Tin (pisteuô) trong Tin Mừng Gio-an
Bài viết tiếng Pháp và tiếng Anh:
Croire (pisteuô) dans
l’Évangile de Jean.
Believe (pisteuô) in the
Gospel of John.
Tác giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email: josleminhthong@gmail.com
Ngày 19 tháng 05 năm
2014.
Nội dung
Dẫn nhập
I. Số lần và nơi xuất hiện động từ
“pisteuô” (tin)
II. Cách dùng động từ “pisteuô” (tin)
1. Tin vào ai?
a) Tin vào Đức Giê-su
b) Tin vào Thiên Chúa
c) Tin vào Mô-sê
d) Tin vào dân chúng
2. Tin vào điều gì?
a) Chín nội dung niềm tin của các môn đệ
b) Động từ “tin” dùng theo nghĩa khác
3. “Tin” (pisteuô) không
có bổ túc từ
III. Ba cấp độ tin vào Đức Giê-su
1. Không thực
sự tin vào Đức Giê-su (8,31)
2. Chưa thực sự tin vào Đức Giê-su (2,23-25)
3. Thực sự tin vào Đức
Giê-su
a) Tin đích thực nhờ
dấu lạ
b) Tin đích thực nhờ
lời Đức Giê-su
c) Tin đích thực nhờ
lời các môn đệ
Kết luận
Dẫn nhập
Bài viết này đã đăng ngày 25/11/2012
trên blog: Từ ngữ Gio-an (http://tungubontinmung.blogspot.com/)
với tựa đề “TIN, đt., pisteuô, trong Tin Mừng Gio-an.” Nhân dịp viết bài này
bằng tiếng Pháp, bài viết đã được cập nhật, chỉnh sửa và đăng trên Blog Tin Mừng Gio-an với tựa đề tiếng Việt: “Tin (pisteuô) trong Tin Mừng
Gio-an”, tiếng Pháp: “Croire (pisteuô) dans
l’Évangile de Jean” và tiếng Anh: “Believe (pisteuô) in the
Gospel of John.”
Trong Tin Mừng Gio-an, động từ Hy Lạp
“pisteuô” (tin) xuất hiện 99 lần. Tính từ “pistos” (người tin) và tính từ “apistos” (người không tin) chỉ xuất hiện 1
lần ở Ga 20,27. Đức Giê-su Phục Sinh nói với Tô-ma ở 20,27: “Đưa ngón tay của
anh vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay của anh ra và đặt vào cạnh sườn
Thầy. Đừng trở thành người không tin
(apistos), nhưng là người tin (pistos).”
Với 99 lần trong Tin Mừng Gio-an, động từ
“pisteuô (tin)” là đề tài thần học quan trọng. Tác giả nhấn mạnh “hành động
tin” bằng cách chỉ dùng động từ “pisteuô” (tin), danh từ “pistis” (lòng tin,
đức tin) không xuất hiện trong Tin Mừng này. Để tìm hiểu động từ “pisteuô
(tin)” trong Tin Mừng Gio-an, bài viết sẽ trình bày ba mục chính: (I) Số lần và
nơi xuất hiện động từ “pisteuô” (tin); (II) Cách dùng động từ “pisteuô” (tin);
(III) Ba cấp độ tin vào Đức Giê-su.
I. Số lần và nơi xuất hiện động từ
“pisteuô” (tin)
99 lần động từ “pisteuô” (tin) trong Tin
Mừng Gio-an được phân bổ như thế nào? Nếu chia Tin Mừng này làm hai phần lớn:
(1) Sách Các dấu lạ (Ga 1–12) và (2) Sách Giờ tôn vinh (Ga 13–21) thì có hơn
3/4 lần động từ “tin” xuất hiện trong Sách các dấu lạ. Cụ thể là trong ch.
1–12, động từ “pisteuô” (tin) xuất hiện 77 lần; trong ch. 13–21, 22 lần. Như
thế, đề tài “tin” được triển khai chủ yếu trong phần đầu của sách Tin Mừng (ch.
1–12). Số lần của động từ “tin” tăng dần trong 12 chương đầu, và giảm dần trong
phần thứ hai (ch. 13–21) sách Tin Mừng.
Nếu chia sách Tin Mừng Gio-an thành nhiều
phần với độ dài khoảng 4 chương, sẽ thấy đỉnh cao số lần động từ “tin” xuất
hiện trong ch. 9–12. Cụ thể như sau: Ch 1–4: 22 lần; ch. 5–8: 26 lần; ch. 9–12:
29 lần; ch. 13–17: 15 lần; ch. 18–21: 7 lần. Các chương có động từ “tin” nhiều
nhất, theo thứ tự giảm dần là ch. 12 (10 lần); ch. 6 (9 lần); ch. 11 (9 lần);
ch. 3 (8 lần); ch. 4 (7 lần); ch. 5 (7 lần); ch. 14 (7 lần); ch. 10 (6 lần);
ch. 20 (6 lần). Có hai chương (ch. 13 và 19) động từ “tin” chỉ xuất hiện 1 lần
(13,19; 19,35), và ba chương (ch. 15; 18 và 21) không có động từ “tin”. Xem
liệt kê chi tiết 99 lần động từ “tin” trong bài viết: “pisteuô (tin), pistos (người
tin) và apistos (người không tin) trong Tin Mừng Gio-an.”
Trong lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18) đề tài
“tin” (pisteuô) đã được nói đến cách long trọng và rõ ràng. Gio-an Tẩy Giả làm
chứng về Đức Giê-su là “để mọi người tin nhờ ông ấy” (1,7). (Các trích dẫn lấy
trong Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA
THƯ, Hy Lạp – Việt). Người tin được định nghĩa ở 1,12-13: “12
Những ai đã đón nhận Người [Logos], Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ là
những người tin vào danh của Người. 13 Họ được sinh ra không bởi khí huyết,
cũng không bởi ước muốn của người phàm, cũng không bởi ước muốn của đàn ông,
nhưng bởi Thiên Chúa.” Trong phần sứ vụ công khai của Đức Giê-su (ch. 1–12),
người thuật chuyện triển khai đề tài “tin” qua giáo huấn và mặc khải của Đức
Giê-su cho đám đông, cho các môn đệ và cho những kẻ chống đối Người (những người
Pha-ri-sêu và những người Do Thái).
Trong phần diễn từ từ biệt (ch. 13–17), Đức
Giê-su nói về lòng tin của các môn đệ, chẳng hạn Người khích lệ các môn đệ ở
14,1: “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy.”
Đến cuối sách Tin Mừng, đề tài “tin” được nói đến trong kết luận thứ nhất
(20,30-31) như là mục đích của sách Tin Mừng. Người thuật chuyện viết ở
20,30-31: “30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các
môn đệ [của Người]; chúng không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều
đã được ghi chép là để anh em [độc giả] tin rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con
Thiên Chúa; và nhờ tin, anh em có sự sống trong danh của Người.” Như thế, đề
tài “tin” xuyên suốt sách Tin Mừng và mục đích những gì được viết ra là “để anh
em [độc giả] tin” và “nhờ tin anh em có sự sống” (20,31).
II. Cách dùng động từ “pisteuô” (tin)
Cách dùng 99 lần động
từ “tin” chia làm ba loại chính: (1) Tin vào ai? (2) Tin vào điều gì? (3) “Tin”
(không có bổ túc từ).
1. Tin vào ai?
Về đối tượng của hành động “tin”, Tin Mừng
Gio-an nói đến (a) Tin vào Đức Giê-su; (b) Tin vào Thiên Chúa; (c) Tin vào
Mô-sê; và (d) Tin vào dân chúng.
a) Tin vào Đức Giê-su
Phần lớn số lần động
từ “tin” trong Tin Mừng Gio-an nói về việc “tin” hay “không tin” vào Đức
Giê-su. Trong tiếng Hy Lạp, có hai cách diễn tả ý tưởng “tin vào ai”: (1) Động
từ “pisteuô” (tin) + giới từ “eis” (vào) + đại từ
hay danh từ ở đối cách (accusative). (2)Động từ “pisteuô” (tin) + đại từ hay danh từ ở tặng cách
(dative).
(1) Bốn cách dùng: “pisteuô + eis”:
(a)
Cách trình bày thứ nhất khẳng định hay phủ định hành động “tin vào Đức Giê-su.”
Khẳng định “tin vào Đức Giê-su”, xuất hiện 20 lần ở 2,11; 3,15.16; 3,18a.36;
4,39; 6,29.35.40; 7,31.48; 8,30; 9,36; 10,42; 11,45.48; 12,11.42; 14,1a; 17,20
và phủ định “không tin vào Đức Giê-su”, 4 lần ở 7,5; 12,37.44; 16,9.
(b)
Cách thứ hai nói gián tiếp về tin vào Đức Giê-su, xuất hiện 2 lần: “Tin vào Con
Người” (9,35); “tin vào ánh sáng” (12,36).
(c)
Trong cách thứ ba, động từ “tin” được chia ở “lối động tính từ (participle) + giới
từ “eis” (vào)”, có nghĩa là “người tin vào Đức Giê-su”, xuất hiện 7 lần
(7,38.39; 11,25.26a; 12,44.46; 14,12).
(d)
Cách thứ tư dùng kiểu nói: “Tin vào danh Đức Giê-su”, hay “tin vào danh Con Một
Thiên Chúa”, xuất hiện 3 lần ở 1,12; 2,23; 3,18c.
Tóm lại, kiểu diễn tả:
“Tin vào (pisteuô + eis) Đức Giê-su” được dùng 33 lần; và “tin vào (pisteuô
+ eis) danh Đức Giê-su”: 3 lần.
(2) Cách dùng “động từ pisteuô + đại từ hay danh từ ở tặng cách (dative)” xuất hiện ít hơn “pisteuô
+ eis”. Kiểu nói khẳng định: “Tin vào
Đức Giê-su” (pisteuô + tặng cách)
xuất hiện 4 lần ở 4,21; 5,46b; 6,30; 8,31 và phủ định: “Không tin vào
Đức Giê-su” (pisteuô+ tặng cách): 6
lần ở 5,38; 8,45; 8,45.46; 10,37.38a. Như thế, cách dùng “pisteuô + tặng cách”, xuất hiện 10 lần trong kiểu nói
khẳng định và phủ định.
Với hai cách dùng “pisteuô + eis” và “pisteuô + tặng
cách”, động từ “tin” (pisteuô) được
sử dụng tất cả 46 lần để trình bày đề tài “tin hay không tin” vào Đức Giê-su.
b) Tin vào Thiên Chúa
Đề tài “tin vào Thiên
Chúa” chỉ xuất hiện 2 lần trong Tin Mừng Gio-an với hai cách dùng: “pisteuô + eis” (14,1b) và “pisteuô +
tặng cách” (5,24). Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,1: “Lòng anh
em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên
Chúa và hãy tin vào Thầy.” Ở
5,24a, Đức Giê-su nói với những người Do Thái: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi, thì có
sự sống đời đời.” Trong câu này, Đức Giê-su gọi Thiên Chúa là “Đấng đã sai
Tôi”. Qua sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su trong thế gian, Người thực
hiện sứ vụ Thiên Chúa giao phó (x. 6,38).
Tuy đề tài “tin vào Thiên Chúa” chỉ xuất
hiện 2 lần nhưng có tầm quan trọng đặc biệt do hai điều này: (1) Đức Giê-su
đồng hoá “Đấng đã sai Đức Giê-su” với “Thiên Chúa”. “Tin vào Thiên Chúa”
(14,1a) là “tin vào Đấng đã sai Đức Giê-su” (5,24) đến thế gian. (2) Trong cả
hai lần (5,24 và 14,1a) niềm tin vào Thiên Chúa nối kết chặt chẽ với “nghe lời Đức
Giê-su” (5,24) và “tin vào Đức Giê-su” (14,1b).
Hai điều này quan trọng vì cho phép phân
biệt “môn đệ của Đức Giê-su” với “những kẻ chống đối Người” (những người Do
Thái và những người Pha-ri-sêu). Họ cũng tin vào Thiên Chúa và cho rằng Thiên
Chúa là Cha của họ (8,41b). Thật vậy, khi tranh luận với Đức Giê-su, những
người Do Thái nói với Người ở 8,41b: “Chúng tôi không phải là con đẻ hoang.
Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa.” Nhưng thật ra họ không có Thiên Chúa
là Cha, vì Đức Giê-su trả lời họ ở 8,42: “Nếu Thiên Chúa là Cha các ông, các
ông đã yêu mến Tôi, vì chính Tôi phát xuất và đến từ nơi Thiên Chúa. Tôi không
tự mình mà đến, nhưng chính Đấng ấy đã sai Tôi.” Hơn nữa, điều làm cho các môn
đệ của Đức Giê-su khác với những kẻ chống đối Người là niềm tin của môn đệ vào
Thiên Chúa và vào Đức Giê-su. Theo thần học Gio-an, “tin vào Thiên Chúa” không
thể tách khỏi hành động “tin vào Đức Giê-su” (14,1b) và “nghe lời của Người”
(5,24). Những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu đã không tin vào Đức Giê-su
và không lắng nghe lời Người.
Trong viễn cảnh này, đã có sự phân biệt
giữa “môn đệ của Đức Giê-su” và “môn đệ của Mô-sê” trong ch. 9. Người thuật
chuyện kể ở 9,28-29: “28 Họ [những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu]
mắng anh ta [anh mù từ thuở mới sinh] và nói: ‘Anh, anh là môn đệ của Ông ấy
[Đức Giê-su]; còn chúng tôi, chúng tôi là môn đệ của Mô-sê. 29 Chúng tôi biết
rằng Thiên Chúa đã nói với Mô-sê; nhưng người này [Đức Giê-su], chúng tôi không
biết Ông ta từ đâu đến.” Những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu tự hào
mình là “môn đệ của Mô-sê” và không biết Đức Giê-su từ đâu đến. Họ khinh bỉ anh
mù từ thuở mới sinh được chữa lành bằng cách gán cho anh ta là “môn đệ của Đức
Giê-su.”
c) Tin
vào Mô-sê
Chỉ có 1 lần Đức
Giê-su nói đến “tin vào Mô-sê” (pisteuô + tặng cách) ở 5,46. Đức
Giê-su chất vấn những người Do Thái ở 5,46-47: “46 Vì nếu các ông tin
Mô-sê, các ông cũng tin Tôi, vì ông ấy đã viết về Tôi. 47 Nhưng nếu chữ viết
của ông ấy, các ông không tin, làm sao các ông tin những lời của Tôi?”
d) Tin vào dân chúng
Kiểu nói: “tin vào dân
chúng”, với cách dùng “pisteuô + tặng cách” ở thể phủ định, chỉ xuất hiện 1 lần ở
2,24. Người thuật chuyện kể ở 2,23-24: “23 Trong lúc Người [Đức Giê-su] ở
Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào danh của Người khi thấy
các dấu lạ mà Người đã làm. 24 Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì
Người biết tất cả.”
Tóm lại, đề tài “tin
vào ai” trình bày như sau: “Tin vào Đức Giê-su” (46 lần) “tin vào Thiên Chúa”
(2 lần: 14,1b; 5,24); “tin vào Mô-sê” (1 lần: 5,46); “Đức Giê-su không tin dân
chúng” (1 lần: 2,24).
2. Tin vào điều gì?
“Tin vào Đức Giê-su” và “tin vào điều gì”
là hai nội dung chính của mặc khải trong Tin Mừng Gio-an. Trả lời câu hỏi “Tin
vào điều gì?” sẽ nhận ra nội dung niềm tin của các môn đệ theo thần học Tin
Mừng Gio-an. Nội dung niềm tin này được trình bày với hai công thức: (1) “pisteuô hoti...” (tin rằng:…) và (2) “pisteuô + tặng cách (dative)”. Có 2 lần (5,47; 12,38) cách dùng “pisteuô + tặng cách” không liên quan đến việc tin vào Đức
Giê-su.
a) Chín nội dung niềm tin của các môn đệ
Tin Mừng Gio-an dùng
kiểu nói: “pisteuô hoti...” (tin rằng:…) để trình bày nội dung niềm tin. Tin
vào Đức Giê-su là đón nhận Người, là bước vào tương quan với Người, để từ đó
tin vào lời Người mặc khải về Chúa Cha và về chính Người. Tin Mừng Gio-an dùng
11 lần công thức “pisteuô hoti...”
(tin rằng:…) để trình bày năm nội dung niềm tin:
[1] Tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải
đến thế gian (2 lần: 11,27; 20,31a).
[2] Tin rằng Chúa Cha đã sai Đức Giê-su (3
lần: 11,42; 17,8.21).
[3] Tin rằng Đức Giê-su LÀ, với công thức
“Ta Là (egô eimi)” (2 lần: 8,24; 13,19). Xem bài viết: “Ta Là (egô eimi) trong Tin
Mừng Gio-an.”
[4] Tin rằng Đức Giê-su từ Thiên Chúa mà
đến (2 lần: 16,27.30).
[5] Tin rằng Đức Giê-su ở trong Cha và Cha
trong Đức Giê-su (2 lần: 14,10.11).
Ba nội dung niềm tin
khác được diễn tả qua công thức “pisteuô + tặng cách (dative)” với
đối tượng không phải là con người (cách dùng “pisteuô + tặng cách” với đối tượng là con người đã trình
bày ở trên). Cách dùng này xuất hiện 5 lần và trình bày 3 nội dung niềm tin:
[6] Tin vào Kinh
Thánh (1 lần ở 2,22).
[7] Tin vào lời
Đức Giê-su (3 lần: 2,22; 4,40; 5,47b). Trong đó ở 2,22b và 4,50 dùng danh từ Hy
Lạp “logos” (lời); ở 5,47b dùng danh từ “rêma” cũng có nghĩa là “lời”.
[8] Tin vào các việc
Đức Giê-su làm (1 lần: 10,38b).
[9] Riêng ở 11,26b,
người thuật chuyện dùng kiểu nói: “pisteuô + đối cách (accusative)”,
chỉ xuất hiện 1 lần trong Tin Mừng Gio-an, để trình bày nội dung niềm tin quan
trọng. Mặc khải của Đức Giê-su ở 11,25-26 là nội dung thứ 9 của đức tin. Trong
hoàn cảnh La-da-rô em của Mác-ta và Ma-ri-a đã chết bốn ngày, Đức Giê-su đến
Bê-ta-ni-a gặp Mác-ta và nói với chị ở 11,25-26: “25 Chính Thầy làsự sống lại và là sự sống. Ai tin vào
Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, 26 và tất cả những ai sống và tin vào Thầy,
muôn đời sẽ không chết. Chị có tin điều đó không?” (11,25-26). Câu Đức Giê-su
hỏi Mác-ta: “Chị có tin điều đó không?” dùng động từ “pisteuô + đối cách” diễn tả nội dung mặc khải quan trọng ở 11,25-26a. Đây là câu
trả lời của Đức Giê-su liên quan đến “sự chết” và “sự sống” của Đức Giê-su, “sự
chết” và “sự sống” của La-da-rô và của người tin qua mọi thời đại. (Xem phân tích đoạn văn Ga 11,1-54 về “chết”
và “sống” trong Giu-se LÊ
MINH THÔNG, Phân tích thuật chuyện và cấu
trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư, 2010, tr. 147-185).
Tin Mừng Gio-an trình
bày chín nội dung niềm tin cách minh nhiên như trên, trong đó động từ “pisteuô”
(tin) được nói đến cách minh nhiên, nhưng thật ra nên hiểu là toàn bộ nội dung
mặc khải trong sách Tin Mừng là đối tượng của niềm tin. Chẳng hạn tác giả Tin
Mừng mời gọi độc giả tin Đức Giê-su là “Logos” như tác giả tuyên bố ở 1,1: “Lời
(Logos) có lúc khởi đầu, và Lời ở với Thiên Chúa,và Lời là Thiên Chúa.” Nội dung sách Tin
Mừng mời gọi độc giả tin rằng Thiên Chúa đã yêu mến thế gian đến nỗi ban Con
Một của Người là Đức Giê-su (x. 3,16); tin rằng Đức Giê-su là con đường, là sự
thật và là sự sống, và không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Đức Giê-su
(x. 14,6); tin rằng thủ lãnh thế gian đã bị xét xử rồi (x. 16,11), và tin rằng
Đức Giê-su đã chiến thắng thế gian (x. 16,33) v.v... Tóm lại, toàn bộ mặc khải
trình bày trong sách Tin Mừng Gio-an là nội dung niềm tin của các môn đệ qua
mọi thời, ở mọi nơi.
b) Động từ “tin” dùng theo nghĩa khác
Trong Tin Mừng Gio-an,
xuất hiện 2 lần cách dùng “pisteuô + tặng cách” (5,47; 12,38)
không liên quan đến niềm tin vào Đức Giê-su:
(1) Đức Giê-su kết
tội những người Do Thái là họ đã không tin vào những điều Mô-sê viết (5,47a).
(2) Người thuật chuyện
trích dẫn ngôn sứ I-sai-a ở Ga 12,38: “Ai đã tin lời rao giảng của
chúng con?” để giải thích sự từ chối tin vào
Đức Giê-su. Sứ vụ của Đức Giê-su được tóm kết qua lời trích dẫn ngôn sứ
I-sai-a. Người thuật chuyện kể ở Ga 12,37-38: “37 Người [Đức
Giê-su] đã làm quá nhiều dấu lạ trước mặt họ, mà họ không tin
vào Người, 38 để lời ngôn sứ
I-sai-a được nên trọn như đã nói: ‘Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời
rao giảng của chúng con? Và cánh tay của Đức Chúa đã được tỏ cho ai?’” Trong
câu: “Ai đã tin lời rao giảng của chúng con?” sử dụng công thức “pisteuô + tặng cách”.
Tóm lại, với ba cách
dùng: “pisteuô hoti…”, “pisteuô + tặng cách” và “pisteuô +
đối cách”, nội dung niềm tin của các môn đệ được trình bày qua 9 mục trên. Ba
cách dùng này xuất hiện 17 lần, cùng với 2 lần cách dùng “pisteuô + tặng cách” ở 5,47a; 12,38 không liên quan đến
việc tin vào Đức Giê-su.
3. “Tin” (pisteuô) không
có bổ túc từ
Tin Mừng Gio-an dùng
30 lần động từ “tin” (pisteuô) không có bổ túc từ và được chia làm hai nhóm:
(a) Câu khẳng định: “tin” và (b) Câu phủ định: “không tin.”
(a) Nhóm khẳng định
(tin) xuất hiện 19 lần. Trong đó, động từ “tin” không có bổ túc từ, chia ở lối
trình bày (indicative mode): 16 lần ở 1,7.50; 3,12b; 4,41.42.53; 6,69; 9,38;
11,15.40; 14,29; 16,31; 19,35; 20,8.29a.31b; và chia ở lối động tính từ
(participle mode) “ho pisteuôn” (người tin): 3 lần ở 3,18b; 6,47; 20,29b.
(b) Nhóm phủ định
(không tin) xuất hiện 11 lần. Trong đó, động từ “tin” không có bổ túc từ, chia
ở lối trình bày (indicative mode): 10 lần ở 3,12a; 4,48; 5,44; 6,36.64a; 9,18;
10,25.26; 12,39; 20,25; và chia ở lối động tính từ (participle mode): 1 lần ở
6,64b.
Khi người thuật chuyện dùng động từ “tin”
không có bổ túc từ thường bao hàm nhiều khía cạnh của niềm tin (tin vào ai và
tin vào điều gì). Chẳng hạn, khi Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác, người Đức
Giê-su thương mến, đi ra mộ Đức Giê-su, vào ngày thứ nhất trong tuần (20,1-7),
họ không thấy Đức Giê-su trong mộ, họ chỉ “6b thấy những băng vải còn để đó, 7
và khăn che đầu của Người không để với những băng vải, nhưng cuốn lại để riêng
ra một nơi” (20,6b-7). Người thuật chuyện viết về người môn đệ Đức Giê-su
thương mến ở 20,8b: “Ông ấy đã thấy
và đã tin.” Trong câu này, hai động từ “thấy” và “tin” không có bổ túc từ.
Như thế, trước khi Đức Giê-su Phục Sinh
hiện ra với các môn đệ vào tối ngày hôm đó (20,19-23), môn đệ Đức Giê-su thương
mến là người đầu tiên đã tin. Cách thức “thấy” và “tin” của người môn đệ này
được đề cao trong trình thuật, đó là “thấy thực sự” và “tin thực sự”. Điều đáng
chú ý là người môn đệ này “đã thấy” và “đã tin” khi “không thấy Đức Giê-su”,
ông chỉ thấy ngôi mộ trống, thấy khăn che đầu và những băng vải. “Thấy” và
“tin” của người môn đệ này gợi đến lời chúc phúc của Đức Giê-su dành cho “người
không thấy Đức Giê-su mà tin vào Người” ở cuối sách Tin Mừng. Đức Giê-su nói
với Tô-ma ở 20,29: “Vì đã thấy Thầy, nên anh
tin? Phúc cho những người không thấy mà là những
người tin.”
Hành động “thấy” và “tin” ở 20,8 không có
bổ túc từ cho phép liên tưởng đến nhiều khía cạnh của hai động từ này. Điều
người môn đệ này thấy, không chỉ là thấy những băng vải, mà ông còn thấy ngôi
mộ trống rỗng, thấy Đức Giê-su không còn đó. Xa hơn, gợi đến những gì người môn
đệ này đã thấy khi đứng dưới chân thập giá (x. 19,25-37). Động từ “tin” ở 20,8
không có túc từ cho phép hiểu: Người môn đệ này không chỉ tin Đức Giê-su đã
sống lại mà còn tin vào những lời Đức Giê-su đã nói, tin Đức Giê-su là Đấng
Chúa Cha sai đến (17,21.23), tin Đức Giê-su có “những lời đem lại sự sống đời
đời” và Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” như lời tuyên xưng của Si-môn
Phê-rô trước Đức Giê-su ở 6,68-69: “68 Thưa Thầy, chúng con sẽ bỏ đi với ai?
Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin
và đã nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Lòng tin ở cấp
độ cao nhất là tin Đức Giê-su là “Chúa” (kurios) và là “Thiên Chúa” (theos) như
lời Tô-ma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh ở 20,28: “LạyChúa của con, lạy Thiên
Chúa của con.”
“Thấy” và “tin” theo nghĩa tuyệt đối, không
có túc từ, cho thấy người môn đệ Đức Giê-su thương mến đã hiểu ý nghĩa biến cố
Thương Khó – Phục Sinh. (Xem bài viết:
“Ga 20,1-9: ‘Ông đã thấy và đã
tin’ (20,8). Ai thấy? Thấy gì? Tin gì?”). Hành động
“thấy” và “tin” của người môn đệ Đức Giê-su thương mến (20,8) không theo nghĩa
bình thường mà theo nghĩa thần học như Đức Giê-su đã nói với đám đông ở 6,40:
“Đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy người Con và tin vào Người thì
có sự sống đời đời.” Tuy nhiên, giữa việc “thấy bằng mắt” (thấy thể lý) và
“tin” có một khoảng cách lớn lao. Bởi lẽ ngôi mộ trống và những băng vải không
phải là bằng chứng hiển nhiên về việc Đức Giê-su Phục Sinh. Người môn đệ Đức
Giê-su yêu mến chỉ thấy “dấu chỉ”, chứ không thấy Đức Giê-su sống lại mà ông đã
tin.
Tóm lại, 99 lần động
từ “pisteuô” (tin) trong Tin Mừng Gio-an được phân bổ như sau: “Tin vào ai?” (50 lần), “tin
vào điều gì?” (19 lần), và “tin không có bổ túc từ” (30 lần).
III. Ba cấp độ tin vào Đức Giê-su
Đề tài “tin” trong Tin Mừng Gio-an chia ra
ba cấp độ: (1) “Không thực sự tin vào
Đức Giê-su”, (2) “Chưa thực sự tin vào Đức Giê-su” và (3) “Thực sự tin vào Đức
Giê-su”.
1. Không thực sự tin vào Đức Giê-su (8,31)
Người thuật chuyện nói đến lòng tin của
những người Do Thái ở 8,31-32: “31 Vậy, Đức Giê-su nói với những người Do Thái đã tin
Người: ‘Nếu các ông ở lại trong lời của Tôi các ông thực sự là môn đệ
của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông.’” Lòng
tin của những người Do Thái ở 8,31 có phải là lòng tin thực sự vào Đức Giê-su
hay không? Nội dung trình thuật 8,31-59 sẽ trả lời câu hỏi này.
Nối tiếp đoạn văn 8,21-30 là đoạn văn
8,31-59. Trong đoạn văn 8,21-30 Đức Giê-su tranh luận với “những người Do Thái”
(8,22) về sứ vụ của Người và về tương quan giữa Người với Chúa Cha. Đoạn văn
tiếp theo (8,31-59) mở đầu bằng việc “Đức Giê-su
nói với những người Do Thái đã tin Người” (8,31a), tuy nhiên nội dung
đoạn văn 8,31-59 cho thấy tranh luận giữa Đức Giê-su và những người Do Thái
ngày càng gay gắt cho đến hết ch. 8 (8,59). Bối cảnh văn chương của hai đoạn
văn 8,21-30 và 8,31-59 cho phép kết luận: Lòng tin của những người Do Thái ở
8,31a không phải là lòng tin đích thực vào Đức Giê-su.
Thật vậy, họ đã không thực sự tin, vì họ đã
không hiểu và không đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su. Hơn nữa, họ đã chống lại
Đức Giê-su càng lúc càng dữ dội đến nỗi tìm giết Người (8,37.40). Sự kết án qua
lại giữa Đức Giê-su và những người Do Thái rất nặng nề. Đức Giê-su nói với
những người Do Thái ở 8,44a: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và các ông
muốn làm những ước muốn của cha các ông.” Về phía những người Do Thái, họ kết
tội Đức Giê-su ở 8,48: “Ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám.” Trong
đoạn văn 8,31-59, câu chuyện mở đầu bằng “những người Do Thái đã tin vào Đức
Giê-su” (8,31) nhưng lại kết thúc bằng sự thù ghét của những người Do Thái này:
“Họ [những người Do Thái] liền lượm đá để ném Người [Đức Giê-su]. Nhưng Đức
Giê-su ẩn mình và đi ra khỏi Đền Thờ” (8,59).
Thái độ không đón nhận và thù nghịch với
Đức Giê-su trong đoạn văn 8,31-59, không thể dung hoà với lòng tin vào Người
(8,31a). Ngay từ đầu đoạn văn 8,31-59, Đức Giê-su mời gọi những người Do Thái ở
8,31b-32: “31b Nếu các ông ở lại trong lời của Tôi các ông thực sự là môn đệ
của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông.” Nhưng
nội dung đoạn văn cho thấy họ “không thực sự là môn đệ của Đức Giê-su” (8,31c)
vì họ đã không “ở lại trong lời của Người” (8,31b), nghĩa là họ đã không lắng
nghe và đón nhận mặc khải của Đức Giê-su. Như thế, lòng tin của những người Do
Thái ở 8,31a không phải là lòng tin đích thực. Cấp độ thứ hai của lòng tin là
“chưa thực sự tin vào Đức Giê-su”. Điều này thể hiện nơi đám đông dân chúng ở
2,23-25.
2. Chưa thực sự tin vào
Đức Giê-su (2,23-25)
Người thuật chuyện tóm kết hoạt động của
Đức Giê-su ở 2,23-25: “23 Trong lúc Người ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua,
nhiều kẻ đã tin vào danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm. 24
Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì Người biết tất cả, 25 và Người
không cần có ai làm chứng về con người, vì chính Người biết có gì nơi con
người.”
Ở 2,23, có sự nối kết giữa “thấy các dấu
lạ” và “tin vào Đức Giê-su.” Người thuật chuyện dùng 2 lần động từ “tin”
(pisteuô) ở 2,23-24 với tương phản mạnh mẽ: Lần thứ nhất ở 2,23 cho biết nhiều
người đã tin vào Đức Giê-su khi thấy những dấu lạ Người làm (2,23). Lần thứ hai
ở 2,24 cho biết chính Đức Giê-su đã không tin vào niềm tin của họ (2,24). Như
thế lòng tin của nhiều người trong trường hợp này chưa phải là “tin thực sự”.
Đây là trường hợp “tin nhờ thấy dấu lạ”, nhưng lòng tin ấy chưa trưởng thành,
cần được nuôi dưỡng và phát triển để đạt tới lòng tin đích thực.
3. Thực sự
tin vào Đức Giê-su
Thế nào là thực sự tin vào Đức Giê-su? Đề
tài quan trọng này được Tin Mừng diễn tả nhiều cách và có thể xếp thành ba
loại: (a) Tin đích thực nhờ dấu lạ; (b) Tin đích thực nhờ lời Đức Giê-su và (c)
Tin đích thực nhờ lời các môn đệ.
a) Tin đích thực nhờ
dấu lạ
Sau khi Đức Giê-su thực hiện dấu lạ đầu
tiên: Nước lã hoá thành rượu ngon (2,1-11), người thuật chuyện
kết thúc câu chuyện ở 2,11: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na, miền Ga-li-lê,
Người đã tỏ vinh quang của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào Người.”
Như thế dấu lạ nước hoá thành rượu là cách thức Đức Giê-su bày
tỏ vinh quang của Người, các môn đệ đã nhận ra điều đó và tin vào Người. Tuy
trình bày ngắn gọn nhưng đây là lòng tin đích thực vào Đức Giê-su.
Dấu lạ đầu tiên ở Ca-na (2,1-12) gợi đến
dấu lạ thứ hai ở Ca-na:Đức Giê-su chữa lành con của một quan chức nhà vua (4,46-54).
Người thuật chuyện kết thúc dấu lạ thứ hai này như sau: “Ông ấy và cả nhà của
ông đã tin” (4,53). Đây là cách dùng động từ “tin” không có bổ túc từ (xem mục
II. 3. trên đây), nên hàm ẩn cả hai ý: “Tin vào Đức Giê-su” và “tin vào lời của
Người”. Thực vậy, dấu lạ chữa lành này (4,46-54) cũng đề cao việc “tin vào lời
Đức Giê-su”. Khi viên quan chức nhà vua xin Đức Giê-su đến Ca-phác-na-um để
chữa lành đứa con trai bị bệnh sắp chết (4,46-47), Đức Giê-su nói với ông ấy:
“Nếu các ông không thấy dấu lạ, điềm thiêng, chắc chắn các ông không tin”
(4,48). Viên quan chức nhà vua nói với Người: “Thưa Ngài, xin Ngài hãy xuống
trước khi con tôi chết” (4,49). Đức
Giê-su nói với ông ấy: “Ông hãy đi về, con ông sống” (4,50a). Người thuật
chuyện cho biết phản ứng của viên quan chức nhà vua: “Người này tin vào
lời Đức Giê-su nói với mình và đi về” (4,50b). Như thế, dấu lạ chữa lành được
thực hiện là nhờ viên quan chức đã “tin vào lời Đức Giê-su” (4,50b). Phần ở
giữa hai dấu lạ tại Ca-na (2,1-12 và 4,46-54) là trình thuật Đức Giê-su gặp gỡ
người phụ nữ Sa-ma-ri (4,1-43). Trình thuật này mô tả loại thứ hai của hành động
tin đích thực: Tin nhờ lời Đức Giê-su.
b) Tin đích thực nhờ lời Đức Giê-su
Cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Đức Giê-su và
người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp (4,7-9) về nước sự sống (4,10-15) và
về cách thức thờ phượng Chúa Cha (4,20-24) kết thúc bằng niềm tin của những
người Sa-ma-ri (4,39-42). Đây là trình thuật điển hình về “tin nhờ lời Đức
Giê-su”. Thật vậy, sau cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri
(4,5-25), người thuật chuyện kể về phản ứng của người phụ nữ ở 4,28-29: “28 Vậy
người phụ nữ để lại vò nước của mình đi vào thành và nói với mọi người: 29 ‘Hãy
đến và xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm, Ông ấy không
phải là Đấng Ki-tô sao?’” Nhờ lời này mà dân thành Xy-kha đến gặp Đức Giê-su và
sau đó người thuật chuyện cho biết: “Trong thành đó, nhiều người Sa-ma-ri đã
tin vào Người, nhờ lời người phụ nữ làm chứng rằng: ‘Ông ấy nói với tôi tất cả
những gì tôi đã làm’” (4,29). Đây là trường hợp nhiều người tin vào Đức Giê-su
nhờ lời chứng của người khác, cụ thể là nhờ lời chứng của người phụ nữ
Sa-ma-ri. Chị ấy giữ vai trò sứ giả (báo cho biết) và là chứng nhân (làm chứng
về Đức Giê-su).
Câu chuyện còn đi xa hơn khi kết thúc ở
4,40-42: “40 Vậy khi những người Sa-ma-ri đến với Người, họ xin Người ở lại với
họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41 và nhiều người hơn nữa đã tin, nhờ lời
của Người. 42 Họ nói với người phụ nữ rằng: ‘Không còn phải vì lời của chị mà
chúng tôi tin. Vì chính chúng tôi đã nghe và đã biết rằng Người thật là Đấng
cứu độ thế gian.’” Nhờ lời người phụ nữ, “nhiều người” đã tin vào Đức Giê-su”
(4,39), và sau khi Đức Giê-su ở lại với những người Sa-ma-ri hai ngày, “nhiều
người hơn nữa” đã tin (4,41) nhờ chính lời của Đức Giê-su. Như thế, người tin
đã nhiều hơn trước đây và là “tin nhờ lời Đức Giê-su”. Điều đáng chú ý là Đức
Giê-su không làm dấu lạ nào ở Sa-ma-ri, Người chỉ nói chuyện, trao đổi và ở lại
với họ. Vì thế, đây là trình thuật điển hình về “tin vào Đức Giê-su” nhờ “lời
người khác” và nhờ “lời Đức Giê-su”.
c) Tin đích thực nhờ lời các môn đệ
Cuối sứ vụ công khai, trước khi Đức Giê-su
đi về với Cha của Người qua biến cố Thương Khó – Phục Sinh, Đức Giê-su ngỏ lời
với Cha trước sự hiện diện của các môn đệ ở 17,18: “Như Cha đã sai Con đến thế
gian, Con cũng sai họ [các môn đệ] đến thế gian.” Qua lời này,
Đức Giê-su gián tiếp trao sứ vụ cho các môn đệ, họ sẽ nối tiếp sứ vụ của Đức
Giê-su trong thế gian. Sau khi Phục Sinh, Đức Giê-su đã trực tiếp sai các môn
đệ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (20,21b). Trong đoạn văn
17,20-21, Đức Giê-su can thiệp với Cha của Người cho những ai tin vào Người nhờ
lời các môn đệ. Đức Giê-su nói với Cha ở 17,20-21: “20 Con không chỉ can thiệp
cho những người này [các môn đệ], nhưng
còn cho những người tin vào Con nhờ lời của họ, 21 để tất cả nên
một, lạy Cha, như Cha trong Con và Con trong Cha để họ cũng ở trong Chúng Ta,
để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.”
Tóm lại, Tin Mừng Gio-an mở đầu bằng “tin
vào Đức Giê-su nhờ dấu lạ” (2,1-12), sau đó là “tin vào Đức Giê-su nhờ lời của Người”
(4,1-43) và Tin Mừng kết thúc bằng “tin vào Đức Giê-su nhờ lời của các môn đệ
rao giảng” (17,20). Sứ vụ các môn đệ tiếp nối sứ vụ của Đức Giê-su. Giai đoạn
thứ nhất là tin vào Đức Giê-su nhờ dấu lạ và nhờ nghe lời Đức Giê-su rao giảng.
Giai đoạn thứ hai là sứ vụ của các môn đệ thuộc thế hệ thứ nhất. Kết quả rao
giảng giai đoạn này là các môn đệ từ thế hệ thứ hai trở đi, họ là những người
“không thấy Đức Giê-su mà vẫn tin vào Người” (x. 20,29). Như thế, đề tài “tin”
trong Tin Mừng Gio-an luôn hướng về tương lai. Độc giả qua mọi thời đại được
mời gọi tin vào Đức Giê-su nhờ lời chứng thuật lại trong sách Tin Mừng. Người
thuật chuyện đã ngỏ lời trực tiếp với độc giả về mục đích của sách Tin Mừng
trong phần kết luận ở 20,30-31: “30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các
môn đệ [của Người]; chúng không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều
đã được ghi chép là để anh em tin rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên
Chúa; và nhờ tin, anh em có sự sống trong danh của Người.”
“Tin vào Đức Giê-su” là một hành trình suốt
cả cuộc đời và người môn đệ được mời gọi sống niềm tin ấy trong mọi hoàn cảnh.
Tin Mừng Gio-an cho thấy không dễ dàng sống tư cách người môn đệ và làm chứng
cho niềm tin. Trình thuật Tin Mừng Gio-an cho thấy các môn đệ đã rơi vào tình
trạng khủng hoảng niềm tin. Vì lý do gì mà các môn đệ rơi vào tình trạng khủng
hoảng niềm tin và đâu là giải pháp giúp các môn đệ giữ vững niềm tin? Đề tài
này sẽ được bàn đến trong một bài viết khác.
Kết luận
Phân tích trên cho
thấy tầm quan trọng của động từ “tin” trong Tin Mừng Gio-an. “Tin” là một trong
những từ xuất hiện nhiều nhất trong sách Tin Mừng này (99 lần). Đặc biệt đề tài
“tin” xuyên suốt sách Tin Mừng. Thật vậy, lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18) định
nghĩa thế nào là “tin” (1,11-13). Tiếp theo nội dung Tin Mừng cho biết thế nào
là “không tin”, thế nào là “không thực sự tin” hay “chưa thực sự tin” và thế
nào là “thực sự tin vào Đức Giê-su.” Cuối sách Tin Mừng Gio-an, người thuật
chuyện mời gọi độc giả tin rằng: “Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa” (20,31a); và
nhờ tin, độc giả sẽ có sự sống trong danh của Người (20,31b).
“TIN” là đề tài quan trọng, nhưng tin như
thế nào? Tin vào ai? Và tin vào điều gì? Để “tin” con người cần mở lòng đón
nhận giáo huấn của Thiên Chúa (6,45), cần được sinh ra bởi trên (3,3.7), đón
nhận Đức Giê-su và bước vào tương quan lòng mến với Người. Tin vào ai? Tin Mừng
mời gọi Tin vào Đức Giê-su như là Đấng từ trời xuống để ban sự sống đời đời cho
người tin, Người là Đấng Chúa Cha sai đến thế gian để cứu thế gian khỏi hư mất
(3,16-17). Tin vào Đức Giê-su cũng là tin vào Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su.
Nội dung của niềm tin là gì? Tin Mừng Gio-an trình bày nội dung niềm tin qua
công thức: “tin rằng:...” Với 9 nội dung niềm tin như đã trình bày, Tin Mừng Gio-an
cho biết cách “sống”, “thực hành” và “tuyên xưng” niềm tin. Thiết nghĩ, điều
quan trọng hơn cả của hành động “tin” là bước vào tương quan tình yêu, cách mới
mẻ và sống động, với Đức Giê-su, với Chúa Cha và với anh chị em mình. Đó là
niềm tin có khả năng đem lại “sức sống” và “sự sống” đích thực cho con người.
Nhờ tin, người môn đệ được lãnh nhận sự sống đời đời ngay bây giờ, ngay đời này
và sự sống ấy sẽ nên trọn vẹn trong đời sau.
Với cách trình bày chi tiết liên quan đến
nhiều khía cạnh của đề tài “tin”, Tin Mừng Gio-an đã góp phần quan trọng cho
độc giả qua mọi thời đại. Những ai muốn nếm hưởng sự sống đích thực nhờ “tin
vào Đức Giê-su” có thể tìm đến với Tin Mừng Gio-an. Những ai muốn sống niềm tin
cách sống động, muốn củng cố niềm tin đã có, hay muốn vượt qua khủng hoảng niềm
tin... đều có thể tìm thấy những câu trả lời cụ thể và thiết thực trong Tin
Mừng Gio-an. Với tầm quan trọng đặc biệt và xuyên suốt của đề tài “tin”, có thể
gọi Tin Mừng Gio-an là “Tin Mừng của niềm tin”./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2014/05/tin-pisteuo-trong-tin-mung-gio-an.html