Không thực sự và thực sự đến
với Đức Giê-su, thấy Người, và tin vào Người trong Tin Mừng Gio-an
Bài viết tiếng Pháp và tiếng Anh:
Ne pas réellement et
véritablement venir à Jésus, le voir et croire en lui dans l’Évangile de Jean.
Unreal and
Veritable Coming to Jesus, Seeing Him and Believing in Him in the Gospel of
John.
Tác giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email: josleminhthong@gmail.com
Ngày 09 tháng 06 năm
2014.
Nội dung
I. Dẫn nhập
II. Không thực
sự “đến với”, “thấy” và “tin” Đức Giê-su
1. Không thực sự đến với Đức Giê-su
2. Không thực sự thấy và tin vào Đức Giê-su
III. Thực sự
“đến với”, “thấy” và “tin” Đức Giê-su
1. Thực sự đến với Đức Giê-su
2. Thực sự “thấy” và “tin”
IV. Thực sự tin
vào Đức Giê-su dù không thấy Người
V. Kết luận
I. Dẫn nhập
Bài viết này đã đăng ngày 19/08/2012 trên blog: Từ ngữ Gio-an (http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/)
với tựa đề “Tin Mừng Gioan: Không thực sự
và thực sự đến với Đức Giê-su, thấy Người, và tin vào Người.” Nhân
dịp viết bài này bằng tiếng Pháp, bài viết đã được cập nhật, chỉnh sửa với tựa
đề tiếng Việt: “Không
thực sự và thực sự đến với Đức Giê-su, thấy Người, và tin vào Người trong Tin
Mừng Gio-an”, Tiếng
Pháp: “Ne pas
réellement et véritablement venir à Jésus, le voir et croire en lui dans
l’Évangile de Jean” và tiếng Anh: “Unreal
and Veritable Coming to Jesus, Seeing Him and Believing in Him in the Gospel of
John.”
Trong Tin Mừng Gio-an, người thuật chuyện thường dùng các động từ “đến
với”, “thấy” và “tin vào” Đức Giê-su. Quan sát lối hành văn này giúp cho những
ai muốn thiết lập tương quan đích thực với Đức Giê-su có thể đạt được kết quả
mong đợi. Những động từ Hy Lạp liên quan đến đề tài trên là “erkhomai” (đến),
“pisteuô” (tin) và bốn động từ: “horaô”, “theôreô”, “theaomai” và “blepô”, bốn
động từ này đều có nghĩa là “thấy” vì không có sự khác biệt lớn về ngữ nghĩa
xét theo mạch văn.
Có hai cách hiểu ngược nhau về các đề tài “đến với Đức Giê-su”, “thấy
Người” và “tin vào Người” trong Tin Mừng Gio-an. Người ta có thể đến với Đức
Giê-su về thể lý, nhưng không “thực sự đến với” Đức Giê-su như người thuật
chuyện mong muốn. Tương tự như thế, khán thính giả trong Tin Mừng Gio-an có thể
“thấy” Đức Giê-su về thể lý, ngay cả họ đã tin vào Người, nhưng họ đã không
thực sự thấy Đức Giê-su và không thực sự tin vào Người. Có thể xác định những
cách thức “đến”, “thấy” và “tin” trái ngược nhau này bằng các tính từ: “không
thực sự” (irréel, unreal) hay “thực sự” (véritable, veritable). Người ta có thể
(1) “không thực sự” hay “thực sự” đến với Đức Giê-su; (2) “không thực sự” hay
“thực sự” thấy Người và (3) “không thực sự” hay “thực sự” tin vào Người.
Làm thế nào độc giả có thể phân biệt “thật” hay “không thật” trong tiến
trình “đến với”, “thấy” và “tin vào” Đức Giê-su? Bài viết này tập trung quan
sát một số đoạn văn trong Tin Mừng Gio-an để hiểu lời mời gọi của Đức Giê-su,
liên quan đến ba động từ “đến”, “thấy” và “tin”. Đề tài sẽ được phân tích với
ba mục lớn: (I) Không thực sự đến với Đức Giê-su, thấy Người và tin vào Người.
(II) Thực sự đến với Đức Giê-su, thấy Người và tin vào Người. (III) Thực sự tin
vào Đức Giê-su dù không thấy Người. Các trích dẫn Tin Mừng Gio-an lấy trong Bản văn
Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ, Hy Lạp – Việt.Tiếng Hy Lạp Tin Mừng Gio-an lấy trong NESTLE-ALAND, Novum
Testamentum Graece, (27th Revised Edition), Stuttgart, Deutsche Bibelgesellschaft, 1996.
II. Không thực
sự “đến với”, “thấy” và “tin” Đức Giê-su
Bài viết “Bánh hằng ngày và bánh hằng
sống (6,22-40)” đã trình bày đề tài “hiểu lầm” của đám đông về dấu
lạ bánh hoá nhiều và hiểu lầm về chính Đức Giê-su trong Ga 6. Chúng ta cũng tìm
thấy trong Ga 6 hiện tượng “thực sự” hay “không thực sự” trong hành động “đến
với”, “thấy” và “tin“ vào Đức Giê-su. Bài viết này sẽ dùng Ga 6 và một số đoạn
văn khác trong Tin Mừng Gio-an để phân tích.
1. Không thực sự “đến với” Đức Giê-su
Sau khi Đức Giê-su thực hiện dấu lạ bánh hoá nhiều (6,5-13), người thuật
chuyện kể ở 6,14: “Khi thấy dấu lạ Người [Đức Giê-su] làm, người ta [đám đông]
nói: ‘Ông này thực sự là vị ngôn sứ, Đấng
phải đến thế gian’” (6,14). Lời kể của người thuật chuyện cho thấy rằng: Dường
như đám đông đã nhận ra Đức Giê-su là ai sau khi “thấy dấu lạ Đức Giê-su làm.”
Nhưng trong câu tiếp theo (6,15), độc giả biết là đám đông đã hiểu không đúng ý
nghĩa dấu lạ và họ cũng không biết Đức Giê-su thực sự là ai. Người thuật chuyện
nói về sự hiểu biết của Đức Giê-su và ý định của đám đông ở 6,15: “Đức Giê-su
biết họ sắp đến và bắt lấy Người để tôn làm vua. Một lần nữa, Người
đi lên núi một mình.”
Trong câu “Một lần nữa, Người đi lên núi một mình” (6,15b) có động từ Hy
Lạp “anakhôreô” (đi), động từ này được hiểu theo nghĩa “lánh đi” (se retirer,
retire), “rút lui” (rentrer, withdraw), bởi vì dân chúng muốn bắt Người và tôn
Người làm vua. Đức Giê-su không chấp nhận điều đó, nên Người rời khỏi đó và đi
lên núi một mình. Tính từ “một mình” (seul, alone), gợi đến sự “cô đơn”
(solitude, loneliness) của Đức Giê-su vì dân chúng đã không hiểu Người. Đồng
thời, hình ảnh Đức Giê-su “đi lên núi (oros)” cho phép hiểu theo nghĩa tích cực
vì trong Kinh Thánh, “núi” biểu tượng nơi Thiên Chúa hiện diện. Vì thế, Đức
Giê-su đi lên núi một mình diễn tả tương quan mật thiết Người với Chúa Cha.
Rudolf Schnackenburg viết: “Sự ‘đơn độc’ của Đức Giê-su trong Tin Mừng
Gio-an cũng diễn tả sự thân mật riêng tư với Cha của Người (cf. 8,16.29;
16,32).” (RudolfSCHNACKENBURG, The Gospel According to St. John, vol. II:Commentary on Chapter 5–12, New York, The
Crossroad Publishing Company, (1971), 1987, p. 20). Lời kể ở 6,15 trên đây cho thấy
cách thức đám đông tìm đến với Đức Giê-su là không đúng, bằng chứng là Đức
Giê-su đã từ chối ý định của họ. Thay vì đến với họ, Đức Giê-su đã lánh khỏi họ
bằng cách đi lên núi một mình. Như thế, đám đông đến với Đức Giê-su nhưng họ đã
hiểu lầm vai trò và sứ vụ của Đức Giê-su. Nói cách khác, họ đã không thực sự
đến với Người theo nghĩa thần học của động từ này.
Ở 5,39-40, Đức Giê-su nói với những người Do Thái: “39 Các ông nghiên cứu
Kinh Thánh, vì chính các ông nghĩ rằng trong đó có sự sống đời đời. Chính Kinh
Thánh là những lời chứng về Tôi. 40 Các ông không muốn đến
với Tôi để có sự sống.” Nhóm nhân vật “những người Do Thái” trong Tin Mừng
Gio-an đã lầm khi tìm sự sống đời đời trong Kinh Thánh mà lại “không đến với
Đức Giê-su” để đón nhận sự sống đời đời từ nơi Người. Trong lời của Đức Giê-su:
“Các ông không muốn đến với Tôi để có sự sống” (5:40), cụm từ “đến với Đức
Giê-su” có nghĩa là “đón nhận Người”, “tin vào Người”. Như thế, động từ “đến”
trong câu trên có nghĩa thần học.
Tương tự như đám đông ở Ga 6, những người Do Thái tìm Đức Giê-su và đến với
Người ở Ga 5, nhưng mục đích của họ không phải là “đón nhận” và “tin vào”
Người. Ngược lại, họ đến với Đức Giê-su để chất vấn và kết tội Người (5,16-18),
vì thế họ chưa thực sự đến với Đức Giê-su theo nghĩa thần học của động từ
này.
2. Không thực sự
“thấy” và “tin” vào Đức Giê-su
Những phân tích trên đây cho thấy đám đông ở Ga 6 đã thấy dấu lạ bánh hoá
nhiều (6,14), nhưng đây không phải là thấy thực sự. Đức Giê-su xác định điều
này khi Người nói với đám đông ở 6,36: “Các ông đã thấy (heôrakate) [Tôi] mà
các ông không tin.” Theo thần học Tin Mừng Gio-an, nếu như “thấy Đức Giê-su”
không dẫn đến lựa chọn “tin vào Người” thì đó không phải là thấy thực sự.
Trong đoạn văn 2,23-25, người thuật chuyện tóm kết hoạt động của Đức Giê-su
khi Người ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua. Có sự nối kết giữa “thấy các dấu
lạ” với “tin vào Đức Giê-su” trong câu 2,23 vì Người thuật chuyện kể ở 2,23-25:
“23 Trong lúc Người [Đức Giê-su] ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ
đã tin vào danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm. 24 Nhưng
Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì Người biết tất cả, 25 và Người
không cần có ai làm chứng về con người, vì chính Người biết có gì nơi con
người.” Người thuật chuyện dùng 2 lần động từ “tin” (pisteuô) ở 2,23-24
với sự tương phản mạnh mẽ. Động từ “tin” (pisteuô) xuất hiện lần thứ nhất ở
2,23, cho biết “nhiều kẻ đã tin vào danh của Người (polloi episteusan eis ton
onoma autou)”. Động từ “tin” (pisteuô) xuất hiện lần thứ hai ở 2,24 tương phản
với lần thứ nhất: “Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ (autos de Iêsuos
ouk episteuen auton autois)”. Như thế lòng tin của nhiều người trong trường hợp
này chưa phải là “tin thực sự”.
Trước phần tóm kết của người thuật chuyện ở 2,23-24, các môn đệ đã tin vào
Đức Giê-su sau khi thấy Đức Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên ở Ca-na (2,1-10).
Sau khi kể dấu lạ nước lã hoá thành rượu ngon, người thuật chuyện kết luận:
“Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na, miền Ga-li-lê,
Người đã tỏ vinh quang của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào Người”
(2,11). Đây là trường hợp lòng tin đích thực nhờ thấy dấu lạ. Còn ở 2,23 nhiều
người cũng tin nhờ thấy dấu lạ nhưng lòng tin ấy chưa thoả đáng, vì cần phải
được nuôi dưỡng và phát triển để đạt tới lòng tin đích thực.
Ở 8,31, lòng tin của những người Do Thái hoàn toàn không phải là lòng tin
đích thực. Thật vậy, trong đoạn văn 8,21-30, Đức Giê-su tranh luận với “những
người Do Thái” (8,22) về sứ vụ của Người và về tương quan giữa Người với Chúa
Cha. Ở 8,27, người thuật chuyện cho biết: “Họ [những người Do Thái] không biết
là Người [Đức Giê-su] nói với họ về Cha” (8,27). Trong hai câu tiếp theo
(8,28-29), Đức Giê-su tiếp tục mặc khải về sứ vụ của Người và về Chúa Cha. Cuối
cùng người thuật chuyện kết đoạn văn cách lạ lùng ở 8,30: “Khi Người [Đức
Giê-su] nói những điều ấy, nhiều người đã tin vào Người.” Trong đoạn văn tiếp
theo (8,31-59), người thuật chuyện nối kết với đề tài tin vào Đức Giê-su (8,20)
khi mở đầu đoạn văn mới ở 8,31-32: “31 Vậy,
Đức Giê-su nói với những người Do Thái đã tin Người: ‘Nếu các ông ở lại
trong lời của Tôi các ông thực sự là môn đệ của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ giải phóng các ông.’” Tiếp nối lời này là phần tranh luận ngày
càng gay gắt giữa Đức Giê-su và những người Do Thái cho đến hết ch. 8 (8,59).
Câu hỏi đặt ra là lòng tin của những người Do Thái ở 8,31 có phải là lòng tin
thực sự vào Đức Giê-su hay không?
Điều đáng lưu ý là cách dùng động từ “tin” trong tiếng Hy Lạp. Ở 8,30 là
“pisteuô + eis (tin vào) + đại từ ở đối cách (accusative)”; trong khi ở 8,31 là
kiểu nói “pisteuô” (tin) + đại từ ở tặng cách (dative). Thông thường lối diễn
tả “pisteuô + eis + đối cách” diễn tả lòng tin đích thực. Tuy nhiên, không nên
áp dụng nghĩa này cách máy móc, chẳng hạn ở 2,23 cũng xuất hiện cách dùng
“pisteuô + eis + đối cách” nhưng phân tích trên đây cho thấy đó chưa phải là
lòng tin đích thực. Cách dùng khác của động từ “tin”: “pisteuô + en + tặng
cách” hay “pisteuô + tặng cách” thường diễn tả lòng tin còn khiếm khuyết, chưa
trọn vẹn. Tuy nhiên, cần quan sát bối cảnh văn chương cụ thể của từng đoạn văn
để xác định nghĩa của động từ “pisteuô” (tin).
Bối cảnh văn chương của hai đoạn văn 8:21-30 và 8:31-59 cho phép kết luận
rằng: Lòng tin của những người Do Thái ở 8,31 không phải là lòng tin đích thực
vào Đức Giê-su. Họ đã không thực sự tin, bởi vì họ không đón nhận lời giáo huấn
của Đức Giê-su, họ đã phản ứng chống lại Người càng lúc càng dữ dội. Sự kết án
qua lại trong cuộc tranh luận giữa Đức Giê-su và những người Do Thái rất nặng
nề. Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 8,44a: “Các ông thuộc về quỷ là
cha các ông, và các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông.” Đáp lại,
những người Do Thái kết tội Đức Giê-su rằng: “Ông là người Sa-ma-ri và là người
bị quỷ ám” (8,48). Trầm trọng hơn, những người Do Thái đang tìm cách giết Đức
Giê-su (8,37.40) và cuối đoạn văn họ đã ném đá Người (8,59). Trình thuật mở đầu
bằng lòng tin của những người Do Thái (8,31) nhưng kết thúc như sau: “Họ liền
lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su ẩn mình và đi ra khỏi Đền Thờ” (8,59).
Thái độ không đón nhận và thù nghịch với Đức Giê-su trong đoạn văn 8,31-59
không thể dung hoà với lòng tin đích thực vào Người. Ngay từ đầu đoạn văn
8,31-59 Đức Giê-su mời gọi những người Do Thái ở 8,31b-32: “31b Nếu các ông ở
lại trong lời của Tôi các ông thực sự là môn đệ của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự
thật và sự thật sẽ giải phóng các ông.” Nhưng họ đã không “thực sự là môn
đệ của Đức Giê-su” vì họ đã không “ở lại trong lời của Người”, nghĩa là họ đã
không lắng nghe và đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su. Nói cách khác, lòng tin
của những người Do Thái ở 8,31 không phải là lòng tin đích thực.
III. Thực sự “đến với”, “thấy” và “tin” Đức
Giê-su
Đề tài này được phân tích qua hai mục sau: (1) Thực sự đến với Đức Giê-su
và (2) Thực sự “thấy” và “tin”.
1. Thực sự
đến với Đức Giê-su
Trong bài viết: “Bánh hằng ngày và bánh hằng
sống (6,22-40)”, chúng tôi đã trình bày sự song song giữa hai đoạn
văn 6,25-34 và 4,9-15 về đề tài “hiểu lầm của thính giả”. Sau lời xin của đám
đông ở 6,34: “Thưa Ngài, hãy cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi”, Đức Giê-su mặc
khải Người là “bánh sự sống” (6,35). Ý tưởng “thực sự đến với Đức Giê-su” và
“thực sự tin vào Người” trong câu 6,35, song song và nối kết hiển nhiên với
7,37-38. Đức Giê-su nói với đám đông ở 6,35: “Chính Tôi là bánh sự sống,
người đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ.”
Còn ở 7,37-38, người thuật chuyện cho biết vào ngày cuối cùng là ngày long
trọng nhất của dịp lễ Lều, Đức Giê-su đứng lên và lớn tiếng nói ở 7,37b-38:
“37b Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống. 38 Người tin vào Tôi, như Kinh
Thánh đã nói: ‘Từ lòng người ấy sẽ tuôn
chảy những dòng nước sự sống.’”
Ở 6,35, bất cứ ai đến với Đức Giê-su thì không hề đói, và bất cứ ai tin vào
Đức Giê-su sẽ chẳng khát bao giờ. Đức Giê-su mời gọi mọi người “đến với” và
“tin vào” Người để không bao giờ phải đói và khát nữa. Đây là “đến thực sự” và
“tin thực sự” vào Đức Giê-su, bởi vì cách thức “đến” và “tin” này đem lại sự
sống đích thực, sự sống đời đời. Trong lời mặc khải của Đức Giê-su ở 6,35, hai
ý tưởng “không hề đói” và “chẳng khát bao giờ” song song và tương ứng với “đến
với Đức Giê-su” và “tin vào Người”. Cách hành văn này xác định nghĩa và sự liên
kết giữa hai động từ “đến” và “tin”: Thực sự “đến với Đức Giê-su” bao hàm hành
động “tin vào Người” và ngược lại. (Xem phân tích về “Bánh làm thoả mãn mọi đói
khát của con người” trong bài viết “Bánh hằng ngày và bánh hằng
sống”).
Sự năng động và liên kết chặt chẽ giữa “đến với” và “tin vào Đức Giê-su”
xuất hiện trở lại ở 7,37b-38. Qua hình ảnh “khát nước” và “uống nước”, Đức
Giê-su mời gọi mọi người “đến với” và “tin vào Người”. Lời mời gọi này mô tả
tiến trình “thực sự đến với Người” và “thực sự tin vào Người”, bởi vì bất cứ ai
uống nước sự sống Đức Giê-su ban tặng sẽ làm cho lòng người ấy “tuôn chảy những dòng nước sự sống”
(7,38). Có hai cách ngắt câu ở 7,37b-38 dẫn đến sự khác nhau quan trọng về ý
nghĩa câu văn.
(1) Về cách ngắt câu thứ nhất, bản văn Hy Lạp NESTLE-ALAND,Novum Testamentum Graece, 27th Édition,
chọn cách ngắt câu như sau: “Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống.
Người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: ‘Từ lòng người ấy sẽ tuôn chảy những
dòng nước sự sống’” (7,37b-38). Dấu chấm đặt cuối câu: “Nếu ai khát hãy đến với
Tôi và hãy uống”, tách rời câu này với câu tiếp theo: “Người tin vào
Tôi...”. Trong trường hợp này, lời Kinh Thánh: “Từ lòng người ấy sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống” (7,38) nói
về “Người tin vào Đức Giê-su”. “Từ lòng
người ấy” trong lời Kinh Thánh là “từ lòng người tin vào Đức Giê-su”.
Như thế, lời Kinh Thánh áp dụng cho người tin. Cách ngắt câu này phù hợp với
lời giải thích của người thuật chuyện ở 7,39: “Điều đó, Người [Đức Giê-su] nói
về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Tuy nhiên, Thần Khí chưa
có, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh.” “Tôn vinh” ở đây gợi đến biến cố
Thương Khó – Phục Sinh của Đức Giê-su. Cách hiểu này nối kết với ý tưởng Đức
Giê-su nói với người phụ nữ Sa-ma-ri ở 4,13-14: “13 Bất kỳ ai uống nước này sẽ
lại khát. 14Nhưng ai uống nước mà chính Tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không
khát. Nhưng nước mà Tôi sẽ ban cho người ấy sẽ trở nên nơi người ấy một mạch
nước vọt lên sự sống đời đời.”
(2) Cách ngắt câu thứ hai ở 7,37b-38: “Nếu ai khát hãy đến với Tôi [Đức
Giê-su], và hãy uống người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: ‘Từ lòng Người
sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống’”. Cách ngắt câu này không có dấu chấm sau
câu “Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống” nên cụm từ “người tin vào Tôi”
(7,38a) được nối kết với phần trước nó (7,37b) làm thành câu văn: “Nếu ai khát
hãy đến với Tôi, và hãy uống người tin vào Tôi” (7,37b-38a). Trong trường hợp
này, cụm từ “từ lòng người ấy” trong
lời Kinh Thánh được hiểu là “từ lòng Đức Giê-su”. Như thế, lời Kinh Thánh áp
dụng cho Đức Giê-su. Cách hiểu này có thể nối kết với biến cố, nước và máu tuôn
trào từ cạnh sườn Đức Giê-su trên thập giá. Người thuật chuyện kể ở 19,34:
“Nhưng một trong những người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn của Người [Đức
Giê-su], và ngay tức thì, máu và nước chảy ra.”
Raymond E. Brown và một số tác giả chọn cách chấm câu thứ hai: “Ai khát hãy
đến với Tôi và hãy uống người tin vào Tôi” (xem giải thích của tác giả trong Raymond
E. BROWN, The Gospel According to John, I–XII, vol. I, (Anchor
Bible 29),
2. Thực sự “thấy”
và “tin”
Đức Giê-su diễn tả ý tưởng “thấy thực sự” ở 6,40 khi Người nói với đám
đông: “Thật vậy, đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy Con và tin vào
Người thì có sự sống đời đời, và chính Tôi sẽ làm cho người ấy sống lại [trong] ngày sau hết” (6,40).
Trong lời mặc khải này, “thấy Con”
(theôreô ton huios) có nghĩa là thấy Đức Giê-su bởi vì chính Người là “Con
Một Thiên Chúa là Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha” (1,18b). “Thấy” ở 6,40 là
“thấy thực sự” vì được nối kết với hành động “tin vào Đức Giê-su” và dẫn đến
kết quả là “có sự sống đời đời”.
Người thuật chuyện mời gọi độc giả “thực sự thấy” dấu lạ bánh hóa nhiều
(6,1-13), “thực sự thấy” như các môn đệ đã thấy dấu lạ nước lã hoá thành rượu
ngon ở 2,1-11. Qua dấu lạ này, Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Người và các
môn đệ đã nhận ra và đã tin vào Người. Người thuật chuyện cho biết điều đó ở
2,11: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na, miền Ga-li-lê,
Người đã tỏ vinh quang của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào Người.” Ở
6,40, Đức Giê-su mời gọi mọi người “thấy” Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa” và tin
vào Người. Lời mời gọi “thấy” và “tin” này được thực hiện vào cuối sách Tin
Mừng Gio-an trong trình thuật Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến
đứng trước ngôi mộ trống (20,1-10).
Vào ngày thứ nhất trong tuần, Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác, người Đức
Giê-su thương mến đi ra mộ Đức Giê-su (20,1-7), họ không thấy Đức Giê-su trong
mộ mà chỉ “6b thấy những băng vải còn để đó, 7 và khăn che đầu của Người không
để với những băng vải, nhưng cuốn lại để riêng ra một nơi” (20,6b-7). Người thuật
chuyện cho độc giả biết thái độ của người môn đệ Đức Giê-su thương mến ở 20,8:
“Ông ấy đã thấy và đã tin.” Như thế,
môn đệ này là người đầu tiên đã tin vào Đức Giê-su Phục Sinh trước khi Người
hiện ra với các môn đệ vào tối ngày hôm đó (20,19-23). Cách thức “thấy” và
“tin” của người môn đệ này được đề cao trong trình thuật, đó là “thấy thực sự”
và “tin thực sự”. Điều đáng chú ý là người môn đệ này “đã thấy” và “đã tin”
trong khi “không thấy Đức Giê-su”, ông chỉ thấy ngôi mộ trống, thấy khăn che
đầu và những băng vải. Ý tưởng “không thấy Đức Giê-su mà tin” sẽ trở thành lời
chúc phúc ở cuối sách Tin Mừng (20,29b). Xem phân tích “Ba cấp độ tin vào Đức
Giê-su” trong bài viết: “Tin (pisteuô) trong Tin Mừng
Gio-an.”
IV. Thực sự tin vào Đức Giê-su dù không
thấy Người
Đoạn văn Đức Giê-su hiện ra với Tô-ma ở 20,26-29 cho thấy sự chuyển tiếp
giữa hai giai đoạn: (1) Giai đoạn tin vào Đức Giê-su nhờ thấy Người. (2) Giai
đoạn tin vào Đức Giê-su mà không thấy Đức Giê-su thể lý. Khi Đức Giê-su hiện ra
với các môn đệ ở 20,19-23, “các môn đệ vui mừng thấy Chúa” (20,20b), “nhưng
Tô-ma, một người trong Nhóm Mười Hai, gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi
Đức Giê-su đến” (20,24). Tô-ma nói với các môn đệ khác rằng: “Nếu tôi không
thấy tay Người với những dấu đinh, và đặt ngón tay của tôi vào những dấu đinh, và đặt tay của tôi vào cạnh sườn Người, tôi không
tin” (20,25b). Yêu cầu của Tô-ma là chính đáng, bởi vì các môn đệ khác đã thấy
Đức Giê-su và đã tin Đức Giê-su đã sống lại, Tô-ma cũng cần thấy Đức Giê-su để
tin.
Mong muốn của Tô-ma được thực hiện, vì tám ngày
sau, Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và nói với Tô-ma ở 20,27: “Đưa ngón tay của anh vào đây và hãy nhìn
xem tay Thầy. Đưa tay của anh ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng trở thành người không tin, nhưng là người
tin.” Đối với các môn đệ đã đi theo Đức Giê-su trong sứ vụ trần thế của Người,
lòng tin của họ dựa trên “thấy Đức Giê-su”, “thấy các dấu lạ” Người làm và
“lắng nghe giáo huấn” của Người. Nhưng đối với những người tin sau khi Đức
Giê-su về với Cha của Người, nghĩa là các môn đệ từ thế hệ thứ hai trở đi, họ
không còn tin vào Đức Giê-su theo cách thức “thấy” tận mắt và “nghe” trực tiếp
từ nơi Người như các môn đệ đã từng sống với Đức Giê-su.
Lời Tô-ma tuyên xưng với Đức Giê-su Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con” (20,28) đã bày tỏ lòng tin
đích thực của ông vào Đức Giê-su. Đồng thời, đây cũng là lời tuyên xưng lòng
tin của tất cả các môn đệ mọi thời mọi nơi. Lời tuyên xưng lòng tin long trọng
này vào cuối sách Tin Mừng Gio-an (20,28) nối kết với lời tuyên xưng niềm tin
của tác giả đầu sách Tin Mừng về căn tính của Đức Giê-su là Lời (Logos) ở 1,1:
“Lời (Logos) có lúc khởi đầu, và Lời (Logos) ở với Thiên Chúa, và Lời
(Logos) là Thiên Chúa.” “Lời đã trở thành người phàm” (1,14a) và Lời ấy là “Con
Một Thiên Chúa là Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha, chính Đấng ấy đã kể cho
chúng ta” (1,18b). Thật vậy, trong toàn bộ sứ vụ công khai, Đức Giê-su đã
kể về Chúa Cha và mặc khải về tình yêu Chúa Cha dành cho nhân loại (3,16). Đến
cuối Tin Mừng, môn đệ Tô-ma, gương mẫu của các môn đệ và của độc giả, đã nhận
ra căn tính đích thực của Đức Giê-su: Người là Chúa của ông và là Thiên Chúa
của ông (20,28). Lời khẳng định của tác giả sách Tin Mừng ở 1,1 song song với
lời tuyên xưng của Tô-ma ở 20,28 làm thành “lời mở” và “lời kết” mạnh mẽ về
thần học của sách Tin Mừng.
Lời Đức Giê-su nói với Tô-ma ở 20,29: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin? Phúc cho những người không
thấy mà là những người tin” là lời chúc phúc cho tất cả những
ai không thấy Đức Giê-su thể lý mà tin vào Người. Sau khi Đức Giê-su đi về với
Cha của Người và Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – được ban xuống cho các môn
đệ (16,7), một giai đoạn mới, một cách thức tin mới đã khai sinh: Tin vào Đức
Giê-su dù không thấy Người. Kể từ thế hệ thứ hai, các môn đệ tin vào Đức Giê-su
là nhờ lời rao giảng về Đức Giê-su của Hội Thánh. Đức Giê-su đã cầu nguyện cho
họ khi Người ngỏ lời với Cha của Người ở 17,20: “Con không chỉ can thiệp cho
những người này [các môn đệ thuộc thế hệ thứ nhất], nhưng còn cho những người tin vào Con nhờ lời của
họ [các môn đệ kể từ thế hệ thứ hai trở về sau]” (17,20). Với lời
chúc phúc của Đức Giê-su ở 20,29b: “Phúc cho những người không thấy mà là những
người tin”, người tin qua mọi thời đại nhận ra rằng chính mình đón nhận lời
chúc phúc từ chính Đức Giê-su Phục Sinh và họ là những môn đệ đích thực của
Người.
Kiểu nói “không thấy mà tin” được hiểu theo nghĩa không thấy Đức Giê-su về
mặt thể lý. Còn trên bình diện tâm linh, Đức Giê-su vẫn luôn luôn hiện diện với
các môn đệ của Người. Đức Giê-su đã hứa với họ ở 14,20: “Trong ngày đó, anh em
sẽ biết rằng: Thầy trong Cha Thầy, anh em trong Thầy và Thầy trong anh em.”
Thật ra, sự hiện diện thể lý của Đức Giê-su bị giới hạn bởi không gian và thời
gian. Trong khi sự hiện diện tâm linh cho phép Đức Giê-su ở với các môn đệ khắp
mọi nơi, ở mọi thời đại. Sự hiện diện này được thực hiện từ hai phía: “Đức
Giê-su ở trong người tin” và “người tin ở trong Đức Giê-su”. Đây là mối tương
quan và hiệp thông sâu xa, hàm ẩn sự dấn thân của hai bên. Mối tương quan này giống
tương quan giữa Đức Giê-su và Cha của Người. Thật vậy, Đức Giê-su mặc khải cho
các môn đệ ở 14,11a: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy trong Cha và Cha trong Thầy.”
Sự hiện diện trong nhau và hiệp thông với nhau giữa Đức Giê-su và các môn đệ là
niềm vui khôn tả và là nguồn khích lệ lớn lao cho người tin trong cuộc sống
trần thế.
V. Kết luận
Những phân tích trên đây về “không thực sự” và “thực sự” đến với Đức
Giê-su, thấy Người và tin vào Người, cho thấy cách vận dụng độc đáo của Tin
Mừng Gio-an về các động từ: “đến”, “thấy” và “tin”, cũng như sự liên kết giữa
các động từ này. Chúng có thể mang nghĩa tích cực (thực sự) hay tiêu cực (không
thực sự). Trong trường hợp “không thực sự đến với, thấy và tin”, mạch văn luôn
hàm ẩn sự hiểu lầm của khán thính giả về những gì Đức Giê-su đã làm (để thấy)
hay về những điều Đức Giê-su đã nói (để nghe). Cách thức “đến với”, “thấy” và
“tin vào Đức Giê-su” này không dẫn đến tương quan đích thực với Đức Giê-su. Nên
có thể nói là đã không thực sự có hành động “đến với Đức Giê-su”, “thấy Người”
và “tin vào Người”. Một số đoạn văn trong Tin Mừng Gio-an cho thấy tiến trình
này. Chẳng hạn trong Ga 6, đám đông đã thấy dấu lạ Đức Giê-su làm (6,14), nhưng
đó là cách thấy sai lạc, không dẫn đến niềm tin. Đức Giê-su nói với họ ở 6,36:
“Các ông đã thấy [Tôi] mà các ông không tin.” Hành động “tin vào Đức Giê-su” vì
“thấy các dấu lạ Người đã làm” ở 2,23b cũng chưa phải là lòng tin đích thực, vì
“Đức Giê-su không tin họ” (2,24a). Trầm trọng hơn, lòng tin của những người Do
Thái ở 8,31 là hoàn toàn không phù hợp, vì họ đến với Đức Giê-su để kết án và
tìm cách giết Người.
Trong Tin Mừng Gio-an, những trường hợp “đến”, “thấy” và “tin” không đích
thực như trên, giúp độc giả hiểu rõ thế nào là thực sự “đến với” Đức Giê-su,
“thấy” Người và “tin” vào Người. Đức Giê-su mời gọi mọi người đến với và tin
vào Người qua lời tuyên bố ở 6,35: “Chính Tôi là bánh sự sống, người đến với
Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ.” Ở 6,40, Đức
Giê-su mong muốn mọi người đạt đến hành động “thấy” và “tin” đích thực qua lời
hứa: “Tất cả những ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống
đời đời, và chính Tôi sẽ làm cho người
ấy sống lại [trong] ngày sau hết” (6,40). Trong Ga 4, những người
Sa-ma-ri đã thực sự “đến với” Đức Giê-su (4,40a), vì cách thức họ đến với Đức
Giê-su đã mang lại kết quả tốt đẹp: “Tin vào Người” (4,41). Người thuật chuyện
cho biết những người Sa-ma-ri đã đến với Đức Giê-su và mời Người ở lại với họ.
Đức Giê-su đã ở lại với họ hai ngày (4,40b) và kết quả: “Nhiều người hơn nữa đã
tin, nhờ lời của Người” (4,41). Như thế, “thực sự đến với Đức Giê-su” làm nẩy
sinh lòng tin đích thực và tạo ra tương quan thực sự với Đức Giê-su.
Tin Mừng Gio-an đề cao cách thức “thấy” và
“tin” của người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Đứng trước ngôi mộ trống, người
môn đệ này “đã thấy và đã tin” (20,8b). Ông là người đầu tiên tin dù không thấy
Đức Giê-su. Đây cũng là lòng tin đích thực của các môn đệ qua mọi thời đại. Họ
là những người không thấy Đức Giê-su thể lý mà vẫn tin vào Người. Họ tin vào
Đức Giê-su nhờ lời rao giảng của Hội Thánh. Chính Đức Giê-su đã chúc phúc cho
những ai có lòng tin như thế. Lời Đức Giê-su nói với Tô-ma và cũng là lời Người
nói với độc giả mọi nơi mọi thời: “Phúc cho những người không thấy mà lànhững
người tin” (20,29b). Chúng ta là những người tin vào Đức Giê-su mà không thấy
Người về mặt thể lý. Tuy vậy, trên bình diện tâm linh, Đức Giê-su vẫn luôn luôn
hiện diện sâu xa nơi từng môn đệ. Lời hứa của Đức Giê-su dành cho các môn đệ
thuộc thế hệ thứ nhất, cũng là lời Người hứa cho người tin qua mọi thời đại:
“Anh em trong Thầy và Thầy trong anh em” (14,20b)./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/08/tin-mung-gioan-khong-thuc-su-va-thuc-su.html