LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP
Tại Hoa Kỳ

Thy Anh

Chẳng riêng gì các siêu cường kinh tế nhưng với mọi quốc gia trên thế giới, lạm phát và thất nghiệp là những bóng ma ám ảnh làm kinh hoàng mọi người. Lạm phát và thất nghiệp là nguyên ủy của nghèo đói và những tệ nạn xã hội khác. Thứ sáu ngày 14-04-2000, thị trường chứng khoán Hoa Kỳ mất giá trầm trọng, nhiều người gọi đây là "Black Friday", một ngày mà nhiều người giàu có bỗng nhiên trở nên tay trắng vì thua lỗ và mất cả vốn liếng. Có người lo âu nền kinh tế đang bước dần đến cơ nguy suy sụp khi liên tưởng đến ngày "Black Monday" năm 1988 đã dẫn tới thời kỳ kinh tế suy thoái (recession) trong nhiều năm (1990-1993). Thời kỳ mà lạm phát và thất nghiệp tăng cao, nhiều người phải đem nhà cửa cho không bạn bè, người quen để tránh mang tiếng có quá trình tín dụng xấu (bad credit history) hoặc bỏ ngỏ cho nhà băng xiết nợ. Dĩ nhiên người ta còn chờ đợi bàn tay phù phép của đại kinh tế gia Alan Greenspan, Chủ Tịch Quĩ Dự Trữ Liên Bang, có thể chống đỡ nền kinh tế hiện đại và đưa nhân dân Hoa Kỳ vào một thời kỳ huy hoàng và thịnh vượng mới hay ít ra giữ vững hoàn cảnh hiện tại với những gì họ đang có trong tầm tay. Những bản báo cáo lợi nhuận của các công ty vẫn đang trong chiều hướng lạc quan, mức lạm phát được báo cáo là trong vòng kiểm soát. Mức thất nghiệp tháng 03, 2000 là 4.1% và tháng 04 là 3.9%, một con số thấp nhất trong 30 năm qua! Liệu chuyện gì sẽ xảy ra chăng? Chẳng ai biết chắc! Bài viết này không nhằm đem lại câu trả lời trên nhưng với mục đích đem lại một vài kiến thức cơ bản về những nguyên nhân và cách hình thành của nạn lạm phát và thất nghiệp tại Hoa Kỳ, một xứ sở được mệnh danh là thiên đường của người tị nạn chúng ta.

I. LẠM PHÁT
A. ÐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI

Lạm phát là sự gia tăng liên tục và đáng kể trong mức giá (price level). Mặc dù người ta thường gọi bất cứ việc tăng giá đáng kể nào đó là "lạm phát", nhưng ý nghĩa đó không hoàn toàn đúng trong nghành kinh tế học. Ðối với nghành kinh tế học, chỉ gọi là lạm phát khi giá cả tăng liên tục (persistent) và đáng kể (significant). Có người đặt câu hỏi là giá tăng liên tục trong bao lâu mới gọi là lạm phát? Và như thế nào mới là đáng kể? Trừ khi giá cả tăng ở tỉ lệ chẳng hạn 1% một năm thì gọi là đáng kể còn không thì không đáng quan ngại. Còn thời gian tăng liên tục, thật ra "khoảng thời gian" đó vẫn mang vẻ tùy tiện vì chính các kinh tế gia cũng chưa hoàn toàn đồng ý với nhau về thời gian này. Có người cho rằng phải ít nhất ba năm, người khác lại vạch lằn ranh ở mức một năm là đủ. Lý do người ta vạch lằn ranh phân biệt giữa sự tăng giá từng giai đoạn hay dai dẳng chỉ là để phân biệt theo lý thuyết. Trong thực tế, có rất nhiều dữ kiện có thể phát sinh sự tăng giá theo giai đoạn nhưng lại không được coi như là nguyên ủy của sự tăng giá dai dẳng.

Lạm phát được phân loại bằng độ lớn của chúng. Lạm phát chậm (creeping inflation) là lạm phát có mức độ vừa phải và từ từ khoảng 1%-3% một năm. Loại lạm phát này có vẻ không quan trọng lắm nhưng sự thực trong trường kỳ thì lại hao tổn không ít. Nếu mức lạm phát là 3%, mỗi Mỹ Kim sẽ mất đi một nửa giá trị sau 24 năm. Nếu mức lạm phát ở 4% thì chỉ trong ba năm, sức thu mua của một Mỹ Kim chỉ còn lại 85 xu.

Một thái cực khác của lạm phát là lạm phát nhanh (hyperinflation), lạm phát nhanh là loại lạm phát có độ gia tăng cực lớn. Loại lạm phát này không có đường ranh rõ ràng nhưng người ta có thể nhìn thấy tốc độ phi mã của lạm phát dễ dàng vì hàng tháng có thể vượt tới trên 50%. Chẳng hạn tháng 07 năm 1922, chỉ số giá sỉ của Ðức là 100 Ðức Mã. Tháng 12 năm 1923, chỉ số này tăng lên 1,261 tỉ tỉ (trillion). Người dân Ðức mỗi lần đi chợ phải mang theo một va-li tiền. Người công nhân Ðức mỗi ngày lãnh lương hai lần và khi về đến nhà thì tiền của người công nhân chỉ còn 2/3 giá trị. Tiền bạc vào lúc ấy mất hẳn tiêu chuẩn giá trị mà chỉ còn là phương tiện để trao đổi. Ðể dễ dàng nhận ra giá trị đồng bạc trong túi, người ta chỉ cần nhìn vào bảng đối chiếu ngoại tệ mỗi ngày trên báo chí hoặc các phương tiện truyền thông khác là có thể nhận ra sự tăng giảm giá trị này.

Những mức độ lạm phát tiêu biểu được báo cáo thường chẳng là lạm phát chậm mà cũng không là lạm phát nhanh. Ðầu thập niên 80 (1981-1984), mức lạm phát trung bình hằng năm ở Anh là 7.5, Canada 8.4, Pháp 10.6, Ðức 4.3, Ý 15.1, Nhật 2.9, Hoa Kỳ 6.0. Ðối với những nước kỹ nghệ tiên tiến thì mức lạm phát như thế là quá cao để gọi là lạm phát chậm. Với các nước chưa phát triển, ngược lại, người ta còn thấy mức lạm phát cao hơn nhiều. Riêng Hoa Kỳ, những năm cuối thế kỷ vừa qua mức lạm phát được coi là trong vòng kiểm soát nhưng vẫn không thấp hơn mức 3.5%.

B. LẠM PHÁT TẠI HOA KỲ

Cuối năm 1955, có người cho rằng Hoa Kỳ đứng ngoài mức lạm phát thời bình. Lý do người ta ví von như thế là vì tất cả những lần lạm phát nặng tại Hoa Kỳ đều có liên hệ tới chiến tranh. Nói cách khác, lạm phát nặng thường chỉ xảy ra ở Hoa Kỳ nếu không ở thời tiền chiến thì hậu chiến. Hoa Kỳ chỉ bị một lần duy nhất lạm phát nhanh (hyperinflation) là vào thời kỳ Cách Mạng. Ðơn vị tiền tệ lúc ấy được gọi là "Tiền Lục Ðịa" (Continental) do Quốc Hội Lục Ðịa phát hành đã bị mất giá trầm trọng đến nỗi một câu nói chua chát đã ra đời lúc đó: "Not worth a Continental", vô giá trị! Trong thời gian nội chiến Nam-Bắc (Civil War), giá sỉ tăng gấp đôi. Một lần lạm phát trầm trọng khác là vào thời kỳ Thế Chiến I. Sau những lần lạm phát này, giá cả thường ở những giai đoạn "rớt giá", tức là giá cả tụt xuống nhanh hơn cả lúc lên. Chẳng hạn năm 1890, giá sỉ ở mức 20 trong khi năm 1860, giá sỉ ở mãi 30 và năm 1933, giá sỉ tương đương với năm 1889 ( gần 40 năm trước đó!)

Sau Thế Chiến Thứ II, hoàn cảnh đã thay đổi! Giá cả không "rớt" xuống sau chiến tranh. Từ năm 1965-1979, một lạm phát trầm trọng khác đã xảy ra. Tổng sản Lượng Quốc Gia giảm phát, mức giá tăng trung bình hằng năm 5.9%. Mức gia tăng này không chỉ trong những năm chiến tranh Việt Nam nhưng xuyên suốt giai đoạn trên. Ðây là điều không thể chấp nhận, vì thế chính sách tiền tệ được thắt chặt nhờ thế mức lạm phát được đo lường bằng Tổng Sản Lượng Quốc Gia giảm phát đã rơi xuống 4.1% năm 1985. Tuy nhiên cái giá quá đắt phải trả cho cuộc chiến chống lạm phát ấy là nạn thất nghiệp.

II. THẤT NGHIỆP

Mới nghe qua, người ta thường nghĩ thất nghiệp là một hoàn cảnh hiển nhiên dễ dàng để định nghĩa nhưng thực ra không phải như vậy! Chẳng hạn, một người thợ bị sa thải, nhưng sẽ được gọi trở lại nhiệm sở một tháng sau đó, liệu có thể gọi anh ta là thất nghiệp không? Những người bỏ việc vì đồng lương quá ít ỏi thì sao? (Và như thế nào gọi là lương ít ỏi?) Những người thợ thường làm việc bán phần nhưng vẫn thích được thuê mướn để làm việc toàn phần? Hoặc những người không muốn đi kiếm việc nữa vì đã tuyệt vọng? Các dữ kiện cho thấy người ta chỉ được gọi là thất nghiệp khi bị tạm thời sa thải hoặc những người bỏ việc để đi tìm một công việc khác nhưng người ta không kể đến kẻ tuyệt vọng và bỏ lửng trong việc tìm kiếm công ăn việc làm.

Mục tiêu không phải là chấm dứt nạn thất nghiệp, bởi chẳng bao giờ hết nạn này. Có một số thất nghiệp được gọi là "thất nghiệp mài sát" (frictional unemployment), loại thất nghiệp này hiện hữu mọi thời, mọi nước ngay cả những khi nhu cầu lao động đạt tới mức tột đỉnh vượt cả cung, chẳng hạn những công nhân bỏ công việc hiện tại để mưu tìm một công việc khác khá hơn hoặc những người vừa bước vào tuổi trưởng thành, gia nhập lực lượng lao động nhưng chưa tìm được công ăn việc làm. Năm 1944, khi Thế Chiến II đạt tới cao điểm, tại Hoa Kỳ, con số chính thức thất nghiệp được Bộ Lao Ðộng báo cáo vẫn là 1.9%.

Theo phép loại suy thì một vài con số thất nghiệp là cần thiết để nền kinh tế đạt năng xuất. Chẳng hạn trong thị trường thuê mướn nhà cửa, nếu các chung cư đều đã cho mướn cả thì một người muốn di chuyển chỗ ở sẽ gặp trở ngại vì không thể tìm ra chung cư trống để dọn vào. Như vậy một vài căn trống trong chung cư hiển nhiên không phải là phí phạm. Tương tự, một công ty luôn cố giữ đủ mặt hàng theo nhu cầu người tiêu thụ, mặc dù có những mặt hàng nằm chết trên kệ lâu ngày. Những mặt hàng này tưởng là phí chỗ nhưng nếu thiếu chúng, nền kinh tế có thể mất năng xuất. Một đơn vị kinh tế để đạt năng xuất đòi hỏi một vài con số thất nghiệp để mang lại sự linh động cũng như đem lại việc áp dụng kỷ luật trong lao động thêm hữu hiệu.

III. NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT
A. TĂNG GIÁ NGHÀNH CUNG (SUPPLY)

Có rất nhiều dữ kiện có thể đưa tới việc tăng giá nghành cung. Chẳng hạn các liên minh ngoại quốc nâng giá nhập cảng như OPEC (The Organization of Petroleum-Exporting Countries) nâng giá dầu thô gấp 4 lần trong các năm 1973-1974. Giá nhập cảng cũng tăng khi giá trị Mỹ Kim sút giảm trên thị trường trao đổi ngoại tệ. Những lý do khác có thể khiến nghành cung nâng giá như lương nhân công tăng do sức ép của công đoàn, mất mùa hoặc tăng giá do việc độc bá không cạnh tranh.

Không ai chối cãi rằng việc nâng giá nghành cung có thể tạm thời tăng mức giá (price level), nhưng liệu nó có liên tục tăng khiến có thể đưa đến lạm phát không? Rất có thể, tuy nhiên theo lý thuyết có hai lý do sau khiến nó khó có thể đưa đến lạm phát. Trước hết việc nâng giá đột xuất nghành cung thường xảy ra mau chóng và không lập lại những năm sau đó. Giá tăng cao và dừng lại ở mức cao đó có thể một thời gian nhưng không liên tục tăng mãi. Thứ đến, nếu mức giá gia tăng thì mức lương bổng thực sự (real income) sẽ giảm xuống. Kết quả là nạn thất nghiệp sẽ tạo nên sức ép trên lương bổng và giá cả.

Công nhân thường có sức phản kháng rất mạnh mẽ đối với việc giảm sút lương bổng. Như vậy giả như giá xăng dầu tăng, họ sẽ đòi hỏi chủ nhân tăng lương để bù lấp vào khoản tiền tiêu dùng phụ trội đó. Ðể khỏi thất thoát phân lời, chủ phải tăng giá hàng hóa. Giá hàng hóa tăng, nhân công lại đòi tăng thêm lương để bù lấp. "Giá cả - lương bổng - giá cả" như một biện chứng trôn ốc không thể cùng lúc loại trừ toàn diện. Giả như OPEC không tăng giá dâu thô những năm 1973-1974 và 1979-1980, lương bổng công nhân có thể sẽ không tăng nhiều trong những năm sau đó. Như đã mô tả tổng quát về lạm phát, biện chứng trôn ốc "giá cả - lương bổng - giá cả" không đủ sức thuyết phục để giải thích về lạm phát. Tuy nhiên, hễ tăng giá và tăng lương hậu quả hiển nhiên thường là tăng nạn thất nghiệp. Chủ nhân vì muốn duy trì lợi nhuận, nhưng do sức ép của giá cả phải tái phối trí nhân sự để cắt giảm chi phí. Như vậy không thể chối bỏ rằng sự đột biến về giá cả do nghành cung, trong thực tế có thể sẽ là nguyên nhân cho một vài trường hợp lạm phát. Người ta có thể nghi ngờ rằng sự đột biến về giá cả do nghành cung có thể là nguyên nhân quan trọng đưa tới sự lạm phát tại Hoa Kỳ, trừ phi được điều giải bởi sự phát triển của chính sách tiền tệ. Ở Âu Châu, công đoàn mạnh mẽ hơn và dĩ nhiên sức phản kháng về việc giảm sút lương bổng cũng mãnh liệt hơn vì thế sự đột biến về giá cả do nghành cung cũng đóng một vai trò quan trọng hơn nhiều.

B. TĂNG GIÁ NGHÀNH CẦU (DEMAND)

Nếu nghành cầu tăng, giá cả sẽ tăng theo. Nghành cầu tăng ở đây phải được hiểu rộng rãi không chỉ giới hạn trong hàng hóa tiêu dùng nhưng ngay cả việc tăng thuế, tăng hàng nhập cảng hoặc nhu cầu về tiền tệ lưu hành giảm sút. Nghành cầu tăng như thế do xu hướng tiêu thụ tăng, năng xuất đầu tư bị giới hạn, chi phí của chính phủ tăng, hàng hóa xuất cảng, và nhu cầu về tiền tệ lưu hành suy giảm.

Những dữ kiện trên thường đưa tới việc lạm phát hơn là chỉ một lần tăng mức giá. Chẳng hạn, chi phí của chính phủ tăng và nằm ở mức cao thì nghành cầu sẽ tăng và như vậy giá cả cũng sẽ tăng nhưng chỉ tăng một lần chứ không liên tục. Nếu diễn tả bằng ý niệm chuyên môn của nghành tiền tệ thì khi chi phí của chính phủ tăng, phân lời (interest rate) sẽ tăng theo tốc độ. Nếu nghành cầu và giá cả tăng, nhưng chỉ tăng một lần thì tiền lời và mức giá cũng chỉ tăng một lần và không kéo dài. Dĩ nhiên, việc tăng giá sẽ bành trướng theo thời gian. Mặc dù như vậy, nhưng sự lạm phát dai dẳng chỉ thật sự xuất hiện khi chi phí của chính phủ tăng một thời gian dài và ở mức cao.

Sự lạm phát quan trọng dường như không phải là kết quả của sự thay đổi về xu hướng tiêu thụ, nhu cầu tiền tệ, nhập cảng hay xuất cảng. mà nhiều người cho rằng nguyên nhân lạm phát là do việc cung ứng tiền tệ lưu hành (money supply). Trước hết, việc cung ứng tiền tệ lưu hành sẽ mang lại hiệu quả mạnh mẽ trên lương bổng. 10% tăng trong việc cung ứng tiền tệ lưu hành sẽ mang lại 10% mức giá cao hơn. Thứ đến, tốc độ tăng trưởng của tiền tệ sẽ mang lại sự thay đổi trạng thái lạm phát trầm trọng hay không là tùy theo thời gian lâu mau cũng như mức độ tăng trưởng nhiều ít. Sau cùng do kinh nghiệm, người ta nhận ra sự chuyển động hỗ tương giữa tiền tệ và giá cả. Bởi vậy cũng chẳng ngạc nhiên gì khi Milton Friedman đã phát biểu "lạm phát luôn là một hiện tượng của chính sách về tiền tệ". Các nhà kinh tế cũng đồng ý rằng lạm phát trầm trọng thường là hệ quả của việc cung ứng tiền tệ lưu hành.

C. NHỮNG CHÍNH SÁCH CHỐNG LẠM PHÁT

Cách thế hữu hiệu nhất để chống lạm phát là cắt giảm nghành cầu. Vấn đề là hậu quả của việc cắt giảm nhu cầu sẽ đưa tới việc cắt giảm sản xuất, dĩ nhiên sau đó là cắt giảm công nhân và như vậy sự việc lại còn trầm trọng hơn việc cắt giảm giá cả, trừ phi chính sách chống lạm phát đáng tin cậy, khả thi và chính sách áp dụng cho lương bổng linh động đủ. Tháng 10, năm 1979, Ngân Hàng Trung Ương đặt ra những chính sách khắt khe hơn về tiền tệ đồng thời đình chỉ những thay đổi đột biến trong nghành cung để đem mức lạm phát (đo lường theo sự sút giảm của Tổng Sản Lượng Quốc Gia) xuống từ 9.7% năm 1981 xuống 3.8% năm 1983. Nhưng vấn đề không dừng lại ở đó vì nạn thất nghiệp tăng vọt từ 5.8% năm 1979 tới 9.5% năm 1982 và 1983, một giá quá đắt cho nghành sản xuất và điều kiện sinh sống của dân chúng.

Một cách thế khác của chính sách chống lạm phát là chính sách về lợi tức. Chính sách này được dùng để tránh những giá đắt đỏ phải trả. Chính sách về lợi tức nhắm vào sự liên hệ "giá cả-khả năng". Hầu như trong trận chiến chống lạm phát, đối thủ nào cũng mang nặng tính chất phòng thủ và phản kháng. Người công nhân không muốn bị thiệt hại về lương bổng. Giới chủ nhân không muốn mất đi một phần lợi nhuận và chẳng ai muốn mình bị bỏ lại sau lưng trong cuộc chiến. Tình trạng này cũng giống như người đi xem diễn hành. Nếu hàng trước đứng lên để xem cho rõ thì hàng sau không thể thấy gì nếu không đứng vùng dậy! Như vậy rõ ràng rằng chính phủ phải chặt chẽ kiểm soát những đòi hỏi quá đáng của giới công nhân đồng thời phải thích nghi trong việc kiểm soát giá cả hàng hóa mới có thể ổn định tình trạng lạm phát ở mức giá thiệt hại tối thiểu.

Năm 1971, Tổng Thống Richard Nixon đã triệt để áp dụng chính sách này. Ông mạnh mẽ thúc đẩy thợ-chủ ngồi vào bàn làm việc không phải để tranh chấp nhưng để giải quyết vấn đề trong trách nhiệm và lợi ích của xã hội. Ðồng thời với chính sách trên, chính phủ đã rút lại những hợp đồng bất lợi về giá cả khỏi các công ty và cắt bỏ hoặc giảm nhẹ những phần thuế má trên mức sản xuất của các công ty nào thực hiện đúng chính sách lợi tức của chính phủ. Chính sách lợi tức đôi khi cũng được hình thành như một "hợp đồng xã hội" mà các công đoàn thường dùng để điều đình với các chủ nhân. Hình thức "hợp đồng xã hội" này được sử dụng rất thông thường ở nhiều nước Âu Châu nơi các công đoàn hoạt động mạnh mẽ hơn ở Hoa Kỳ.

Chính sách về lợi tức tuy vậy cũng có một số giới hạn. Trước hết, chính sách về lợi tức có vẻ hơi ôn hòa khiến nhiều khi đem áp dụng không đạt được kết quả nhanh và chính xác. Chính sự giới hạn này đã đem lại nhiều tranh luận gay gắt thời Thổng Thống John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson khi các vị này đem ra áp dụng. Thứ đến, nếu đem áp dụng việc kiểm soát lương bổng và giá cả mạnh mẽ dễ gây trở ngại cho việc sản xuất. Chúng ta dựa vào giá cả tương đối để hướng dẫn sản xuất. Tài nguyên được đổ vào nơi cần thiết với giá cả thích hợp. Kiểm soát giá cả có thể làm đình trệ việc phân phối tài nguyên và dĩ nhiên việc sản xuất.

IV. NGUYÊN NHÂN THẤT NGHIỆP

Cách giải thích hiển nhiên nhất của nạn thất nghiệp tăng cao là nghành cầu (Demand) suy giảm. Bất cứ một biến số nào trong nghành cầu như năng xuất giới hạn của đầu tư, xu hướng tiêu thụ. có thể mang đến ảnh hưởng liên hệ. Nạn thất nghiệp, không giống như lạm phát, không đòi hỏi sự thay đổi liên tục trong các biến số. Chẳng hạn, nếu chi phí của chính phủ giảm và dừng lại ở mức thấp thì nạn thất nghiệp tăng và đôi khi sẽ dừng lại ở mức cao.

Những đột biến ở nghành cung (Supply) cũng có thể là nguyên nhân của nạn thất nghiệp. Chẳng hạn, nếu mức sản xuất giảm, các công ty sẽ giảm bớt công nhân hoặc cắt giảm lương thợ. Việc suy giảm kéo dài cách trầm trọng trong nghành sản xuất hiếm khi xảy ra. Tuy nhiên nếu sản xuất tăng chậm hơn dự định khi hợp đồng lương bổng đã được ký kết và rồi lợi tức thựcī được tăng qúa nhanh thì nguy cơ thất nghiệp sẽ đến. Trường hợp giá cả nhập cảng tăng cũng đưa đến tình trạng tương tự. Ðể bảo vệ lợi tức thật sự của mình khi giá cả tăng, công nhân thường đòi hỏi tăng lương. Tuy nhiên nếu sản xuất không tăng, chủ nhân thường tìm cách cắt giảm nhân công để giá thành lao động không thay đổi. Nói cách khác, giới chủ nhân có thể sẽ tăng cho một số nhân công nhưng sẽ cắt giảm một số khác để bù vào chi phí nhân sự. Ở Hoa Kỳ những dữ kiện bên nghành cung thường không đem lại ảnh hưởng nhiều trên nạn thất nghiệp vì hoạt động công đoàn không đủ mạnh và công đoàn thường chỉ nhắm vào lương bổng thành tiền (wage) mà không nhắm vào lợi tức thật (real income). Ở Âu Châu, công nhân nhắm đến lợi tức thật và sinh hoạt công đoàn mạnh mẽ hơn nên sức ép trên giới chủ nhân thường đem lại nhiều khả quan hơn.

Trên một quan điểm nào đó, giới thất nghiệp thường bị chỉ trích là đòi hỏi quá đáng về lương bổng! Nếu giả sử rằng lương bổng của người công nhân nào đó hoàn toàn có tính cách linh động thì có lẽ khi người công nhân đó thất nghiệp, anh ta sẽ sẵn sàng chấp nhận bất cứ công việc nào với bất cứ số lương nào khả dĩ đem lại cho họ công ăn việc làm. Trên một quan điểm khác, người ta cho rằng những người thất nghiệp hầu như là do tự nguyện, vì có rất nhiều người cũng thất nghiệp nhưng họ đã chấp nhận một công ăn việc làm với số lương có thể kém hơn khả dĩ có thể đưa họ ra khỏi sự nghèo đói. Ða số các nhà kinh tế cho rằng người thất nghiệp không nên nói họ không thể tìm ra công việc nhưng chỉ nên nói họ không tìm được việc nhiều tiền như họ vẫn thường có. Rất tiếc hoàn cảnh xã hội đổi thay hàng ngày, vì thế để có một công việc như những ngày trong quá khứ thường. vô vọng. Và tên họ dĩ nhiên đã không được nằm trong bản báo cáo thất nghiệp!


Trở Về Mục Lục Xã Hội và Kinh Tế