimi), các ông sẽ chết trong tội của các ông.’ 25 Họ nói với Người: ‘Ông
là ai?’ Đức Giê-su nói với họ: ‘Ngay từ đầu, Tôi nói với các ông điều đó. 26
Tôi có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Đấng đã sai tôi là
Đấng chân thật; và Tôi, những điều Tôi đã nghe nơi Người, Tôi nói những điều đó
trong thế gian.’”
Sau lời mặc khải
của Đức Giê-su về nguồn gốc thượng giới của Người, tương phản với tình trạng
của những người Pha-ri-sêu là “thuộc về hạ giới” và “thuộc về thế gian này”,
Đức Giê-su mời gọi họ tin rằng “Tôi Là” (egô eimi) nếu không họ sẽ chết trong
tội của họ. Xavier Léon-Dufour không cho rằng “egô eimi” ở 8,24.28 gợi đến Danh
Thiên Chúa như ở Is 43,10 hay Xh 3,14, bởi vì theo tác giả này, trong bối
cảnh Ga 8, “Đức Giê-su không phải là Chúa Cha” và “Đức Giê-su không hề đồng hoá
với Đấng cứu chuộc duy nhất” như ở Is 43,10. (Xem LÉON-DUFOUR, X., Lecture
de l’Évangile selon Jean, t.
II: Chapitres 5–12, (Parole
de Dieu), Paris, Le Seuil, 1990, p. 271).
Trong sách chú giải của tác giả, Xavier
Léon-Dufour đề nghị thêm vào cụm từ “egô eimi” ở 8,24.28a: “Je [le] suis” (tôi
là như thế). Tác giả giải thích đại từ “le” (như thế): “Bối cảnh trước c. 24
giải thích rõ: Đức Giê-su vừa khẳng định sự hiệp nhất với Cha và gần hơn là
nguồn gốc của Người: ‘còn Tôi, Tôi thuộc về thượng giới’ (c. 23). Đó là thuộc
từ mặc nhiên của c. 24, được hiểu: ‘Nếu các ông không tin rằng: Tôi ở [thượng
giới].’ Để tôn trọng chiều hướng huyền nhiệm của câu văn, chỉ cần thêm đại từ
không xác định ‘le’ vào ‘je suis’ (tôi là): ‘nếu các ông không tin rằng Tôi là
[như thế] (je [le] suis).’ Đại từ này thâu tóm điều khẳng định hay những điều
khẳng định trước đó của Đức Giê-su.” (LÉON-DUFOUR,
X., Lecture de l’Évangile selon Jean, t. II: Chapitres 5–12, 1990, p. 271-272). Đối với Xavier
Léon-Dufour, hai lần “egô eimi” ở 8,24.28 có thuộc từ mặc nhiên. Nên 2 lần này
không thuộc loại không có thuộc từ và không gợi đến Danh ĐỨC CHÚA của Ít-ra-en
trong Cựu Ước.
Chúng tôi nghĩ rằng, lời tuyên bố long trọng
“egô eimi” của Đức Giê-su ở 8,24.28 gợi đến những gì Đức Giê-su đã nói trước đó
như Xavier Léon-Dufour đã làm, đồng thời cũng gợi đến tất cả mặc khải trong Tin
Mừng Gio-an về nguồn gốc và căn tính thần linh của Đức Giê-su. Người là Đấng
Cha sai đến thế gian, là Con Người, là Con Một Thiên Chúa. Đức Giê-su là Lời
(Logos) “ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa” (1,1b). Cuối sách
Tin Mừng, Tô-ma tuyên xưng với Đức Giê-su Phục Sinh: “Lạy Chúa (kurios) của con, lạy Thiên Chúa (theos) của con”
(20,28). Lời này (20,28) cũng như lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18) là những lời
tuyên xưng đức tin của cộng đoàn Gio-an. Đối với cộng đoàn này, Đức Giê-su là
Chúa và là Thiên Chúa. Tuy vậy, Đức Giê-su không bao giờ đồng hoá mình với Chúa
Cha, nhưng Người luôn hiệp thông sâu xa với Cha của Người. Đức Giê-su “hằng ở
nơi cung lòng Cha” (1,18b), Người ở trong Cha và Cha ở trong Người (10,38;
14,10.11), Đức Giê-su và Chúa Cha là một (10,30).
Trong viễn cảnh này, “egô eimi” của Đức Giê-su
ở 8,24 gợi đến Danh của ĐỨC CHÚA trong Cựu Ước và khẳng định rằng: Đức Giê-su
Con Thiên Chúa (1,18), chính Đức Giê-su là Chúa và là Thiên Chúa (20,28). Đức
Giê-su mời gọi thính giả và độc giả tin rằng “Người thật là Đấng cứu độ thế
gian” (4,42c) và Người là con đường duy nhất để đến với Chúa Cha như Người nói
với các môn đệ ở 14,6: “Chính Thầy là con đường và là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha
mà không qua Thầy.” Lời mời gọi tin vào Đức Đức Giê-su là “egô eimi” ở 8,24 có
nghĩa thần học quan trọng. Nếu từ chối tin điều này, hậu quả sẽ là chết trong
tội của mình. Chết ở đây có nghĩa là hư mất, là không có sự sống đời đời nơi
mình. Về điều này, Đức Giê-su đã khẳng định ngay từ đầu Tin Mừng ở 3,16: “Vì
Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để bất cứ ai tin
vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời.”
Câu hỏi của những người Pha-ri-sêu ở 8,25a:
“Ông là ai?” cho thấy họ đã không biết Đức Giê-su là ai. Họ cũng không hiểu
nghĩa của kiểu nói “egô eimi” ở 8,24. Thực ra Đức Giê-su đã mặc khải nhiều lần
về nguồn gốc của Người và tương quan giữa Người với Chúa Cha, nhưng những kẻ
chống đối đã không đón nhận những lời mặc khải của Người. Họ không nhìn nhận
căn tính thần linh của Đức Giê-su. Ở 8,28, “egô eimi” là đối tượng của sự nhận
biết.
b) “Bấy giờ các
ông sẽ biết rằng Tôi Là” (8,28)
Đoạn văn tiếp theo (8,27-29) đoạn văn trên đây
(8,23-26) xuất hiện “egô eimi” lần thứ hai không có thuộc từ. Người thuật
chuyện kể ở 8,27-29: “27 Họ [những người Pha-ri-sêu] không biết là Người [Đức
Giê-su] nói với họ về Cha. 28 Vậy Đức Giê-su nói [với họ]: ‘Khi các ông giương
cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết rằng Tôi Là (egô eimi), và Tôi không
tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Tôi nói những điều ấy như Cha đã dạy Tôi. 29
Và Đấng đã sai Tôi ở với Tôi; Người không bỏ Tôi một mình, vì Tôi hằng làm
những điều đẹp ý Người.’”
Vào lúc Đức Giê-su nói với những người
Pha-ri-sêu trong bản văn (8,23-29), họ chưa biết Đức Giê-su là ai (8,25), họ
cũng không biết là Đức Giê-su nói với họ về Cha (8,27). Trong tình trạng không
hiểu biết trong hiện tại của những kẻ chống đối Đức Giê-su, Người cho biết rằng
họ có thể hiểu biết trong tương lai ở 8,28. Mệnh đề: “Khi các ông [những người
Pha-ri-sêu] giương cao Con Người lên” (8,28a) gợi đến biến cố Đức Giê-su chết
trên thập giá. Thật vậy, Đức Giê-su nói với Ni-cô-đê-mô ở 3,14-15: “14 Như
Mô-sê đã giương cao con rắn trong hoang mạc, Con Người phải được giương cao như
vậy, 15 để mọi kẻ tin thì có sự sống đời đời trong Người.” Theo
thần học Tin Mừng Gio-an, biến cố Đức Giê-su được giương cao trên thập giá cũng
là lúc Người được tôn vinh. Khi biến cố Thương Khó gần đến, Đức Giê-su tuyên
bố: “Giờ đã đến để Con Người được tôn vinh” (12,23).
Đại từ “các ông” ở 8,24a là những kẻ chống đối
Đức Giê-su. Trong bối cảnh trực tiếp của 8,24, họ là những người Pha-ri-sêu,
nhưng trong toàn bộ Tin Mừng những kẻ chống đối còn là các thượng tế và những
người Do Thái. Họ tìm giết Đức Giê-su (8,37.40) và quyết định giết Đức Giê-su
(11,45-53). Đức Giê-su báo trước ở 8,28 là những kẻ chống đối sẽ dẫn Người đến
thập giá, vì họ không biết Đức Giê-su và không biết Chúa Cha (8,19). Tuy nhiên,
biến cố thập giá lại là một cơ may cho họ. Qua biến cố này, họ có thể nhận ra
nhiều thực tại liên quan đến căn tính của Đức Giê-su, sứ vụ của Người và tương
quan mật thiết giữa Người với Chúa Cha. Về căn tính thần linh của Đức Giê-su,
Người là Đấng “egô eimi (Ta Là)” (8,28b) như Danh ĐỨC CHÚA trong Cựu Ước. Về sứ
vụ, Đức Giê-su “không tự mình làm bất cứ điều gì” (8,28c) và Người hằng làm
những điều đẹp ý Cha (8,29c). Về tương quan với Chúa Cha, Đức Giê-su là Đấng
Cha sai đến (8,29a). Chúa Cha dạy Đức Giê-su (8,28d), ở với Người (8,29a) và
không để Người một mình (8,29b).
Biến cố Đức Giê-su được giương cao trên thập
giá đã bày tỏ cách nghịch lý thiên tính của Đức Giê-su và tư cách Con Một Thiên
Chúa của Người. Lời tuyên xưng của Tô-ma trước Đức Giê-su Phục Sinh: “Lạy Chúa (kurios) của con, lạy Thiên Chúa (theos) của con”
(20,28) và lời tuyên xưng của tác giả lời tựa: Đức Giê-su là “Lời (ho logos) ở với Thiên Chúa
(ton theon), và Lời (logos) là Thiên Chúa (theos)” (1,1a.b) bao hàm trong “egô eimi” của
Đức Giê-su như là Danh của Người. “Egô eimi” của Đức Giê-su song song với “egô
eimi” của ĐỨC CHÚA trong Cựu Ước. “Egô eimi” ở 8,24 là lời mọi gọi tất cả mọi
người nhận biết căn tính của Đức Giê-su mặc khải trong Tin Mừng Gio-an.
c) “Trước khi
có Áp-ra-ham, Tôi Là” (8,58)
“Egô eimi” của Đức Giê-su ở 8,58 mặc khải một
chân lý khác về Đức Giê-su. Người hiện hữu từ lúc nào? Sự hiện hữu của Đức
Giê-su được hiểu theo nghĩa hiện hữu thể lý hay hiện hữu thần linh? Đề tài này
được nói tới khi Đức Giê-su tuyên bố với những người Do Thái ở 8,56: “Áp-ra-ham,
cha các ông [những người Do Thái], đã hoan hỉ, vì hy vọng được thấy ngày của
Tôi. Ông ấy đã thấy và đã mừng rỡ.” Trước lời tuyên bố lạ lùng này, sự phản đối
của những người Do Thái và câu trả lời của Đức Giê-su được thuật lại ở 8,57-59:
“57 Vậy những người Do Thái nói với Người: ‘Ông
chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy Áp-ra-ham sao?’ 58 Đức Giê-su nói với họ:
‘A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Trước khi có Áp-ra-ham, Tôi Là (egô eimi).’
59 Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su ẩn mình và đi ra khỏi Đền
Thờ.”
Câu trả lời của Đức Giê-su ở 8,58 là mặc khải
long trọng mở đầu bằng công thức: “A-men, a-men, Tôi nói cho các ông:…” Sự hiện
hữu của Đức Giê-su được trình bày trong tương quan với hiện hữu của Áp-ra-ham
qua kiểu nói “egô eimi” (Tôi Là). Có sự hiểu lầm về phía những người Do Thái,
họ hiểu lời Đức Giê-su ở 8,56 theo nghĩa hiện hữu thể lý nên đã nói với Người:
“Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy Áp-ra-ham sao?” (8,57). Nhưng Đức
Giê-su, Người nói về sự hiện hữu thần linh của Người với tư cách là Con Một
Thiên Chúa (1,18). Sự hiện hữu thần linh này diễn tả qua kiểu nói “egô eimi”,
tương tự như “egô eimi” của ĐỨC CHÚA trong Cựu Ước. Toàn bộ Tin Mừng Gio-an
giúp hiểu sự hiện hữu của Đức Giê-su diễn tả bằng “egô eimi” ở 8,58.
Trước hết, tác giả Tin Mừng khẳng định sự hiện
hữu của Lời (Logos) trong câu đầu tiên của Tin Mừng: “Lời
có lúc khởi đầu (en arkhêi en
ho logos)” (Ga 1,1a). “Lúc
khởi đầu (en
arkhêi)” ở đây gợi đến câu đầu tiên của Kinh Thánh trong sách Sáng
Thế: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Như thế Lời
(Logos) đã hiện hữu lúc “Thiên Chúa sáng tạo trời đất.” Trong Tin Mừng
Gio-an, Đức Giê-su là Lời làm người, tác giả Tin Mừng khẳng định ở Ga 1,14a:
“Lời đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng tôi.” Vậy, từ lúc khởi đầu
của mọi thụ tạo, Đức Giê-su đã hiện hữu với tư cách là Lời (Logos), bởi vì “Lời có lúc khởi đầu, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa” (1,1).
Kế đến, chính Đức
Giê-su khẳng định sự tiền hữu (préexistence) của Người vào cuối sứ
vụ công khai. Thật vậy, Đức Giê-su thưa với Cha của Người ở đầu (17,5) và ở
cuối (17,24) ch. 17 về sự hiện hữu của Người: “Vậy giờ đây, lạy Cha, xin Cha
tôn vinh Con bên Cha, vinh quang mà Con đã có bên Cha trước khi có thế gian”
(17,5); “Lạy Cha, về những người mà Cha đã ban cho Con, Con muốn rằng Con ở đâu, thì họ cũng ở
đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con vì
Cha đã yêumến Con trước khi thế gian được tạo thành”
(17,24). Hai câu trên khẳng định Đức Giê-su đã hiện hữu “trước khi có thế gian”
(17,5), “trước khi thế gian được tạo thành”
(17,24). “Egô eimi” không có thuộc từ ở 8,58 là lời khẳng định long trọng về sự
hiện hữu của Đức Giê-su không chỉ là trước khi Áp-ra-ham hiện hữu mà còn là
trước khi có thế gian vũ trụ. Như thế, sự tiền hữu (préexistence) của Đức
Giê-su trong Tin Mừng Gio-an được nhấn mạnh, đề tài này trình bày ở đầu (1,1), ở giữa (8,58) và ở cuối (17,5.24; 20,18) sách Tin Mừng.
Trong bối cảnh
tranh luận với những người Do Thái trong đoạn văn 8,31-59, hình ảnh tổ phụ
Áp-ra-ham xuất hiện nhiều lần trong đoạn văn này. Những người Do Thái khẳng
định họ là con cháu Áp-ra-ham (8,33)
và Áp-ra-ham là cha của họ (8,39). Nhưng đối với Đức Giê-su, cha của những
người Do Thái ở đây không phải là Áp-ra-ham vì họ không “làm những việc của
Áp-ra-ham” (8,39-40). Đức Giê-su nói với họ ở 8,39b-40: “39b Nếu các ông là con cái Áp-ra-ham,
các ông đã làm những việc của Áp-ra-ham. 40 Nhưng bây giờ các ông tìm giết Tôi, là người đã nói cho các ông sự thật
mà Tôi đã nghe nơi Thiên Chúa. Điều
đó, Áp-ra-ham đã không làm.” Khi tìm giết Đức Giê-su, những người Do Thái không
có Áp-ra-ham là cha nữa. Cha của họ cũng không phải là Thiên Chúa (8,41b-42) mà
là quỷ, như Đức Giê-su nói với họ ở 8,44a: “Các ông thuộc về quỷ là cha các
ông, và các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông.”
Khi Đức Giê-su nói
với những người Do Thái: “Áp-ra-ham, cha các ông, đã hoan hỉ, vì hy vọng được
thấy ngày của Tôi. Ông ấy đã thấy và đã mừng rỡ” (8,56) và “Trước khi có
Áp-ra-ham, Tôi Là” (8,58b), Người mặc khải về căn tính thần linh của Người và
Người thực hiện lời Thiên Chúa hứa với Áp-ra-ham. Vậy, nếu những người Do Thái
“làm những việc của Áp-ra-ham” (8,39-40), họ sẽ nhận biết Đức Giê-su là Đấng
Cha sai đến và tin vào Người.
d) “Anh em tin rằng: Thầy Là” (13,19)
Trong bữa ăn cuối cùng của Đức Giê-su với các
môn đệ, Người nói với họ ở 13,18-19: “18 Thầy không nói
về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng để Kinh
Thánh được nên trọn: ‘Kẻ đã cùng con ăn bánh lại giơ gót đạp con.’ 19 Thầy nói
với anh em từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin
rằng: Thầy Là (egô eimi).”
Cũng như ở 8,28,
trong đoạn văn 13,18-19, Đức Giê-su báo trước cho các môn đệ biến cố thập giá
qua lời Kinh Thánh: “Để Kinh Thánh được nên trọn: ‘Kẻ đã cùng con ăn bánh lại
giơ gót đạp con’” (13,18c), x. Tv 41(40),10. Cũng như ở 8,24, “Egô eimi” của
Đức Giê-su ở 13,19b nhắm đến hành động tin trong tương lai. Sau biến cố Thương
Khó – Phục Sinh, các môn đệ sẽ biết trọn vẹn căn tính thần linh của Đức Giê-su
là “egô eimi” (Ta Là).
“Egô eimi” của Đức
Giê-su ở 13,19 có ý nghĩa quan trọng, vì chính các môn đệ là những người đã tin
vào Đức Giê-su cũng chưa thực sự biết hết căn tính thần linh của Đức Giê-su
trước biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Chỉ sau khi Đức Giê-su đi về với
Cha thì Đấng Pa-rác-lê (Thần Khí sự thật) đến với các môn đệ, các ông mới thực
sự tin và nhận biết trọn vẹn “egô eimi” của Đức Giê-su như là danh xưng thần
linh của Người.
VI.
Kết luận
Trong Cựu ước,
“egô eimi” (Ta là) nói về Danh xưng của ĐỨC CHÚA (YHWH), trong Tin Mừng Gio-an
“egô eimi” của Đức Giê-su gợi ý về thần tính của Người như là Con Một Thiên
Chúa, Đấng được Cha sai đến. Như thế, “egô eimi” của Đức Giê-su không thay thế
“egô eimi” của ĐỨC CHÚA, nhưng tương quan với nhau theo nguyên tắc Đức Giê-su
đề ra ở 5,17 khi Người nói với những người Do Thái: “Cha Tôi làm việc cho đến
bây giờ, Tôi cũng làm việc.”
“Egô eimi” của Đức
Giê-su trong Tin Mừng Gio-an được hiểu trong viễn cảnh sau biến cố Phục Sinh.
Cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su là Lời
(Logos) của Thiên Chúa (1,1), Người là Chúa và là Thiên Chúa (20,28). Đức
Giê-su là Đấng Cha sai đến trần gian và Người hiệp thông sâu xa với Cha của
Người như Người đã nói với các môn đệ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (14,9c), “Thầy trong Cha
và Cha trong Thầy” (14,11). Ở 10,30, Người nói với những người Do Thái: “Tôi và Cha,
Chúng Tôi là một.” Chúng ta có thể nói rằng tất cả những mặc khải liên quan đến
nguồn gốc, căn tính và sứ vụ của Đức Giê-su, cũng như tương quan mật thiết giữa
Người với Chúa Cha trong Tin Mừng Gio-an hàm ẩn trong kiểu nói “egô eimi” của
Đức Giê-su.
VII. Thư mục
[1966]
BROWN, R. E., “Appendix IV: EGO EIMI – ‘I AM’”, in
[1975]
DODD, C. H., L’interprétation
du quatrième Évangile, (Lectio
Divina 82), Paris, Le Cerf, 1975, (orig. The
Interpretation of the Fourth Gospel, 1953).
[1978] BARRETT,
C. K., The Gospel According to
[1987] SCHNACKENBURG, R.,
“Excursus 8: The Origin and Meaning of the egô eimi Formula”, in Id., The Gospel According to St. John, vol. II: Commentary on Chapter 5–12, New York, The Crossroad
Publishing Company, [1971], 1987, p. 79-89. (Orig. Das
Johannesevangelium, 1971).
[1990] LÉON-DUFOUR, X., Lecture de l’Évangile selon Jean, t. II: (chapitres 5–12), (Parole de Dieu), Paris, Le Seuil,
1990.
[1998]
MOLONEY, F. J., The Gospel of John, (SPS 4), Collegeville (MN), The Liturgical
Press, 1998.
[2001] MCGRATH, J. F., “‘I obey, there ‘I am’ (John
8.12-59)”, in
[2001] WILLIAMS, C. H., “‘I Am’ or ‘I Am He’”, in FORTNA, R. T.;
THATCHER T., (eds.), Jesus in Johannine Tradition,
[2010] RONNING, John, “The ‘I Am He’
Sayings”, in Id., The Jews
Targums and John’s Logos Theology, Peabody
(MA), Hendrickson Publishers, 2010, p. 194-223.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2014/03/ta-la-ego-eimi-trong-tin-mung-gio-an.html
Ghi chú: Tác
giả chịu trách nhiệm nội dung bài viết, vì thế, xin các trang web đăng lại cho
hiển thị ngày tháng, nguồn bài
viết vàđừng chỉnh sửa hay
cắt bớt nội dung. Cảm ơn.