Tìm hiểu Ga 18,28–19,16a [4/5]: Sự thật về Đức Giê-su

 


Đề tài: Sự thật trong Ga 18,28–19,16a

 

Bài 1/5: “Sự thật là gì?”. Quan sát Ga 18,28–19,16a

Bài 2/5: Sự thật về những kẻ tố cáo Đức Giê-su.

Bài 3/5: Sự thật về Phi-la-tô.

Bài 4/5: Sự thật về Đức Giê-su.

Bài 5/5: Áp dụng Ga 18,28–19,16a vào cuộc sống.

 

 



 Bài 4/5: Sự thật về Đức Giê-su

 

Đức Giê-su trong đoạn văn 18,28–19,16a không nói nhiều, nhưng Người là nhân vật chính. Tất cả các nhân vật khác đều nói về Người và họ chỉ xuất hiện trong tương quan với Đức Giê-su. Sự đảo lộn cũng xảy ra với Đức Giê-su phù hợp với diễn tiến câu chuyện từ tờ mờ sáng đến giữa trưa. Căn tính của Đức Giê-su lộ tỏ dần dần trong câu chuyện. Khởi đầu Người bị tố cáo là người làm điều ác và bị đặt ngang hàng với quân trộm cướp. Giữa đoạn văn, Người là Con Thiên Chúa và cuối đoạn văn Đức Giê-su là vua dân Do Thái. Dưới hình thức những lời tố cáo, châm biếm, nhục mạ, sự thật về Đức Giê-su được bày tỏ.

 

Đối với độc giả, nếu như Đức Giê-su phải chết vì tội tự xưng là Con Thiên Chúa thì cái chết đó minh chứng rằng: Người đích thật là Con Thiên Chúa. Sự thật về tư cách vương đế của Đức Giê-su là đề tài quan trọng trong đoạn văn. Không phải vô tình mà câu đầu tiên Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?” (18,33). Người thuật chuyện dẫn vào đề tài vương quyền của Đức Giê-su cách đột ngột bằng câu hỏi của Phi-la-tô. Sau đó, đề tài này xuyên suốt bản văn với hai từ “basileus” (vua) và “basileia” (vương quyền, vương quốc). Tất cả các nhân vật khác đều nói đến tư cách vua của Đức Giê-su.

 

Phi-la-tô gọi Đức Giê-su là “vua dân Do Thái”; ông biết Đức Giê-su không phải là vua theo nghĩa chính trị mà chỉ là vua hề. Thái độ và hành động quân lính cho thấy điều đó. Người thuật chuyện kể: “Những người lính kết một vương miện bằng cây gai đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ tía. Họ đến gần Người và nói: ‘Kính chào vua dân Do Thái’ và họ đánh Người” (19,2-3). Về phía những kẻ tố cáo, họ kết tội Đức Giê-su tự xưng là vua theo nghĩa chính trị để dồn Phi-la-tô vào chân tường. Họ nói với ông ấy: “Bất cứ ai tự cho mình là vua thì chống lại Xê-da” (19,12).

 

Đối với người đọc, tất cả những gì Phi-la-tô và những kẻ chống đối nói về tư cách vương đế của Đức Giê-su là nhằm minh họa cho đề tài vương quyền trong đoạn văn. Đề tài này được Đức Giê-su làm rõ ở bên trong dinh, khi Người trao đổi với Phi-la-tô về tư cách vương đế của Người. Phân tích những gì xảy ra bên trong dinh (hai cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và Phi-la-tô; việc quân lính chế nhạo) sẽ làm sáng tỏ sự thật về Đức Giê-su.

 

Cuộc đối thoại thứ nhất (18,33-38a):

 

 

Trong đối thoại thứ nhất (18,33-38a), Phi-la-tô đặt ra cho Đức Giê-su năm câu hỏi (18,33.25a35b.37a.38a). Điều này chứng tỏ ông là người chất vấn, là người hỏi cung, người đang thi hành quyền xét xử. Nhưng cách trả lời của Đức Giê-su làm cho tình thế đảo ngược. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp những câu hỏi của Phi-la-tô. Cách Đức Giê-su đối đáp với Phi-la-tô làm lộ ra tư cách thẩm phán của Người.

 

Trong lời thoại thứ nhất, Phi-la-tô hỏi xem Đức Giê-su có phải là vua dân Do Thái không (18,33). Người không trả lời, nhưng hỏi lại Phi-la-tô: “Ngài tự mình nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về Tôi?” (18,34). Việc Đức Giê-su đặt câu hỏi cho người hỏi cung cho thấy tình huống đã bắt đầu thay đổi ngay từ câu đầu tiên, khi người bị kết tội lại đặt câu hỏi cho người có quyền xét xử.

 

Trong câu hỏi thứ hai, Phi-la-tô vừa tự phân biệt mình với những người Do Thái: “Tôi là người Do Thái sao?” (18,35a), vừa cho thấy vai trò của các nhân vật khi nói: “Dân của Ông và các thượng tế đã nộp Ông cho tôi” (18,35b). Như thế, vị trí của các nhân vật được phân định: Phía tố cáo là dân và các thượng tế; người xét xử là Phi-la-tô; và người bị tố cáo là Đức Giê-su.

 

Câu hỏi tiếp theo của Phi-la-tô liên quan đến việc làm, ông ấy hỏi Đức Giê-su: “Ông đã làm gì?” (18,35c). Đức Giê-su không trả lời trực tiếp câu hỏi này. Thay vì trả lời, Người mặc khải về vương quốc của Người: “Vương quốc của Tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Vương quốc của Tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của Tôi đã chiến đấu để Tôi không bị nộp cho những người Do Thái. Nhưng thật ra, Vương quốc của Tôi không ở chốn này” (18,36). Đức Giê-su gián tiếp nói về tư cách vua của Người, vì vương quyền đi đôi với vương quốc. Câu nói của Đức Giê-su (18,36) vừa đi vào chủ đề vương quyền mà Phi-la-tô đã hỏi ở 18,33 vừa cho thấy tại sao Người có mặt trước Phi-la-tô như là kẻ bị tố cáo.

 

Diễn tiến cuộc đối thoại cho thấy Đức Giê-su là người chủ động dẫn chuyện. Người kéo Phi-la-tô trở lại đề tài vương quyền trong lời thoại thứ ba. Khi Phi-la-tô hỏi: “Vậy Ông là vua sao?” (18,38a). Đức Giê-su khẳng định gián tiếp: “Chính ngài nói rằng Tôi là vua” (18,37b); và Người mặc khải sứ vụ của Người: “Vì điều này, Tôi đã sinh ra, và vì điều này, Tôi đã đến thế gian để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi” (18,37c). Mặc khải này là câu trả lời về việc làm của Người mà Phi-la-tô đã hỏi trước đây: “Ông đã làm gì?” (18,35c). Đức Giê-su tóm kết sứ vụ của Người bằng cụm từ: “Làm chứng cho sự thật.”

 

Một lần nữa, Đức Giê-su gợi ý để Phi-la-tô hỏi: “Sự thật là gì?” (18,38a); sau khi hỏi xong, Phi-la-tô bỏ đi, ông không muốn nghe nói về sự thật. Có lẽ vì ông sợ mất danh hiệu “bạn của Xê-da” (19,12) nên ông không dám đứng về phía sự thật, không dám bênh vực sự thật về Đức Giê-su.

 

Tóm lại, đề tài chính trong cuộc đối thoại thứ nhất ở bên trong dinh (18,33-38a) là tư cách vua của Đức Giê-su, Người nói về vương quyền và vương quốc của Người. Chính Người dẫn câu chuyện và gợi ý cho Phi-la-tô đặt câu hỏi. Người trả lời các câu hỏi của Phi-la-tô sau một nhịp; nghĩa là Phi-la-tô hỏi câu thứ hai thì Đức Giê-su trả lời câu thứ nhất. Ông hỏi câu thứ ba thì Người trả lời câu thứ hai.

 

Cuộc đối thoại tiến triển như sau: Phi-la-tô hỏi về tư cách vua thì Đức Giê-su không trả lời mà hỏi lại Phi-la-tô (18,34). Phi-la-tô hỏi về việc làm thì Đức Giê-su lại trả lời về vương quốc và vương quyền (18,36). Phi-la-tô hỏi trở lại về tư cách vua thì Đức Giê-su lại nói về việc làm của Người (18,37). Cách trình bày cuộc đối thoại như thế cho thấy Đức Giê-su chủ động trong cuộc trao đổi. Người nói với tư cách là Đấng mặc khải chứ không phải như người bị chất vấn. Cuối cuộc trao đổi thứ nhất, Phi-la-tô đã ở vào thế bị động, ông không dám đối diện với sự thật. Việc đặt câu hỏi rồi bỏ đi ra ngoài cho thấy ông sợ đối diện với sự thật về Đức Giê-su và sự thật về chính ông.

 

Phần chuyển tiếp (19,1-3) vừa làm tỏ lộ sự thật về Phi-la-tô, vừa bày tỏ sự thật về vương quyền Đức Giê-su, không phải bằng lời nói mà qua những gì quân lính làm. Tiểu đoạn 19,1-3 có cấu trúc đồng tâm A, B, A’ với sự tương phản giữa “không có quyền” và “những dấu chỉ quyền hành”:

 

Cấu trúc 19,1-3:

 

Những gì quân lính làm cho Đức Giê-su là để chế nhạo, để làm cho Người trở thành vua hề. Đó là một vị vua không có quyền lực. Vương miện bằng gai do quân lính đặt lên đầu Đức Giê-su; áo choàng đỏ do quân lính khoác; họ cúi chào và lập tức chứng tỏ quyền hành bằng cách đánh Người. Như thế, quân lính mới thực sự là những người có quyền.

 

Đức Giê-su được trình bày như người bị tước hết mọi quyền hành, bị xỉ nhục, bị đối xử bất công. Phi-la-tô dùng quyền hành cách độc đoán: Ông cho đánh đòn Đức Giê-su, mặc dù không tìm thấy điều gì để kết tội Người. Phi-la-tô tỏ ra thiếu trách nhiệm trong việc thi hành quyền bính. Đức Giê-su sẽ tố cáo Phi-la-tô điều này trong cuộc đối thoại thứ hai (19,9-11).

 

Người đọc tự hỏi, việc Đức Giê-su bị xỉ nhục như vị vua hề có ý nghĩa gì? Tại sao Người lại nói về vương quyền ngay trước lúc Người bị đóng đinh? Như Đức Giê-su đã nói với Phi-la-tô: Vương quốc và vương quyền của Người không thuộc về thế gian này; nghĩa là Người không cạnh tranh với vương quyền trần thế. Phần chuyển tiếp (19,1-3) trình bày vương quyền Đức Giê-su qua các từ “vương miện” (19,2a), “áo choàng đỏ” (19,2b), “lời chào” (19,3a) nhưng lại kèm theo sự xỉ nhục.

 

Cách người thuật chuyện trình bày vương quyền như thế nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa thần học về vương quyền của Đức Giê-su. Những yếu tố tiêu cực: “Đánh đòn”, “vòng gai”, “vả mặt” nói lên sự khác biệt giữa vương quyền Đức Giê-su và vương quyền trần thế. Chính lúc Người bị tước hết mọi quyền là lúc tốt nhất để thể hiện vương quyền của Người. Khi Đức Giê-su bị tước hết mọi quyền lực trần thế, vương quyền của Người được tỏ lộ cách rõ ràng nhất. Trong hoàn cảnh như thế, vương quyền của Đức Giê-su sẽ không bị hiểu lầm, hiểu sai, hiểu lệnh lạc hay lẫn lộn với vương quyền trần thế.

 

Ở ch. 6, sau dấu lạ bánh hóa nhiều, Đức Giê-su biết đám đông sẽ tôn Người làm vua, nên Người đã lánh đi (16,15). Dân chúng chưa hiểu đúng vương quyền của Người. Trình bày vương quyền Đức Giê-su khi Người không còn chút quyền hành trần thế, tránh được mọi hàm hồ dị nghĩa về tư cách vua của Đức Giê-su. Như thế, phần chuyển tiếp (19,1-3) minh họa cho lời Đức Giê-su nói trong cuộc đối thoại thứ nhất với Phi-la-tô: Người là Vua và Vương quốc của Người không thuộc về thế gian này (18,37), nhưng Người thi hành vương quyền trong thế gian này.

 

Cuộc đối thoại thứ hai với Phi-la-tô cho thấy ai là người thi hành quyền xét xử. Đối thoại thứ hai (19,9-11) giữa Phi-la-tô và Đức Giê-su ngắn hơn đối thoại thứ nhất, gồm ba câu hỏi của Phi-la-tô và một câu trả lời của Đức Giê-su.

 

Cuộc đối thoại thứ hai (19,9-11):

 

Cuộc đối thoại thứ hai bắt đầu bằng sự sợ hãi của Phi-la-tô. Khi những người Do Thái nói: “Chúng tôi, chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì Ông ta phải chết vì đã cho mình là Con Thiên Chúa” (19,7). Người thuật chuyện cho biết: “Khi Phi-la-tô nghe lời này, ông càng sợ hơn. Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su: ‘Ông từ đâu đến?’” (19,8-9). Phi-la-tô sợ hơn, nghĩa là trước đó ông đã sợ. Nỗi sợ của Phi-la-tô có lẽ đã nảy sinh từ cuối cuộc đối thoại thứ nhất khi ông không dám đối diện với sự thật (18,38). Nếu ông sợ sự thật thì ông không thể thi hành quyền xét xử. Ở 19,8, Phi-la-tô sợ hơn, vì một đàng Đức Giê-su nói Vương quốc của Người không thuộc chốn này; đàng khác những người Do Thái xác nhận Người là Con Thiên Chúa; đây mới là lý do đích sâu xa khiến Đức Giê-su phải chết. Như thế, Phi-la-tô sợ vì nhận ra rằng ông đang đối diện với Con Thiên Chúa; đối diện với một vị Vua có Vương quốc không thuộc về thế gian này (18,36).

 

Nếu như trong cuộc đối thoại thứ nhất, Đức Giê-su cho biết Người là Vua thì trong cuộc đối thoại thứ hai, Người thi hành quyền xét xử. Phi-la-tô tự cho là có quyền khi nói với Đức Giê-su: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha Ông và có quyền đóng đinh Ông vào thập giá sao?” (19,10). Nhưng thực ra, Phi-la-tô không có quyền, đúng hơn ông không đủ can đảm thực thi quyền hành. Đức Giê-su nói về nguồn gốc của quyền bính và Người kết tội những kẻ tố cáo và cả Phi-la-tô nữa. Người nói với ông ấy: “Ông không có quyền gì đối với Tôi, nếu nó không được ban cho ông từ trên, vì điều này, kẻ nộp Tôi cho ông có tội lớn hơn” (19,11).

 

Tình thế đã bị đảo ngược hoàn toàn, lời cuối cùng Đức Giê-su nói với Phi-la-tô là lời kết tội, lời xét xử, lời tuyên án. Như thế, Đức Giê-su đã thực thi vương quyền của Người trong thế gian, ngay chính lúc Người bị thế gian tước hết mọi quyền hành. Sự đảo ngược độc đáo trong đoạn Tin Mừng là ở chỗ Đức Giê-su, người bị tố cáo, bị kết tội, lại trở thành vị thẩm phán đích thực; Người có quyền xét xử và tuyên bố ai là người có tội.

 

Tư cách thẩm phán này được nhấn mạnh khi Phi-la-tô đặt Đức Giê-su ngồi vào nơi dành cho vị thẩm phán: “Phi-la-tô đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha” (19,13). Động từ “kathizô” (đặt ngồi), ở 19,13 dùng ở ngôi thứ ba số ít nên có thể hiểu hai cách: “Phi-la-tô đặt Đức Giê-su ngồi” hay “Phi-la-tô ngồi” vào nơi gọi là Nền Đá. Vì trong đoạn văn, Phi-la-tô không tuyên bố lời xét xử nên hiểu theo nghĩa ông đặt Đức Giê-su ngồi phù hợp hơn. Một đàng Phi-la-tô muốn Đức Giê-su đóng vai vị thẩm phán hề; đàng khác người thuật chuyện chủ ý trình bày Đức Giê-su như vị thẩm phán. Phi-la-tô muốn Đức Giê-su đóng vai vị vua hề đến cùng; nhưng thực ra, Phi-la-tô đã nói đúng về Đức Giê-su khi gọi Người là “vua dân Do Thái” và đã làm đúng khi đặt Người ngồi vào chỗ ngồi của vị thẩm phán.

 

Yếu tố thời gian cuối trình thuật cho thấy ý nghĩa thần học về giờ chết của Đức Giê-su. Hôm đó là ngày áp lễ Vượt Qua vào khoảng 12 giời trưa (19,14). Khi Phi-la-tô trao Đức Giê-su để người bị đóng đinh cũng là lúc trong đền thờ người ta giết chiên để mừng lễ Vượt Qua, Đức Giê-su trở thành chiên Vượt Qua mới.

 

Tóm lại, vào lúc 12 giờ trưa, giữa thanh thiên bạch nhật, sự thật về Đức Giê-su được lộ tỏ. Người là Con Thiên Chúa, Người là Vua, Vương quốc của Người không thuộc về thế gian nhưng Người thi hành vương quyền của Người trong thế gian này. Ý nghĩa bản văn thật phong phú, nhưng việc hiểu bản văn chỉ kết thúc khi nhận ra điều bản văn muốn nói với người đọc hôm nay. Bài tiếp thep (bài 5/5) sẽ áp dụng một vài điều vào cuộc sống độc giả.

Ngày 14 tháng 04 năm 2011
Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/  -  email: josleminhthong@gmail.com