Bài viết tiếng Pháp:
Le thème de l’amour et de
l’amitié dans l’Évangile de Jean
Tác giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email: josleminhthong@gmail.com
Ngày 12 tháng 04 năm 2014.
Nội dung
I. Dẫn nhập
II. Từ ngữ
1. Danh từ “agapê” (tình yêu), 7 lần
2. Động từ “agapaô” (yêu mến), 37 lần
3. Danh từ “philos” (bạn hữu), 6 lần
4. Động từ “phileô” (thương mến), 13 lần
III. Động từ
“agapaô” (yêu mến) và “phileô” (thương mến)
IV. Tình yêu nẩy
sinh sự sống
1. Thiên Chúa yêu mến thế gian nhân loại (1 lần: 3,16)
2. Chúa Cha yêu mến Đức Giê-su (8 lần)
3. Đức Giê-su yêu mến Chúa Cha (2 lần: 14,31; 15,10)
4. Đức Giê-su yêu mến các môn đệ (10 lần)
5. Chúa Cha yêu mến các môn đệ (4 lần)
6. Các môn đệ yêu mến Đức Giê-su (8 lần)
7. Phê-rô thương mến Đức Giê-su (7 lần)
8. Đức Giê-su yêu mến Mác-ta, Ma-ri-a, La-da-rô (4 lần)
9. Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến (5 lần)
10.
Các môn đệ yêu mến nhau (5 lần)
V. Tình yêu dẫn
đến sự hư mất
1. Yêu mến bóng tối (1 lần: 3,19)
2. Yêu mến vinh quang con người (1 lần: 12,43)
3. Yêu mạng sống mình (1 lần: 12,25)
4. Thế gian yêu thích cái gì của riêng nó (1 lần: 15,19)
VI. Không yêu
mến, không có tình yêu
1. Không yêu mến Đức Giê-su (2 lần: 8,42; 13,24)
2. Không có tình yêu Thiên Chúa nơi mình (1 lần: 5,42)
VII. Bạn hữu
1. Bạn hữu của Đức Giê-su (4 lần)
2. Gio-an Tẩy Giả là bạn của chú rể (1 lần: 3,29)
3. Bạn của Xê-da (1 lần: 19,12)
VIII. Kết luận
(Xem bảng xếp loại 63 lần đề tài tình yêu)
I. Dẫn nhập
Bài viết ngắn
gọn và sơ lược với tựa đề “Từ ngữ diễn tả ‘tình yêu’ và ‘tình bạn’ trong Tin
Mừng Gio-an” đã đăng trên blog:http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ ngày 14/09/2013. Nay được thay thế
bằng bài viết đầy đủ và chi tiết hơn bằng tiếng Việt: “Đề tài tình yêu và tình bạn
trong Tin Mừng Gio-an” và tiếng Pháp: “Le thème de l’amour et
l’amitié dans l’Évangile de Jean.”
Tin mừng Gio-an dùng cả danh từ và động từ để diễn tả đề tài “tình yêu”
(danh từ: agapê, động từ: agapaô) và “tình bạn” (danh từ: philos, động từ:
phileô). Bài viết sẽ trình bày chi tiết cách dùng các từ này. Trước hết sẽ liệt
kê những lần các từ này xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an, kế đến sẽ trình bày ý
nghĩa hai động từ “agapaô” và “phileô”. Sau cùng là phần bàn đến tất cả tương
quan tình yêu trong Tin Mừng.
Các tương quan tình yêu được xếp thành bốn loại: (I) Tình yêu nẩy sinh sự
sống, (II) Tình yêu dẫn đến sự hư mất, (III) Không yêu, không có tình yêu, (IV)
Tương quan bạn hữu. Như thế, theo Tin Mừng Gio-an, tình yêu có nghĩa tích cực
và nghĩa tiêu cực.
II. Từ ngữ
Tin Mừng Gio-an dùng bốn từ sau để trình bày đề tài tình yêu và tình bạn:
(1) Danh từ “agapê” (tình yêu); (2) Động từ “agapaô” (yêu mến); (3) Danh từ
“philos” (bạn hữu); (4) Động từ “phileô” (thương mến). Quan sát các từ này giúp
hiểu thần học Tin Mừng Gio-an về đề tài trên.
1. Danh từ “agapê” (tình yêu), 7 lần
Danh từ “agapê”
xuất hiện 7 lần ở Ga 5,42; 13,35; 15,9.10a.10b.13; 17,26. Trong phần đầu Tin
Mừng (Ga 1–12), chỉ có 1 lần danh từ “agapê” ở 5,42.
Còn 6 lần khác ở trong Ga 13–17. Danh từ
“agapê” xuất hiện lần thứ hai ở 13,35. Đoạn văn
15,9-13 có 4 lần từ “agapê” ở 15,9.10a.10b.13. Trong
đó, 3 lần trong kiểu nói “ở lại trong tình yêu” (15,9.10a.10b).
Đặc biệt, lời Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,13:
“Không ai có tình yêu (agapên) cao cả hơn người đã hy sinh mạng sống mình vì
bạn hữu của mình” là định nghĩa tình yêu (agapê) của Người. Lần cuối cùng
“agapê” xuất hiện ở 17,26.(Các trích dẫn Tin Mừng Gio-an lấy trong: Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba
thư, Hy Lạp – Việt).
2. Động từ “agapaô” (yêu mến), 37 lần
Động từ “agapaô”
xuất hiện 37 lần, trong đó:
+ Ga 1–12: 7 lần
với nghĩa tích cực (5 lần: 3,16.35; 8,42;
10,17; 11,5) và nghĩa tiêu cực (2 lần: 3,19; 12,43).
+ Ga 13–17: 25
lần, trong đó:
- Ch. 13: 6 lần: 13,1a.1b; 13,23;
13,34a.34b.34c.
- Ch. 14: 10 lần trong 14,15-31:
14,15.21a.21b.21c.21d.23a.23b.24.28.31.
- Ch. 15: 5 lần, trong 15,9-17: 15,9a.9b.12a.12b.17.
-
Ch. 16 không có.
-
Ch. 17: 4 lần trong 17,23-26:
17,23a.23b.24.26.
+ Ga 18–21: 5
lần, 3 lần nói về môn đệ Đức Giê-su yêu mến (19,26; 21,7.20); 2 lần Đức Giê-su hỏi Phê-rô: “Anh có yêu mến Thầy không?” (21,15.16).
Tóm lại, danh từ “agapê” và
động từ “agapaô” xuất hiện chủ
yếu trong Ga 13–17 và tập trung vào 4 đoạn văn:
- 13,34-35: 3 lần “agapaô”,
1 lần “agapê”.
- 14,15-31: 10 lần “agapaô”.
- 15,9-17: 5 lần “agapaô”, 4 lần “agapê”.
- 17,23-26: 4 lần “agapaô”,
1 lần “agapê”.
3. Danh từ
“philos” (bạn hữu), 6 lần
Danh từ “philos” xuất hiện 6 lần:
- 3,29: Gio-an Tẩy Giả là bạn
của chú rể.
- 11,11: La-da-rô bạn của Đức
Giê-su và các môn đệ.
- 15,13.14.15: Các môn đệ là bạn hữu của Đức Giê-su.
- 19,12: Bạn của Xê-da.
4. Động từ
“phileô” (thương mến), 13 lần
Động từ “phileô” xuất hiện 13 lần. Trong đó,
- 11 lần có nghĩa tích cực: 5,20; 11,3.36; 16,27a.27b; 20,2;
21,15.16.17a.17b.17c (5 lần trong đoạn văn 21,15-17).
- 2 lần có nghĩa tiêu cực: 12,25 (yêu mạng sống mình) và 15,19 (thế gian
yêu thích cái thuộc về nó).
Cùng gốc với danh từ “philos” (bạn hữu), động từ “phileô” có nghĩa: “thương”, “thương mến” trong
tình bằng hữu (aimer d’amitié). Tùy theo văn mạch và âm điệu câu văn, động từ “phileô” có thể dịch sang tiếng Việt: “thương
mến” (11,3), “thương”(11,36),
“yêu” (12,25) hay “yêu thích” (15,19).
Tóm lại, danh từ “agapê” (7 lần) và “philos” (6 lần); động từ“agapaô” (37 lần) và “phileô” (13 lần) là những từ khoá xây
dựng đềtài tình yêu và tình bạn.
III. Động từ “agapaô” và “phileô”
Trong Tin Mừng Gio-an có sự giống nhau trong cách dùng động từ “agapaô” và
“phileô” qua ba nhận xét sau:
(1) Tình yêu Chúa Cha dành cho Đức Giê-su diễn tả bằng động từ “phileô” ở 5,20. Đức Giê-su nói với những người
Do Thái: “Cha thương mến (philei) Con và
tỏ bày cho Người mọi điều mình làm” (5,20a). Ở 10,17 Đức Giê-su dùng động từ
“agapaô” khi nói với những người
Pha-ri-sêu: “Vì điều này mà Cha
yêu mến (agapâi) Tôi:
Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại nó” (10,17). Chỉ 1 lần trong Tin Mừng ở 5,20, Đức Giê-su dùng động từ “phileô” để nói về tình yêu Chúa Cha dành cho
Người, còn những nơi khác dùng
động từ “agapaô”. Ở 16,27, tình yêu các môn đệ dành cho Đức Giê-su được diễn tả
bằng động từ “phileô”, trong khi ở 14,15.21.23.28
dùng động từ “agapaô”. Tình yêu Chúa Cha dành cho các môn đệ được diễn tả bằng
động từ “phileô” ở 16,27 và động
từ “agapaô” ở 14,21.
(2) Trong đối thoại giữa Đức Giê-su và Si-môn Phê-rô ở 21,15-17, dường như
không có sự khác biệt giữa hai động từ “phileô” và “agapaô”. Người thuật chuyện kể ở
21,17b: “Phê-rô buồn vì Người nói với ông ấy ba lần: ‘Anh có thương mến
(phileis) Thầy không?’” Câu này dùng động từ “phileô”, trong khi hai lần trước
đó, Đức Giê-su dùng động từ “agapaô.” Đức
Giê-su chỉ dùng động từ “phileô”trong lần
hỏi thứ ba: “Si-môn, con Gio-an, anh có thương mến (phileis)
Thầy không?” (21,17a). Như thế, hai động từ “phileô” và “agapaô” trong ba câu hỏi của Đức Giê-su ở
21,15.16.17 xem ra đồng nghĩa.
(3) Trong tên gọi: “Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến”, tác giả dùng cả hai
động từ: “agapaô” 4 lần ở 13,23; 19,26; 21,7.20 và “phileô” 1 lần ở 20,2.
Những nhận xét trên cho thấy động từ “phileô” cũng quan trọng như “agapaô”, cho dù
“phileô” ít dùng hơn (13 lần) so
với “agapaô” (37 lần). Câu hỏi
đặt ra: Có thể xem hai động từ này đồng nghĩa (synonymes) với nhau và có thể
thay đổi cho nhau (interchangeables) được không? Có sắc thái nghĩa khác nhau giữa hai động từ này không?
Một số tác giả
cho rằng có sự phân biệt giữa hai động từ “agapaô” (yêu mến) và “phileô”
(thương mến). (Xem các tác giả phân biệt và không phân biệt nghĩa của hai động
từ trên ở N. LAZURE, Les
valeurs morales de la théologie johannique, (Évangile
et Épîtres),(EtB), Paris, Librairie Lecoffre - Gabalda, 1965, n. 11-12,
p. 215). Chẳng hạn, C. Spicq viết: “Trong khi agapan [yêu mến] được dùng để
diễn tả tình yêu theo chiều đi xuống: từ Thiên Chúa đến Đức Ki-tô và con người,
hay theo chiều đi lên: Từ Đức Ki-tô và con người đến Thiên Chúa, thì philein
[thương mến] đặt người yêu và người được yêu trên bình diện ngang hàng, xoá bỏ
sự cách biệt.” (C. SPICQ, Agapè
dans le Nouveau Testament, analyse des textes III,Paris, Gabalda, 1959, p. 220). Cách
hiểu này không phù hợp với cách dùng động từ “phileô” trong Tin Mừng Gio-an.
Bởi vì tình bằng hữu, diễn tả bằng động từ “phileô” mà Chúa Cha dành cho Đức
Giê-su (5,20) và cho các môn đệ (16,27) không “đặt người
yêu và người được yêu trên bình diện ngang hàng, xoá bỏ sự cách biệt” như C.
Spicq đã viết.
Một số tác giả
khác cho rằng: Trong Tin Mừng Gio-an, hai động từ “agapaô” và “phileô” đồng nghĩa và
có thể thay đổi cho nhau. Đây là lập trường của các tác giả
J. H. Bernard, R. Bultmann, và C. K. Barrett. (Xem R.
E. BROWN, The Gospel according
to John, vol. I, 1966,
p. 498). Theo C. S. Kenner: “Về nghĩa của từ, hai động từ này có thể thay thế
cho nhau được.” (C. S. KEENER, The
Gospel of John, (2 volumes),
Peabody (MA), Hendrickson Publishers, 2003, n. 159, p. 1004). Đối
với N. Lazure: “Đó là lối hành văn nhằm mục đích tránh sự lặp lại của một từ. Vì hai động từ này [agapaô và phileô] có cùng một nghĩa.” (N. LAZURE, Les
valeurs morales de la théologie johannique, 1965, p. 215). G. Stählin nhận
định: “Chỉ Tin Mừng Gio-an dùng đến 13 lần động từ
phileô, trên tổng số 25 lần động từ này xuất hiện trong Tân Ước, cho thấy rõ
ràng nghĩa thần học của động từ phileô, cùng với động từ agapaô gần như đồng
nghĩa với nó.” (G. STÄHLIN, art. “phileô, philos”, in TDNT, vol. IX, 1974, p. 128).
Theo chúng tôi,
những giải thích trên của các tác giả chưa nêu lên được tầm quan trọng của đề
tài “bạn hữu” (philos) ở 15,13-15 cũng như khẳng định thần học mà động từ “phileô” nhắm tới. Không
phải tình cờ, hay để tránh lặp đi lặp lại mà động từ “phileô” dùng song song
với động từ “agapaô”. Ngược lại, danh từ “philos” và động từ “phileô” góp phần xây dựng thần học Gio-an về đề tài “tình yêu”
(agapaô, agapê). Bốn ghi nhận sau đây cho phép hiểu theo
hướng này:
(1) Tương quan
tình yêu diễn tả bằng các từ “phileô” (thương mến),“philos” (bạn hữu) cũng quan trọng như tình yêu diễn tả bằng
các từ “agapaô” (yêu mến), “agapê” (tình yêu). Nghĩa là các từ “phileô” và “philos”, bổ túc, làm rõ và định hướng nghĩa thần học của
“agapaô” và “agapê”.
(2) Cách dùng
song song hai động từ “phileô” và “agapaô” cho phép hiểu
đề tài “tình yêu” (agapaô, agapê) theo hướng
“tình bằng hữu” (phileô, philos), hơn là những hình
ảnh khác về tình yêu như “tình yêu hôn nhân” (l’amour conjugal) hay
“tình yêu gia đình” (l’amour familial). Thật vậy, trong “tình yêu hôn nhân” (l’amour conjugal), vợ
chồng liên kết với nhau và ràng buộc với nhau bởi lời hứa yêu thương nhau và
sống chung với nhau. Trong “tình yêu gia đình” (l’amour familial), con cái
không thể tự dứt bỏ tư cách làm con. Cha mẹ không thể chối bỏ tư cách làm cha
làm mẹ khi có con cái. Cũng thế, liên hệ anh chị em ruột trong gia đình cũng
không thể chối từ liên hệ máu mủ. Trong khi đó, tình yêu” theo hướng “tình bạn”
đề cao tự do của con người trong quyết định theo hay không theo Đức Giê-su. Làm
môn đệ Đức Giê-su hay không là lựa chọn hằng ngày, vì bất cứ lúc nào người môn
đệ cũng có thể quyết định “thôi không làm môn đệ nữa” như ở Ga 6,66. Nhóm Mười
Hai quyết định ở lại (6,67-68) với Đức Giê-su cũng là quyết định hoàn toàn tự
do. Bởi vì làm môn đệ Đức Giê-su, tự bản chất là lựa chọn dấn thân trong sự tự
do. Đức Giê-su không ép buộc ai đi theo Người và Người cũng không thể ép buộc
các môn đệ ở lại với Người. Tuy vậy, Đức Giê-su không ngừng mời gọi mọi người
tin vào Người và giữ vững niềm tin để sống sự sống đời đời.
(3) Hiểu “tình yêu” theo hướng “tình bạn” phù hợp với tước hiệu “bạn hữu
của Thiên Chúa” trong truyền thống Cựu Ước (Is 41,8; 2Sb 20,7; Xh 33,11; Gc
2,23). Trong Tin Mừng Gio-an, tình bạn (15,14-15) liên kết chặt chẽ với tình
yêu (15,9-13). Điều kiện để trở thành bạn hữu của Đức Giê-su là “làm những điều
Đức Giê-su truyền dạy” (15,14) và “ở lại trong tình yêu của Người” (15,9-10).
Đề tài “bạn hữu của Đức Giê-su” vừa gợi đến “bạn hữu của Thiên Chúa” trong Cựu
Ước, vừa liên kết với đề tài “tình yêu” trong Tân Ước.
(4) Mặc khải về tư cách “bạn hữu” của Đức Giê-su trong Tin Mừng đánh dấu
tương quan mới mẻ và độc đáo giữa Đức Giê-su và các môn đệ, đồng thời mở ra một
giai đoạn mới trong tiến trình trao ban mặc khải. Đức Giê-su nói với các môn đệ
ở 15,15: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết điều chủ mình
làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu (philous), vì tất cả những gì Thầy nghe
nơi Cha của Thầy, Thầy đã làm cho anh em biết.”
Tóm lại, các lập trường cho rằng hai động từ “agapaô” và “phileô” đồng
nghĩa với nhau, có thể thay đổi lẫn nhau, hay “phileô” có mức độ tình yêu thấp
hơn “agapaô” là làm giảm nét độc đáo của đề tài “tình yêu” trong thần học
Gio-an. Theo chúng tôi, hai động từ “agapaô” và “phileô” không đồng nghĩa,
không thay thế được cho nhau mà mỗi động từ diễn tả khía cạnh khác nhau của
lòng mến. Hai động từ này đều quan trọng và bổ túc lẫn nhau. Đề tài “tình bạn”
làm rõ nghĩa đề tài “tình yêu”. “Tình yêu” theo hướng “tình bạn” đề cao sự tự
do của con người trong lựa chọn làm môn đệ Đức Giê-su. Trong viễn cảnh này, đề
tài “tình bạn” (philos, phileô) là đóng góp quan trọng của thần học Tin Mừng
Gio-an. Phần sau sẽ phân tích các tương quan tình yêu (agapaô, agapê) và tình bạn
(phileô, philos).
IV. Tình yêu nẩy sinh sự sống
Phần chính này trình bày nghĩa tích cực của tình yêu và tình bạn. Đó là
tình yêu đem lại sự sống với 10 tương quan: (1) Thiên Chúa yêu mến nhân loại,
(2) Chúa Cha yêu mến Đức Giê-su, (3) Đức Giê-su yêu mến Chúa Cha, (4) Đức
Giê-su yêu mến các môn đệ, (5) Chúa Cha yêu mến các môn đệ, (6) Các môn đệ yêu
mến Đức Giê-su, (7) Phê-rô thương mến Đức Giê-su, (8) Đức Giê-su yêu mến
Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô, (9) Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến, và (10) Các
môn đệ yêu mến nhau.
1. Thiên Chúa yêu mến
thế gian nhân loại (1 lần: 3,16)
Tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian nhân loại chỉ nói đến một lần ở 3,16
bằng động từ “agapaô”, nhưng có tầm quan trọng đặc biệt. (Xem các nghĩa của từ “thế gian” trong bài viết: “Thế gian (kosmos) trong Tin
Mừng Gio-an”). Đức Giê-su tuyên bố ở 3,16: “Thiên Chúa đã
quá yêu mến (êgapêsen) thế gian (kosmon), đến nỗi đã ban Con
Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời.”
“Thế gian” (kosmos) trong câu này là đối tượng tình yêu lớn lao của Thiên Chúa,
đó là “thế gian nhân loại”, bao gồm tất cả mọi người, không loại trừ bất cứ ai
và không giới hạn vào một thời đại nào.
Thiên Chúa bày tỏ tình yêu mạnh mẽ dành cho nhân loại bằng cách ban tặng
Con Một của Người là Đức Giê-su. Đây là tình yêu đem đến cho nhân loại sự sống
đích thực: sự sống đời đời. Mọi người được mời gọi đón nhận tình yêu này bằng
cách tin vào Con Một Thiên Chúa để khỏi bị hư mất. “Tin vào Đức Giê-su” là đáp
trả lại tình yêu cao cả của Thiên Chúa. Thực ra, theo thần học Gio-an, “tin” là
bước vào tương quan tình yêu với Đức Giê-su và qua đó đón nhận tình yêu của
Thiên Chúa và sống sự sống đời đời ngay ở trần gian này.
Lời mặc khải của Đức Giê-su ở 3,16 đã tóm
tắt sứ vụ của Người trong Tin Mừng. Kết luận thứ nhất của Tin Mừng (20,30-31)
gợi lại lời mời gọi tin ở 3,16. Tác giả kết luận ở 20,30-31: “30 Đức Giê-su đã
làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các môn đệ [của Người]; chúng không
được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được ghi chép là để anh em
tin rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa; và nhờ tin, anh em có sự
sống trong danh của Người.” Sách Tin Mừng được viết ra là để tình yêu lớn lao
của Thiên Chúa dành cho nhân loại đến được với con người nhờ tin vào Đức
Giê-su, qua đó con người sống dồi dào, phong phú và có ý nghĩa cuộc đời này.
2. Chúa Cha yêu mến Đức
Giê-su (8 lần)
Tình yêu Chúa Cha dành cho Đức Giê-su xuất hiện 8 lần với các từ: động từ
“agapaô” (6 lần: 3,35; 10,17; 15,9a; 17,23b.24.26b), động từ “phileô” (1 lần:
5,20) và danh từ “agapê” (1 lần: 17,26a).
Trước hết Tin Mừng nói đến tình yêu của “Cha” (patêr) dành cho “Con”
(houis). Trong phần độc thoại về sứ vụ của Đức Giê-su (3,31-36), Gio-an Tẩy Giả
nói ở 3,35: “Cha yêu mến Con (ho patêr agapâiton huion) và đã ban
mọi sự trong tay Người.” Đến 5,20, Đức Giê-su khẳng định điều này khi nói với
những người Do Thái ở 5,19b-20: “19b A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Con
không thể tự mình làm điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Cha làm; vì những điều
Đấng ấy làm, Con cũng làm những điều đó như vậy. 20 Vì Cha thương mến Con (ho
gar patêr philei ton huion) và tỏ bày cho Người mọi điều mình làm, và sẽ tỏ bày
cho Người những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông kinh ngạc.” Trong câu
20, Đức Giê-su dùng động từ “phileô” (thương mến) còn ở 3,35, Gio-an Tẩy Giả
dùng động từ “agapaô” (yêu mến).
Tiếp theo, tình yêu Chúa Cha dành cho Đức Giê-su thể hiện qua việc Đức
Giê-su có quyền năng trên sự chết. Người nói với những người Pha-ri-sêu ở
10,17-18: “17 Vì điều này mà Cha yêu mến Tôi (me ho patêr agapâi):
Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại nó. 18 Không ai lấy nó khỏi Tôi,
nhưng chính Tôi tự mình hy sinh nó. Tôi có quyền hy sinh nó và Tôi có quyền lấy
lại nó. Tôi đã nhận mệnh lệnh này từ nơi Cha của Tôi.”
Sau cùng, trong Ga 13–17, Đức Giê-su nói với các môn đệ về tình yêu Chúa
Cha dành cho Người ở 15,9, qua đó Đức Giê-su bày tỏ tình yêu của Người với các
môn đệ: “Như Cha đã yêu mến Thầy (kathos êgapêsen me ho patêr), Thầy cũng yêu
mến anh em (kagô humas êgapêsa). Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy
(meinate têi agapêi têi emêi)” (15,9). Trong ch.
17, Đức Giê-su thưa với Cha ba lần về tình yêu mà Chúa Cha dành cho Đức Giê-su
(17,23.24.26). Người ngỏ lời với Cha ở 17,22-23: “22 Phần Con, vinh quang mà
Cha đã ban cho Con, Con đã ban cho họ để họ nên một như Chúng Ta là Một; 23 Con
trong họ và Cha trong Con, để họ được hoàn toàn nên một; để thế gian nhận biết
rằng: Chính Cha đã sai Con và Cha đã yêu mến họ
(êgapêsas autous) như đã yêu mếnCon (kathos eme êgapêsas).” Như
thế, tình yêu Chúa Cha dành cho các môn đệ cũng là tình yêu mà Chúa Cha yêu mến
Đức Giê-su.
Ở 17,24, Đức Giê-su khẳng định là Chúa Cha đã yêu mến Đức Giê-su trước khi
thế gian được tạo thành, Người thưa với Cha: “Lạy Cha, về những người mà Cha đã
ban cho Con [các môn đệ], Con
muốn rằng Con ở đâu, thì họ cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang
của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con vì Cha đã yêu mến Con (êgapêsas me) trước khi thế gian
được tạo thành.” Kết thúc ch. 17 (17,26), Đức Giê-su mong muốn tình yêu Chúa
Cha dành cho Người ở lại trong các môn đệ ở mọi nơi và qua mọi thời, Người nói
lời cuối cùng với Cha: “Con đã làm cho họ [các môn đệ] biết danh của Cha, và
Con sẽ còn làm cho họ biết, để tình yêu mà Cha đã yêu mến Con (hê agapê hên êgapêsas me) ở trong
họ và Con trong họ” (17,26).
Tóm lại, Gio-an Tẩy Giả nói về tình yêu Chúa Cha (patêr) dành cho Con
(houis) là Đức Giê-su (3,35). Đức Giê-su khẳng định điều này với những người Do
Thái ở 5,20. Đến 10,17, Đức Giê-su nói: “Cha yêu mến Tôi”, sang phần diễn từ từ
biệt (Ga 13–17), Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Cha yêu mến Thầy” (15,9a).
Chúa Cha yêu mến các môn đệ cũng bằng tình yêu Người dành cho Đức Giê-su
(17,23). Đó là tình yêu mà Đức Giê-su đã có “trước khi thế gian được tạo thành”
(17,24). Cuối cùng, Đức Giê-su mong muốn tình yêu Chúa Cha dành cho Người
(17,26a.26b) ở lại nơi các môn đệ.
3. Đức Giê-su yêu mến
Chúa Cha (2 lần: 14,31; 15,10b)
Tình yêu Đức Giê-su dành cho Cha của Người được nói đến 2 lần ở 14,31a
(động từ agapaô) và 15,10b (danh từ agapê). Ở 14,31, cuộc Thương Khó là lúc Đức
Giê-su bày tỏ tình yêu của Người với Cha và là lúc Người thực hiện đến cùng sứ
vụ Cha giao phó. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,30-31: “30 Thầy sẽ không
còn nói nhiều với anh em nữa vì thủ lãnh của thế gian đang đến. Nó không có gì
trên Thầy, 31 nhưng để thế gian biết rằng: Thầy yêu mến Cha (agapô ton patera)
và như Cha đã truyền cho Thầy thế nào, Thầy làm như vậy. Hãy
đứng dậy, chúng ta đi khỏi đây.”
Ở 15,10, Đức Giê-su dùng kiểu diễn tả: “Ở lại trong tình yêu của Cha.” Cụm
từ này vừa gợi đến tình yêu Chúa Cha dành cho Đức Giê-su, vừa cho thấy Đức
Giê-su đáp trả tình yêu ấy bằng cách yêu mến Cha. Đức Giê-su nói với các môn đệ
ở 15,10: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu
(meneite en têiagapêi) của Thầy, như chính Thầy, Thầy đã
giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu (menô en têi agapêi) của Người.”
Cả hai lần Đức Giê-su nói với các môn đệ là Người yêu mến Cha. Trước là bày
tỏ tình yêu bằng cách trung tín thi hành sứ vụ cho đến cùng, cho đến chết
(14,31). Sau là “ở lại trong tình yêu của Cha” (15,10) và chia sẻ tình yêu ấy
với các môn đệ (15,9).
4. Đức Giê-su yêu mến
các môn đệ (10 lần)
Tình yêu Đức Giê-su dành cho các môn đệ được nói đến 10 lần bằng danh từ
“agapê” (1 lần: 15,13), động từ “agapaô” (6 lần: 13,1a.1b.34b; 14,21d;
15,9b.12b), danh từ “philos” (3 lần: 15,13.14.15).
Tình yêu cao cả Đức Giê-su dành cho các môn đệ được định nghĩa rõ ràng ở
15,13, Người nói với họ: “Không ai có tình yêu (agapên) cao cả hơn người đã hy
sinh mạng sống mình vì bạn hữu của mình.” Trước đó, Đức Giê-su nói với các môn
đệ ở 15,9: “Như Cha đã yêu mến Thầy (kathos êgapêsen me ho patêr), Thầy cũng
yêu mến anh em (kagô humas êgapêsa). Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy
(meinate têi agapêi têi emêi).” Như thế, tình yêu
của Đức Giê-su dành cho các môn đệ bắt nguồn từ tình yêu Chúa Cha dành cho
Người.
Theo thần học Tin Mừng Gio-an, qua biến cố Thương Khó, Đức Giê-su đi về với
Cha, đó là lúc Đức Giê-su bày tỏ tình yêu dành cho Chúa Cha (14,31) và dành cho
các môn đệ (13,1). Các diễn từ từ biệt (Ga 13–17) mở đầu cách long trọng ở
13,1: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết rằng giờ của Người đã đến để ra khỏi
thế gian này mà về với Cha. Đã yêu mến (agapêsas)
những kẻ thuộc về mình ở trong thế gian, Người đã yêu mến (êgapêsen) họ đến cùng.” Hai lần động
từ “agapaô” trong câu này diễn tả sự trung tín và bền bỉ trong tình yêu: Đức
Giê-su đã yêu, đang yêu và sẽ yêu cho đến cùng, nghĩa là đến chết vì yêu.
Để được Đức Giê-su yêu mến, người môn đệ được mời gọi “có các điều răn của
Đức Giê-su” và “giữ chúng” (14,21a), nghĩa là hiểu biết giáo huấn của Đức
Giê-su và đem ra thực hành. Đây không phải là việc làm bắt buộc mà “giữ các
điều răn của Đức Giê-su” là cách thức bày tỏ tình yêu của môn đệ dành cho Thầy.
Ai sống như thế sẽ được Chúa Cha và Đức Giê-su yêu mến như Người đã nói với các
môn đệ ở 14,21: “Ai có các điều răn của Thầy và giữ chúng, người ấy là người
yêu mến (ho agapôn) Thầy. Mà ai yêu mến (ho de agapôn) Thầy sẽ được Cha Thầy
yêu mến (agapêthêsetai). Chính Thầy sẽ yêu mến (agapêsô) người ấy và Thầy sẽ tỏ
mình ra cho người ấy.” Tình yêu Đức Giê-su dành cho các môn đệ là nền tảng và
khuôn mẫu của tình yêu giữa các môn đệ với nhau. Nội dung điều răn yêu thương
Đức Giê-su ban cho các môn đệ nói rõ điều đó: “Anh em [các môn đệ] hãy yêu mến nhau (hina agapate allêlous), như Thầy
[Đức Giê-su] đã yêu mến (êgapêsa)
anh em” (13,34; 15,12).
Tình yêu Đức Giê-su dành cho các môn đệ còn được diễn tả qua tương quan bạn
hữu. Vì yêu mến các môn đệ, Đức Giê-su cho họ trở thành bạn hữu của Người.
Người nối kết tình yêu với tình bạn và định nghĩa “bạn hữu” ở 15,13-15: “13
Không ai có tình yêu (agapên) cao cả hơn người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn
hữu (tôn philôn) của mình. 14 Anh em là bạn hữu (philoi) của Thầy, nếu anh em
làm những điều Thầy truyền dạy anh em. 15 Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì
tôi tớ không biết điều chủ mình làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu
(philous), vì tất cả những gì Thầy nghe nơi Cha của Thầy, Thầy đã làm cho anh
em biết.” Trở thành bạn hữu của Đức Giê-su cần sự dấn thân từ cả hai phía. Về
phía các môn đệ, họ giữ những điều Đức Giê-su truyền dạy (15,14), nghĩa là hiểu
biết và áp dụng giáo huấn của Đức Giê-su vào cuộc sống. Về phía Đức Giê-su,
Người bày tỏ tình yêu cao cả bằng cách hy sinh mạng sống mình (15,13) và trao
ban toàn bộ mặc khải của Thiên Chúa cho các môn đệ, nghĩa là Người đã làm cho
các môn đệ biết tất cả những gì Đức Giê-su đã nghe nơi Cha của Người (15,15b).
Tóm lại, Đức Giê-su yêu mến các môn đệ bằng tình yêu Chúa Cha đã dành cho
Người (15,9), đó là tình yêu cho đến cùng (13,1a.1b), cho đến hy sinh mạng sống
vì người mình yêu (15,13). Để đón nhận tình yêu của Đức Giê-su, các môn đệ được
mời gọi “yêu mến Đức Giê-su” và “giữ các điều răn của Người” (14,21). Tình yêu
Đức Giê-su dành cho các môn đệ là nền tảng của tình yêu giữa các môn đệ với
nhau (13,34; 15,12) và làm cho họ trở thành bạn hữu của Người (15,13.14.15).
5. Chúa Cha yêu mến các
môn đệ (4 lần)
Tình yêu Chúa Cha dành cho các môn đệ được nói đến 4 lần bằng động từ
“agapaô” (3 lần: 14,21c.23b; 17,23a) và động từ “phileô” (1 lần: 16,27a).
Trong đoạn văn 14,15-24, điều kiện để được Chúa Cha yêu mến là yêu mến Đức
Giê-su và giữ các điều răn của Người. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở
14,21.23a: “Ai có các điều răn của Thầy và giữ chúng, người ấy là người yêu mến
(ho agapôn) Thầy. Mà ai yêu mến (ho de agapôn) Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến
(agapêthêsetai). Chính Thầy sẽ yêu mến (agapêsô) người ấy và Thầy sẽ tỏ mình ra
cho người ấy” (14,21); “Ai yêu mến (agapai) Thầy sẽ giữ lời của
Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến (agapêsei) người ấy” (14,23a). Ở 17,22-23, Đức
Giê-su thưa với Cha của Người: “22 Phần Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con,
Con đã ban cho họ [các môn đệ] để họ nên một như Chúng Ta là Một; 23 Con trong
họ và Cha trong Con, để họ được hoàn toàn nên một; để thế gian nhận biết rằng:
Chính Cha đã sai Con và Cha đã yêu mếnhọ (êgapêsas autous) như đã yêu mến Con.”
Ở 16,27, tình yêu Chúa Cha dành cho các môn đệ diễn tả bằng động từ
“phileô” và cùng tiến trình như ở 14,21.23: Chúa Cha thương mến các môn đệ bởi
vì các môn đệ thương mến Đức Giê-su. Người nói với các môn đệ ở 16,27: “Thật
vậy, chính Cha thương mến (philei) anh em, vì anh em đã thương mến
(pephilêkate) Thầy và tin rằng: Thầy từ Thiên Chúa mà đến.”
6. Các môn đệ yêu mến
Đức Giê-su (8 lần)
Đề tài các môn đệ yêu mến Đức Giê-su chỉ xuất hiện trong ba chương (Ga
14–16). Đức Giê-su nói với các môn đệ về đề tài này 8 lần bằng danh từ “agapê”
(2 lần: 15,9.10a) động từ “agapaô” (5
lần: 14,15.21a.21b.23a.28) và động từ “phileô”
(1 lần: 16,27b). Lời mời gọi “yêu mến Đức Giê-su” luôn kèm theo các tương quan
tình yêu khác như: Đức Giê-su yêu mến các môn đệ, Chúa Cha yêu mến Đức Giê-su,
Chúa Cha yêu mến các môn đệ.
Ở 15,9, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ ở lại trong tình yêu của Người, nghĩa
là bước vào trong tương quan tình yêu với Đức Giê-su, Người nói với họ: “Như
Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Anh em hãy ở lại trong tình yêu
(meinate en têi agapêi)
của Thầy” (15,9). Đức Giê-su nhắc lại trong 15,10: “Nếu anh em giữ các điều răn
của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu (meneite en têiagapêi)
của Thầy, như chính Thầy, Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong
tình yêu của Người.” Ở 15,9-10, các môn đệ được mời gọi “ở lại trong tình yêu
của Đức Giê-su” để đáp trả lại tình yêu Đức Giê-su dành cho họ. Tình yêu giữa
Đức Giê-su và các môn đệ hoạ lại tình yêu giữa Chúa Cha và Đức Giê-su. Cùng với
tình yêu giữa các môn đệ với nhau trong điều răn yêu thương (13,34), hình thành
một dòng chảy tình yêu giữa các nhân vật: Chúa Cha, Đức Giê-su và các môn đệ.
Đó là tình yêu giữa Chúa Cha và Đức Giê-su, giữa Đức Giê-su và các môn đệ,
giữa các môn đệ với nhau. Xem bài viết: “Ga 15,9-13: Dòng chảy TÌNH YÊU
giữa Chúa Cha, Đức Giê-su và các môn đệ.”
Đặc biệt trong đoạn văn 14,15-24, “yêu mến Đức Giê-su” gắn liền với “giữ
các điều răn của Người”. Sự thống nhất giữa “yêu mến” và “tuân giữ” là nền tảng
đời sống người môn đệ. Đức Giê-su lặp lại điều này nhiều lần với các môn đệ ở
14,15.21.23: “15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy;
16 và chính Thầy sẽ can thiệp với Cha và Người sẽ ban cho anh em một
Đấng Pa-rác-lê khác để Người ở với anh em mãi mãi” (14,15-16); “Ai có các điều
răn của Thầy và giữ chúng, người ấy là người yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy
sẽ được Cha Thầy yêu mến. Chính Thầy sẽ yêu mến người ấy và Thầy sẽ tỏ mình ra
cho người ấy” (14,21); “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời của Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu
mến người ấy, và Chúng Tôi sẽ đến với người ấy và sẽ làm chỗ ở nơi người ấy”
(14,23). Như thế, “yêu mến Đức Giê-su và giữ các điều răn của Người” là đề tài
quan trọng, vì nhờ đó các môn đệ được Đức Giê-su và Chúa Cha yêu mến, đồng thời
nơi các môn đệ có sự hiện diện của Đấng Pa-rác-lê (14,16-17), Đức Giê-su
và Chúa Cha (14,23). Xem bài
viết: “Ga 14,15-24: ‘Yêu mến Đức
Giê-su’ và ‘giữ các điều răn của Người’ sẽ được gì?”
Ở 14,28, yêu mến Đức Giê-su làm nẩy sinh niềm vui. Người nói với các
môn đệ: “Anh em đã nghe chính Thầy đã nói với anh em: ‘Thầy ra đi và Thầy đến
với anh em.’ Nếu anh em yêu mến (ei êgapate) Thầy, anh em đã vui mừng vì Thầy đi
về với Cha, và vì Cha lớn hơn Thầy.” Ở 16,27, Đức
Giê-su cho biết các môn đệ đã thương mến (phileô) Người khi Người nói với họ:
“Thật vậy, chính Cha thương mến (philei) anh em, vì anh em đã thương mến
(pephilêkate) Thầy và tin rằng: Thầy từ Thiên Chúa mà đến” (16,27).
Tóm lại, “yêu mến Đức Giê-su” là “ở lại trong tình yêu” của Người
(15,9.10a) và đón nhận tình yêu của Chúa Cha và của Đức Giê-su
(14,21a.21b.23b.16,27). “Yêu mến Đức Giê-su” sẽ có niềm vui đích thực vì nhận
biết ý nghĩa của biến cố Đức Giê-su đi về với Cha (14,28). “Yêu mến Đức Giê-su”
không thể tách rời khỏi việc “giữ các điều răn của Người” (14,15.21.23). Xem
phân tích động từ “yêu mến” và “giữ” (14,15-24) trong tập sách, Khủng hoảng và giải pháp cho
các môn đệ trong Tin Mừng thứ tư, tr. 215-219.
7. Phê-rô thương mến Đức Giê-su (7 lần)
Sau biến cố Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ ở biển hồ Ti-bê-ri-a qua
dấu lạ mẻ cá lạ lùng (21,1-14), ba lần Đức Giê-su hỏi Phê-rô về tình yêu của
ông dành cho Người. Trong cuộc đối thoại này (21,15-17), Đức Giê-su hỏi Phê-rô
hai lần bằng động từ “agapaô” (21,15a.16a), một lần động từ “phileô” (21,17a).
Phê-rô trả lời ba lần bằng động từ “phileô” (21,15b.16b.17c) và lặp lại câu hỏi
lần thứ ba (21,17a) của Đức Giê-su (động từ “phileô”) ở 21,17b. Như thế, cuộc
đối thoại giữa Đức Giê-su và Si-môn Phê-rô (21,15-17) dùng 2 lần động từ
“agapaô” (21,15a.16a) và 5 lần động từ “phileô” (21,15b.16b.17a.17b.17c).
Người thuật chuyện kể ở 21,15-17: “15 Khi các ông [các môn đệ] ăn xong, Đức
Giê-su nói với Si-môn Phê-rô: ‘Si-môn, con Gio-an, anh có yêu mến (agapais)
Thầy hơn những người này không?’ Ông ấy nói với Người: ‘Thưa Thầy có, Thầy biết
con thương mến (philô) Thầy.’ Người nói với ông: ‘Hãy chăm sóc chiên con của
Thầy.’ 16 Người lại nói với ông ấy lần thứ hai: ‘Si-môn, con Gio-an, anh có yêu mến (agapais)
Thầy không?’ Ông ấy nói với Người: ‘Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến
(philô) Thầy.’ Người nói với ông ấy: ‘Hãy chăn dắt chiên của Thầy.’ 17 Người
nói với ông ấy lần thứ ba: ‘Si-môn, con Gio-an, anh có thương mến (phileis)
Thầy không?’ Phê-rô buồn vì Người nói với ông ấy lần thứ ba: ‘Anh có thương mến
(phileis) Thầy không?’ Rồi ông ấy nói với Người: ‘Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự;
Thầy biết con thương mến (philô) Thầy.’ [Đức Giê-su] nói với ông: ‘Hãy chăm sóc
chiên của Thầy.’”
Động từ “phileô” (thương mến) trong đoạn văn này gợi đến đề tài bạn hữu
“philos” (cùng gốc từ với phileô) ở 15,13-15. Khi Phê-rô thương mến (philei)
Đức Giê-su là ông bước vào tương quan tình bạn với Người và sống tư cách bạn
hữu của Người. Bạn hữu của Đức Giê-su hàm ẩn ba điều: (1) Nhận ra tình yêu cao
cả của Đức Giê-su là đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu (15,13), (2) Làm
những điều Đức Giê-su truyền dạy (15,14), (3) Biết rằng toàn bộ mặc khải đã
được Đức Giê-su trao ban rồi (15,15b), không nên tìm kiếm nơi nào khác ngoài
giáo huấn của Đức Giê-su.
Ba lần ở 21,15-17, Phê-rô tuyên xưng tình yêu dành cho Đức Giê-su trước, và
sau đó Người trao phó sứ vụ chăn dắt cho Phê-rô. Như thế, yêu mến Đức Giê-su là
nền tảng và căn tính của sứ vụ chăn dắt. Có thể nói, khi người được giao phó
nhiệm vụ chăn dắt không thực sự yêu mến Đức Giê-su, không làm bạn hữu của
Người, thì ngay lúc đó, người ấy không đủ tư cách để chăn dắt đàn chiên của Đức
Giê-su nữa. Cả ba lần ở 21,15-17 Đức Giê-su nhấn mạnh: “Chiên của Thầy” chứ không
phải của Phê-rô. Sở hữu đàn chiên là Đức Giê-su vì Người là mục tử tốt và là
mục tử duy nhất của đàn chiên (10,10-12). Phê-rô được uỷ thác nhiệm vụ chăm sóc
đàn chiên của Đức Giê-su, nên sẽ chăn dắt đàn chiên theo ý muốn của Đức Giê-su
và dựa trên tình yêu dành cho Đức Giê-su và dành cho đàn chiên của Người.
8. Đức Giê-su yêu mến
Mác-ta, Ma-ri-a, La-da-rô (4 lần)
Tình yêu Đức Giê-su dành cho ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô được nói
đến 4 lần trong ch. 11 bằng các động từ “agapaô” (1 lần: 11,5), “phileô” (2
lần: 11,3.36) và danh từ “philos” (1 lần: 11,11).
Người thuật chuyện cho biết ở 11,5: “Đức Giê-su yêu mến (êgapa) Mác-ta, em
cô ấy và La-da-rô.” La-da-rô được gọi là “người Đức Giê-su thương mến (philei)”
vì hai chị sai người đến nói với Đức Giê-su về La-da-rô: “Thưa Thầy, người Thầy
thương mến (phileis) bị bệnh” (11,3b). Những người Do Thái đến chia buồn với
Mác-ta và Ma-ri-a, cũng xác nhận là Đức Giê-su thương mến (phileô) La-da-rô. Họ
nói với nhau ở 11,36: “Xem kìa! Ông ta [Đức Giê-su] thương (ephilei) anh ấy
[La-da-rô] biết mấy.” Khi nói với các môn đệ, Đức Giê-su gọi La-da-rô là “bạn
của chúng ta” ở 11,11: “La-da-rô, bạn của chúng ta (ho philos êmôn), đang yên
giấc; nhưng Thầy đi để đánh thức anh ấy.”
9. Người môn đệ Đức
Giê-su yêu mến (5 lần)
Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến được nói đến 5 lần, trong đó 4 lần dùng
động từ “agapaô” (13,23; 19,26; 21,7.20) và 1 lần động từ “phileô” (20,2).
Người thuật chuyện kể ở 13,23: “Có một người trong các môn đệ của Người [Đức
Giê-su] đang dùng bữa, tựa vào lòng Đức Giê-su, đó là người Đức
Giê-su yêu mến (êgapa)”, x. 19,26; 21,7.20. Ở 20,1-2, khi Ma-ri-a Mác-đa-la đi
đến mộ Đức Giê-su lúc sáng sớm và thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ, “Bà liền
chạy đến với Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác – người Đức Giê-su thương mến
(ephilei) –, bà nói với các ông: ‘Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi
không biết họ để Người ở đâu’” (20,2). Xem các bài viết về vai trò và ý nghĩa
của nhân vật “môn đệ Đức Giê-su yêu mến”: (1) Bốn môn đệ vô danh trong Tin
Mừng Gio-an. (2) “TÔNG ĐỒ GIO-AN” trong Tin Mừng
Nhất Lãm và “MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU YÊU MẾN” trong Tin Mừng thứ tư. (3) Ga 21,20-25. Vận mệnh, bút
tích và lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến, (4) “Lời chứng” và “làm chứng” của
người môn đệ Đức Giê-su yêu mến trong Tin Mừng Gio-an.
10. Các môn đệ yêu mến nhau (5
lần)
Tình yêu giữa các môn đệ với nhau xuất hiện 5 lần và liên hệ chặt chẽ với
điều răn yêu thương. Động từ “agapaô” được dùng 4 lần (13,34a.34c; 15,12a.17)
và 1 lần danh từ “agapê” (13,35). Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 13,34-35: “34
Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu mến nhau (hina agapate allêlous), như Thầy
đã yêu mến (êgapêsa)
anh em anh em hãy yêu mến nhau
(agapate allêlous). 35 Ở điều này mọi người sẽ nhận biết rằng: Anh em là môn đệ
của Thầy, nếu anh em có tình yêu mến (agapên) lẫn nhau.” Ở 15,12.17, Đức Giê-su nhắc
lại điều răn này với các môn đệ: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu mến nhau (hina agapate allêlous) như Thầy
đã yêu mến (êgapêsa)
anh em” (15,12); “Những điều này, Thầy truyền dạy anh em, để anh em yêu mếnnhau
(hina agapate allêlous)” (15,17).
Tình yêu của Thiên Chúa, của Đức Giê-su và của các môn đệ làm nên dòng chảy
tình yêu giữa các nhân vật này (xem phân tích ở trên). Đặc biệt điều răn yêu
thương ở 13,34; 15,12, là điều răn mới, điều răn của Đức Giê-su ban tặng và chỉ
dành cho các môn đệ, bởi vì các môn đệ yêu mến nhau bằng tình yêu Đức Giê-su đã
yêu mến họ. Để sống điều răn yêu thương này, các môn đệ cần không ngừng quy
chiếu về tình yêu của Đức Giê-su và đặt nền tảng tình yêu mến nhau trên nền
tảng tình yêu cao cả của Đức Giê-su dành cho các môn đệ (15,13). Xem bài viết:
“Ba điều răn yêu thương trong
Kinh Thánh.”
V. Tình yêu dẫn đến sự hư mất
Có bốn loại tình yêu dẫn đến sự hư mất: (1) Yêu mến bóng tối (3,19), (2)
Yêu mến vinh quang của con người (12,43), (3) Yêu mạng sống mình (12,25), (4)
Yêu thích cái gì của riêng nó (15,19).
1. Yêu mến bóng tối (1
lần: 3,19)
Đức Giê-su tuyên bố ở 3,18-19: “18 Ai tin vào Người [Con Một Thiên Chúa] thì không bị lên án; nhưng kẻ không
tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào
danh Con Một Thiên Chúa. 19 Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người
ta đã yêu mến (êgapâsan) bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa.”
Hai câu này tóm tắt thần học Tin Mừng Gio-an về lựa chọn “tin” hay “không tin”
vào Đức Giê-su. Đề tài “yêu mến bóng tối (skotos)” gợi đến sự xung đột và tranh
luận của những kẻ chống đối Đức Giê-su trong Tin Mừng. Về “các việc xấu xa” ở
3,19, kiểu nói này gợi đến “công việc của quỷ” (8,41.44). Cụ thể “các việc xấu
xa” là tìm giết Đức Giê-su (8,37.40). Xem phân tích danh từ “skotos” (bóng tối)
trong bài viết: “Ánh sáng và bóng tối trong Tin
Mừng Gio-an.” Tình yêu diễn tả bằng động từ “agapaô” trong kiểu nói:
“Yêu mến bóng tối” (3,19) là tình yêu dẫn đến sự chết.
2. Yêu mến vinh quang
con người (1 lần: 12,43)
Cuối sứ vụ công khai của Đức Giê-su (Ga 1–12), người thuật chuyện tóm kết ở
12,42-43: “42 Tuy nhiên, ngay cả trong giới lãnh đạo nhiều người đã tin vào
Người [Đức Giê-su]. Nhưng vì những người Pha-ri-sêu, họ không tuyên xưng để
không trở thành những kẻ bị khai trừ khỏi hội đường. 43 Vì họ yêu mến vinh
quang của con người hơn vinh quang của Thiên Chúa.” Liên từ “Tuy nhiên” ở đầu
câu 12,42 là tương phản với sự không tin trong đoạn văn trước đó (12,37-41).
Người thuật chuyện nhận định ở 12,37: “Người [Đức Giê-su] đã làm quá nhiều dấu
lạ trước mặt họ [những kẻ chống đối],mà họ
không tin vào Người.” Điều tương phản ở 12,42-43 là đã có nhiều người trong
giới lãnh đạo tin vào Đức Giê-su nhưng không dám tuyên xưng vì sợ bị khai trừ
khỏi hội đường. (Xem phân tích đề tài “trục xuất khỏi hội đường” trong tập
sách: YÊU và GHÉT trong Tin Mừng
Gio-an, Phần I, tr. 228-255).
Cách sống trên là vì “họ yêu mến vinh quang của con người hơn vinh quang của
Thiên Chúa” (12,43). Tình yêu này có nguy cơ dẫn đến sự hư mất, cho dù họ
đã tin vào Đức Giê-su nhưng đó chưa phải là lòng tin thực sự vì không dám tuyên
xưng lòng tin vào Đức Giê-su.
3. Yêu mạng sống
mình (1 lần: 12,25)
Ở 12,24-25, Đức Giê-su dùng hình ảnh hạt lúa gieo vào lòng đất và kiểu nói
“yêu mạng sống – ghét mạng sống” để nói về cái chết của Người. Người nói với
các môn đệ ở 12,24-25: “24 A-men, a-men, Thầy nói cho anh em: Nếu hạt lúa gieo
vào lòng đất không chết đi, nó vẫn ở lại một mình; nhưng nếu chết đi, nó sinh
nhiều hoa trái. 25 Ai yêu (ho philôn) mạng sống mình thì mất nó; ai ghét (ho
misôn) mạng sống mình trong thế gian này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời
đời.” Tiếng Hy Lạp “ho philôn” là động tính từ, thì hiện tại, giống đực, số ít,
chủ cách, dùng như danh từ, có nghĩa: “ai yêu”, “người yêu”. Đây là tình yêu
làm “mất mạng sống mình”, nghĩa là không “giữ được nó cho sự sống đời đời”
(12,25c). Xem phân tích về “yêu và ghét mạng sống” trong tập sách: YÊU và GHÉT trong Tin Mừng
Gio-an, Phần II, tr. 265-335.
4. Thế gian yêu thích cái gì
của riêng nó (1 lần: 15,19)
Đức Giê-su loan báo cho các môn đệ biết sự bách hại ở 15,18-19: “18 Nếu thế
gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Nếu anh em
thuộc về thế gian, thế gian đã yêu thích (ephilei) cái gì là của riêng nó (to
idion). Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, vì điều này, thế gian ghét
anh em.” Cụm từ “cái gì là của riêng nó” tiếng Hy Lạp là “to idion” có nghĩa
“cái của riêng nó”, “cái thuộc về nó”. Nếu các môn đệ thuộc về thế gian thì thế
gian đã yêu mến họ. Thế gian ở đây là thế gian thù ghét, bách hại Đức Giê-su và
các môn đệ. Xem bài viết: “Sáu đặc điểm của ‘thế gian thù
ghét’ và ‘những kẻ chống đối Đức Giê-su’ trong Tin Mừng Gio-an.”
Tình yêu này của thế gian, diễn tả bằng động từ “phileô” (15,19a), dẫn đến sự
hư mất và sự kết án.
VI. Không yêu mến, không có tình yêu
1. Không yêu mến Đức
Giê-su (2 lần: 8,42; 13,24)
Trong tranh luận ở đoạn văn 8,31-59, Những người Do Thái khẳng định Thiên
Chúa là của họ, họ nói với Đức Giê-su ở 8,41b: “Chúng tôi không phải là con đẻ
hoang. Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa.” Nhưng Đức Giê-su phủ nhận điều
này khi nói với họ: “Nếu Thiên Chúa là Cha các ông, các ông đã yêu mến
(êgapate) Tôi, vì chính Tôi phát xuất và đến từ nơi Thiên Chúa. Tôi không tự
mình mà đến, nhưng chính Đấng ấy đã sai Tôi” (8,42). Ở 8,44a Đức Giê-su nói rõ
ai là cha của những người Do Thái: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và các
ông muốn làm những ước muốn của cha các ông.” Như thế, Thiên Chúa không phải là
Cha của những người Do Thái, họ đã không yêu mến Đức Giê-su và không nhìn nhận
Đức Giê-su phát xuất và đến từ nơi Thiên Chúa. Họ không nhận biết Thiên Chúa đã
sai Đức Giê-su.
Trong đoạn văn nói về “yêu mến Đức Giê-su và tuân giữ các điều răn của
Người” (14,15-24), Đức Giê-su dùng thể phủ định khi nói với các môn đệ ở 14,24:
“Ai không yêu mến (ho me agapôn) Thầythì không
giữ những lời của Thầy; và lời mà anh em nghe không phải là của Thầy, nhưng là
của Cha, Đấng đã sai Thầy.” Trong đoạn văn 14,15-24, Đức Giê-su nhấn mạnh bằng
kiểu nói khẳng định và phủ định: “yêu mến thì tuân giữ” (14,15.21.23), “không
yêu mến thì không tuân giữ” (14,24a), nghĩa là nếu thiếu một trong hai hành
động (yêu mến và tuân giữ) thì sẽ không có gì cả. Đối tượng động từ “tuân giữ”
ở đây là “các điều răn của Đức Giê-su” (14,15.21.23) và “những lời của Người”
(14,24b). Kiểu nói này bao hàm tất cả giáo huấn của Đức Giê-su trong Tin Mừng.
2. Không có tình yêu của
Thiên Chúa (1 lần: 5,42)
Trong diễn từ độc thoại của Đức Giê-su ở 5,19-47, Người tố cáo những người
Pha-ri-sêu bách hại Người: “Tôi biết các ông: Các ông không có tình yêu của
Thiên Chúa (tên agapên tou theou) trong các ông” (5,42). Cụm từ “tình yêu của
Thiên Chúa (tên agapên tou theou)” có thể hiểu theo cả hai nghĩa: (1) Nghĩa chủ
thể: tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, (2) Nghĩa đối tượng: tình yêu
của con người dành cho Thiên Chúa. Khi những người Pha-ri-sêu bách hại Đức
Giê-su (5,16) và tìm giết Người (5,18), họ không có tình yêu dành cho Thiên
Chúa (nghĩa đối tượng), và họ không để tình yêu của Thiên Chúa ở lại trong lòng
họ (nghĩa chủ thể).
VII. Bạn hữu
Danh từ “philos” (bạn hữu) xuất hiện 6 lần để nói về bạn của Đức Giê-su (4
lần: 11,11; 15,13.14.15), bạn của chú rể (1 lần: 3,29) và bạn của Xê-da (1 lần:
19,12).
1. Bạn hữu của Đức
Giê-su (4 lần)
Trong mục “Đức Giê-su yêu mến các môn đệ” trên đây đã trình bày cách thức
Đức Giê-su bày tỏ tình yêu là gọi các môn đệ: bạn hữu (philos) của Người (xuất
hiện 3 lần ở 15,13.14.15). Khi bàn về “Đức Giê-su yêu mến Mác-ta, Ma-ri-a và
Ladarô” cũng đã cho biết Đức Giê-su gọi La-da-rô là “bạn của chúng ta”
khi nói với các môn đệ ở 11,11.
2. Gio-an Tẩy Giả là bạn
của chú rể (1 lần: 3,29)
Gio-an Tẩy Giả dùng hình ảnh “bạn của chú rể” để nói về tương quan giữa
Gio-an với Đức Giê-su, Gio-an Tẩy Giả nói với các môn đệ của ông ấy ở 3,29-30:
“29 Người có cô dâu mới là chú rể. Còn bạn (ho philos) của chú rể là người đứng
đó và nghe chàng thì hớn hở vui mừng vì tiếng nói của chú rể. Đó là niềm vui
của thầy đã được nên trọn. 30 Đấng ấy phải lớn lên, còn thầy phải suy giảm.”
3. Bạn của Xê-da (1 lần:
19,12)
Trong đoạn văn Đức Giê-su xuất hiện trước Phi-la-tô (18,28–19,16a), những
người Do Thái làm áp lực với Phi-la-tô khi họ kêu lên rằng: “Nếu ông
[Phi-la-tô] tha người này [Đức Giê-su], ông không là bạn (philos) của Xê-da.
Bất cứ ai tự cho mình là vua thìchống
lại Xê-da” (19,12b).
VIII. Kết luận
Đề tài tình yêu và tình bạn trong Tin Mừng Gio-an được trình bày qua hai
cặp từ: (1) danh từ “agapê” (tình yêu), động từ “agapaô” (yêu mến), (2) danh từ
“philos” (bạn hữu), động từ “phileô” (thương mến). Sau khi liệt kê các nơi xuất
hiện đề tài này chúng tôi đã trình bày cách dùng hai động từ “agapaô” và
“phileô” trong Tin Mừng. Hai động từ hày không đồng nghĩa với nhau hay có thể
thay đổi cho nhau. Nhưng mỗi động từ diễn tả một khía cạnh của tình yêu. Động
từ “agapaô” là tình yêu theo nghĩa chung, còn động từ “phileô”, cùng gốc với
danh từ “philos” (bạn hữu) diễn tả tình yêu theo hướng tình bạn. Không phải
tình yêu diễn tả bằng “agapaô” thì cao hơn tình yêu diễn tả bằng động từ
“phileô”, nhưng cả hai động từ này đều quan trọng. Bởi vì động từ “phileo” nói
về tình yêu Chúa Cha dành cho Đức Giê-su (5,20), tình yêu Chúa Cha dành cho các
môn đệ (16,27a) và tình yêu các môn đệ dành cho Đức Giê-su (16,27b).
Phần nội dung đã bàn đến tất cả 63 lần đề tài tình yêu và tình bạn diễn tả
bằng các từ “agapê” (7 lần), “agapaô” (37 lần), “philos” (6 lần), “phileô” (13
lần). Sau đây là bảng liệt kê 63 lần các từ này và xếp loại theo chủ thể và đối
tượng của các tương quan tình yêu:
Hai lần đầu tiên động từ “agapaô” (yêu mến) xuất hiện trong Tin Mừng thứ tư tóm
tắt nội dung toàn bộ sách Tin Mừng. Lần đầu tiên ở 3,16, Đức Giê-su khẳng định
tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian: “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế
gian, đến nỗi đã ban Con Một” (3,16a). Lần thứ hai ở 3,19,
nói đến tình yêu của con người dành cho bóng tối, Đức Giê-su tuyên bố: “Đây là
án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh
sáng, vì các việc của họ thì xấu xa” (3,19).
Như thế, đề tài tình yêu (agapaô, phileô) không chỉ là tình yêu dẫn đến sự sống
mà có thể là tình yêu dẫn đến sự chết, đó là “yêu mến bóng tối” (3,19), “yêu
mạng sống mình” (12,25). Theo Tin Mừng Gio-an, điều quan trọng không phải là “yêu” mà là chủ thể và đối tượng của tình
yêu. Yêu ai? Yêu điều gì? Được ai yêu? Chỉ sau khi trả lời những câu hỏi này
mới có thể xác định đó là tình yêu đem lại sự sống hay tình yêu dẫn đến sự
chết./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/09/tu-ngu-dien-ta-tinh-yeu-va-tinh-ban.html
Ghi chú: Tác giả chịu trách nhiệm nội dung bài viết,
vì thế, xin các trang web đăng lại cho hiển thị ngày tháng, nguồn bài viết vàđừng chỉnh sửa hay cắt bớt nội dung. Cảm ơn.
Xem phần trình
bày dưới dạng các mục từ:
Tình yêu, dt.,
agapê, trong Tin Mừng Gio-an
Yêu mến, đt.,
agapaô, trong Tin Mừng Gio-an
Bạn hữu, dt.,
philos, trong Tin Mừng Gio-an
Thương mến, đt.,
phileô, trong Tin Mừng Gio-an