Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế

( International Monetary Fund - Fonds Monétaire International )

Trong những tin tức hằng ngày, thỉnh thoảng các phương tiện thông tin có nói đến Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế qua những cuộc hội nghị thường niên của cơ quan này hay khi cơ quan này quyết định giúp các nước gặp khó khăn trầm trọng về mặt tài chánh hay kinh tế, như cuộc khủng hoảng kinh tế của các nước Đông Á Châu năm 1997 hay của Nga năm 1998. Danh từ viết tắt IMF của Anh ngữ hay FMI của Pháp ngữ thường được xử dụng. IMF là cơ quan quốc tế làm việc với các nước hội viên ở cấp bậc chính phủ lãnh đạo cho nên người dân ít biết về nó. Nhiều ngườøi cho rằng đó là một loại ngân hàng quốc tế rất lớn có thể cho các nước vay mượn như bất cứ một ngân hàng nào, hoặc IMF như một cơ quan kiểm soát quốc tế có khả năng can thiệp vào nội bộ của các nước hội viên, hoặc vai trò không còn thích hợp của IMF trong hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay. Những chỉ trích hoặc phán đoán này không phản ảnh trung thực vai trò và hoạt động của cơ quan quốc tế này. Bài viết không nhằm gì khác hơn là giới thiệu những nét tổng quát về mục đích, cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan IMF. Những từ ngữ chuyên môn bằng Anh và Pháp ngữ dùng trong bài này là những từ ngữ quốc tế phổ quát chúng ta cần nên biết.

Bối cảnh lịch sử và mục đích của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế

Những mậu dịch thương mại và tài chánh thế giới phát triển mạnh mẽ là nhờ có một hệ thống tiền tệ quốc tế bảo đảm sự cân đối giữa giá trị của các đồng tiền quốc gia. Tính cách có thể trao đổi (convertibility - convertibilité) của mỗi đồng tiền so với các đồng tiền khác là yếu tố nền tảng của hệ thống tiền tệ quốc tế. Một đồng tiền quốc gia mà không có yếu tố này sẽ chỉ có giá trị nội địa. Lịch sử kinh tế thế giới cho thấy một quốc gia khó có thể phát triển nếu chỉ muốn đi theo chiều hướng tự túc tự cường, đóng chặt cửa quan. Nhưng nếu muốn tham gia vào những trao đổi kinh tế thế giới và để cho người dân có quyền tự do di chuyển ra nước ngoài với một đồng tiền không có giá trị ngoại địa là đường lối chỉ đưa đến những bế tắc kinh tế và là nguồn gốc gây ra những thị trường chợ đen, đắt đỏ và phức tạp cho những doanh nghiệp hoặc người dân cần ngoại tệ trong tương quan với các nước khác.

Điều gì có thể bảo đảm cho giá trị của đồng tiền quốc gia ? Ngay một đồng tiền thường được xử dụng như tiền dollar Mỹ, 100 dollars chẳng hạn, cũng chỉ là một miếng giấy in mặc dù với những kỹ thuật khó bắt chước để tránh giả tạo !

Cho tới năm 1914, những thanh toán trong trao đổi thương mại và tài chánh giữa các cường quốc kinh tế dựa trên Hệ Thống Tiền Tệ Vàng (Gold standard - Etalon or) mà tiêu biểu nhất là hệ thống tiền tệ của Anh quốc. Ngân Hàng Quốc Gia Anh (England Bank - Banque d’Angleterre) là ngân hàng trung ương đầu tiên được thành lập vào cuối thế kỷ 17 với mục đích nhằm trao đổi những kim khí quí như vàng hay bạc của dân lấy tiền đúc kim khí và tiền giấy. Tiền giấy cầm trong tay có thể đổi ra vàng hay bạc như họ muốn. Tính cách có thể trao đổi này làm tiền giấy có giá trị và được dân Anh xử dụng trong những trao đổi thương mại, bởi vì nó tiện lợi hơn là dùng vàng hay bạc một cách trực tiếp. Mặt khác, sự tin tưởng vào tiền giấy của người dân với thời gian cho thấy ít ai cần đổi tiền giấy ra vàng. Ngân Hàng Quốc Gia Anh dựa trên những thống kê để xác định một phần trăm nào đó sự kiện có thể có người muốn đổi tiền giấy ra vàng, nhất là từ những người ngoại quốc qua những trao đổi thương mại. Từ đó Ngân Hàng Quốc Gia Anh có thể in thêm tiền giấy ở một số lượng vượt trên khối vàng và bạc dự trữ mà không làm hệ thống tiền tệ bị suy yếu mất tin tưởng. Các cường quốc khác cũng có những hệ thống tiền tệ tương tự. Nhưng những trao đổi thương mại quốc tế thời đó dựa trên tiền Pound Anh, bởi vì đó là hệ thống tiền tệ đáng tin tưởng nhất và vì Anh quốc cho tới đầu thế kỷ 20 là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.

Sau Thế Chiến Thứ Nhất (1918), cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới làm lung chuyển Hệ Thống Tiền Tệ Vàng. Sản xuất kỹ nghệ và nông nghiệp giảm sút khắp nơi trên thế giới. Nhiều ngân hàng bị phá sản làm những người gửi tiền tiết kiệm cũng mất hết. Tiền giấy không còn được tin tưởng thúc đẩy người dân đổi tiền giấy ra vàng bạc. Các ngân hàng trung ương bắt buộc phải huỷ bỏ tính cách có thể trao đổi. Ngay Ngân Hàng Quốc Gia Anh, nổi tiếng đáng tin tưởng nhất, cũng không thể làm gì khác hơn là phải huỷ bỏ tương quan này. Từ đó mỗi nước tự quyết định giá trị tiền nước mình theo chiều hướng mất giá để có thể cạnh tranh với các nước khác trên thị trường quốc tế. Sự khủng hoảng tiền tệ càng làm khủng hoảng kinh tế thêm trầm trọng. Các nước kỹ nghệ mạnh như Mỹ, Anh, Pháp. đã tìm nhiều cách lập ra một hệ thống tiền tệ mới ít nhiều dựa trên yếu tố chính là vàng. Cuối cùng vào tháng bẩy năm 1944, sau nhiều thương lượng giữa các nước đồng minh, 29 nước họp tại Bretton Wood, tiểu bang New Hampshire bên Mỹ, đã đồng ý thiết lập một hệ thống tiền tệ mới và thành lập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế nhằm mục đích kiểm soát và tạo điều kiện để hệ thống tiền tệ này có thể hoạt động.

Hệ thống này gọi là Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar (Gold exchange standard - Etalon or de change) mà trong đó dollar Mỹ giữ vai trò trung tâm. Tiền dollar Mỹ được định giá bằng một số lượng vàng (một ounce vàng = 35 USD) và mỗi đồng tiền quốc gia được định giá nhất định so với tiền dollar Mỹ; giá trị nhất định giữa các tiền khác với nhau được suy ra từ giá trị so với tiền dollar Mỹ. Thí dụ 1 USD = 5 FRF và 1 USD = 2.5 DEM, từ đó suy ra 1 DEM = 2 FRF. Trong hệ thống này chỉ có dollar Mỹ có tính cách có thể trao đổi trực tiếp với vàng, những tiền khác muốn đổi ra vàng phải đổi ra dollar Mỹ trước.

Làm sao có thể quản trị một hệ thống phức tạp như vậy ? IMF ra đời để đáp ứng nhu cầu này. Theo quy chế được phê chuẩn, IMF được thành lập để khuyến khích sự cộng tác tiền tệ thế giới giữa các nước, tạo điều kiện thuận lợi cho sự bành trướng và tăng triển thương mại thế giới, đề cao sự vững chắc của hệ thống tiền tệ và sự thanh toán dễ dàng giữa các đồng tiền của các nước hội viên. IMF giúp đỡ về mặt tài chánh các nước hội viên gặp khó khăn về cán cân chi tiêu với ngoại địa (balance of payment - balance des paiements) để tìm lại được mức thăng bằng trong những chi thu với các nước khác. IMF là một cơ quan quốc tế tổ chức dưới hình thức một tổ chức tổ hợp (cooperative system - système coopérative) mà mỗi nước tham dự là một hội viên. Trách nhiệm của cơ quan có tính chất thuần tuý tài chánh nhằm giúp các nước hội viên tôn trọng hiệp định ký kết. Nó không có quyền can thiệp vào nội bộ chính trị của các nước hội viên. IMF có thể giúp một nước hội viên tìm lại được mức thăng bằng của cán cân thương mại ngoại địa, nhưng nó không thể bắt một nước hội viên phải xử dụng quỹ ngân sách quốc gia trong lãnh vực giáo dục, xã hội hoặc hạ tầng cơ sở kinh tế thay vì mua vũ khí và các thứ máy móc chiến tranh. Mục đích chính của IMF là bảo đảm làm sao cho Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar có thể hoạt động không trở ngại. Để hệ thống có thể được tin tưởng, giá trị mỗi đồng tiền không được thay đổi quá 1% lên xuống so với dollar Mỹ. Nếu giá trị chính thức của một đồng tiền như đã được qui định với IMF không còn phản ảnh thực sự nguồn sản xuất quốc gia, một nước hội viên có thể giảm tỷ giá hối đoái nếu IMF đồng ý ; một cách gián tiếp, điều này có nghĩa là các nước hội viên khác cùng chấp nhận sự xuống giá này. Kinh nghiệm cho thấy là sự giảm giá chính thức của một đồng tiền thường đưa đến những xáo trộn kinh tế nội địa rất nghiêm trọng.

Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar, dưới sự kiểm soát và điều hành của IMF, đã hoạt động trong những thập niên sau Thế Chiến Thứ Hai, cho tới năm 1971 khi chính phủ Mỹ quyết định huỷ bỏ tính cách có thể trao đổi của tiền dollar ra vàng. Yếu tố nền tảng của hệ thống biến mất, hệ thống không còn lý do để tồn tại. Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar thực ra có một khuyết điểm lớn là vai trò trung tâm của tiền dollar Mỹ so với các tiền khác. Đó là một hệ thống không quân bình (asymetric system - système asymétrique) do tầm quan trọng quá đáng của tiền dollar Mỹ. Hệ thống tiền tệ này lúc đầu hoạt động không có trở ngại là nhờ sức mạnh kinh tế và chính trị của Mỹ ngay sau Thế Chiến Thứ Hai. Lúc đó các nước tây phương và Nhật bị tàn phá vì chiến tranh và cần nhiều viện trợ Mỹ để xây dựng lại đất nước. Những nguồn tài chánh của các cơ quan công và tư Mỹ được đầu tư vào các nền kinh tế Tây Âu và Nhật và trở lại Mỹ qua việc mua những sản phẩm kỹ nghệ, nông nghiệp sản xuất tại Mỹ và những trả nợ tiền muợn. Điều này làm cán cân chi tiêu của Mỹ không bị mất thăng bằng, do đó tiền dollar được các nước khác tin tưởng và Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar có thể hoạt động. Nhưng càng ngày các nước khác, nhất là Tây Âu và Nhật càng phát triển mạnh về kinh tế, thương mại đối ngoại càng ngày càng gia tăng và do đó cán cân chi tiêu có nhiều thặng dư. Điều này biểu lộ về mặt tài chánh bằng nguồn dự trữ dollar càng ngày càng lớn trong những ngân hàng trung ương quốc gia. Mặt khác những chính sách chính trị và kinh tế của Mỹ trong thập niên 60, nhất là trong chiến tranh Việt Nam, đã mang đến hậu quả là có quá nhiều dollar lưu hành trên thế giới. Các nước có nhiều dự trữ dollar bắt đầu đặt nghi vấn về giá trị của đồng tiền này và quyết định đổi ra vàng như hệ thống cho phép. Lúc đầu chính phủ Mỹ phải tôn trọng quy ước đã ký kết, nhưng nguồn dự trữ vàng càng ngày càng xuống. Tháng 8 năm 1971, chính phủ Nixon quyết định xoá bỏ tương quan trao đổi giữa dollar và vàng để tránh tình trạng mất vàng và phải đối đầu với một số lượng dollar quá thặng dư trên lãnh thổ. Từ đó tiền dollar tự do thay đổi lên xuống so với các tiền khác theo luật cung cầu. Hệ thống tiền tệ quốc tế bước qua một giai đoạn mới với vai trò quan trọng của thị trường tự do. Hệ thống này được gọi là Hệ Thống Tiền Tệ Tự Do (Floating rate exchange system - Système de change flexible) và là hệ thống hiện hành trong những trao đổi kinh tế thế giới hiện nay. Trong thực tế, chỉ có những đồng tiền của các nước kỹ nghệ lớn mới tự do thay đổi so với dollar Mỹ, những nước khác không ít thì nhiều đều lấy những đồng tiền thường được dùng trên thị trường quốc tế làm tiêu chuẩn để xác định giá trị tiền nước mình ; chẳng hạn như dollar Mỹ là tiêu chuẩn cho nhiều đồng tiền Á Châu và Mỹ châu ; franc Pháp là tiêu chuẩn cho nhiều đồng tiền của các nước Phi châu ; hoặc có nước chọn ba hay bốn đồng tiền làm tiêu chuẩn để xác định tỷ giá hối đoái tiền nước mình.

Trước những thay đổi này, nhiều người cho rằng IMF không còn lý do tồn tại. Thực ra cơ quan này vẫn hoạt động, nhưng thời gian sau năm 1971 là giai đoạn cần thích nghi để xác định đường hướng mới. Từ nhiệm vụ lúc mới ra đời là giúp các nước hội viên một cách tạm thời để tìm lại được sự thăng bằng của cán cân chi tiêu với ngoại địa và do đó có thể tôn trọng tỷ giá hối đoái đã được phê chuẩn, IMF phải đối đầu với những nguy hiểm của một hệ thống tiền tệ tự do mà trong đó vai trò của thị trường có thể đưa đến những khủng hoảng tài chánh trầm trọng.

 

Tổ chức hành chánh

IMF là một tổ chức tổ hợp tài chánh qui tụ 183 nước hội viên hiện nay, nước Nam Tư mới xin gia nhập sau khi đất nước đã tìm lại được một chế độ dân chủ hơn. Đứng đầu trong tổ chức hành chánh là Ban Lãnh Đạo những Thống Đốc (Board of Governors - Conseil des Gouverneurs). Mỗi nước hội viên cử một người nước mình làm thống đốc đại diện cho nước. Họ thường là những bộ trưởng tài chánh hay giám đốc của ngân hàng trung ương và quyền quyết định của họ phản ảnh đường lối của chính phủ nước họ. Mỗi năm các thống đốc dự cuộc họp thường niên tại trụ sở chính nằm ở thủ đô Washington hoặc ở một nước hội viên để quyết định đường hướng và hoạt động của cơ quan IMF.

Việc điều hành thường trực của cơ quan được đảm nhận bởi Ban điều hành (Executive board - Conseil d’administration) gồm có 24 giám đốc (executive directors - Administrateurs). Hiện nay 8 nước có mỗi nước một giám đốc trong Ban điều hành : Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Anh, Nga, Trung Quốc và Saudi Arabia. Những nước hội viên khác được chia ra làm 16 nhóm, mỗi nhóm cử một giám đốc. Ban điều hành cử một giám đốc chính (managing director - directeur général) để điều hành toàn bộ cơ quan IMF và áp dụng những chính sách đã được Ban Lãnh Đạo những Thống Đốc quyết định. Vị giám đốc chính cũng là người đứng đầu trong ban điều hành (Chairman of the Executive Board - Président du Conseil d’Administration). Giám đốc chính hiện nay là ông Horst Kohler người Đức mới được bầu thay thế ông Michel Camdessus người Pháp tại chức từ năm 1987.

Nhân viên làm việc cho cơ quan IMF hiện nay có khoảng 2600 người, đến từ các nước hội viên. Phần lớn họ là những chuyên viên về kinh tế, thống kê, tài chánh quốc gia, thuế vụ, hệ thống tài chánh và ngân hàng trung ương. Đa số làm việc tại trụ sở chính ở thủ đô Washington, số còn lại làm việc tại các văn phòng của cơ quan tại Paris, Geneva, Tokyo, New York. hoặc được cử đi làm việc trực tiếp ở một số quốc gia. Nhân viên của IMF là công chức của cơ quan này và làm việc theo lợi ích của cơ quan này chứ không theo lợi ích riêng tư của chính nước họ.

Những nguồn tài chánh của IMF

Tổ chức của IMF có tính cách tổ hợp tương trợ tài chánh, nghĩa là mỗi hội viên đóng góp một số tiền được hội quy định. Nguồn tài chánh này được dùng để giúp các nước hội viên trong trường hợp cần thiết. Nhưng Quỹ cũng có những phương cách phụ thuộc khác để có thể đáp ứng những nhu cầu của các nước hội viên.

Phần đóng góp (quotas - quotes-parts)

Phần đóng góp của mỗi nước là nguồn tài chánh chính của Quỹ ngay từ khi được thành lập. IMF không vay mượn trên thị trường tài chánh quốc tế. Điều này giải thích tại sao IMF không phải là một ngân hàng quốc tế dù hoạt động chính của nó liên quan đến lãnh vực tài chánh. Phần đóng góp không những đóng vai trò của nguồn tài chánh, nó còn là tiêu chuẩn để xác định số tiền mà một nước hội viên có thể vay mượn, để phân chia SDR và số phiếu bầu của mỗi nước.

Phần đóng góp được xác định theo nhiều tiêu chuẩn như tổng sản lượng quốc gia, dự trữ vàng và dollar Mỹ, số lượng xuất khẩu và nhập khẩu. Nước nào càng giầu thì đóng góp càng cao. Số đóng góp lúc đầu (1946) trị giá 7.6 triệu dollar Mỹ. Số đóng góp tính tới năm 1998 là 193 tỷ dollar Mỹ. Năm 1999, đề nghị của IMF tăng 45% những phần đóng góp đã được các nước hội viên phê chuẩn, nguồn tài chánh của cơ quan do đó trị giá quãng 300 tỷ dollar Mỹ.

Nguồn tài chánh của cơ quan tăng nhiều vì hai lý do. Một mặt các nước gia nhập tổ chức ngày càng nhiều, từ 35 nước lúc đầu đến nay lên tới 183 nước hội viên, Việt Nam là hội viên từ năm 1956. Mặt khác những phần đóng góp có thể tăng lên hay giảm xuống (chưa bao giờ có) mỗi thời gian 5 năm theo quyết định của những thống đốc với ít nhất 85% số phiếu thuận. Những phần đóng góp quan trọng nhất hiện nay là Mỹ (18.25%), Nhật (5.67%), Đức (5.67%), Pháp (5.10%) và Anh (5.10%). Phần đóng góp của Mỹ trị giá quãng 35 tỷ dollar Mỹ. Phần đóng góp càng nhiều thì ảnh hưởng trong cơ quan IMF càng mạnh về đường hướng và những quyết định quan trọng. Rất nhiều nước nhỏ có phần đóng góp rất ít, quãng 50 nước có phần đóng góp dưới 65 triệu dollar Mỹ. 52 nước Phi Châu có phần đóng góp tương đương với phần đóng góp của Đức hay Nhật. Phần đóng góp của Mỹ cao hơn hai lần những phần đóng góp của các nước Châu Mỹ La Tinh.

Cách thức xác định tiền đóng góp của mỗi hội viên rất đặc biệt. Theo quy chế của Quỹ, mỗi nước thanh toán phần đóng góp 25% bằng vàng và 75% bằng tiền nước mình. Số vàng được dự trữ trong bốn ngân hàng trung ương lớn nhất, 75% tiền mỗi nước được giữ dưới hình thức một trương mục của Quỹ tại ngân hàng trung ương mỗi nước. Trong thực tế các nước thanh toán bằng vàng ít hơn là 25% như quy định. Từ năm 1971, khi Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar hết hoạt động, 25% được thanh toán bằng SDR hay những đồng tiền lớn thường được xử dụng trên thị trường quốc tế.

Quyền SDR / DTS (special drawing right - droits de tirage spéciaux)

Nguồn dự trữ trong các ngân hàng trung ương để bảo đảm cho ngoại thương là vàng và các tiền lớn như dollar Mỹ, yen Nhật, pound Anh và mới đây là tiền euro thay thế cho những tiền lớn của Cộng Đồng Tiền Tệ Âu Châu như mark Đức, franc Pháp. Từ năm 1969, IMF quyết định phân chia cho các nước hội viên một loại quyền lợi đặc biệt gọi là SDR viết tắt của Anh ngữ hay DTS viết tắt của Pháp ngữ. Quyền này được coi như một loại tiền dự trữ ghi trên sổ kế toán của ngân hàng trung ương mỗi nước. Lúc đầu ban lãnh đạo IMF đặt rất nhiều hy vọng vào SDR và dự trù nó sẽ trở thành đồng tiền quốc tế thay tiền dollar Mỹ. Thực tế không như Quỹ mong đợi, bởi vì các nước lớn nghĩ nhiều đến quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi chung và cũng vì dự tính trên lý thuyết thì hay nhưng khó thực hiện trong thực tế. Lúc ban đầu, SDR được phân chia cho mỗi nước hội viên theo phần đóng góp đã trình bầy ở trên, do đó các nước nhỏ ít đóng góp không được nhiều SDR. Trong những lần phân chia sau này, Quỹ có khuynh hướng tăng phần dành cho những nước này.

Giá trị của SDR ban đầu được định giá tương đương với 1/35 oune vàng, do đó 1 SDR = 1 USD. Sau năm 1971, tiền dollar Mỹ không còn được đổi ra vàng, giá trị của SDR được xác định dựa trên giá trị 16 đồng tiền của 16 nước có hoạt động xuất khẩu cao nhất và thay đổi theo giá thị trường của những đồng tiền này. Từ năm 1980, để đơn giản hoá cách tính, giá trị được xác định dựa trên 5 đồng tiền lớn và mức quan trọng của mỗi đồng tiền : dollar Mỹ (39%), mark Đức (21%), yen Nhật (18%), pound Anh (11%) và franc Pháp (11%). Từ khi đồng euro ra đời (01/01/1999), mức quan trọng được xác định như sau : dollar Mỹ (45%), euro (29%), yen Nhật (15%), pound Anh (11%). Thí dụ ngày 8/8/2000, 1 SDR = 1.30904 USD. Kể từ ngày 01/01/2001, Quỹ quyết định là giá trị một SDR bằng tổng số những tiền như sau : 0.577 USD + 0.426 EUR + 21 JPY + 0.0984 GBP. Tỷ số phân lãi của SDR cũng được xác định một cách tương tự. Số SDR phân chia cho các nước hội viên hiện nay trị giá quãng 29 tỷ dollar Mỹ.

Mượn tiền

IMF có thể mượn tiền của những nước hội viên giầu như các nước kỹ nghệ lớn hay có nhiều dầu hoả trong trường hợp cần thiếát. Năm 1962, 11 nước kỹ nghệ hội viên ký giao kèo GAB (general arrangements to borrow - accords généraux d’emprunt) cho Quỹ vay 23 tỷ dollar Mỹ. Năm 1997, 25 nước kỹ nghệ hội viên thoả thuận qua giao kèo NAB (new arrangements to borrow - nouveaux accords d’emprunt) cho quỹ mượn 47 tỷ dollar Mỹ. Saudi Arabia là nước dầu hoả cho Quỹ mượn nhiều nhất. Từ năm 1981, nước này đã cho mượn trên 10 tỷ dollar Mỹ, hiện nay saün sàng cho mượn 2 tỷ dollar Mỹ. Điều này giải thích tại sao Saudi Arabia có một giám đốc trong ban diều hành IMF.

Bán vàng

Tính tới ngày 30/04/2000, số lượng vàng dự trữ của IMF có vào khoảng 103 triệu ounces (3.217 tấn) và được định theo giá thị trường vào khoảng 30 tỷ dollar Mỹ. Số vàng này có do các hội viên đóng góp như đã đề cập ở trên, hoặc do các nước hội viên trả tiền lời, hoặc do Quỹ mua của các nước hội viên. Vai trò của vàng trong Hệ Thống Tiền Tệ Vàng Dollar là yếu tố nền tảng gây tin tưởng vào giá trị tiền của các nước hội viên. Trái lại, vàng không còn đóng một vai trò nào trong hệ thống tiền tệ hiện nay. Nhưng Quỹ vẫn giữ và coi vàng một mặt như bảo chứng cho giá trị của chính cơ quan mình và mặt khác để đề phòng những trường hợp khẩn cấp.

Tuy nhiên, trong thời gian 1976 - 1980, Quỹ đã thoả thuận với các nước hội viên để giảm bớt số vàng dự trữ. Quỹ đã bán quãng 50 triệu ounces vàng. Một nửa trả lại cho các nước hội viên theo giá 1 ounce = 35 SDR, nửa còn lại được bán theo giá thị trường và là nguồn tài chánh dành để giúp các nước hội viên nghèo.

Hoạt động của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế

Mục đích được xác định từ đầu của IMF là bảo đảm cho một hệ thống tiền tệ quốc tế có thể hoạt động hữu hiệu vẫn không thay đổi mặc dù hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay không còn như khi Quỹ được thành lập. Tương trợ tài chánh khi các nước hội viên cần được giúp đỡ vẫn là hoạt động chính của Quỹ. Nhưng cách thức kiểm soát, đề phòng và nhìn trước những khó khăn của các nước hội viên là yếu tố quan trọng trong bối cảnh một nền kinh tế thế giới ngày càng liên quan mật thiết với nhau (globalization - mondialisation).

Kiểm soát chính sách tiền tệ của các nước hội viên

Để bảo đảm một hệ thống tiền tệ quốc tế quân bình và tạo điều kiện cho những trao đổi thương mại thế giới phát triển, hiện nay Quỹ có một hoạt động nghiên cứu quan trọng về tình trạng kinh tế tổng quát, chính sách tiền tệ của mỗi nước hội viên để có thể nhìn trước những khó khăn một nước để có thể phải đối đầu và do đó cần sự giúp đỡ của Quỹ. Trong những tài liệu làm việc của Quỹ, một phần quan trọng liên quan đến những dữ kiện kinh tế và tài chánh của mỗi nước hội viên, bởi vì giá trị của đồng tiền quốc gia tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế này.

Theo quy chế (Article IV), IMF tham khảo mỗi nước mỗi năm một lần hoặc nhiều lần nếu Quỹ nhận định là nước có nhiều nguy hiểm sẽ rơi vào tình trạng khó khăn kinh tế. Hằng năm, một nhóm chuyên viên của Quỹ được cử tới thủ đô mỗi nước quãng hai tuần để thu thập tại chỗ những dữ kiện kinh tế có ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền như những thống kê về xuất nhập khẩu, lương bổng, giá cả, việc làm, chỉ số phân lãi, số lượng tiền quốc gia đang lưu hành, đầu tư, thuế vụ, ngân sách quốc gia. và đối thoại với những vị đại diện chính phủ về sự hữu hiệu của những chính sách kinh tế đang được áp dụng, những dự trù thay đổi để có một chính sách trao đổi ngoại tệ một cách tự do không bị kiểm soát hay giới hạn. Nhóm chuyên viên trở về trụ sở Washington và lập một bản tường trình chi tiết để ban điều hành có thể góp ý kiến cho nước hội viên phải sửa đổi hay canh tân trong những lãnh vực có nhiều thiếu sót. Những tài liệu này là yếu tố cơ bản để IMF quyết định giúp đỡ hay không khi cần thiết.

Thí dụ cụ thể trường hợp Việt Nam. Cuộc tham khảo mới nhất của Quỹ với những đại diện của chính phủ Việt Nam theo phương cách trình bầy trên đã được công khai xuất bản trên website của Quỹ ngày 4/8/2000, với sự thoả thuận của chính phủ Việt Nam (tựa đề là IMF concludes Article IV consultation with Vietnam). Nội dung của tài liệu này mô tả những biến cố kinh tế và tài chánh tổng quát gần đây của Việt Nam và những nhận định gợi ý của ban lãnh đạo IMF đối với chính quyền Việt Nam  :

Trong thập niên 90, đầu tư ngoại quốc là động cơ chính của sự phát triển kinh tế. Từ cuối năm 1997, số đầu tư này giảm thiểu vì không có môi trường thích hợp cho hoạt động kinh tế : luật lệ không rõ ràng, hạ tầng kinh tế vẫn còn thô sơ, cản trở hành chánh.

Yếu điểm chính của nền kinh tế Việt Nam là vấn đề không hữu hiệu kinh tế của hệ thống doanh nghiệp quốc doanh và hệ thống ngân hàng quốc doanh. Các doanh nghiệp quốc doanh không có năng suất cao hoặc thua lỗ nhiều. Hệ thống ngân hàng quốc doanh do đó gặp khó khăn vì số tiền cho các doanh nghiệp này vay không được trả lại hết. Các doanh nghiệp tư doanh còn quá ít và còn quá nhiều luật lệ kiểm soát và do đó giới hạn sự phát triển trong lãnh vực này. Mặt khác, kinh tế Việt Nam dựa trên hàng nhập khẩu rất nhiều.

Giúp đỡ tài chánh

IMF chỉ cho vay tiền những nước nào gặp khó khăn về vấn đề thanh toán trong cán cân chi tiêu ngoại địa, nghĩa là số tiền ngoại tệ có từ xuất khẩu không đủ để thanh toán những hàng hoá nhập khẩu. Nguồn ngoại tệ của một nước có là do từ những xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, từ những chi tiệu tại chỗ của những du khách ngoại quốc, từ những đầu tư của các hãng xưởng ngoại quốc, từ những giúp đỡ tài chánh của các nước giầu cho những nước nghèo.

Như việc ăn tiêu của một cá nhân, một nước có thể tiêu xài nhiều hơn là điều mình có, do đó phải vay mượn để có tiền trả. Nhưng nếu tình trạng kéo dài nước đó sẽ phải đối đầu với lúc đến hạn của tiền mượn. Không ai, không nước nào cho vay mượn thường xuyên một nước thích ăn tiêu hơn những gì mình có. Do đó chỉ còn cách « thắt lưng buộc bụng » giảm tiêu xài trong nước : bớt nhập khẩu, giảm chi tiêu quốc gia. để tìm lại được mức thăng bằng của giá trị đồng tiền và cán cân chi tiêu ngoại địa. IMF cho mượn tiền trong mục đích này.

Những nước gặp khó khăn như trên có thể rút ra ở IMF 25% phần mình đã đóng góp trả bằng vàng hay tiền những nước lớn. Nếu không đủ, Quỹ có thể cho vay một số tiền tương đương với 75% phần đóng góp, chia ra làm ba lần, mỗi năm có thể rút một lần. Nếu lần rút 25% là tiền nước đã đóng góp (reserve tranche - tranche de réserve) thì 75% sau là tiền Quỹ cho mượn (credit tranche - tranche de crédit). Khi Quỹ đồng ý giúp 75%, điều này có nghĩa là Quỹ sẽ chỉ định một hay nhiều nước hội viên khác có nền kinh tế vững chắc đổi tiền nước họ lấy tiền nước đang cần trợ giúp. Nước mượn tiền sẽ phải trả lại tiền đã đổi để các nước khác mà tiền đã bị đổi có thể xử dụng để vay Quỹ trong trường hợp cần thiết. Đây là nguyên tắc nền tảng và cũng là điều giải thích tại sao, mặc dù như đã nói Quỹ có khoảng 300 tỷ dollar Mỹ tiền các nước hội viên đóng góp, nhưng 75% là tiền quốc gia của các nước hội viên cho nên Quỹ không thể cho vay một lúc cả 300 tỷ dollar.

Theo phương thức làm việc của IMF, cách giúp đỡ được chia làm hai loại :

Nếu lần rút đầu tiên 25% được Quỹ chấp thuận dễ dàng thì những lần rút sau Quỹ đòi hỏi nhiều điều kiện khắt khe. IMF chỉ cho mượn với điều kiện là nước hội viên phải có một chương trình chi tiết về tài chánh và kinh tế để giải quyết những khó khăn về cán cân chi tiêu ngoại địa. Quỹ chia tiền cho mượn ra làm nhiều phần cốt ý để kiểm soát sự hữu hiệu của những biện pháp phải thực hiện. Đó là nguyên tắc thận trọng để tránh việc một nước mượn được tiền và xử dụng một cách hoang phí hay ít hữu hiệu.

IMF quan tâm đặc biệt đến chính sách tiền tệ, đặc biệt là hoạt động của hệ thống ngân hàng. Bởi vì số lượng tiền tệ lưu hành nhiều hay ít là do những chính sách của ngân hàng trung ương qua việc kiểm soát hệ thống ngân hàng trong nước. Số lượng cho vay của các ngân hàng quá lớn sẽ khuyến khích nhập cảng gia tăng. Việc kiểm soát và giới hạn hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng là điều Quỹ bắt nước cần mượn phải thực hiện. IMF thường đòi nước phải hạ tỷ giá hối đoái để giới hạn phần nhập khẩu và để phần xuất khẩu gia tăng, vì sự cạnh tranh sẽ dễ dàng hơn do giá rẻ hơn.

Quỹ cũng khuyến khích nước phải giảm những chi tiêu trong ngân sách quốc gia : ít công chức hơn, giảm đầu tư công cộng, giới hạn việc giúp các doanh nghiệp quốc doanh nếu không muốn nói là phải tư hữu hoá, xoá bỏ những hạn chế về giá cả. và ngay cả đường lối cứng rắn chống lại tệ nạn tham nhũng hối lộ, nguồn gốc của nhiều cản trở và hoang phí cho sự phát triển kinh tế.

Mặt khác, các nước hội viên có thể dùng quyền SDR của mình nếu cần thiết. Quỹ không đòi hỏi điều kiện để một nước có thể dùng quyền này. Nếu một nước hội viên cần ngoại tệ, Quỹ sẽ chỉ định một nước có sức mạnh kinh tế và tài chánh đổi những phần SDR lấy ngoại tệ. Khi nước gặp khó khăn tìm lại được tình trạng thăng bằng kinh tế, số ngoại tệ đã mượn sẽ được trả lại cho nước đã cho mượn. SDR cũng có thể được thanh toán trực tiếp giữa các ngân hàng trung ương của một số nước hội viên mà không cần sự can thiệp của Quỹ.

Ngoài những cách thức cho vay mượn trên, IMF cũng đặt ra một số phương thức cho vay tuỳ theo tình trạng khẩn cấp của những khó khăn tài chánh mà các nước hội viên có thể phải đối đầu.

Những cách thức cho vay của Quỹ đều kèm theo một phân lời (từ ngữ được Quỹ dùng gọi là commission) cần thiết để trả tiền lời cho những nước hội viên mà Quỹ đã chỉ định đóng góp tiền cho vay và để cho cơ quan hành chánh của Quỹ có thể hoạt động.

Điểm cuối cùng cần đề cập là hoạt động của IMF để giúp đỡ các nước hội viên nghèo. Mục đích và tổ chức của IMF dành một chỗ đứng ít quan trọng cho các nước đang phát triển ; hoặc vì phần đóng góp của các nước này rất ít trong các nguồn tài chánh của Quỹ như đã đề cập ở trên ; hoặc vì ảnh hưởng của các nước này trong những trao đổi thương mại, tài chánh quốc tế ít tầm quan trọng.

Cho tới cuối thập niên 70, chính sách cho vay của Quỹ kèm theo những điều kiện đòi nước gặp khó khăn phải thực hiện nhấn mạnh đến khía cạnh giảm tiêu thụ trong nước để tìm lại được mức thăng bằng của cán cân chi tiêu với ngoại địa. Rất nhiều chỉ trích chính sách này, không những từ những nước nghèo đã phải thực hiện chính sách « thắt lưng buộc bụng », mà còn từ nhiều chuyên viên kinh tế, xã hội thế giới về hậu quả xã hội nhiều khi rất trầm trọng của chính sách này. Giảm thiểu ngân sách quốc gia thường đồng nghĩa với giảm thiểu những chi tiêu xã hội liên quan đến phần đông những người nghèo trong nước trong các lãnh vực như giáo dục, giao thông, sức khoẻ, sản phẩm lương thực cần thiết cho mọi người.

Từ thập niên 80, dưới sự thúc đẩy của ông giám đốc chính Jacques de Larosière, chính sách của IMF đối với các nước hội viên nghèo nhấn mạnh hơn đến những yếu tố làm cho kinh tế nội địa phát triển như các nghành có thể dễ dàng xuất khẩu, những nghành có thể thay thế nhập khẩu. Để thực hiện chính sách này, Quỹ đặt ra loại cho vay dành riêng cho các nước hội viên nghèo gọi là ESAF - FASR (enhanced structural adjustment facility - facilité d’ajustement structurel renforcée). Theo thống kê của Quỹ, chương trình này đã đóng góp hữu hiệu vào việc nâng cao mức sống của người dân trong những nước hội viên này, đặc biệt trong lãnh vực sức khoẻ và giáo dục.

Năm 1999, việc chống lại nạn nghèo trong các nước hội viên nghèo trở thành một trong những mục tiêu chính thức của IMF. Hiện nay Quỹ công nhận có 80 nước hội viên nghèo. Phần lớn nằm ở Phi châu, Mỹ châu La Tinh và Á châu. Trong vùng Đông và Đông Nam Á châu có Cam bốt, Lào, Việt Nam và Trung Quốc. Quỹ thay thế loại vay kể trên bằng một loại vay mới gọi là PRGF - FRPC (poverty reduction and growth facility - facilité pour la réduction de la pauvreté et la croissance), hạn trả từ 5 năm đến 10 năm với phân lời rất thấp (0.5%). Để được Quỹ cho mượn, nước muốn được trợ giúp phải thiết lập một chương trình chống nạn nghèo chi tiết với sự tham gia không những của những cơ quan chính phủ, mà còn cả những cơ quan xã hội độc lập hoạt động giúp những người nghèo. Tính cách hữu hiệu và cụ thể của những chính sách đề nghị là yếu tố nền tảng để Quỹ quyết định giúp. IMF cộng tác với Ngân Hàng Phát Triển Thế Giới (World Bank - Banque Mondiale) trong lãnh vực này.

Với những hoạt động tài chánh kể trên, tổng số tiền IMF cho các nước hội viên mượn tăng rất nhanh. Năm 1965 quãng 4 tỷ SDR, năm 1980 quãng 12 tỷ SDR, năm 1985 gần 40 tỷ SDR và năm 1998 hơn 55 tỷ SDR. Từ khi Quỹ được thành lập, những nước hội viên mượn nhiều nhất là Mexico 17 tỷ SDR, Nga hơn 14 tỷ SDR, Nam Hàn hơn 14 tỷ SDR, Argentina 10 tỷ SDR, Ấn Độ gần 10 tỷ SDR, Anh gần 10 tỷ SDR, Brazil 5 tỷ SDR, Nam Dương 4.5 tỷ SDR, Phi Luật Tân hơn 4 tỷ SDR và Pakistan 4 tỷ SDR.

Để có một ý niệm cụ thể, sau đây là một số dữ kiện tài chánh vào tháng tám năm 2000 của một số nước miền Đông và Đông Nam Á châu trong tương quan tài chánh với IMF :

hội viên từ năm 1952

phần đóng góp : 13312 triệu SDR

SDR : 891 triệu

những vay mượn mới đây : không có

hội viên từ năm 1945

phần đóng góp : 4687 triệu SDR

SDR : 237 triệu

những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) :

Loại mượn

Ngày chấp nhận

Hạn cuối

Mượn được nhận

Mượn thực sự

Stand-by

12/11/1986

11/11/1987

598

598

Stand-by

02/03/1981

31/12/1981

450

450

Kỳ hạn phải trả : đã trả hết

hội viên từ năm 1955

phần đóng góp : 1633 triệu SDR

SDR : 73 triệu

những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) : 

Loại mượn

Ngày chấp nhận

Hạn cuối

Mượn được nhận

Mượn thực sự

Stand-by

04/12/1997

03/12/2000

15500

14412

Stand-by

12/07/1985

10/03/1987

280

160

Stand-by

08/07/1983

31/03/1985

576

576

Kỳ hạn phải trả

2000

2001

2002

2003

2004

Tiền mượn

0

2050

2141

181

91

Tiền lời

64

220

106

17

5

hội viên từ năm 1967

phần đóng góp : 2079 triệu SDR

SDR : 239 triệu

những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) : 

Loại mượn

Ngày chấp nhận

Hạn cuối

Mượn được nhận

Mượn thực sự

EFF

04/02/2000

31/12/2002

3638

851

EFF

25/08/1998

04/02/2000

5383

3798

Stand-by

05/11/1997

25/08/1998

8338

3669

Kỳ hạn phải trả

2000

2001

2002

2003

2004

Tiền mượn

0

1376

1835

979

678

Tiền lời

0

469

375

284

239

hội viên từ năm 1958

phần đóng góp : 1487 triệu SDR

SDR : 139 triệu

những vay mượn mới đây : không có

hội viên từ năm 1949

phần đóng góp : 1082 triệu SDR

SDR : 85 triệu

những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) : 

Loại mượn

Ngày chấp nhận

Hạn cuối

Mượn được nhận

Mượn thực sự

Stand-by

20/08/1997

19/06/2000

2900

2500

Stand-by

14/06/1985

30/12/1986

400

260

Stand-by

17/11/1982

31/12/1983

271

271

Kỳ hạn phải trả

2000

2001

2002

2003

2004

Tiền mượn

150

1012

1050

237

50

Tiền lời

35

116

56

12

1

hội viên từ năm 1945

phần đóng góp : 880 triệu SDR

SDR : 117 triệu

những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) : 

Loại mượn

Ngày chấp nhận

Hạn cuối

Mượn được nhận

Mượn thực sự

Stand-by

01/04/1998

31/12/2000

1021

783

EFF

24/06/1994

31/03/1998

791

791

Stand-by

20/02/1991

31/03/1993

334

334

Kỳ hạn phải trả

2000

2001

2002

2003

2004

Tiền mượn

3

6

313

434

319

Tiền lời

26

93

87

67

43

hội viên từ năm 1956

phần đóng góp : 329 triệu SDR

SDR : 48 triệu

những vay mượn mới đây và hạn trả (số bằng triệu SDR) : 

Loại mượn

Ngày chấp nhận

Hạn cuối

Mượn được nhận

Mượn thực sự

ESAF

11/11/1994

10/11/1997

362

242

Stand-by

06/10/1993

11/11/1994

145

109

Kỳ hạn phải trả

2000

2001

2002

2003

2004

Tiền mượn

8

34

52

52

49

Tiền lời

1.4

4

3.6

3

3

 

Những dữ kiện trên cho thấy nước Nhật mặc dù đóng góp rất nhiều trong Quỹ, nhưng ít nhờ Quỹ trợ giúp. Kinh tế Nhật đứng hàng thứ hai trên thế giới và mặc dù từ hậu bán thập niên 90 đã và đang trải qua một thời kỳ đình trệ kinh tế, vẫn đủ sức mạnh tài chánh của mình để giải quyết những khó khăn nội địa và giữ giá trị tiền yen ở mức độ quân bình. Trái lại, Nam Hàn, Nam Dương, Philippines và Thái Lan đã được Quỹ trợ giúp rất nhiều để đương đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế vào cuối năm 1997. Trung Quốc và Mã Lai gần đây ít nhờ Quỹ giúp, lý do không phải vì sức mạnh kinh tế như Nhật, nhưng có lẽ vì tự ái quốc gia không muốn một cơ quan quốc tế can thiệp vào nội bộ của nước mình. Riêng Việt Nam, Quỹ đã cho mượn trong chương trình giúp các nước hội viên nghèo nhiều hơn là cách mượn bình thường.

Giúp đỡ về mặt kỹ thuật

Trong thập niên 60, nhiều nước Phi châu và Á châu trở thành độc lập đã nhờ IMF giúp đỡ để thiết lập hạ tầng tài chánh quốc gia như ngân hàng trung ương, bộ kinh tế tài chánh. Sự giúp đỡ kỹ thuật này càng ngày càng được mở rộng không những về số nước được giúp đỡ, mà còn trong chương trình huấn luyện kỹ thuật như phương cách thiết lập chính sách tiền tệ, ngân sách quốc gia, kiểm soát hệ thống ngân hàng, kế toán quốc gia, thống kê. Trong thập niên 90, nhiều nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường đã được Quỹ giúp đỡ trong lãnh vực này. Kinh nghiệm của Quỹ trong lãnh vực tài chánh từ hơn 50 năm nay, với những chuyên viên kinh tế, tài chánh, luật pháp, thống kê. gây nhiều tin tưởng quốc tế. Những nước giầu muốn giúp đỡ những nước đang phát triển trong lãnh vực này có thể đóng góp tài chánh và để Quỹ tổ chức cách giúp đỡ.

Kết luận

Nhìn theo lịch sử phát triển của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế từ hơn 50 năm qua, người ta có thể thấy là hoạt động của Quỹ ngày hôm nay không còn như lúc ban đầu khi mới được thành lập. Từ vai trò một cơ quan quốc tế kiểm soát một hệ thống tiền tệ quốc tế cố định, Quỹ đã phải xác định lại đường hướng hoạt động trong hệ thống tiền tệ tự do. Nếu trong thập niên 70, khi hệ thống tiền tệ tự do bắt đầu hoạt động, nhiều chỉ trích và đòi hỏi phải trở lại một hệ thống tiền tệ dựa trên vàng còn nhiều tiếng vang, thì ngày nay vai trò của thị trường như yếu tố làm cho hệ thống tiền tệ trở thành hữu hiệu dường như được mọi người chấp nhận. Tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy thị trường có thể có những phản ứng cực đoan vô lý. Điều quan tâm của Quỹ là nhìn ra những yếu tố kinh tế và tài chánh có thể gây ra những trở ngại cho một nước và nhất là gây ảnh hưởng giây chuyền đưa đến tình trạng khủng hoảng kinh tế thế giới. Địa phương hoá hệ thống tiền tệ như các nước trong Cộng Đồng Tiền Tệ Âu Châu đã làm với đồng euro là một phương cách để phòng ngừa khía cạnh cực đoan của thị trường. Đây có lẽ là khuynh hướng sẽ phát triển trong tương lai để bảo đảm một hệ thống tiền tệ quốc tế vững chắc hơn. Trong viễn tượng này, đường hướng hoạt động của IMF có thể sẽ thay đổi với vai trò giúp đỡ các nước hội viên nghèo trở thành quan trọng hơn. Tuy nhiên, nếu vai trò rất tích cực của IMF trong hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay là điều đáng ca ngợi, thì đó chỉ là một trong những yếu tố có thể góp phần vào sự phát triển kinh tế của một nước hội viên. Một nền kinh tế quốc gia có phát triển hay không trước hết là do chính nước phải tự mình đảm nhiệm. Đối với một nước đang phát triển, IMF như một chuyên viên có thể giúp đỡ về phương diện kinh tế, tài chánh và kỹ thuật là điều phải biết tận dụng. Quỹ chỉ giúp nước hội viên nào có thiện chí muốn xây dựng một nền kinh tế phồn thịnh cho nước và cho dân mình và góp phần vào những trao đổi kinh tế thế giới. Trong thực tế thế giới ngày hôm nay, vai trò của sự phát triển kinh tế trong xã hội cũng như những yếu tố hạ tầng cần thiết cho sự phát triển này vẫn còn được đánh giá rất khác nhau trong những nước chậm tiến qua những lựa chọn chính trị và đường lối điều hành đất nước.

 

Paris Ðông 2001
Nguyễn Văn Thành

Tài liệu tham khảo :

 

 

 

Trở Về Mục Lục