HƯỚNG TỚI MỘT CÁCH TIẾP CẬN VĂN HÓA MANG TÍNH MỤC VỤ

Tác giả: Hội đồng Giáo hoàng về văn hóa
Nguồn: vatican.va
Chuyển ngữ: Lm. Giêrônimô Nguyễn Đình Công, 
Giám Đốc Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo tại Việt Nam

MỤC LỤC

Mở đầu: Những bối cảnh văn hóa mới, những lĩnh vực mới của công cuộc loan báo Tin Mừng

I. Đức tin và văn hóa: Một vài chỉ dẫn

– Những Tin Tốt Lành của Tin Mừng cho các nền văn hóa

– Loan báo Tin Mừng và hội nhập văn hóa

– Một cách tiếp cận văn hóa mang tính mục vụ

II. Những thách đố và những cơ hội

– Một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại

– Những bối cảnh “Areopagô” (Công Hội Viện) mới và những lĩnh vực văn hóa truyền thống

– Đa văn hóa và đa tôn giáo

III. Những gợi ý thực hành

– Những mục tiêu mục vụ ưu tiên

– Các tôn giáo và “chiều kích tôn giáo”

– Những cách “thông thường” của việc thực hành đức tin, lòng đạo đức bình dân, những tổ chức giáo dục trong giáo xứ.

– Các trung tâm đào tạo thần học

– Các trung tâm văn hóa Công giáo

– Truyền thông đại chúng và truyền thông tôn giáo

– Khoa học, kỹ thuật, đạo đức sinh học và sinh thái học

– Nghệ thuật và giới nghệ sĩ

– Di sản văn hóa và du lịch tâm linh

– Giới trẻ

Kết luận: Hướng tới một cách tiếp cận văn hóa mang tính mục vụ được canh tân nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.

 

MỞ ĐẦU

Những bối cảnh văn hóa mới, những lĩnh vực mới của công cuộc loan báo Tin Mừng

1. “Ngay từ thời ban đầu Tin Mừng được loan báo, Giáo hội đã biết đến tiến trình của sự gặp gỡ và giao thoa với các nền văn hóa” (Fides et Ratio, 70), vì “một trong những thuộc tính của con người đó là chỉ có thể đạt được tính người cách chân thật và trọn vẹn nhất nhờ vào văn hóa” (Gaudium et Spes, 53). Theo cách này, Tin Mừng là Tin Mừng của Chúa Kitô cho con người và toàn thể nhân loại, “vừa là con vừa là cha của nền văn hóa trong đó con người lăn lộn” (Fides et Ratio, 71), tiếp cận họ trong chính nền văn hóa của riêng họ, là điều thu hút cách thức sống đức tin của họ và dần dần được định hình bởi nó. “Ngày nay, khi Tin Mừng dần dần tiến vào tiếp xúc với các nền văn hóa trên thế giới vượt ra khỏi tầm ảnh hưởng của Kitô giáo, có những nhiệm vụ mới đề ra cho việc hội nhập văn hóa” (Ibid., 72). Cùng lúc đó, một vài nền văn hóa Kitô giáo truyền thống hoặc những nền văn hóa thấm đẫm những truyền thống tôn giáo hàng ngàn năm đang bị mai một. Do vậy, đó không chỉ là vấn đề tháp nhập đức tin vào những nền văn hóa này, nhưng còn là việc đem lại sức sống mới cho một thế giới không còn là Kitô giáo thực sự, trong đó, những tham chiếu về Kitô giáo chỉ có tính cách văn hóa. Trước ngưỡng cửa Thiên niên kỷ thứ ba, Giáo hội trên toàn thế giới phải đối mặt với những tình huống văn hóa mới, những lĩnh vực mới của việc loan báo Tin Mừng.

Đối mặt với những thách đố của “thời đại của chúng ta là thời đại vừa đại thể lại vừa thu hút” (Redemptoris Missio, 38), các Hội Giáo hoàng về Văn hóa muốn chia sẻ về một số lời chứng và những đề xuất thực tiễn. Đó là kết quả của một vài thay đổi trong cách tiếp cận mục vụ mới đối với văn hóa; cảm ơn cách đặc biệt vì sự cộng tác hiệu quả với các Giám mục, như các linh mục giáo phận, và những người cộng tác của họ trong lĩnh vực này của công việc mục vụ như là điểm gặp gỡ với thông điệp của Chúa Kitô. Vì mọi văn hóa là “một nỗ lực để suy ngẫm về mầu nhiệm của thế giới và cách đặc biệt là về mầu nhiệm con người: đó là một cách đưa ra lời giải thích cho khía cạnh siêu việt của đời sống nhân loại. Trái tim của mọi nền văn hóa đó chính là cách tiếp cận đến mầu nhiệm cao cả nhất: đó là mầu nhiệm Thiên Chúa (1). Thách đố mang tính quyết định của cách tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa, bởi vì “một đức tin không trở thành văn hóa là một đức tin không thể chấp nhận cách trọn vẹn, không thông suốt, và không phải là một đức tin sống động”. (2)

Những đề nghị được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đưa ra là yêu cầu cấp bách cho các Hội Giáo hoàng về Văn hóa: “Bạn phải giúp Giáo hội trả lời những câu hỏi căn bản cho những nền văn hóa thời đại: Bằng cách nào để thông điệp của Giáo hội có thể đến được với những nền văn hóa mới, với những hình thức của sự am hiểu và nhạy cảm đương đại? Làm thế nào để Giáo hội của Chúa Kitô có thể làm cho chính mình được thấu hiểu bởi tinh thần của thời đại, rất tự hào về những thành tựu của mình và đồng thời không dễ dàng mở ra cho tương lai của gia đình nhân loại?” (3).

I

ĐỨC TIN VÀ VĂN HÓA: MỘT VÀI CHỈ DẪN

2. Giáo hội là sứ giả của Chúa Kitô, Đấng cứu độ con người. Giáo hội giữ trong mình chiều kích văn hóa của con người và của cả cộng đồng nhân loại. Công đồng Vatican II, đặc biệt là Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay và Sắc lệnh về Hoạt động Truyền giáo của Giáo hội, các thượng hội đồng giám mục về việc loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay và việc dạy giáo lý trong thời đại của chúng ta, được mở rộng bởi Tông huấn Loan báo Tin Mừng Evangelii Nuntiandi của Đức Giáo hoàng Phaolô VI và Tông huấn Catechesi Tradendae của Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II, đã đưa ra những lời dạy quý báu về phương diện này, được xác định thêm bởi những Các Hội đặc biệt tiếp sau, từ lục địa này đến lục địa kia, của Thượng Hội đồng Giám mục và những chuyến tông du của Đức Thánh Cha. Sự hội nhập văn hóa của đức tin là đối tượng của một suy tư chi tiết về phía Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng (4) và Ủy ban Thần học Quốc tế. (5) Thượng Hội đồng ngoại thường năm 1985 để kỷ niệm lần thứ 20 của Công đồng Vatican II, được trích dẫn bởi Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Độ, trình bày điều này như là “sự biến đổi mật thiết của những giá trị văn hóa đích thực thông qua sự hòa hợp với Kitô giáo và sự hội nhập vào Kitô giáo những giá trị văn hóa khác nhau nhân loại” (52). Trong nhiều bài nói chuyện trong suốt chuyến những chuyến tông du, như với những người tham dự Đại hội các Giám mục Mỹ Latinh ở Puebla và Santo Domingo, (6) Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cập nhật và chỉ định chiều kích mới này của công việc mục vụ của Giáo hội trong thời đại chúng ta, nhằm đến với nhân loại trong nền văn hóa của họ.

Việc xem xét kỹ lưỡng những lĩnh vực khác nhau của văn hóa được đề xuất trong tài liệu này chỉ cho thấy bề rộng của cái được gọi là văn hóa, cách đặc biệt trong đó con người và các dân tộc phát triển mối tương quan của họ với thiên nhiên và với anh chị em của mình, với chính mình và với Thiên Chúa, để đạt tới sự hiện hữu trọn vẹn của nhân vị (x. Gaudium et Spes, 53). Văn hóa chỉ có thể tồn tại thông qua con người, nhờ con người và vì con người. Đó là toàn thể của hoạt động con người, trí tuệ và tình cảm của nhân loại, công cuộc tìm kiếm ý nghĩa, phong tục và đạo đức của con người. Văn hóa rất tự nhiên đối với con người đến nỗi con người chỉ có thể được biểu lộ thông qua văn hóa. Trong cách tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa, điều cấp bách đối với nhân loại là được phục hồi hoàn toàn để trở nên được tạo thành “theo hình ảnh giống như Thiên Chúa” (St 1,26), tách họ ra khỏi cơn cám dỗ xem con người là trung tâm khi tự coi mình độc lập hoàn toàn với Đấng Tạo Thành. Bởi đó, và sự quan sát này mang tính quyết định cho việc tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa, “cách đương nhiên phải thừa nhận rằng con người luôn luôn tồn tại trong một nền văn hóa đặc thù, nhưng cũng phải thừa nhận rằng con người không được xác định một cách hoàn trọn bởi chính nền văn hóa đó. Hơn nữa, chính sự tiến bộ của các nền văn hóa chứng minh rằng có một cái gì đó nơi con người vượt trên các nền văn hóa đó. “Cái gì đó” ở đây chính là bản chất của con người: bản chất này tự nó là thước đo của nền văn hóa và là điều kiện đảm bảo rằng con người không trở thành tù nhân của bất kỳ nền văn hóa nào, nhưng để nó khẳng định phẩm giá nhân vị của mình trong một cuộc sống phù hợp với chân lý sâu xa của hữu thể của mình (Veritatis Splendor, 53).

Trong mối tương quan cốt yếu của nó với chân lý và sự thiện hảo, văn hóa không thể chỉ xuất phát từ kinh nghiệm của những nhu cầu, những mối bận tâm và những yêu cầu căn bản. “Khía cạnh đầu tiên và nền tảng của văn hóa”, như Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh với UNESCO, “là luân lý lành mạnh, văn hóa đạo đức”. (7) “Khi những nền văn hóa bén rễ sâu trong nhân tính, thì chúng mang nơi mình tang chứng của sự khai mở đặc biệt của con người tìm đến phổ quát và siêu việt” (Fides et Ratio, 70). Được ghi nhận bằng khuynh hướng đấu tranh để đạt được sự hoàn trọn của mình và những sự sinh động của con người trong lịch sử của mình (Cf. Ibid. 71), các nền văn hóa cũng chia sẻ cả trong tội lỗi, bởi thực tế này, đòi hỏi sự phân định cần thiết của các Kitô hữu. Ngôi Lời của Thiên Chúa mang lấy bản tính nhân loại trong mọi sự chỉ trừ tội lỗi (Dt 4:15), Ngài thánh hóa nó đưa nó, đạt đến sự trọn vẹn trong Thần Khí Chúa. Mặc khải chính mình theo cách này, Thiên Chúa mở lòng cho nhân loại “bằng những việc làm và lời dạy, về bản chất gắn bó với nhau” và cho phép con người khám phá những mầu nhiệm về tình yêu của Ngài “để mời gọi và đón nhận họ vào hiệp thông với chính Ngài” (Dei Verbum, 2).

Đem Tin Mừng đến với những nền văn hóa khác nhau

3. Để mặc khải chính mình, từ những nền văn hóa lâu đời phong phú được xuất phát bởi bản tính nhân loại, Thiên Chúa đã chọn cho mình một dân tộc mà trong nền văn hóa nguyên thủy đó Ngài đã thấu hiểu, thanh lọc và làm cho nó nên phong nhiêu. Lịch sử của Giao Ước là lịch sử của sự phát triển của một nền văn hóa trong đó chính Thiên Chúa gợi hứng cho Dân của Ngài. Kinh Thánh là công cụ được Thiên Chúa muốn dùng để mặc khải chính Ngài, điều này đã nâng nó lên tầm vượt trên cả văn hóa. “Để viết ra các sách Thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong tài năng và sức lực của họ” (Dei Verbum, 11). Trong Kinh Thánh, Lời của Thiên Chúa, là điều tạo nên sự hội nhập văn hóa nguyên thủy của đức tin vào Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, “Lời của Thiên Chúa, được biểu lộ bằng ngôn ngữ của con người, theo nhiều cách thế khác nhau của ngôn ngữ nhân loại” (Ibid., 13). Lời tiên báo trong sách Khải Huyền, được khắc ghi trong Lịch Sử Thánh, luôn luôn trình bày chính mình trong một nền văn hóa không thể tách rời, và trong đó nó là một phần thiết yếu. Kinh Thánh, Lời của Thiên Chúa được biểu lộ trong ngôn ngữ của con người, tạo thành một mẫu mực cho sự gặp gỡ hiệu quả giữa Lời Chúa và văn hóa.

Trong phương diện này, ơn gọi của Abraham mang tính biểu trưng: “Hãy rời bỏ quê hương, gia đình ngươi và nhà cha người” (St 12,1). “ Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều… Vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng” (Dt 11,8-10). Lịch sử của Dân Thiên Chúa bắt đầu với một sự gắn liền với đức tin đồng thời với sự chia rẽ văn hóa và lên đến đỉnh điểm với điều mà chúng ta có thể thấy như một điều gì khác, sự đóng đinh Chúa Kitô vào thập giá. Ngài đã được nâng cao lên khỏi mặt đất, nhưng đồng thời cũng trở nên trung tâm điểm của lịch sử nhân loại được nâng lên và tập hợp trong sự hiệp nhất từ những con chiên tản mác của Thiên Chúa: “Khi Thầy được nâng lên khỏi mặt đất, Thầy sẽ kéo mọi người lên với Thầy” (Ga 12,32).

Sự vượt khỏi văn hóa bắt đầu từ ơn gọi của Abraham, người được gọi là “Cha của những người tin”, truyền đạt điều diễn ra trong sâu thẳm tâm hồn con người khi Thiên Chúa xuất hiện trong sự hiện hữu của con người, biểu lộ chính Ngài và khơi dậy sự gặp gỡ của toàn bộ hữu thể loài người. Abraham đã được nhổ ra khỏi nền văn hóa và đời sống tâm linh của nơi mình ở, được gieo trồng trong đức tin bởi Thiên Chúa trong Đất Hứa. Thực vậy, sự đổ vỡ này nhấn mạnh sự khác biệt nền tảng của bản chất tự nhiên tồn tại giữa đức tin và văn hóa. Khác với những ngẫu tượng, thứ được tạo ra bởi nền văn hóa, Thiên Chúa của Abraham hoàn toàn khác hẳn. Đó là bởi sự mặc khải rằng Ngài đã bước vào cuộc đời của Abraham. Thời gian tuần hoàn theo những tôn giáo cổ xưa đã trở nên lỗi thời: với Abraham và dân Do Thái, một thời gian mới bắt đầu và trở nên lịch sử của con người bước đi trước nhan Thiên Chúa. Đó không phải là một dân tộc tự tạo cho mình một vị thần, nhưng chính Thiên Chúa sinh ra một dân tộc, một dân của Thiên Chúa.

Văn hóa trong Kinh Thánh có một điểm độc nhất. Đó là nền văn hóa của dân Thiên Chúa nơi tâm điểm là Ngài nhập thể làm người. Lời hứa được thực hiện nơi Abraham đạt đến đỉnh điểm trong vinh quang của Đức Kitô chịu đóng đinh. Cha của những người tin, kiên tâm trong việc hoàn trọn lời hứa, tuyên bố hiến lễ của Con Thiên Chúa trên gỗ của cây Thập Tự. Trong Đức Kitô, Đấng đã đến để hoàn tất cho toàn thể tạo thành, tình yêu của Thiên Chúa mời gọi toàn thể nhân loại chia sẻ trong tình con thảo. Thiên Chúa Đấng hoàn toàn khác hẳn chúng ta, biểu lộ chính Ngài trong Chúa Giêsu Kitô như là một với chính Ngài cho chúng ta: “Ngôi Lời của Thiên Chúa Cha hằng hữu, khi Ngài mặc lấy thân phận xác phàm của con người yếu đuối, đã trở nên giống con người” (Dei Verbum, 13). Nhưng đức tin có sức mạnh tác động đến cốt lõi của mọi nền văn hóa và thanh tẩy nó, làm cho nó trở nên sung mãn, phong phú và trổ hoa trong tình yêu vô hạn của Chúa Kitô. Sự đón nhận sứ điệp của Chúa Kitô do đó đã đưa đến cho nền văn hóa hai thành phần căn bản, trong một cách thức hoàn toàn mới, đó là con người và tình yêu. Tình yêu cứu độ của Đức Kitô biểu lộ, vượt trên những giới hạn của bản tính loài người, giá trị sâu thẳm của họ, được sinh hoa kết quả dưới tác động của Ân sủng, ân ban của Thiên Chúa. Đức Kitô là nguồn mạch của nền văn minh tình yêu này, cho con người, những người còn luyến tiếc quá khứ từ thời tội nguyên tổ trong vườn địa đàng, và là điều mà Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, cũng như Đức Giáo hoàng Phaolô VI, không ngừng kêu gọi chúng ta sống thực tại với mọi dân tộc của điều thiện hảo. Vì mối tương quan căn bản của Tin Mừng, đó là của Chúa Kitô và của Hội Thánh, với con người trong bản tính nhân loại là người sáng tạo văn hóa trong chính nền móng của nó. Bằng việc sống Tin Mừng, như hai thiên niên kỷ lịch sử đã chứng minh, Hội Thánh tỏa sáng ý nghĩa và giá trị của cuộc sống, mở rộng tầm nhìn của lý trí và củng cố sức mạnh của đạo đức con người, sống một cách chân chính, đức tin người Kitô hữu biểu lộ tất cả chiều kích sâu thẳm của phẩm giá con người và bản chất siêu nhiên nhiên của ơn gọi làm người (Cf. Redemptor Hominis, 10). Những người tiên phong như Thánh Justin và Thánh Clement Alexandria, Origen và các Thánh Giáo phụ Cappadocia làm chứng cho điều này. Cuộc tiếp xúc thành công này của Tin Mừng với những triết lý khác nhau qua nhiều thời đại được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gợi lên trong Thông điệp Fides et Ratio (cf. 36-48). “Sự gặp gỡ của đức tin với những nền văn hóa khác nhau đã thực sự làm phát sinh ra một thực tại mới” (Ibid., 70), bằng cách này nó tạo ra một nền văn hóa nguyên thủy, trong hầu hết những bối cảnh khác nhau.

Công Cuộc Loan Báo Tin Mừng và sự hội nhập văn hóa

4. Công cuộc loan báo Tin Mừng như vậy bao gồm việc công bố cách rõ ràng về mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô và sứ điệp của Ngài, vì “Thiên Chúa… muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tim 2,4). “Bởi đó, mọi người, nhờ lời giảng dạy của Giáo hội mà nhận biết Người, phải trở lại với Người và chịu phép Rửa để sáp nhập vào chính Người và vào Giáo hội, Thân Thể Người” (Ad Gentes, 7). Sự mới mẻ này nảy sinh liên tục nhờ Mặc Khải của Thiên Chúa thông qua “lời nói và việc làm, về bản chất gắn bó với nhau” (Dei Verbum, 2), được truyền thông nhờ Thần Khí của Chúa Kitô hoạt động bên trong Giáo hội, cho thấy sự thật về Thiên Chúa và ơn cứu độ con người. Lời rao giảng của Chúa Kitô “Đấng vừa là trung gian hòa giải vừa là cùng đích của Mặc Khải” (Ibid.), làm nổi bật lên Lời đã được ẩn giấu và đôi khi được chôn giấu trong các nền văn hóa, và mở ra cho họ một một khả năng vô biên mà Ngài đã tạo nên nhờ đó Ngài dần dần lấp đầy với sự hạ mình phi thường của đức khôn ngoan vĩnh cửu (cf. Dei Verbum, 13), biến đổi việc tìm kiếm ý nghĩa của họ trở thành một cuộc tìm kiếm sự siêu việt, và những bước đệm này trở thành nơi neo đậu cho việc chấp nhận Tin Mừng. Bằng cách làm chứng một cách mạnh mẽ đức tin của mình, các môn đệ của Chúa Giêsu đã làm thấm nhuần Tin Mừng vào sự phong phú của các nền văn hóa.

- Đối với Hội Thánh, việc loan báo Tin Mừng có nghĩa là đem Tin Mừng cho mọi tầng lớp nhân loại, và nhờ ảnh hưởng của nó biến đổi nhân loại từ bên trong và làm cho nó trở nên mới mẻ… Đó là câu hỏi không chỉ dành cho việc rao giảng Tin Mừng trong những khu vực địa lý rộng lớn hơn hoặc cho một số lượng người đông đảo hơn, nhưng còn là việc tác động và sự biến đổi của nó thông qua sức mạnh của Tin Mừng, những tiêu chuẩn đánh giá của nhân loại, cách xác định những giá trị, những trọng tâm, những hệ tư tưởng, nguồn cảm hứng và khuôn thước của cuộc sống, là những thứ đối lập với Lời của Thiên Chúa và kế hoạch cứu độ.

- Vấn đề là để loan báo Tin Mừng cho nền văn hóa nhân loại và các nền văn hóa (không phải theo một đường lối mang tính cách trang trí, như nó là, bằng cách gắn vào đó một lớp gỗ mịn bên ngoài, nhưng là theo một đường lối sống động, có chiều sâu và nền tảng) theo nghĩa rộng và phong phú những điều này có trong Gaudium et spes, luôn lấy con người làm xuất phát điểm và luôn trở lại với mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa.

- Tin Mừng, và bởi đó việc loan báo Tin Mừng, chắc chắn không đồng nhất với văn hóa, và chúng độc lập đối với tất cả các nền văn hóa. Tuy nhiên, thế giới mà Tin Mừng được rao giảng được sống bởi những con người có mối liên hệ sâu sắc với văn hóa, và việc xây dựng vương quốc đó không thể tránh khỏi việc vay mượn những yếu tố của văn hóa nhân loại và các nền văn hóa. Mặc dù độc lập với các nền văn hóa, nhưng Tin Mừng và việc loan báo Tin Mừng không nhất thiết phải xung khắc với các nền văn hóa; thay vào đó chúng có khả năng thẩm thấu vào tất cả các nền văn hóa mà không trở nên tùy thuộc vào chúng.

- Sự phân rẽ giữa Tin Mừng và văn hóa không còn nghi ngờ gì nữa là một vở kịch của thời đại chúng ta, cũng giống như của bao thời đại khác. Bởi vậy, mọi nỗ lực phải được đảm bảo là việc loan báo Tin Mừng cách trọn vẹn cho nền văn hóa, chính xác hơn là cho các nền văn hóa. Chúng phải được tái sinh nhờ việc gặp gỡ với Tin Mừng. Nhưng cuộc gặp gỡ này sẽ không diễn ra nếu Tin Mừng không được loan báo” (Evangelii Nuntiandi, 18-20). Để làm được điều này, điều cần thiết là phải loan báo Tin Mừng bằng ngôn ngữ và văn hóa của con người.

Tin Mừng này nhắm đến con người trong tính toàn vẹn phức tạp của nó, tinh thần và luân lý, kinh tế và chính trị, văn hóa và xã hội. Giáo Hội do đó không lưỡng lự nói về việc Phúc Âm hóa các nền văn hóa, đó là về tinh thần, văn hóa và hành vi ứng xử. “Công cuộc loan báo Tin Mừng mới đòi hỏi một nỗ lực nghiêm túc, trật tự và dễ hiểu trong việc Phúc Âm hóa các nền văn hóa” (Ecclesia in America, 70).

Trong khi các nền văn hóa tùy thuộc vào sự thay đổi và có thể suy tàn, thì tính ưu việt của Chúa Kitô là một nguồn mạch bất diệt của sự sống (cf. Cl 1,8-12; Ep 1,8) và sự hiệp thông. Như là những người đem sự mới mẻ thuần túy của Đức Kitô đến với những nền văn hóa khác nhau, các nhà truyền giáo Tin Mừng không ngừng vượt ra khỏi giới hạn của các nền văn hóa, mà không cho phép chính mình bị sập bẫy bởi cái nhìn trần tục về một thế giới tốt đẹp hơn. “Nhưng vì Nước Chúa Kitô không thuộc về thế gian này (x. Ga 18,36), nên Giáo hội, tức Dân Thiên Chúa, hợp thành Nước ấy, không loại bỏ bất cứ một phần di sản trần thế nào của các dân tộc. Thay vào đó Giáo Hội chăm sóc và thu dụng tất cả những gì tốt lành nơi gia sản, nơi nguồn lực và phong hóa của các dân tộc, và khi thu dụng, Giáo Hội tinh luyện, kiện toàn và làm chúng nên cao thượng” (Lumen Gentium, 13). Một người loan báo Tin Mừng, với đức tin gắn liền với một nền văn hóa, luôn luôn phải làm chứng cách rõ ràng về vai trò độc nhất của Chúa Kitô, tính bí tích của Hội Thánh của Ngài, và về tình yêu của các môn đệ Ngài dành cho tất cả mọi người và vì “những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8), điều này bao hàm việc loại bỏ tất cả những gì là nguồn của tội lỗi và hậu quả của tội trong các nền văn hóa.

5. “Ngày nay, người ta cảm nhận một cách sâu xa nhu cầu phải phúc âm hóa các nền văn hóa và phải hội nhập sứ điệp đức tin vào trong các nền văn hóa” (Pastores dabo vobis, 55). Việc Phúc Âm hóa các nền văn hóa và việc hội nhập văn hóa của Tin Mừng diễn ra cách song hành, trong một mối quan hệ tương hỗ, giả định trước một sự biện phân không ngừng dưới ánh sáng của Tin Mừng, để thuận tiện cho việc đồng nhất các giá trị và phản giá trị trong một nền văn hóa nhất định, để củng cố những giá trị cũ và thiết lập những giá trị mới. “Thông qua việc hội nhập văn hóa Giáo hội làm cho Tin Mừng nhập thể vào những nền văn hóa khác nhau đồng thời giới thiệu cho các dân tộc, cùng với những nền văn hóa của họ, đến với cộng đoàn Giáo hội. Giáo hội chuyển trao cho họ những giá trị của chính mình, và thu nhận những giá trị tốt trong các nền văn hóa và làm cho chúng trở nên mới mẻ. Nhờ hội nhập văn hóa, về phần mình, Giáo hội trở nên dấu hiệu dễ nhận biết hơn về những gì mình là, và là một công cụ hiệu quả hơn cho việc truyền giáo” (Redemptoris Missio, 52). “Nhu cầu và yếu tính” (Pastores dabo vobis, 55), hội nhập văn hóa, rất khác với cái nhìn lạc hậu theo kiểu khảo cổ học và rập khuôn theo kiểu trần tục, mà đó là “được mời gọi để đem sức mạnh của Tin Mừng vào trong lòng của văn hóa và các nền văn hóa”. Trong cuộc gặp gỡ này, các nền văn hóa không những chẳng mất mát điều gì, mà chúng còn thực sự được khuyến khích mở ra đón nhận cái mới mẻ của chân lý Tin Mừng và tìm thấy trong đó một sự khích lệ cho một sự phát triển hơn trong tương lai. (cf. Fides et Ratio 71).

Để đáp ứng những đòi hỏi khách quan của đức tin và sứ vụ của nó trong việc loan báo Tin Mừng, Hội Thánh lưu tâm đến sự thật thiết yếu rằng cuộc gặp gỡ của đức tin và văn hóa là cuộc gặp gỡ của những điều không có cùng một trật tự. Sự hội nhập của đức tin và việc Phúc Âm hóa các nền văn hóa đi đôi với nhau như một cặp không thể tách rời, trong đó không có dấu vết của sự đồng bộ hóa: (8) đây là ý nghĩa đích thực của sự hội nhập. “Việc hội nhập văn hóa này phải đương đầu với nhiều nền văn hóa rất dị biệt và đôi khi đối nghịch nhau như hiện có trong nhiều vùng khác nhau trên thế giới, để rồi trở thành một hành vi tuân phục đối với lệnh truyền của Đức Kitô về việc rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc đến tận cùng bờ cõi trái đất. Vâng lời ở đây không có nghĩa là chủ trương pha trộn, cũng không đơn thuần có nghĩa là thích nghi việc loan báo Tin Mừng, nhưng nói lên sự kiện Tin Mừng thâm nhập một cách sống động vào trong các nền văn hoá, vượt qua những yếu tố văn hóa không dung hợp với đức tin và đời sống Kitô hữu, nâng cao giá trị của các nền văn hóa đến tận mầu nhiệm cứu độ phát xuất từ Đức Kitô” (Pastores dabo vobis, 55). Các Hội đồng Giám mục liên tiếp, bao gồm của Châu Phi và Châu Âu, và Tổng Hội nghị lần thứ tư của các Giám mục Châu Mỹ Latinh tại Santo Domingo, nhấn mạnh đến tầm quan trọng phổ quát của việc loan báo Tin Mừng, để việc hội nhập được hiểu trong ánh sáng của những mầu nhiệm cao trọng của ơn cứu độ: Mầu Nhiệm Chúa Kitô Nhập Thể, sự sinh hạ trong ngày lễ Giáng Sinh, mầu nhiệm Khổ Nạn, Mầu nhiệm cứu độ trong ngày lễ Phục Sinh, và Lễ Ngũ Tuần – cho phép mọi người, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, được nghe những kỳ công của Thiên Chúa bằng chính ngôn ngữ của mình. (9) Các dân tộc đã tụ họp trong Căn Phòng Trên Gác trong ngày lễ Ngũ Tuần đã không nghe thấy bằng ngôn ngữ riêng của mình về một bài diễn thuyết về văn hóa của họ, nhưng họ đã kinh ngạc khi nghe, bằng ngôn ngữ riêng của từng người, các Tông Đồ tuyên xưng về những kỳ công của Thiên Chúa. “Một đàng, không thể cô lập sứ điệp Tin Mừng cách hoàn toàn hay cách đơn thuần khỏi nền văn hóa mà trong đó nó được đưa vào lần đầu... hoặc cũng không thể cô lập nó khỏi các nền văn hóa mà trong đó nó đã được diễn tả từ nhiều kỷ nguyên… Đàng khác, động năng của Tin Mừng là động lực biến đổi và tái sinh khắp nơi (Catechesi Tradendae, 53). “Đang khi mời gọi những thính giả đón nhận đức tin, thì sự loan báo Tin Mừng trong các nền văn hóa khác nhau không ngăn cản những tín hữu duy trì một căn tính văn hóa riêng… và cổ võ những điều, hàm chứa trong mỗi nền văn hoá, mặc nhiên dẫn đến sự giải thích đầy đủ trong chân lý” (Fides et Ratio, 71).

“Với mối quan hệ gần gũi và mật thiết tồn tại giữa Đức Giêsu Kitô và Lời mà Giáo hội loan báo, sự hội nhập của sứ điệp được mặc khải là không thể trừ khi làm theo một một lô-gic phù hợp với Mầu Nhiệm Cứu Độ… đó là sự tự hủy, mầu nhiệm tự hạ này cần thiết cho việc suy tôn, đó là con đường của Chúa Kitô và của mỗi người môn đệ của Ngài (cf. Pl 2,6-9), làm lan tỏa ánh sáng của cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa với Đức Kitô với Tin Mừng của Ngài. “Mỗi nền văn hóa cần được biến đổi nhờ các giá trị Tin Mừng trong ánh sáng của Mầu Nhiệm Phục Sinh” (Ecclesia in Africa, 61). Làn sóng mạnh mẽ của chủ nghĩa thế tục đang lan rộng qua các nền văn hóa khác nhau, khai thác sức mạnh tiềm ẩn của truyền thông, thường xuyên lý tưởng hóa những lối sống trái ngược với nền văn hóa của các Mối Phúc và sự noi gương Chúa Kitô; nghèo khó, khiết tịnh, vâng phục và khiêm nhường trong lòng. Thật vậy, có những tác phẩm lớn của văn hóa được gợi hứng bởi sự ác và có thể kích động sự ác. “Bằng cách đề xuất Tin Mừng, Giáo hội tố cáo sự hiện diện của tội lỗi trong các nền văn hóa và giải thoát chúng khỏi tội lỗi. Giáo hội kết án các giá trị đối nghịch và trừ khử chúng. Giáo hội cung cấp một cơ sở để phê bình cho các nền văn hóa… phê bình về sự thờ ngẫu tượng, nói cách khác là về các giá trị được đề cao lên như những thần tượng hoặc về các giá trị được các nền văn hóa coi là tuyệt đối.” (10)

Một cách tiếp cận mang tính mục vụ

6. Để phục vụ cho việc loan báo Tin Mừng và do đó cho cùng đích của con người trong kế hoạch của Thiên Chúa, cách tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa bắt nguồn từ chính sứ vụ của Hội Thánh trong thời đại của chúng ta, trong sự nhận thức mới mẻ về những yêu cầu của nó như đã được đề ra bởi Công đồng Vatican II và các Thượng Hội đồng Giám mục. Sự nhận thức về khía cạnh văn hóa của sự hiện hữu nhân loại đem đến một sự chú ý đặc biệt trong lĩnh vực này của công việc mục vụ. Được gắn chặt trong nhân học và đạo đức học Kitô giáo, cách tiếp cận mục vụ này đề ra một kế hoạch văn hóa Kitô giáo lấy Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ con người, làm trung tâm của vũ trụ và lịch sử (cf. Redemptor hominis, 1) phạm vi của sự đổi mới hoàn toàn đời sống con người “bằng cách mở ra những cánh đồng rộng lớn của văn hóa cho quyền năng cứu độ của Ngài.” (11) Trong lĩnh vực này, những phương tiện cách thực tế là vô hạn, vì cách tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa chú trọng đến những hoàn cảnh thực tế để dẫn họ đến sứ điệp phổ quát của Tin Mừng.

Để phục vụ cho việc loan báo Tin Mừng, là điều cấu thành nên sứ mạng thiết yếu của Giáo hội, là ân sủng, và là ơn gọi riêng của Giáo hội và là chân tính sâu xa nhất của Giáo hội (cf. Evangelii Nuntiandi, 14), công việc mục vụ, trong việc tìm kiếm “những phương thức thích hợp nhất và hiệu quả nhất để truyền thông sứ điệp Tin Mừng cho người thời đại chúng ta” (Ibid., 40) sử dụng những phương tiện bổ túc: “Phúc Âm hóa là một diễn tiến phức tạp gồm nhiều yếu tố: Canh tân nhân loại, làm chứng, loan báo công khai, dấn thân trong cộng đoàn, chấp nhận những dấu chỉ, làm việc tông đồ. Những yếu tố này có vẻ đối lập nhau, thực ra chúng bổ túc và làm giàu cho nhau. Luôn luôn phải nhìn chúng trong sự liên hiệp với những cái khác” (Ibid., 24).

Một công cuộc loan báo Tin Mừng được thúc đẩy nhờ những nỗ lực mục vụ cho phép các cộng đoàn Kitô giáo đón nhận, cử hành, sống và truyền đạt đức tin của mình bằng chính văn hóa của mình, trong “sự tương hợp với Tin Mừng và sự hiệp thông với Giáo hội hoàn vũ” (Redemptoris Missio, 54). Đồng thời, nó khẳng định sự mới mẻ hoàn toàn của Mặc Khải trong Chúa Giêsu Kitô và nhu cầu về sự biến đổi được minh chứng như là kết quả của cuộc gặp gỡ Đấng Cứu Độ: “Này đây, Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5).

Điều này cho thấy sự quan trọng của những công việc đặc thù của việc thấu hiểu trong đức tin và lòng trung thành và của sự biện phân trong mục vụ được xem là phận vụ của các nhà thần học và các mục tử. Sự đồng cảm với những ai nhất định tiếp cận với các nền văn hóa cách nhau bằng “những ý niệm và ngôn ngữ của những dân tộc khác nhau” (Gaudium et Spes, 44) vì để thông truyền sứ điệp Tin Mừng thì không thể không có sự biện phân rõ ràng, trong viễn cảnh của những vấn đề lớn và nghiêm trọng nổi lên từ những nghiên cứu khách quan về những hiện tượng văn hóa đương đại, mà các mục tử không thể xem nhẹ mức độ nghiêm trọng của chúng. Vấn đề quan ngại là ở việc cải hóa con người, và qua họ, cải hóa các nền văn hóa, Kitô hóa nét đặc trưng của các dân tộc (cf. Evangelii Nuntiandi, 20).

II

NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ NHỮNG CƠ HỘI

Một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại (Gaudium et Spes, 54)

7. Những điều kiện trong đó con người thời nay sống trong những thập niên cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai đã thay đổi sâu sắc đến nỗi Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh về “một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại” (Gaudium et Spes, 54). Đối với Giáo hội, đó như là một thời cơ mới, khi thời gian chín muồi cho một công cuộc loan báo Tin Mừng mới trong đó những nét đặc trưng mới của văn hóa được nhìn nhận như vừa là những cơ hội vừa là những thách đố cho cách tiếp cận mục vụ với các nền văn hóa.

Giáo hội thời đại chúng ta nhận thức rất rõ về những điều này, đó là thành quả của những nỗ lực của các Đức Giáo hoàng, là những người đã mở mang và nối kết các giáo huấn xã hội của Giáo hội, từ Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự) năm 1891 đến Thông điệp Centesimus Annus (Bách Chu Niên) năm 1991. Điều đó đã gợi hứng cho Liên hiệp các Hội đồng Giám mục và Các Thượng Hội đồng Giám mục để khai triển những cách thế thực hành phù hợp với những hoàn cảnh đặc thù của đất nước họ. Trong khi có những khác biệt rất lớn trong các môi trường, thì vẫn có những yếu tố phổ biến chung trong cách thế thực hành.

Trong bối cảnh văn hóa chiếm ưu thế hơn trong những khu vực khác nhau trên thế giới ngày nay, quyền ưu tiên được dành cho tiêu chí và sự chắc chắn chủ quan về chân lý (cf. Fides et Ratio, 47). Những giả định của các nhà chứng thực về tiến trình của khoa học và kỹ thuật ngày nay xem ra có vẻ đáng nghi vấn. Sau sự thất bại nặng nề của chủ nghĩa cộng sản vô thần Marx – Lenin, hệ tư tưởng đối lập – chủ nghĩa tự do – đang cố gắng với những nỗ lực của mình để đem lại hạnh phúc cho nhân loại và bảo đảm phẩm giá cho mỗi nhân vị. Một thuyết vô thần thực dụng lấy con người làm trung tâm, sự thờ ơ với đời sống tôn giáo cách rõ ràng, bao gồm tất cả chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa hưởng thụ đang đẩy đức tin ra bên lề, làm cho nó xuất hiện cách mờ nhạt, thiếu tính văn hóa và sự phù hợp, trong bối cảnh của “văn hóa kỹ thuật và khoa học đang thịnh hành ngày nay” (Veritatis Splendor, 112). “Trong bối cảnh của một nền văn hóa đã phi Kitô hóa một cách sâu rộng, những tiêu chuẩn phán đoán và lựa chọn mà các tín hữu còn lưu giữ lại thường là xa lạ hoặc đối nghịch với những tiêu chuẩn của Tin Mừng” (Ibid, 88). Trong dịp tổ chức kỷ niệm 25 năm ban hành Hiến chế Phụng Vụ thánh, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc lại: “Sự thích ứng với các văn hóa đòi hỏi một sự hoán cải nội tâm, và nếu có thể được, thì đó là những đoạn tuyệt với những tập tục tổ tiên không thích hợp với đức tin công giáo. Điều đó đòi hỏi một sự huấn luyện nghiêm túc về thần học, lịch sử và văn hóa, và đòi hỏi một sự phê phán lành mạnh để phân biệt cái gì là cần hoặc hữu ích, hoặc trái lại là bất lợi hoặc nguy hiểm cho đức tin” (Vicesimus quintus annus, 16).

Tiến trình đô thị hóa nhanh chóng và sự mất gốc văn hóa

8. Dưới nhiều sức ép khác nhau, như sự nghèo đói và những vùng nông thôn đang phát triển thiếu thốn những nhu yếu phẩm và những dịch vụ thiết yếu, ở một số quốc gia, những cuộc xung đột vũ trang đã buộc hang triệu người rời bỏ quê nhà và văn hóa của mình, sự gia tăng số người di cư đang làm số dân cư ở cùng quê ít đi và các thành phố lớn thì quá tải. Ngoài các áp lực về xã hội và kinh tế này, các thành phố còn có một sự mê hoặc về các thú vui và hạnh phúc mà chúng có, được mô tả cách hào nhoáng nhờ các phương tiện truyền thông xã hội. Vì không có kế hoạch phát triển, các vùng ngoại biên và ngoại ô của các đô thị lớn giống như những khu nhà ổ chuột. Những nơi này thường tập trung rất đông những người không có nguồn gốc xã hội, không có quyền chính trị, bị thiệt thòi về kinh tế và bị cô lập về văn hóa.

Sự mất gốc văn hóa, có rất nhiều nguyên nhân, cho thấy rằng nguồn gốc văn hóa là điều quan trọng biết bao. Nó góp phần làm mất đi phẩm giá, đặc tính văn hóa và xã hội của con người. Những người sống như thế rất dễ trở thành mồi cho những việc kinh doanh hạ thấp phẩm giá con người. Trong thế kỷ này, như chưa từng có trước đây, con người đã chứng tỏ họ có khả năng và nhiều tài năng thế nào. Nhưng, đồng thời, xuyên suốt dòng lịch sử cũng có rất nhiều sự chối bỏ và xâm phạm phẩm giá con người, là kết cục cay đắng của việc chối bỏ và lãng quên Thiên Chúa. Sự phân rẽ văn hóa hạn chế các giá trị trong phạm vi cá nhân: điều này làm thay đổi các giá trị đạo đức và làm suy yếu đời sống tâm linh đến mức người ta đi đến một khái niệm đáng sợ của “văn hóa sự chết”, một sự vô nghĩa và mặt từ ngữ về nền văn hóa trái nghịch cho thấy một sự mâu thuẫn xấu xa giữa sự khẳng định về một khao khát được sống và một sự khăng khăng chối bỏ Thiên Chúa, là nguồn của mọi sự sống (cf. Evangelium Vitae, 11- 12 và 19-28).

“Phúc Âm hóa nền văn hóa đô thị là một thách đố khó khăn cho Giáo hội. Giống như Giáo hội đã có thể truyền giáo cho nền văn hóa nông thôn qua nhiều thế kỷ, ngày nay Giáo hội cũng được mời gọi trong cùng cách thức ấy đảm nhận một công cuộc loan báo Tin Mừng cho vùng đô thị cách sâu rộng và có phương pháp thông qua việc giảng dạy giáo lý, cử hành phụng vụ và cách thức chính yếu là các tổ chức mục vụ của mình” (Ecclesia in America, 21).

Truyền thông đại chúng và công nghệ thông tin

9. “Công Hội Viện đầu tiên của thời hiện đại là lãnh giới truyền thông, một lãnh giới đang liên kết nhân loại lại và đang biến nhân loại thành cái gọi là “khu làng hoàn vũ”. Phương tiện truyền thông xã hội đã trở nên quan trọng đến nỗi, đối với nhiều người, là phương tiện chính để trao đổi tin tức và giáo dục, để hướng dẫn và tác động hành vi cử chỉ nơi cá nhân, gia đình và trong xã hội nói chung… Chính việc truyền bá phúc âm hóa cho văn hóa tân tiến ngày nay một phần lớn tùy thuộc vào ảnh hưởng của truyền thông… Cũng cần phải đưa sứ điệp vào “nền văn hóa mới” do các phương tiện truyền thông tân tiến tạo nên nữa. Đây là một vấn đề phức tạp, vì “nền văn hóa mới” này bắt nguồn chẳng những từ bất cứ những gì được tỏ hiện ra dần dần, mà còn ở chính những cách truyền đạt mới, với ngôn từ mới, với kỹ thuật mới và với một thứ tâm lý mới (Redemptoris Missio, 37). Sự tiến tới của một xã hội thông tin là một cuộc cách mạng văn hóa thực sự: chẳng hạn như, truyền hình, chuyển đổi ngôn ngữ và trình bày những biểu tượng mới. Điều này “bao hàm việc định hình lại những yếu tố cơ bản mà con người thấu hiểu về thế giới xung quanh mình, xác định lại và diễn đạt những gì họ nắm bắt được… Truyền thông có thể được dùng để rao giảng Tin Mừng hoặc đưa nó vào trong sâu thẳm tâm hồn con người. (12) Thông tin “thời sự” được cung cấp bởi truyền thông đại chúng làm giảm bớt tác động của khoảng cách và thời gian nhưng, quan trọng hơn, nó tác động đến cách mọi việc được tiếp nhận: những gì con người được biết đến thì không phải là thực tế, mà là những gì chúng được thể hiện. Vì thế, sự lặp lại liên tục của những mục thông tin được chọn lựa bao hàm việc làm giảm óc phê bình và đây là nhân tố quan trọng trong việc hình thành điều được xem là dư luận.

Ảnh hưởng của truyền thông là không có giới hạn, đặc biệt là trong lĩnh vực quảng cáo, (13) “các Kitô hữu được mời gọi trở nên sáng tạo và đổi mới, để có thể tiếp cận với hàng trăm ngàn người đang dành một lượng lớn thời gian mỗi ngày để xem truyền hình hoặc nghe chương trình phát thanh. Truyền hình và đài phát thanh có thể là phương tiện hình thành và phát triển văn hóa, và cả cho việc loan báo Tin Mừng nữa, một cách thức để tiếp cận với những người không có liên hệ gì với Tin Mừng hoặc với Giáo hội trong một xã hội đã bị tục hóa. Cách tiếp cận mục vụ bằng văn hóa phải đưa ra được câu trả lời tích cực cho câu hỏi trọng yếu của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Liệu rằng vẫn còn một chỗ cho Chúa Kitô ở trong truyền thông truyền thống?” (14)

Sự đổi mới đáng kinh ngạc nhất của công nghệ truyền thông, không chút nghi ngờ nào, đó chính là Internet. Giống như tất cả các công nghệ mới, Internet bao gồm cả những mối nguy hiểm đã trở nên hiển nhiên trong những trường hợp nó được sử dụng với những mục đích xấu, và điều này kêu gọi một sự thận trọng liên tục và thông tin đáng tin cậy. Nó không chỉ đơn giản làm một câu hỏi cho đạo đức của việc sử dụng Internet, mà còn là những hậu quả hoàn toàn mới mà nó đem lại: sự mất đi giá trị nội tại của thông tin, một sự tương đồng không phân biệt được của những thông tin bị giản lược lại thành thông tin thuần túy, thiếu sự phản hồi có trách nhiệm, và một sự giảm thiểu nhất định trong mối tương quan giữa các cá nhân. Nhưng, không nghi ngờ gì, khả năng rộng lớn của Internet có thể trở nên vô cùng hữu ích cho việc loan báo Tin Mừng. “Điều này được chúng minh bằng những sáng kiến đầy hứa hẹn mà Giáo hội đã thực hiện, kêu gọi một sự phát triển sáng tạo có trách nhiệm cho một “biên cương mới của sứ mạng của Giáo hội” (cf. Christifideles Laici, 44).

Một vấn đề lớn đang ở thế gay cấn. Làm sao mà chúng ta lại không hiện diện và sử dụng mạng lưới thông tin, các màn hình trình chiếu của nó đều có ở mọi nhà, để gieo trồng những giá trị Tin Mừng ở đó?

Bản sắc dân tộc và dân tộc thiểu số

10. Nếu thực tế là họ cùng chia sẻ một bản sắc chung làm cho mọi dân tộc là thành viên của một đại gia đình, nhưng tính cách lịch sử của thân phận con người giải thích họ có khuynh hướng gắn bó với những nhóm phổ biến, từ gia đình họ cho đến dân tộc hoặc quốc gia của họ. Hoàn cảnh con người được xác định ở giữa tính phổ quát và tính đặc thù trong một tình trạng căng thẳng sống động có thể đạt được thành quả ấn tượng nếu nó được sống trong một cách thức quân bình và hòa hợp.

Đây chính là nền tảng nhân học cho các quyền của dân tộc, không gì khác hơn là nhân quyền được xem như là ở cấp độ cụ thể nhất của đời sống cộng đồng. Điều đầu tiên đó là quyền được hiện hữu. “Không ai – không một quốc gia hay dân tộc hoặc một tổ chức quốc tế nào – được biện minh khi khẳng định rằng một dân tộc riêng lẻ nào đó không xứng đáng được tồn tại. (15) Quyền được hiện hữu một cách tự nhiên bao hàm rằng mọi dân tộc đều được hưởng quyền có ngôn ngữ và văn hóa của riêng mình, qua đó một dân tộc thể hiện và bảo vệ chủ quyền văn hóa của mình.

Trong khi các quyền của một dân tộc thể hiện những yêu cầu “đặc trưng”, nó cũng không làm giảm tầm quan trọng của những yêu cầu phổ quát, với những bổn phận đề ra cho mỗi quốc gia được xem như những dân tộc khác nhau và toàn thể nhân loại. Nghĩa vụ chính yếu không chút nghi ngờ gì đó chính là sống trong tinh thần hòa bình, tôn trọng và đoàn kết với các dân tộc khác. Việc giáo dục các thế hệ trẻ sống với sự đa dạng, hội nhập sự đa dạng vào trong bản sắc của mình, đó là nhiệm vụ tiên quyết của việc giáo dục văn hóa, vì các nhóm quá khích thường không do dự sử dụng tôn giáo cho những mục đích chính trị không liên quan gì đến nó.

Trong khi chủ nghĩa dân tộc bao hàm luôn sự khinh miệt hoặc thậm chí là hận thù đối với các dân tộc hoặc các nền văn hóa khác, thì chủ nghĩa yêu nước lại là một đặc điểm thích hợp – nhưng cũng không loại trừ - tình yêu và phục vụ cho dân tộc và quốc gia của mình, xa rời chủ nghĩa toàn cầu hóa như là xa rời chủ nghĩa văn hóa dân tộc. Mỗi nền văn hóa đều khao khát vươn đến tính phổ quát thông qua điều tốt nhất mà nó cống hiến. Các nền văn hóa cũng được mời gọi thanh luyện chính mình qua những chia sẻ của mình ở những sự xấu còn tồn tại, bao gồm những định kiến, những phong tục tập quán, để làm giàu chính mình bằng nguồn của đức tin và để “làm phong phú cho Giáo hội hoàn vũ với những giá trị và những biểu hiện mới” (Redemptoris Missio, 52 and Slavorum Apostoli, 21).

Đồng thời cách tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa cũng trông cậy vào quà tặng của Thần Khí Chúa Giêsu và tình yêu của Ngài “có nghĩa là cho mỗi người và mọi nền văn hóa, để đem họ đến sự hiệp nhất như sự hiệp nhất trọn vẹn của Thiên Chúa Ba Ngôi” (Ecclesia in America, 70).

Những bối cảnh “Công Hội Viện” mới và những lĩnh vực văn hóa truyền thống

Sinh thái, khoa học và đạo đức sinh học

11. Sự phát triển của sinh thái là một dấu chỉ cho thấy con người có một nhận thức mới. Nhưng nó không mới lạ gì đối với Giáo hội: ánh sáng của đức tin làm sáng tỏ ý nghĩa của các tạo vật và mối tương quan giữa nhân loại với phần còn lại của tự nhiên. Thánh Phanxicô thành Assisi và Thánh Philip Nêri là những chứng nhân tiêu biểu cho sự trân trọng thiên nhiên, là điều bắt nguồn từ thực tế rằng thiên nhiên không thuộc về con người nhưng thuộc về Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng nên chúng. Thiên Chúa đã giao cho chúng ta làm người cai quản thiên nhiên (St 1,28), để chúng ta trân trọng thiên nhiên và khám phá được sự thật căn bản của sự hiện hữu của chúng ta (Cf. Centesimus Annus, 38-39).

Sự phát triển mạnh mẽ của kiến thức khoa học cho thấy rằng con người có thể hòa mình vào sự mênh mông của vũ trụ và làm cho họ bị mê hoặc bởi khả năng của chính mình và với thế giới, mà thậm chí không hề nói đến Thiên Chúa là Đấng tạo thành mọi sự trong thế giới này. Điều thách đố cho cách tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa là làm sao để giúp con người khám phá ra sự siêu việt, thuyết phục họ rằng lý trí đúng đắn có thể giúp họ khôn ngoan trong cách sử dụng những thành tựu tốt nhất của xã hội hiện đại, và mời gọi họ dấn bước vào một con đường mới khởi đi từ kinh nghiệm và hiểu biết của nhân loại đến việc nhận biết Đấng Tạo Thành chúng ta. Trong khi điều đó cho phép nó thâm nhập rất tốt vào các nền văn hóa đương đại, thì khoa học lại không thể nắm bắt được kinh nghiệm cốt lõi hoặc sự thật nội tại của mọi việc. Một nền văn hóa bền vững được dựa trên sự siêu việt và quyền năng của Thần Khí trên mọi việc, và việc hòa hợp kiến thức khoa học cũng như siêu hình học. Trong lĩnh vực tri thức, đức tin và khoa học bị chồng chất lên nhau, và các nguyên tắc phương pháp luận của chúng cũng không bị nhầm lẫn. Tốt hơn, họ nên vượt qua sự thiếu ý nghĩa của những lĩnh vực tri thức bị cô lập thông qua việc biện phân, đem đến sự hiệp nhất và tìm lại ý thức hài hòa và toàn vẹn là điểm đặc trưng của một nền văn hóa thực sự nhân bản. Trong nền văn hóa đa dạng của chúng ta, điều khó khăn là phải hòa hợp sự phong phú của tri thức nhân loại, với sự kỳ diệu của những khám phá khoa học và những lợi ích đáng kể của kỹ thuật hiện đại, cách tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa đòi hỏi những suy tư triết học như là điều kiện tiên quyết để đưa ra trật tự và cấu trúc cho một khối lượng tri thức này và, như vậy, khẳng định khả năng của lý trí có thể đón nhận chân lý và chức năng điều chỉnh của nó đối với văn hóa.

“Việc cắt vụn kiến thức cản trở sự thống nhất nội tại của con người hiện nay, vì nó kéo theo sự xích lại từng phần chân lý và, do đó, cũng bẻ vụn ý nghĩa. Làm sao Giáo hội có thể không e ngại? Phận vụ thuộc lãnh vực thông tuệ dành riêng cho các Chủ chăn này, đối với các ngài, thì phát xuất trực tiếp từ Tin Mừng, và các ngài không thể trốn tránh bổn phận phải chu toàn” (Fides et Ratio, 85).

12. Đó cũng là nhiệm vụ của các nhà triết học và thần học gia chân chính để nghiên cứu nền văn hóa kỹ thuật và công nghệ có ảnh hưởng lớn và một cách thành thạo xác định những thách đố của việc loan báo Tin Mừng, kể cả những điểm tiếp xúc tích cực. Do đó, việc đào tạo triết học và thần học cần được xem xét lại, vì việc đối thoại và hội nhập văn hóa phụ thuộc vào một nền thần học hoàn toàn phù hợp với việc cậy dựa vào đức tin. Một cách tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa còn được gọi là các nhà khoa học Công giáo người luôn cống hiến những đóng góp thích đáng của họ cho đời sống của Giáo hội bằng cách chia sẻ những suy tư của họ về cuộc gặp gỡ giữa đức tin và khoa học. Việc thiếu những người vừa có chuyên môn về thần học vừa thông thạo khoa học làm cho sự hiện diện của Giáo hội bị phân mảnh trong lòng một nền văn hóa được tạo ra bởi những nghiên cứu khoa học và những nghiên cứu ứng dụng của nó. Và tuy vậy chúng ta đang sống trong một thời kỳ đặc biệt thuận lợi cho cuộc đối thoại giữa khoa học và đức tin. (16)

13. Trong khi khoa học và công nghệ tự thiết lập những cách thức làm tăng kiến thức, sức mạnh và phúc lợi cho con người, sử dụng chúng một cách có trách nhiệm yêu cầu những tiêu chuẩn đạo đức mà chính chúng lại chẳng thể cung cấp. Khía cạnh đạo đức của những vấn đề khoa học thường được đề ra cho chính những nhà khoa học tiết lộ nhu cầu về một cuộc đối thoại giữa khoa học và luân lý. Đây là cuộc tìm kiếm chân lý, nó vượt lên khỏi những kinh nghiệm khả giác, đem đến những khả năng mới cho một cách tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa nhắm đến việc loan báo Tin Mừng trong giới khoa học.

Sự rộng lớn của phạm vi đạo đức sinh học làm cho nó hoàn toàn hơn hẳn một ngành khoa học; đó là một xu hướng văn hóa với những khía cạnh chính trị và pháp lý, là điều mà Giáo hội xem như là điều quan trọng nhất. Trong thực tế, sự tiến triển của việc ban hành luật trong lĩnh vực đạo đức sinh học sẽ phụ thuộc vào thẩm quyền của các nhà lập pháp, và vào sự lựa chọn của họ về các giá trị. Có một vấn đề hoàn toàn cơ bản cần được đặt ra liên tục: làm sao để các giá trị đạo đức liên hệ đến luật dân sự trong một xã hội đa nguyên (Cf. Evangelium Vitae, 18, 68-74)? Khi những vấn đề đạo đức căn bản này được để lại cho một loạt các nhà lập pháp, đó có phải là một mối nguy hiểm cho việc thiết lập như một quyền theo hiến pháp, những điều khoản đạo đức nào có thể sẽ trở thành một tội?

Đạo đức sinh học là một trong những lĩnh vực nhạy cảm mời gọi con người tìm kiếm những nguyên tắc nền tảng của đức tin, của nhân học và luân lý. Vai trò của các Kitô hữu là không thể thay thế được trong việc hình thành một ý thức xã hội và những nguyên tắc dân sự đạo đức, bằng sự đối thoại nghiêm túc nhưng tôn trọng. Tình huống văn hóa mới này mời gọi một sự trang bị kỹ lưỡng kiến thức về đạo đức sinh học, cho cả các linh mục cũng như giáo dân đang phục vụ trong lĩnh vực quan trọng này.

Gia đình và giáo dục

14. “Gia đình, như là một cộng đồng của con người, là… xã hội nhân loại đầu tiên. Nó nảy sinh ở bất cứ nơi nào có giao ước hôn nhân, nơi mở ra cho các đôi vợ chồng mối hiệp thông lâu dài trong tình yêu và cuộc sống, và nó được hoàn tất cách trọn vẹn và cụ thể với sự sinh sản con cái: sự hiệp thông của vợ chồng làm nảy sinh cộng đoàn của gia đình” (Letter to Families, 1994, 7).

Như là cái nôi của cuộc sống và tình yêu, gia đình còn là cội nguồn của văn hóa. Đó là nơi chào đón sự sống và là ngôi trường nhân bản, nơi những cặp vợ chồng tương lai được giáo dục tốt nhất để trở thành những cha mẹ có trách nhiệm. Tiến trình phát triển này được bảo đảm trong một cộng đoàn của sự sống và tình yêu, trong những nền văn minh nhất định, vượt ra khỏi hạt nhân gia đình và thiết lập, chẳng hạn như, đại gia đình Châu Phi. Và sự bần cùng về vật chất, đạo đức và văn hóa có thể gây nguy hiểm cho sự bền vững của hôn nhân và chặn đứng dòng chảy của cuộc sống. Khi điều này xảy ra, gia đình vẫn phải bảo vệ vai trò căn bản của mình như là nơi chính yếu nhân tính hóa con người và xã hội. Như kinh nghiệm cho thấy, nền văn minh và sự gắn kết xã hội phụ thuộc vào, trên hết, đó là chất lượng con người trong các gia đình; đặc biệt là trong sự hiện diện tương trợ của cả cha mẹ để hoàn thành vai trò của họ như là cha và mẹ trong việc giáo dục con cái. Trong một xã hội mà số lượng người vô gia cư tăng, thì việc giáo dục càng trở nên khó khăn, cũng như sự truyền thông văn hóa được uốn nắn bởi Tin Mừng.

Những hoàn cảnh cá nhân bị đau khổ đòi hỏi sự thấu hiểu, tình yêu và sự liên đới, nhưng những sự tan vỡ bi thương của đời sống gia đình không bao giờ được đưa ra như là hình mẫu mới cho xã hội. Những chính sách và những chiến dịch chống phản gia đình và chống sinh đơn thuần là đang cố gắng điều chỉnh chính khái niệm về “gia đình” đúng vào vấn đề cướp đi ý nghĩa của nó. Trong bối cảnh này, hình thành một cộng đoàn của sự sống và tình yêu nơi hiệp nhất các cặp vợ chồng trong sự kết hiệp với Đấng Tạo Thành như là sự xây dựng văn hóa tốt nhất mà những gia đình Kitô hữu có thể cống hiến cho xã hội.

15. Ngày nay hơn bao giờ hết việc xác định vai trò của phụ nữ trong xã hội là đề tài then chốt của những phản ánh và sáng kiến. Ở một số xã hội đương đại với não trạng “sợ chăm sóc trẻ”, việc chăm sóc con cái bị xem như là một mối đe dọa cho quyền tự chủ và khả năng tự khẳng định của phụ nữ. Điều này phần nào đã làm lu mờ đi ý nghĩa đẹp đẽ của tình mẫu tử. Ghi nhớ sứ điệp của sách Khải Huyền, đã được loan truyền rộng khắp cho dù những thăng trầm của lịch sử và văn hóa Kitô giáo, về sự bình đẳng nền tảng của người nam và người nữ, được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh của Ngài (St 1,27) và thể hiện trong di sản nghệ thuật của Giáo hội, cách tiếp cận mục vụ thông qua văn hóa phải xem xét đến sự thay đổi sâu sắc trong hoàn cảnh của phụ nữ ngày nay: “Trong thời gian gần đây một vài xu hướng trong phong trào nữ quyền, để thúc đẩy phong trào giải phóng phụ nữ, đã cố gắng biến phụ nữ giống đàn ông bằng mọi cách.

Tuy nhiên, sự can thiệp của Thiên Chúa chứng tỏ trong sự tạo thành, mong muốn người phụ nữ ngang bằng với đàn ông trong phẩm giá và giá trị, đồng thời khẳng định cách rõ ràng về sự độc đáo và khác biệt của phụ nữ. Bản sắc của người nữ không thể bao gồm việc là bản sao của người nam.” (17) Các tính cách đặc biệt của cả hai giới song hành với nhau trong một mối quan hệ vợ chồng hỗ tương làm giàu cho nhau trong đó người phụ nữ là nghệ nhân tiên phong cho một thế giới nhân bản hơn.

16. “Nhiệm vụ hàng đầu và thiết yếu của văn hóa nói chung,” (18) giáo dục là điều mà, từ thời Giáo hội sơ khai, đã là một trong những lĩnh vực đáng chú ý nhất trong hoạt động mục vụ của Giáo hội, ở mức độ văn hóa và tôn giáo cũng như cá nhân và mặt bằng xã hội, bây giờ phức tạp hơn và quan trọng hơn bao giờ hết. Nó trước hết là nhiệm vụ của các gia đình, nhưng đòi hỏi sự giúp đỡ của toàn xã hội. Thế giới ngày mai phụ thuộc và sự giáo dục hôm nay, và giáo dục không thể chỉ đơn thuần là sự chuyển trao kiến thức. Nó đào tạo và chuẩn bị cho con người sự tham gia vào đời sống xã hội bằng cách thúc đẩy sự trưởng thành về tâm lý, trí tuệ, văn hóa, đạo đức và tinh thần của họ.

Vì vậy, thách đố của việc loan báo Tin Mừng cho thiếu nhi và giới trẻ, từ trường phổ thông cho đến đại học, đòi hỏi một chương trình giáo dục để phúc âm hóa nền văn hóa. Giáo dục trong gia đình, nơi nhà trường và đại học “kiến tạo một mối quan hệ sâu sắc giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhưng còn làm cho cả hai bên trở thành người chia sẻ tình yêu và sự thật, đó là mục đích tối hậu mà mọi người được mời gọi bởi Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Letter to Families, 16). Giáo dục không chỉ hình thành nhân cách, nhưng còn bắt đầu hướng họ vào đời sống xã hội và quyền công dân, vào mối tương quan dựa trên sự tôn trọng quyền và nghĩa vụ, trong tình thần cởi mở và đoàn kết, và với việc sử dụng vừa phải của cải cũng như sở hữu sẽ đảm bảo điều kiện sống cho mọi người. Tương lai của nhân loại sẽ tùy thuộc vào sự phát triển toàn diện của con người và sự đoàn kết của tất cả mọi người (Populorum Progressio, 42). Bằng nhiều cách thức khác nhau, những gia đình, nhà trường và đại học được mời gọi đưa men của Tin Mừng vào thiên niên niên kỷ thứ ba này.

Nghệ thuật và giải trí

17. Trong một thế giới dường như ngày càng bị ám ảnh bởi những sự hưởng thụ nhất thời, sự quyến rũ của lợi ích, sự theo đuổi lợi nhuận và sự quan trọng thái quá của sự sở hữu vật chất, thật đáng ngạc nhiên khi nhận biết một niềm đam mê bền vững, thậm chí đang phát triển đẹp đẽ. Nó có thể mang nhiều hình thức khác nhau, nhưng tất cả những điều này dường như cho thấy một khát vọng về “một thứ gì đó không thể hiểu thấu được”, điều mà cho chúng ta thấy sự kỳ diệu và mầu nhiệm ở trong mọi thứ và thậm chí vượt trên chúng. Bằng trực giác, Giáo hội đã nhận thức được điều này ngay từ những buổi đầu và hàng thế kỷ của nghệ thuật Kitô giáo minh họa một cách tuyệt vời điều này. Mỗi tác phẩm nghệ thuật thực sự là một cách thức hiệu quả trở thành kinh nghiệm Kitô giáo. Việc nhận ra tầm quan trọng của nghệ thuật trong việc hội nhập văn hóa của Tin Mừng có nghĩa là nhận ra rằng thiên tài và sự nhạy cảm của con người cũng na ná giống với chân lý và sự thật của mầu nhiệm thiêng liêng. Giáo hội bày tỏ lòng trân trọng sâu sắc đối với tất cả các nghệ sĩ, bất kể niềm tin tôn giáo của họ, vì các tác phẩm nghệ thuật truyền tải một tư tưởng vô hình, vì nó là Nghệ thuật, giống như mọi hoạt động khác của con người, nhìn vượt ra khỏi chính nó để đến mục tiêu thực sự của chính nó: Tính cao quý của nó đến từ việc hướng đến cùng đích tối hậu của con người.

Nơi các nghệ sĩ Kitô giáo, Giáo hội nhận ra khả năng phi thường trong việc diễn tả những cách thức mới và những định nghĩa mới về những dấu hiệu hoặc những ẩn dụ qua các thiên tài phụng vụ tài hoa trong tất cả khả năng sáng tạo của mình, miệt mài trong hàng thế kỷ của những hình điêu khắc Công giáo với khả năng biểu lộ sự hiện diện ở khắp mọi nơi của ân sủng.

Đồng thời, di sản văn hóa phong phú của Giáo hội Công giáo, trong hình thức những tài sản văn hóa của nó, làm chứng cho sự cộng sinh hiệu quả của văn hóa và đức tin. Nó hình thành một nguồn bất tận cho vẻ đẹp và nguồn tài nguyên bền vững cho một nền giáo dục văn hóa, cũng là một cách dạy giáo lý thực sự, được kết hiệp trong chân lý của đức tin cho vẻ đẹp đích thật của nghệ thuật (cf. Sacrosanctum Concilium, 122-127). Như là những hoa trái của một cộng đoàn sống đức tin mãnh liệt, và tiếp tục sống như thế, những kho tàng văn hóa của Giáo hội không nên chỉ nhìn bằng những thuật ngữ văn hóa, nếu không sẽ làm mất ý nghĩa của chúng. Chúng có thể là nguồn cảm hứng thực sự cho nhân loại trong buổi đầu của thiên niên kỷ thứ ba.

18. Thế giới của giải trí và thể thao, du ngoạn và du lịch, không thể phủ nhận rằng đó là một yếu tố quan trọng trong nền văn hóa hiện đại, cùng với nó là giới lao động, trong đó Giáo hội đã hiện diện từ lâu, và do đó trở thành một diễn đàn mới của việc loan báo Tin Mừng. Khái niệm “công việc” đang thay đổi cách sâu sắc, không thể phủ nhận rằng điều này tác động đến việc giải trí và các hoạt động văn hóa. Từ nhu cầu sống lâu năm dẫn đến việc kiếm ăn hằng ngày (cf. Laborem Exercens 1), công việc là một trong những phương tiện để đáp ứng lại mong muốn mãnh liệt của sự tự thỏa mãn, ngang tầm với các hoạt động văn hóa. Ở một nơi nào đó khác, những cách thức mới của việc tổ chức lao động, là một phần của tiến trình phát triển kinh tế và công nghệ, diễn ra đồng thời với việc gia tăng thất nghiệp ở mọi tầng lớp xã hội. Điều này không chỉ làm phát sinh sự nghèo nàn về vật chất, mà còn gieo vào những nền văn hóa đó những hạt giống nghi ngờ, bất mãn, sỉ nhục và thậm chí là tội ác. Sự bấp bênh của điều kiện sống như vậy và sự nhu cầu thiết yếu của cuộc sống thường khiến mọi người coi các yếu tố văn hóa nghệ thuật là thừa thãi và dành riêng cho một nhóm người ưu tú có đặc quyền.

Đã trở nên phổ biến mang tính quốc tế, thể thao có một vị trí trong tầm nhìn của Kitô hữu về văn hóa và có thể thức đẩy cả sức khỏe thể chất và các mối tương quan giữa người với người. Tuy nhiên, thể thao có thể bị đánh mất ý nghĩa bởi lợi ích thương mại hoặc trở thành phương tiện để cạnh tranh giữa các chủng tộc, quốc gia hoặc bộ lạc, và làm gia tăng sự bùng nổ bạo lực thường xuyên cho thấy sự xung đột và mâu thuẫn là một phần của xã hội đương đại, và do đó trở thành phản văn hóa. Vì vậy, đây là lĩnh vực cần chú trọng của cách thức mục vụ hiện đại. Không kể đến những sự phong phú và phức tạp và sự hỗn độn của những biểu tượng và tính thương mại, các hoạt động giải trí và thể thao kiến tạo không chỉ một bầu không khí mà còn cả một nền văn hóa, một lối sống và hệ thống giá trị. Đường lối mục vụ thích nghi tốt sẽ tìm thấy nơi đó tất cả những giá trị mang tính giáo dục chân thực và là bàn đạp để ca ngợi mọi thứ trong bản tính nhân loại vốn phong phú, trong hình ảnh của Thiên Chúa và, giống như Thánh Tông đồ Phaolô, loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa (cf. 1 Cr9,24-27).

Đa văn hóa và đa tôn giáo

19. Điều đáng chú ý nhất về thế giới trong đó ngày nay Giáo hội thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng đó là sự đa dạng của các bối cảnh văn hóa được phát triển từ những quan điểm của các tôn giáo khác nhau. Điều này ảnh hưởng đến mọi châu lục và mọi quốc gia, vì ngày càng thường xuyên có nhiều sự trao đổi mang tính hội nhập văn hóa và liên tôn giáo trên hoàn cầu.

Điều này đã được đưa ra trong Hội nghị đặc biệt cho Châu Phi của Thượng Hội đồng Giám mục. Ở đó Kitô giáo và Hồi giáo đã tiếp xúc với các tôn giáo truyền thống, điều này vẫn còn phát triển cho đến ngày nay, vì chúng thấm vào văn hóa Châu Phi và đời sống xã hội của các cá nhân và cộng đồng. Khi việc truyền giáo ở Châu Phi bắt đầu, các giá trị văn hóa tích cực của những tôn giáo này không phải lúc nào cũng đủ trang trọng để được tích hợp với Tin Mừng. Ngày nay, đặc biệt từ Công đồng Vatican II, Giáo hội nhận ra những giá trị tôn giáo này và khuyến khích giá trị phù hợp với Tin Mừng. Đó là mảnh đất mầu mỡ để nuôi dưỡng những cuộc trở lại với Chúa Kitô. “Người Châu Phi có một cảm thức tôn giáo sâu sắc, một ý thức về sự linh thiêng, về sự hiện hữu của Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và của một thế giới tâm linh. Thực tại tội lỗi trong những hình thức xã hội cũng như cá nhân của nó hiện diện rất nhiều trong ý thức của dân tộc này, cũng là nhu cầu về những nghi thức thanh tẩy và đền tội (Ecclesia in Africa, 30-37, 42). Những giá trị tích cực được cất giữ trân trọng trong những nền văn hóa truyền thống này, như ý thức về gia đình, tình yêu và tôn trọng sự sống, sự tôn kính tổ tiên, ý thức đoàn kết và cộng đồng, tôn trọng bề trên và người lớn tuổi, là nền tảng chắc chắn cho sự hội nhập văn hóa của đức tin, bởi đó Tin Mừng thấm nhập và toàn thể nền văn hóa và sinh hoa kết trái (cf. Ibid., 59-62). Tuy nhiên, Tin Mừng Chúa Kitô Đấng Cứu Độ, như được biểu lộ trong Các Mối Phúc (Mt 5,1-12), sẽ đưa ra những thách đố kiên quyết và mạnh mẽ đối với những thái độ từ những truyền thống này những gì đụng độ với Tin Mừng.

20. Những quốc gia thuộc lục địa rộng lớn của Châu Á có những nền văn hóa cổ xưa, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những tôn giáo và những truyền thống phi Kitô giáo, như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thần Đạo, Nho giáo và Hồi giáo, cần được xem xét thật kỹ càng. Châu Á hầu như vẫn chưa chịu ảnh hưởng bởi thông điệp của Chúa Kitô, nhưng điều này không quan trọng bởi vì Kitô giáo vẫn được xem như là một tôn giáo ngoại lai được giới thiệu bởi người phương Tây, là những người vẫn chưa hội nhập đầy đủ, tư tưởng và lối sống trong nền văn hóa của Châu Á? Điều này cho thấy cách thức mục vụ cho nền văn hóa ở lục địa này phải rộng đến mức nào.

Rất nhiều yếu tố thuộc tâm linh và thần bí, như sự thánh thiện, hy sinh, trinh khiết, tình yêu phổ quát, yêu hòa bình, cầu nguyện và chiêm niệm, niềm vui trong Chúa và lòng trắc ẩn, rất sống động trong các nền văn hóa này, có thể dẫn đến đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc lại điều này: “Trước hết là những Kitô hữu ở Ấn Độ, có nhiệm vụ phải rút tỉa từ gia sản giầu có ấy những yếu tố khả dụng với đức tin của họ, để nhờ tư tưởng Kitô giáo gia sản ấy trở thành phong phú” (Fides et Ratio, 72). Các tôn giáo là sự diễn tả sự kiếm tìm Thiên Chúa của nhân loại, và là bằng chứng của khía cạnh tâm linh nơi con người (cf. Nostra Aetate, 2). Trong một thế giới đang bị thống trị bởi chủ nghĩa tục hóa, chúng là một lời nhắc nhở về sự hiện diện thiêng liêng và tầm quan trọng của tâm linh như là phần tinh túy của các nền văn hóa.

Đây là một thách đố mục vụ cam go khi phải bắt đầu từ những nền văn hóa truyền thống phong phú này, như nền triết lý lâu đời của Trung Quốc, và làm sao để hướng những cuộc tìm kiếm thần thánh lâu đời của họ đến sự mở ra cho mặc khải về Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng làm cho chúng ta trở nên chung phần với Ngài nhờ ân sủng trong Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ.

21. Như được nhấn mạnh bởi Hội nghị Đặc Biệt cho Hoa Kỳ của Hội Đồng Các Giám mục, những phần rộng lớn khác của thế giới mà nền văn hóa được định hình cách sâu sắc bởi sứ điệp Tin Mừng đồng thời cũng là con mồi cho sự thâm nhập ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật và lối sống trần tục, điều này đã tự chứng tỏ cách rõ rệt trong sự bài trừ tôn giáo của giai cấp trung lưu và những người có văn hóa.

Giáo hội bảo vệ phẩm giá của con người, đang đấu tranh cho một xã hội trong sạch không có bạo lực, bất công xã hội, tệ nạn lạm dụng mà trẻ em đường phố là những nạn nhân, nạn buôn bán ma túy, ...trong bối cảnh này và để khẳng định tình yêu ưu tiên của mình dành cho người nghèo và những người bị loại trừ, Giáo hội có bổn phận thúc đẩy một nền văn hóa đoàn kết ở mọi tầng lớp xã hội: các cơ quan chính phủ, những cơ quan công cộng và tổ chức tư nhân. Để phấn đấu cho một sự kết hiệp chặt chẽ hơn giữa dân tộc, giữa các xã hội và giữa các quốc gia, Giáo hội sẽ liên kết chính mình với những nỗ lực của con người với thiện chí xây dựng một thế giới xứng đáng hơn với con người. Khi thực hiện điều này, Giáo hội sẽ góp phần: làm giảm những tác động tiêu cực của sự toàn cầu hóa, như sự thống trị của kẻ mạnh trên kẻ yếu thế, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, và sự đánh mất những giá trị của văn hóa địa phương theo hướng đồng hóa sai lầm” (Ecclesia in America, 55).

Trong thời đại của chúng ta, sự thiếu hiểu biết tôn giáo đang nuôi dưỡng những dạng khác nhau của sự đồng bộ hóa giữa những tín ngưỡng cổ xưa và nay đã mai một, những phong trào tôn giáo mới và đức tin Công giáo. Những tệ nạn xã hội, kinh tế, văn hóa và luân lý đóng vai trò là sự chứng minh cho hệ tư tưởng đồng hóa đang ngày càng hiện diện ở nhiều quốc gia. Giáo hội ở đó nhận lãnh những thách đố này cách đặc biệt trong bổn phận loan báo Tin Mừng cho người nghèo, để thúc đẩy công bằng xã hội và phúc âm hóa các nền văn hóa bản địa và các nền văn hóa đô thị đang phát triển. (19)

22. Những quốc gia nơi Hồi giáo thống trị có một thế giới văn hóa của riêng họ, mặc dù có những khác biệt giữa các nước Ả Rập và các nước khác ở Châu Phi và Châu Á. Hồi giáo không chỉ là một tôn giáo theo nghĩa cổ điển của từ ngữ: nó về cơ bản còn là một xã hội với những truyền thống và quyền lập pháp của riêng mình, và tất cả những hình thức của một cộng đồng rộng lớn, hoặc umma, với văn hóa và kế hoạch khai hóa của riêng mình.

Hồi giáo hiện đang phát triển cách nhanh chóng, đặc biệt do những làn sóng di dân từ các nước có tốc độ tăng nhân số cao. Những quốc gia với truyền thống Kitô giáo, ở đó, ngoại trừ Châu Phi, dân số tăng trưởng chậm hơn hay thậm chí không tăng, thường xuyên nhìn thấy sự hiện diện ngày càng gia tăng của các tín đồ Hồi giáo như là một thách thức cho xã hội, văn hóa và thậm chí cả tôn giáo nữa. Những người nhập cư Hồi giáo chính họ, ít nhất là ở một vài nước, cũng đối mặt với những khó khăn lớn được gọi là hòa nhập văn hóa và xã hội. Hơn nữa, sự tha hóa của một cộng đồng truyền thống thường dẫn đến – trong Hồi giáo cũng như các tôn giáo khác – sự mất đi những thực hành tôn giáo nhất định và khủng hoảng bản sắc văn hóa. Sự cộng tác thực sự với Hồi giáo ở mức độ của văn hóa trong sự hỗ tương thực sự có thể nuôi dưỡng những mối quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia Hồi giáo. Sự cộng tác như vậy không ngăn cản các Kitô hữu làm chứng cho đức tin Kitô giáo và mầu nhiệm Ba Ngôi trong mối tương quan với những biểu hiện khác của thuyết độc thần.

23. Những nền văn hóa thế tục có một ảnh hưởng sâu sắc nơi những phần khác nhau của thế giới nơi mà sự gia tăng và phức tạp của những biến đổi văn hóa đã tăng lên. Sinh ra trong những quốc gia có truyền thống Kitô giáo lâu đời, nền văn hóa thế tục này, với những giá trị của nó về sự đoàn kết, cống hiến quảng đại cho người khác, tự do, công bằng, bình đẳng nam nữ, một đầu óc cởi mở, một tinh thần đối thoại và nhạy cảm với những vấn đề sinh thái, vẫn mang đậm dấu ấn của những giá trị Kitô giáo nền tảng đã thấm đậm văn hóa qua hàng thế kỷ và chính sự trần tục hóa đã đem đến những hoa trái cho nền văn minh và nuôi dưỡng những suy tư triết học. Trong thời gian trước thiên niên kỷ thứ ba, những câu hỏi về sự thật, những giá trị, sự hiện hữu và ý nghĩa liên quan đến bản chất con người, cho thấy những giới hạn của sự trần tục hóa điều mà, bất chấp chính mình, đưa ra một cuộc kiếm tìm “chiều kích thiêng liêng của đời sống như là một chất giải độc sau đó cho tình trạng suy giảm nhân bản. Hiện tượng này – được gọi là hiện tượng “hồi sinh đạo nghĩa” – mang một tính cách không phải là không mập mờ, song nó cũng cho thấy đó là một cơ hội tốt… Đây cũng là một “Công Hội Viện” cần phải được truyền bá phúc âm hóa nữa (Redemptoris Missio, 38).

Khi phong trào tục hóa chuyển mình thành chủ nghĩa thế tục vô thần (Evangelii Nuntiandi, 55), có một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về tinh thần và văn hóa, một trong những dấu hiệu đó là mất đi sự tôn trọng con người và sự lan rộng của một loại thuyết duy hư vô nhân học làm giảm giá trị của con người xuống đến bản năng và những khuynh hướng của họ. Thuyết duy hư vô này nuôi dưỡng một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về sự thật rằng “đã được biện minh bởi kinh nghiệm khủng khiếp về điều ác, đánh dấu thời đại chúng ta. Kinh nghiệm bi thảm này đã làm điêu đứng thuyết lạc quan duy lý, là thuyết nhìn thấy trong lịch sử sự phát triển thắng lợi của lý trí, nguồn mạch của hạnh phúc và của sự tự do, thành thử một trong những đe doạ trầm trọng nhất của cuối thế kỷ này là cơn cám dỗ về sự thất vọng (Fides et Ratio, 91). Bằng cách đặt Chúa Kitô trở lại như là yếu tố chủ chốt của sự hiện hữu và khôi phục lại nơi lý trí được soi sáng bởi đức tin, cách thức mục vụ đối với văn hóa có thể củng cố bản sắc Kitô giáo bằng lời mời gọi rõ ràng và hăng say đến với sự thánh thiện. Bằng cách này, các cá nhân và các cộng đoàn có thể tái khám phá được ý nghĩa của việc tìm ra Thiên Chúa đang đến trong mọi hoàn cảnh, và cho sự sống đời sau (Kh 21-22). Những quốc gia đã khôi phục được sự tự do khỏi sự kìm kẹp của chủ nghĩa vô thần Marx – Lenin đã bị một nỗi đau sâu sắc do bạo lực “một sự phân hóa” từ đức tin Kitô giáo: mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên đã bị thay đổi một cách giả tạo; sự phụ thuộc của các tạo vật vào Đấng Tạo Thành đã bị chối bỏ; những chân lý đạo đức và giáo lý của mạc khải Kitô giáo đã bị công kích. “Sự phân hóa” này kéo theo một câu hỏi căn bản về những giá trị tinh túy đối với các Kitô hữu. Những ảnh hưởng cải cách của chủ nghĩa thế tục vô thần lan rộng khắp Tây Âu đến cuối những năm 1960 hiện đang góp phần hủy hoại văn hóa ở Trung và Đông Âu.

Những quốc gia khác với chế độ dân chủ đa nguyên truyền thống, chống lại một nền tảng của một sự tuân thủ tôn giáo và xã hội rộng lớn, đang trải nghiệm một sự bùng phát của sự hỗn độn giữa chủ nghĩa thế tục vô thần và những biểu hiện tôn giáo phổ biến do các làn sóng di cư mang lại. Đây là lý do tại sao Hội nghị Đặc Biệt của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã nêu lên một nhận thức truyền giáo mới.

Các giáo phái và các phong trào tôn giáo mới (20)

24. Con người lại một lần nữa đang kiếm tìm tính chất tâm linh – nhiều hơn cả tôn giáo – theo nhiều cách thế khác nhau, trong một xã hội gợi nhớ đến Công Hội Viện ở thành Athens, bối cảnh của một số cuộc tranh luận lớn của Thánh Phaolô (cf. Cv 17,22-32). Có một nhu cầu cần thiết phải phục hồi khía cạnh tâm linh là điều cũng sẽ mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, và một khát vọng sâu xa để xây dựng lại cơ cấu tổ chức của những mối quan hệ xã hội và tình cảm mà, ở một số quốc gia, đã bị phá hủy bởi sự bất ổn ngày càng gia tăng của đời sống gia đình. Điều này có thể thấy được nơi những nhóm hồi sinh trong Kitô giáo, hoặc trong những hình thức của thuyết đồng bộ hóa là một phần của xu hướng toàn cầu hóa, một cuộc tìm kiếm sự thống nhất vượt trên những tôn giáo riêng biệt.

Nhiều nhóm rất khác nhau có thể được phân loại dưới tiêu đề đa nghĩa của các giáo phái. Một số là thuộc nguồn cảm hứng của thuyết thần bí hoặc ngộ đạo, một số là Kitô hữu bề ngoài, và một số khác, trong một số trường hợp, là thù địch đối với Chúa Kitô và Giáo hội. Những nhóm này thành công hoàn toàn cách rõ ràng vì họ đáp ứng lại những khát vọng bị thất bại. Rất nhiều trong số những người đương thời với chúng ta có thể giao thiệp cách dễ dàng trong những nhóm này và trải nghiệm một cảm giác thuộc về; họ nhận thấy tình cảm, tình anh em, thậm chí sự bảo vệ và an toàn cách hiển nhiên. Những cảm giác này chủ yếu bắt nguồn từ những đáp án đơn giản và rõ ràng mạch lạc nhưng, trên thực tế, là những giải pháp viển vông – như là “Tin Mừng của thành công” – là những giáo phái xuất hiện để đưa ra hầu hết những vấn đề phức tạp, và là một thần học thực dụng đề cao một xã hội ích kỷ và xử sự hết sức tồi tệ. Trong một số trường hợp, những người bị tổn thương tâm lý hoặc bị loại trừ hoặc bị cô lập hoàn toàn trong sự vô danh rất phổ biến trong đời sống thành thị; họ không khó để chấp nhận một viễn tượng tâm linh có thể khôi phục sự hòa hợp đã mất và thậm chí mang lại cảm giác của sự chữa lành thể lý hoặc tâm linh. Điều này cho thấy sự phức tạp và bản chất ngang ngược của các vấn đề trong các giáo phái, điều này liên kết giữa các vấn nạn đang tồn tại với sự bác bỏ chiều kích cơ cấu của các tôn giáo, và được biểu lộ dưới những hình thức và biểu hiện không đồng nhất của tôn giáo.

Tuy vậy, sự tăng nhanh của các giáo phái cũng là sự phản ứng lại với nền văn hóa tục hóa và là hậu quả của những biến động văn hóa và xã hội đã làm đảo lộn tôn giáo truyền thống. một trong những thách đố mà Giáo Hội phải đương đầu là phải vượt qua những người đã chịu ảnh hưởng của các giáo phái, hoặc chịu nguy hiểm đến mình, để loan báo cho họ thông điệp của ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô.

Thực vậy, “một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại”, đã được khám phá ra nhờ Công đồng Vatican II, đang nổi bật lên từ lục địa này sang lục địa khác. Sự nhận biết này đòi hỏi một cách thức mục vụ mới cho nền văn hóa, có thể đảm nhận những thách đố mới này, trong tinh thần của sự nhận thức ấy đã thúc đẩy Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa: “Do đó điều quan trọng đối với Giáo hội, là mối bận tâm của Giáo hội, của một hoạt động mục vụ cẩn trọng và có tầm nhìn xa rồi với văn hóa, và trong một cách thức đặc biệt đối với điều được gọi là nền văn hóa sống, đó là, những nguyên tắc và những giá trị tạo nên đặc tính của một dân tộc” (Letter instituting the Pontifical Council for Cultureop. cit.).

III

NHỮNG ĐỀ NGHỊ CỤ THỂ

Những mục tiêu mục vụ ưu tiên

25. Những thách đố mới của việc Phúc Âm hóa các nền văn hóa được đặt nền trên các nền văn hóa đã được định hình qua hai thiên niên kỷ Kitô giáo cùng những dấu chỉ có liên hệ như trung tâm bối cảnh của thành Areopagô mới, được tìm thấy trong thời đại, mời gọi chúng ta phải có cách thức mới để trình bày thông điệp Kitô giáo, bắt nguồn từ chính truyền thống sống động của Giáo hội và được kéo dài bằng những chứng tá đời sống Kitô đích thực nơi các cộng đoàn Kitô hữu. Yêu cầu chính yếu được đặt ra cho chúng ta là phải tái nhận thức mọi thứ, dựa trên sự mới mẻ của Tin Mừng, được đề xuất bằng một lối tiếp cận mới mẻ và đầy thuyết phục. Trong viễn cảnh của việc chuẩn bị cho Tin Mừng, đối tượng trước hết của việc tiếp cận mục vụ với các nền văn hóa, là làm thế nào để thấm nhuần nguồn sống của Tin Mừng vào các nền văn hóa hầu cải hóa nó từ bên trong và biến đổi nó dưới ánh sáng của mặc khải với nhận thức về con người và xã hội đã hình thành nên nền văn hóa đó, với những ý niệm về con người, gia đình và giáo dục, trường học, tự do và chân lý, lao động và giải trí, kinh tế và xã hội, khoa học và nghệ thuật...

Nhưng thực tế cho chúng ta thấy rằng, nếu chỉ truyền thông bằng lời nói thì không lấy gì đảm bảo được rằng thông điệp của chúng ta gửi đến sẽ được các đối tượng lắng nghe thấu hiểu. Khi các thính giả về cơ bản có thể tiếp nhận thông điệp Tin Mừng được gởi đến, là bởi vì nền văn hóa truyền thống của họ đã thấm nhuần nét Kitô giáo, và nói chung, thông điệp ấy được xử lý tốt qua nền tảng chung về văn hóa và xã hội của họ, những gì được mang đến có thể được thấu hiểu và đón nhận. Với hoàn cảnh đa nguyên văn hóa hiện nay, phải có sự gắn kết giữa chính thông điệp gửi đến với các điều kiện để có thể tiếp nhận thông điệp ấy.

Thành quả của công việc vĩ đại này cần phải được phân định thần loại liên tục, dưới ánh sáng soi dẫn của Chúa Thánh Thần thông qua việc cầu nguyện. Điều này cũng đòi hỏi chúng ta phải được chuẩn bị đầy đủ và được đào tạo thích hợp qua những phương tiện mục vụ đơn giản như các bài giảng lễ, các giờ giáo lý, sứ vụ chung, các trường truyền giáo... cùng với những phương tiện truyền thông hiện đại nhằm tiếp cận với các đối tượng nam nữ thuộc mọi nền văn hóa. Các Thượng Hội đồng Giám mục kể từ sau Công đồng Vatican II đều nhắc nhở điều này ngày một mạnh mẽ hơn với cả giáo dân lẫn các linh mục, tu sĩ. Các Hội nghị Giám mục nhận thấy rằng các ủy ban văn hóa, cơ quan rất quan trọng đối với những nơi còn thiếu, là một lợi khí tuyệt vời để hợp tác trong lãnh vực này. Các ủy ban này có thể thúc đẩy sự hiện diện của Giáo hội trong những lãnh vực phát triển văn hóa khác nhau, và giúp cho việc thúc đẩy nhiều hình thức sáng tạo nhằm gieo trồng đức tin, cũng như bày tỏ và duy trì đức tin ấy. Sau hết, mỗi Giáo hội địa phương nên có một dự phóng văn hóa, như từng có ở một số quốc gia.(21) Đây là những nguyên tắc cần có trong việc tiếp cận mục vụ với nền văn hóa, vốn có lẽ phức tạp hơn trong những đòi hỏi của nó so với việc phúc âm hóa lần đầu tiên với những nền văn hóa phi Kitô.

Các tôn giáo và chiều kích tôn giáo

26. Trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cho mọi người thuộc mọi nền văn hóa, cũng như việc hội nhập văn hóa trong chiều kích đức tin, Giáo hội tiếp cận với các tôn giáo truyền thống, trước tiên ở lục địa Phi châu và Á châu.(22) Các Giáo hội địa phương được mời gọi và khuyến khích nghiên cứu, tìm hiểu về các nền văn hóa truyền thống và các thực hành tôn giáo trong chính nơi hiện diện của mình, để phân biệt được đâu là các giá trị, phong tục, nghi lễ... có thể giúp cho Kitô giáo bám sâu hơn vào nền văn hóa bản địa.

Việc “hồi sinh” và “thức tỉnh” của chiều kích đời tu trong truyền thống Kitô giáo Tây phương tất nhiên cũng đòi hỏi một sự phân định thần loại cách nghiêm ngặt hơn. Đây thường là một vấn đề mang cảm thức tôn giáo hơn là một sự cam kết mang tính cá nhân trước lời mời gọi của Thiên Chúa, trong sự thông hiệp đức tin với Giáo hội. Tuy vậy, không ai có thể phủ nhận rằng ngày càng có nhiều người nam và người nữ ngả sang chiều kích hiện sinh nhân bản mà họ gọi là tâm linh, tôn giáo, hay thần thánh, tùy từng trường hợp. Bên cạnh đó, điều đáng lưu ý ở đây là phần lớn những thứ này lại có tác động trên những người trẻ hoặc những người nghèo, những hoàn cảnh khiến ta phải cẩn trọng lưu tâm hơn, và giúp những người trẻ và những người nghèo này trở lại với Kitô giáo, nhưng lại sớm khiến họ vỡ mộng. Một số người đó sẽ chuyển sang các tôn giáo khác, và một số nữa sẽ bị lôi kéo theo các giáo phái, hoặc chuyển sang dạng thức bí ẩn nào đó.

Khắp nơi trên thế giới, một loạt khả năng mới được mở ra cho việc tiếp cận mục vụ với lãnh vực văn hóa, nhằm mang ánh sáng của Tin Mừng Chúa Kitô đến với trái tim nhân loại. Ở nhiều nơi, cần đến việc tái trình bày đức tin Kitô giáo hầu dễ tiếp cận hơn với các nền văn hóa có tính ảnh hưởng lớn, bởi sự đua tranh có thể xảy ra do việc tràn lan những hình thức đạo đức rườm rà, luộm thuộm.

Nghiên cứu đối thoại và tương quan cần thiết của nó, một sự hội nhập rõ ràng hơn về những gì là đặc nét với Kitô giáo, là một lãnh vực suy tư và hành động ngày càng có ý nghĩa trong việc truyền bá đức tin Kitô giữa những nền văn hóa của chúng ta. Đây là hệ thống liên đới những thách đố cho một lối tiếp cận mục vụ với các bộ mặt văn hóa nơi các giáo phái (x. Giáo hội tại Mỹ châu, 73), đối tượng mà những tác động văn hóa của họ có liên hệ chặt chẽ với những thứ được tạo nên bởi nguyện vọng của chính họ. Hoàn cảnh này đòi buộc chúng ta phải suy tư một cách nghiêm túc hơn về lối sống khoan dung cũng như quyền tự do tôn giáo trong xã hội chúng ta ngày nay (x. Tuyên ngôn về Tự do tôn giáo - Dignitatis Humanae, 4). Lẽ dĩ nhiên, các linh mục và giáo dân phải được huấn luyện kỹ càng hơn để có thể trở nên những con người có khả năng nhận thức được sự khác biệt nơi những giáo phái khác và các lý do đưa đến sự thành công của họ, nhưng chúng ta đừng bao giờ đánh mất đi sự thật rằng vũ khí tốt nhất để chống lại các giáo phái này hệ tại nơi phẩm chất của đời sống Giáo hội. Các linh mục cần phải sẵn sàng đương đầu với những khó khăn mà các giáo phái đem lại, đồng thời cũng phải trợ giúp các tín hữu đang đối diện với nguy cơ đánh mất đức tin và rời bỏ Giáo hội.

Những cách “thông thường của việc thực hành” trong kinh nghiệm đức tin: lòng đạo đức bình dân, những tổ chức giáo dục trong giáo xứ

27. Có một thực tế là, ở những quốc gia mà Kitô giáo chiếm đa số, thì từ bao thế hệ đã định hình nên lối hiểu và sống đức tin ăn sâu vào đời sống cá nhân và xã hội của từng người, hơn kém như thế: những lễ hội địa phương, truyền thống gia đình, những ngày hội khác nhau, các cuộc hành hương,... Điều này tạo nên cả một nền văn hóa có tác động đến tất cả mọi người, một nền văn hóa xây dựng trên đức tin và được cấu thành xoay quanh đức tin. Một nền văn hóa như vậy dường như đang bị đe dọa bởi chủ nghĩa thế tục. Điều quan trọng hiện nay là làm sao có thể hỗ trợ cho những nỗ lực cao hơn nữa nhằm làm hồi sinh những truyền thống Kitô giáo đó. Tuy nhiên, điều này không thể “giao khoán” cho các chuyên viên về lãnh vực bảo tồn các di sản văn hóa hay cho các chính trị gia, những đối tượng mà mục tiêu của họ thường xa lạ, nếu không muốn nói là đối nghịch lại, với đức tin Kitô. Các thừa tác viên hoạt động mục vụ, các cộng đoàn Kitô hữu, và các thần học gia tầm cỡ nên tham gia vào việc này.

Nếu muốn chạm đến trái tim con người, loan báo Tin Mừng và cử hành mầu nhiệm cứu độ qua phụng vụ cho những người trẻ và cả những người lớn tuổi, thì không chỉ đòi buộc chúng ta phải có kiến thức sâu sắc về đức tin của mình, mà còn đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết sâu xa về môi trường văn hóa nữa. Khi mọi người yêu mến nền văn hóa của họ như một phần thiết yếu của cuộc sống, thì chính trong nền văn hóa đó, họ sẽ sống và tuyên xưng đức tin Kitô của mình. Các Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, và cả các giáo dân cần phải có được sự nhạy cảm đối với nền văn hóa này, hầu có thể bảo vệ và phát triển nó trong ánh sáng của các giá trị Tin Mừng, nhất là đối với các nền văn hóa nơi các dân tộc thiểu số. Sự quan tâm đến đối tượng văn hóa như vậy có thể mang lại con đường dẫn đến đức tin và một cuộc sống Kitô hữu tốt đẹp hơn cho những người bất hạnh ngay giữa lòng Giáo hội. Một khi con người đã gắn kết chặt chẽ đức tin sâu sắc của mình với giáo dục và văn hóa, những người ấy trở nên chứng nhân sống động, giúp cho nhiều người khác tái khám phá nguồn gốc Kitô giáo trong văn hóa của họ.

28. Đời sống tôn giáo là ký ức và cả truyền thống, cũng như lòng đạo đức bình dân là minh chứng rõ rệt nhất cho sự hội nhập văn hóa vào đời sống đức tin, bởi vì đó là sự hòa trộn giữa đức tin và phụng tự, cảm xúc và nghệ thuật, cùng sự chân nhận căn tính Kitô giáo của chúng ta trong các truyền thống địa phương. Cũng theo cách thức đó, Mỹ châu, nơi mà về mặt sử học, đã và vẫn đang là nơi giao thoa của các dân tộc, nhìn nhận như một thí dụ đầy ấn tượng về công cuộc Phúc Âm hóa các nền văn hóa một cách hoàn hảo qua diện mạo của Đức Trinh nữ đồi Tepeyac, một khuôn mặt lai giữa thổ dân da đỏ và người Tây Ban Nha, mà chúng ta quen biết đến với tên gọi Đức Mẹ Guadalupe (Giáo hội tại Mỹ châu, 11). Lòng đạo đức bình dân là bằng chứng cho thấy sức mạnh đổi mới của Tin Mừng đã thẩm thấu cách sâu xa trong nền văn hóa. Đó là một trong những cơ hội hàng đầu để mọi người có thể gặp gỡ được Chúa Kitô cách sống động. Cần phải có một sự phân định mục vụ liên tục đối với lòng đạo đức bình dân, để khám phá ra những giá trị tâm linh chân chính nơi nó, và gặt hái được nơi nó những hoa trái phong nhiêu trong Đức Kitô... ngõ hầu có thể dẫn đưa con người tới một sự hoán cải thực thụ và tới một đức ái chân thành (x. số.16). Lòng đạo đức bình dân là cách thế mà con người bày tỏ đức tin của mình cũng như bày tỏ mối tương quan của mình với Thiên Chúa và sự quan phòng của Người, với Đức Trinh Nữ Maria cùng toàn thể các thánh, với những người thân cận với mình, và với những kẻ đã qua đời cũng như với mọi loài thụ tạo, đồng thời, nó cũng củng cố mối ràng buộc giữa chúng ta với Giáo hội. Ở một số vùng nào đó, việc “rửa tội” cho các hoạt động đạo đức bình dân cũng như việc dạy giáo lý có thể là một yếu tố then chốt cho việc Phúc Âm hóa cách sâu xa nhằm hỗ trợ và phát triển nhận thức cộng đồng thực thụ trong việc chia sẻ đức tin, đặc biệt thông qua biểu hiện lòng sùng kính của dân Thiên Chúa như qua các ngày lễ chính yếu của Giáo hội (x. LG, 67). Những phương tiện khiêm tốn này sẵn có nơi hết mọi người, và cho phép các tín hữu bày tỏ đức tin của mình, củng cố nó trong hy vọng và diễn tả nó qua đức ái. Cuộc sống hằng ngày ở nhiều vùng đất được tô vẽ bằng cảm thức sâu sắc về sự thánh thiêng. Một cách tiếp cận mục vụ hợp lý cần thúc đẩy và tận dụng tối đa các địa điểm linh thiêng, các đền thờ, những cuộc hành hương, những ngày thánh và những đêm thánh, các nghi lễ phụng vụ cũng như các buổi chầu, những vật dụng thánh và những bí tích, các cuộc tưởng niệm cũng như các mùa phụng vụ thánh. Ở một vài Giáo phận cũng như một số nhà nguyện thuộc các trường Đại học, người ta tổ chức, ít nhất mỗi năm một lần, cuộc hành hương bằng đường bộ đến một nơi linh thánh nào đó, họa lại bước chân của những người Do Thái khi xưa trong thánh ca lên Đền với niềm vui thực sự khi họ tiến gần đến Jerusalem.

Lòng đạo đức bình dân một cách tự nhiên đòi hỏi những lối diễn tả mang tính nghệ thuật. Do vậy, những người có trách nhiệm trong việc mục vụ cần phải khuyến khích sự sáng tạo trong tất cả mọi lãnh vực như lễ nghi, âm nhạc, bài hát, đến cả việc trang trí... Những vị này cần phải nhận thấy rằng các điều sáng tạo này có tính chất tốt đẹp về cả văn hóa và tôn giáo.

Giáo xứ, “Giáo hội được ươm trồng giữa ngôi nhà của nhân loại” (Tông huấn Kitô hữu giáo dân, 27), là một trong những vốn quý chính yếu trong lịch sử Kitô giáo, và đối với đa số các tín hữu, Giáo xứ vẫn là nơi để họ có thể thực hành đời sống đức tin thường nhật của mình. Sức sống của một cộng đoàn Kitô hữu, hợp nhất trong đức tin, quy tụ nhau quanh bàn tiệc Thánh Thể, sản sinh ra những chứng nhân cho đời sống đức tin sống động và cho tình yêu của Chúa Kitô, đồng thời, Giáo xứ cũng là nơi hình thành nên trung tâm giáo dục tôn giáo sâu sắc cho con người. Trong nhiều hình thức khác nhau, tùy từng độ tuổi và những khả năng của người tín hữu, mà Giáo xứ cung cấp cho họ một sự minh họa thực tiễn về đức tin, như đức tin ấy vốn được cộng đoàn những người tin tuyên xưng và cử hành. Việc huấn luyện trước tiên diễn ra trong Giáo xứ đó là khả năng ra quyết định. Giáo xứ giới thiệu cho dân chúng biết về truyền thống và đưa dẫn họ tới những nền tảng của một đức tin sống động, cũng như tới sự hiểu biết sâu xa về chính Giáo hội.

Trong bối cảnh đô thị hóa phức tạp và đôi khi là nguy hiểm, Giáo xứ hoàn thành chức năng mục vụ của mình như một nơi khai tâm đức tin Kitô giáo và là nơi diễn ra tiến trình Phúc Âm hóa nền văn hóa, nơi ấy, những nhóm khác nhau có thể tìm thấy sự hợp nhất trong một đức tin duy nhất và một cam kết mang tính tông đồ với Phụng vụ Thánh Thể là linh hồn của mọi hoạt động. Là những cộng đoàn đa dạng, các Giáo xứ có vị trí tuyệt vời để đáp ứng nhu cầu của nền văn hóa mới bằng cách tiếp cận mục vụ với nền văn hóa dựa trên sự lắng nghe, đối thoại, và tương trợ lẫn nhau, qua các linh mục, các Giáo dân đã được chuẩn bị tốt về các vấn đề liên quan đến tôn giáo và văn hóa.

Các cơ sở giáo dục

29. “Giáo dục có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy việc hội nhập văn hóa vào với Tin Mừng” (Giáo hội tại Mỹ châu, 71). Giáo dục mang chúng ta từ tình trạng thơ ấu đến tình trạng trưởng thành. Tiến trình này bắt đầu nơi gia đình, đó là môi trường giáo dục tốt nhất. Bất kỳ việc tiếp cận mục vụ nào với nền văn hóa và bất kỳ việc loan báo Tin Mừng cách sâu xa nào cũng phải phụ thuộc vào nền giáo dục, và lấy gia đình làm điểm khởi phát. Đó là nơi đầu tiên mà tiến trình giáo dục con người được bắt đầu.

Nhưng khi các gia đình bị vây bọc bởi rất nhiều vấn đề khác, thì họ không thể một mình đảm đương trách nhiệm giáo dục này. Do vậy, cần đến vai trò quan trọng của các tổ chức giáo dục. Tại nhiều quốc gia, Giáo hội đang mang sứ mạng của một nhà giáo dục và một thầy dạy, qua hoạt động của các nhà trẻ, trường tiểu học, cao đẳng, đại học, và các trung tâm nghiên cứu. Các tổ chức Công giáo này có ơn gọi đặc biệt là mang giá những giá trị Tin Mừng đến trong tâm điểm của nền văn hóa. Để làm được điều đó, các vị hữu trách nơi các tổ chức này phải vạch ra triết lý giáo dục của mình từ thông điệp của Chúa Kitô và từ giáo huấn của Giáo hội. Tuy nhiên, để thi hành sứ mạng của mình, các tổ chức giáo dục như vậy lại phụ thuộc phần lớn vào những phương tiện thường không dễ tìm thấy. Người ta phải chấp nhận thực tế của vấn đề để hiểu rõ những thách đố: Giáo hội có nghĩa vụ phải dành ra một phần đáng kể nguồn nhân lực và tài chính cho việc giáo dục để đáp ứng sứ vụ mà mình đã nhận lãnh từ Chúa Kitô, đó là loan báo Tin Mừng. Trong mọi trường hợp, cần đến những di sản: đó là mối liên kết giữa sự quan tâm về việc đào tạo nhân bản và Kitô hữu cách sâu xa với việc cung cấp một nền đào tạo bài bản và nghiêm túc.(23) Đối với nhiều người trẻ được học hỏi trong các viện giáo dục khắp nơi trên thế giới, mặc dù với những quyết tâm và năng lực của người thầy, nhưng không phải tất cả chúng đều được giáo dục cách đầy đủ.

Trong bức tranh rộng lớn của việc tiếp cận mục vụ với các nền văn hóa và tầm nhìn nhằm cung cấp cho các sinh viên một nền đào tạo cụ thể mà họ có quyền mong đợi, các trường cao đẳng, đại học, và các trung tâm nghiên cứu Công giáo cần quan tâm để đảm bảo có được hoa trái của một cuộc gặp gỡ giữa Tin Mừng và các biểu hiện văn hóa khác nhau. Các tổ chức giáo dục này có thể góp phần trước tiên và không thể thay thế vào việc đào tạo chân chính nơi các giá trị văn hóa, là môi trường lý tưởng cho sự cộng sinh giữa đời sống đức tin và đời sống trí thức. Về mặt này, chúng ta nên lưu ý đặc biệt đến việc giảng dạy triết học, sử học và văn chương, vì chúng là những yếu tố cần thiết cho cuộc gặp gỡ giữa đức tin và các nền văn hóa khác nhau.

Sự hiện diện của Giáo hội trong các đại học và trong nền văn hóa học đường,(24) cùng với những sáng kiến thiết thực làm cho sự hiện diện này có hiệu quả, đòi hỏi sự biện phân cách nghiêm túc và những nỗ lực không ngừng nhằm thúc đẩy một nền văn hóa Kitô giáo mới, được làm cho phong phú bằng những thành tựu tốt nhất trong mọi lãnh vực của sinh hoạt đại học.

Các linh mục, nam nữ tu sĩ, và những giáo dân được chuẩn bị tốt là rất cần thiết cho trách vụ đào tạo nhân bản và Kitô giáo này. Những nỗ lực tham gia của họ sẽ cho phép các tổ chức giáo dục Công giáo mang lại ảnh hưởng trong việc sản sinh ra các chất liệu giáo dục, cũng như cung cấp những giáo viên vừa chính là các chuyên viên văn hóa. Họ cũng có thể giúp truyền bá một mô hình Kitô giáo trong mối quan hệ giữa giáo viên và học viên ngay tại tâm điểm của một cộng đồng giáo dục chân chính. Huấn luyện lương tâm và đào tạo tư duy là một trong những mục tiêu chính yếu trong việc tiếp cận mục vụ với các nền văn hóa.

30. Theo định nghĩa, trường học là nơi mà văn hóa khởi đầu. Ở một số quốc gia, trong nhiều thế kỷ, trường học là nơi mà nền văn hóa Kitô giáo được chuyển trao. Mặc dù tôn giáo không được phép giảng dạy trong các trường học ở phần đông các quốc gia, nhưng không phải mọi quốc gia đều như thế. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng đang phải đối mặt với cùng một vấn đề: mối quan hệ giữa giáo dục tôn giáo và giáo lý Kitô giáo. Có một mối liên hệ hợp lý rằng: những người dạy các lớp vô tôn giáo bắt buộc, trong thực tế, sẽ phải giới hạn các lớp ấy trong việc giáo dục tôn giáo cơ bản. Có lẽ không thể tránh khỏi việc ngày càng có ít người trẻ tiếp cận được với giáo lý xứng tầm với tên gọi của hạn từ này, và cũng không nhận được sự hỗ trợ từ nơi nào khác, văn hóa tôn giáo nơi các thế hệ trẻ này sẽ sớm bị sụp đổ. Do vậy, nhu cầu cấp thiết là phải nhìn lại mối liên hệ giữa giáo dục tôn giáo và việc giảng dạy giáo lý, cũng như cần phải tìm ra được một phương thế mới trong mối liên hệ giữa nhu cầu cần có những thông tin chính xác và vô vị lợi, thứ mà ngày nay đang có nguy cơ biến mất, với tầm quan trọng của các chứng nhân. Trường học và giáo xứ cần phải bổ sung cho nhau trong lãnh vực này. Việc chọn lựa các giáo viên có khả năng nối kết cả hai chiều kích trên rõ ràng là không thể thiếu được. Đây là một thách thức đặt ra cho việc mục vụ, nhưng đồng thời cũng hứa hẹn đem lại nhiều thành công.

Các trung tâm đào tạo Thần học

31. Chúng ta phải thừa nhận rằng, cho đến thời gian gần đây, trong khi tại nhiều quốc gia, việc đào tạo về mặt tôn giáo một cách bài bản đã được đưa ra dành cho các trẻ em trong các gia đình Công giáo, thì ngày càng có nhiều người trẻ không có được nền đào tạo này, và một số người trong họ cho rằng đó là do sự thiếu vắng một nền đào tạo thần học cách nghiêm túc. Yêu cầu đặt ra của họ là một yêu cầu mới và đáng khích lệ, ít là vì ba lý do: Thứ nhất, bởi vì rất nhiều Kitô hữu được giáo dục không thấy được sự trung thành với giáo huấn của Giáo hội và sự tăng triển trong đức tin của mình, trừ phi những người này có thể suy tư về đức tin của mình một cách nghiêm túc như họ làm được về nền văn hóa trần tục hay về đời sống công việc của họ. Thứ hai, những Kitô hữu được giáo dục có sự chuẩn bị tốt hơn để tranh luận về đức tin của mình, họ cũng sẽ có thể giúp ích nhiều hơn trong việc phục vụ khác nhau mà Giáo hội có thể đòi hỏi nơi họ: thừa tác viên của cử hành phụng vụ, giáo lý viên dạy giáo lý cho các trẻ em, chăm sóc mục vụ cho người yếu đau, và chuẩn bị cho họ lãnh các bí tích, nhất là bí tích Rửa tội và Hôn phối. Thứ ba, sau cùng, nếu họ có thể tích hợp công việc của mình với đức tin Kitô giáo, về lâu về dài, điều này sẽ tạo nên một sự thẩm thấu tốt hơn giữa hai yếu tố đức tin và công việc trong chính đời sống của họ.

Nhu cầu cần có một nền đào tạo thần học cách nghiêm túc ngày càng trở nên cấp thiết hơn khi chúng ta đối diện với những thách đố của thời đại, từ sự lãnh đạm tôn giáo đến một thứ chủ nghĩa duy lý bất khả tri. Một kiến thức vững vàng về các nguyên lý đức tin là đòi hỏi tiên quyết không thể thiếu cho một công cuộc truyền giáo đích thực. Một kiến thức như vậy về bản chất trí tuệ, được nội tâm hóa qua việc cầu nguyện và các cử hành phụng vụ, thúc đẩy sự đồng bộ mang tính cá nhân giữa lý trí và đức tin nơi họ, cho phép họ trở nên những chứng nhân cho chính Chúa Kitô và thông điệp cứu độ của Người. Mặt khác, trong một bối cảnh văn hóa được đặc trưng bởi sự hồi sinh của các khuynh hướng nền tảng, không thể phủ nhận rằng, việc đào tạo thần học cách bài bản là phương tiện tốt nhất để chống lại các nguy cơ đe dọa đến nền thờ phượng bình dân và văn hóa thời đại.

Một lối tiếp cận mục vụ tập trung vào việc loan báo Tin Mừng cho các nền văn hóa và tập trung vào việc hội nhập văn hóa vào đức tin bao hàm hai lãnh vực sau: lãnh vực thần học và lãnh vực công tác mục vụ. Cho dù đối với người mới khởi sự hay với những người đã có trình độ chuyên môn nào đấy nói chung, hoặc những người có đủ khả năng chuyên môn được Giáo hội công nhận, thì các khóa học về thần học chắc chắn vẫn được Giáo hội khuyến khích ở bất cứ nơi nào mà việc đào tạo thần học chưa được đáp ứng đủ. Đó là mong muốn của Công đồng Vatican II (x. Hiến chế Gaudium et Spes, 62,7). Đây chắc chắn là một trong những “kênh” truyền thông tốt nhất giữa văn hóa thời đại và đức tin Kitô giáo, và để đức tin thấm nhuần vào trong nền văn hóa ngõ hầu cuộc sống thường nhật có thể được nâng đỡ bằng một nền đào tạo đúng đắn, đồng thời, sự hiểu biết đức tin trở nên mạnh mẽ hơn nhờ việc học hỏi Lời Chúa và truyền thống Giáo hội.

Các trung tâm văn hóa Công giáo

32. Bất cứ nơi nào có cơ hội để hình thành nên, các Trung tâm văn hóa Công giáo luôn đóng vai trò trợ giúp mục vụ to lớn trong lãnh vực văn hóa. Trong nhiều lãnh vực và khía cạnh văn hóa, các trung tâm này có thể giải quyết những vấn đề cấp bách và phức tạp gặp phải trong tiến trình Phúc Âm hóa nền văn hóa và hội nhập văn hóa vào đời sống đức tin. Các trung tâm này khởi đi từ những điểm tiếp xúc đến từ cuộc tranh luận mở rộng với tất cả những ai tạo ra, làm việc trong, và thúc đẩy nền văn hóa, theo tinh thần mà thánh Phaolô tông đồ đã gợi ra trong thư Thessalonica (x. 1 Tx 5,21-22).

Các Trung tâm văn hóa Công giáo là một hiện tượng phong phú và đa dạng, dẫu cho có những khác biệt về danh xưng (các Trung tâm hay phạm vi văn hóa, các học viện, học viện đại học, nhà học,...), về định hướng (thần học, đại kết, khoa học, giáo dục, nghệ thuật,...), về các chủ đề lựa chọn (các xu hướng, giá trị văn hóa, đối thoại liên văn hóa và đối thoại liên tôn, khoa học, nghệ thuật,...), hoặc về các hoạt động của trung tâm (tổ chức các hội nghị, các diễn đàn, khóa học, hội thảo, phát hành ấn phẩm, thư viện, các sự kiện nghệ thuật và văn hóa, triển lãm,...). Khái niệm về một “Trung tâm văn hóa Công giáo” đồng thời mang lại sự đa dạng và phong phú của các trạng huống khác nhau trong một quốc gia: có các học viện được liên kết với một thực thể trong Giáo hội (Giáo xứ, Giáo phận, Hội đồng Giám mục, dòng tu,...) cũng như năng lực từ phía thực thể khác trong Giáo hội Công giáo, nhưng vẫn hiệp thông với Giáo hội. Tất cả các Trung tâm này mang lại những hoạt động văn hóa với một mối quan tâm thường xuyên đến tương quan giữa đức tin và văn hóa, dưới hình thức đối thoại, nghiên cứu khoa học, đào tạo, và thúc đẩy một nền văn hóa mà đức tin hoạt động và sinh hoa kết quả, làm tươi mới và củng cố nền văn hóa đó. Các trung tâm này thu hút sự chú ý qua các dự phóng mang tính văn hóa và các thành tựu đạt được của các nghệ sĩ, tác giả, khoa học gia, triết gia, thần học gia, kinh tế gia, và các phóng viên Công giáo, đồng thời, khuyến khích những cam kết mang tính cá nhân với các giá trị được làm giàu nhờ đức tin vào Chúa Kitô.

Các trung tâm văn hóa phi tôn giáo mang đến cho Giáo hội cơ hội để hiện diện và hoạt động trong lãnh vực biến đổi văn hóa. Các trung tâm này mở ra những diễn đàn công cộng cho phép Giáo hội có thể được biết đến rộng rãi hơn, qua đối thoại sáng tạo, niềm xác tín của Giáo hội về con người, gia đình, công việc, kinh tế, xã hội, chính trị, đời sống quốc tế, và vấn đề môi trường (x. Giáo hội tại Phi châu, 103).

Gần đây, Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa đã công bố danh sách đầu tiên về các trung tâm như vậy, chủ yếu dựa trên thông tin nhận được từ các Hội đồng Giám mục.(25) Tài liệu mang tính quốc tế đầu tiên này về các trung tâm văn hóa Công giáo cho thấy cần phải tạo ra các điều kiện thích hợp để các trung tâm này có thể tiếp cận với việc cải thiện chăm sóc mục vụ dành cho đối tượng văn hóa, đặc biệt nếu các trung tâm này được sử dụng với các kỹ thuật truyền thông hiện đại ngày nay.

Truyền thông đại chúng và truyền thông tôn giáo

33. Đối với những vị hữu trách trong công tác mục vụ, điều đặc biệt cần nhấn mạnh là văn hóa ngày càng mang tính toàn cầu, dưới ảnh hưởng của truyền thông đại chúng và công nghệ thông tin. Tất nhiên, các nền văn hóa khác nhau trên thế giới luôn có mối quan hệ hỗ tương. Nhưng ngày nay, ngay cả những nền văn hóa ít được biết đến nhất cũng không còn bị cô lập. Chúng được hưởng lợi từ sự gia tăng các mối liên hệ, nhưng đồng thời, chúng cũng chịu áp lực từ xu hướng toàn cầu hóa, trong đó, có thể nêu lên ở đây một thí dụ là sự rải rác các dạng thức của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa cá nhân, và phi đạo đức, những thương vụ bạo lực và tình dục rẻ tiền tràn lan khắp nơi trên băng đĩa, phim ảnh, cũng như trên truyền hình và mạng lưới internet, có nguy cơ chiếm ưu thế vượt trên lãnh vực giáo dục. Thêm vào đó, các phương tiện truyền thông đại chúng (mass media) đã phát đi vô số đề xuất tôn giáo liên quan đến các nhóm tôn giáo khác nhau, liên kết với các nền văn hóa cổ đại và hiện đại, tất cả chúng ngày nay đều có cùng sự tiếp xúc trên một nền tảng và cùng một thời điểm.

Về mức độ truyền thông đại chúng, ngay cả hầu hết các đài truyền hình và trạm phát sóng radio Công giáo có quy mô khiêm tốn nhất, đặc biệt là sau này, cũng đóng góp một phần quan trọng vào việc truyền giảng Tin Mừng đến với các nền văn hóa và trong việc hội nhập văn hóa vào đời sống đức tin. Chúng tiếp cận được với mọi người trong mọi hoàn cảnh thường nhật của cuộc sống và do vậy, đã đóng góp mạnh mẽ vào việc phát triển lối sống nơi những con người này. Nơi nào chúng có mặt, các mạng lưới vô tuyến Công giáo cho phép các Giáo phận không có nguồn lực dồi dào có thể hưởng lợi từ công nghệ có sẵn từ các nơi khác, và chúng cũng kích thích trao đổi văn hóa giữa các cộng đoàn Kitô giáo. Điều rất quan trọng đối với các Kitô hữu để trở nên hữu ích không chỉ là tham gia vào các phương tiện truyền thông tôn giáo, mà còn phải tham gia vào mạng lưới truyền thông của chính phủ hay của các hãng tư nhân, vốn rất thường thấy với xã hội hiện nay. Thông qua các phương tiện truyền thông đó, Giáo hội có thể đến với những con người, nếu không, thì việc đến với con người có thể sẽ vượt ngoài tầm với của Giáo hội. Tại các quốc gia phương tiện truyền thông cởi mở hơn với những gì liên quan đến tôn giáo, thì một số Giáo phận có thể sản xuất các chương trình quảng cáo để phát sóng, giới thiệu những giá trị Kitô giáo là những yếu tố thiết yếu của một nền văn hóa vị nhân sinh thực thụ đến với các Kitô hữu. Tại các quốc gia khác, Giáo hội Công giáo còn trao giải cho những chuyên viên tốt nhất. Việc sử dụng những phương tiện truyền thông đại chúng này được xem là hình thức truyền giảng Tin Mừng cách trực tiếp, bởi vì chất lượng và sự nghiêm túc của nó góp phần thúc đẩy một nền văn hóa phù hợp với Tin Mừng.

Các tờ báo và tạp chí hằng ngày cũng như các ấn phẩm Công giáo khác có một tầm ảnh hưởng không chỉ trong đời sống của Giáo hội địa phương, mà còn mở rộng ra với toàn xã hội, bởi vì đó là những dấu chứng cho một đức tin sống động và cho những đóng góp đặc biệt mà các Kitô hữu đã làm với đời sống văn hóa. Tầm ảnh hưởng tiềm năng này mời gọi chúng ta quan tâm đến các phóng viên, nhà báo, các tác gia và các nhà xuất bản, với quan điểm văn hóa mở rộng và với niềm tin Kitô giáo vững mạnh. Khi các ngôn ngữ địa phương được sử dụng cùng với các ngôn ngữ hành chính khác, thì vài Giáo phận cũng xuất bản một tạp chí hay ít nhất một vài bài viết nào đó bằng ngôn ngữ địa phương, để có thể tiếp cận tuyệt vời hơn với rất nhiều gia đình.

Các triển vọng giao tiếp đặc biệt trong truyền thông được cung cấp bởi công nghệ kỹ thuật ngày nay có thể được sử dụng để truyền thông điệp Tin Mừng ra thế giới và mang lại cho văn hóa một linh hồn. Để sử dụng tốt nhất các phương tiện truyền thông tiên tiến nhất hiện nay, thì một cách tiếp cận mục vụ phải thúc đẩy việc huấn luyện các chuyên viên Công giáo: “Để việc tân Phúc Âm hóa được hiệu quả, cần phải am hiểu sâu sắc về văn hóa thời đại chúng ta, trong đó, các dạng thức truyền thông xã hội có sức ảnh hưởng lớn nhất” (Giáo hội tại Mỹ châu, 72). Sự hiện diện của giới Công giáo trong lãnh vực truyền thông xã hội sẽ đạt được hoa trái nhiều hơn nữa nếu các vị mục tử được biết đến với các phương tiện truyền thông này qua các lớp học trong chương trình đào tạo của mình. Tham gia một cách tích cực và có trách nhiệm là phương thế duy nhất để tránh những cạm bẫy có thể có và đối diện với những thách đố trong lãnh vực truyền thông.

34. Việc tiếp cận mục vụ với các nền văn hóa cần đặc biệt chú trọng đến các nhà báo, phóng viên các đài phát thanh và truyền hình.

Những câu hỏi mà họ đặt ra đôi khi gây lúng túng và thất vọng, đặc biệt khi những câu hỏi ấy không cách chi có thể tương thích với thông điệp mà chúng ta phải tranh biện, nhưng chúng lại là những câu hỏi khó khăn mà hầu hết những người đương thời của chúng ta hay đặt ra. Các nhóm khác nhau trong Giáo hội sẽ truyền thông tốt hơn với giới báo chí, và các nguồn lực, các nhà tổ chức và các phương pháp của mạng lưới văn hóa và tôn giáo sẽ được biết đến nhiều hơn nếu ngày càng có nhiều người được huấn luyện đúng đắn về các kỹ thuật truyền thông: nơi tốt nhất để bắt đầu tiến trình này là nơi những người trẻ được đào tạo trong các Chủng viện và các cộng đoàn tu sĩ. Ngoài ra, còn có nhiều giáo dân trẻ có thiên hướng làm việc trong lãnh vực truyền thông. Việc tiếp cận mục vụ với các nền văn hóa sẽ đảm bảo cho họ được chuẩn bị sẵn sàng để hiện diện cách tích cực trong thế giới của truyền thông, truyền hình, sách báo và tạp chí, những người đưa thông tin cũng là điểm tham chiếu hằng ngày cho phần đông những người thời đại chúng ta. Các phương tiện truyền thông trung lập, cởi mở, và chân thực cung cấp cho các Kitô hữu đã được chuẩn bị tốt vai trò tiên phong trong việc truyền giáo. Điều quan trọng là những người này cần được đào tạo kỹ lưỡng và được hỗ trợ tốt. Như một cách thức khuyến khích sự sáng tạo với thành phần luân lý, tâm linh và nghệ thuật căn bản, một vài Giáo hội địa phương đã tổ chức các liên hoan phim điện ảnh và truyền hình, cũng như trao các giải thưởng theo phong cách của Giải thưởng điện ảnh Công giáo. Một vài hiệp hội và các cộng đoàn nghề nghiệp, với mục đích thúc đẩy ngành báo chí trong sạch bằng các phương pháp huấn luyện hiệu quả, đã xây dựng nên quy chế đạo đức truyền thông, một bản quy tắc ứng xử dành cho các nhà báo, và họ cũng đã lập nên một Hội đồng về đạo đức truyền thông. Những hiệp hội khác cũng đã lập nên các nhóm hỗ trợ cho các chuyên viên trong lãnh vực công nghệ thông tin, tạo ra một loạt các buổi nói chuyện chuyên đề về các vấn đề đạo đức, tôn giáo, và văn hóa, và dành nhiều ngày để tĩnh tâm và kiểm thảo lại đời sống.

Khoa học, kỹ thuật, đạo đức sinh học và sinh thái học

35. Trong nhiều thế kỷ, và mặc dầu có nhiều sự hiểu nhầm, nhưng toàn thể Giáo hội và xã hội đã được hưởng lợi rất nhiều từ những thành quả của các Kitô hữu thông thạo các ngành khoa học mang tính thực nghiệm và chính xác. Giờ đây, các định đề mang tính khoa học đã bị loại ra, Giáo hội phải cảnh giác với những đóng góp, các vấn đề và thách thức mang tính khoa học, kỹ thuật, và công nghệ sinh học mới. Cả khoa học lẫn kỹ thuật đều có phần đóng góp vào lãnh vực văn hóa. Tạp chí văn học y khoa Ars Medica có tầm quan trọng căn bản đối với nhân loại, và vì thế, điều đặc biệt quan trọng là cần phải tuân theo các mô hình thay đổi hiện tại của nó, nhưng đồng thời cũng dựa trên công việc của các giáo sư được công nhận và các thần học gia về luân lý xác thực để hiểu sâu hơn về Chân Lý trong lãnh vực khoa học này. Sự phát triển của lối tiếp cận đa ngành một cách chặt chẽ sẽ giúp cho việc tạo ra một môi trường thuận lợi cho đối thoại giữa khoa học và đức tin, điều đã được thực hiện trong những thập kỷ gần đây. Nếu muốn đạt đến sự thành công, thì một lối tiếp cận mục vụ với văn hóa đòi hỏi phải có được:

− Một nền đào tạo do các chuyên gia tư vấn có trình độ cả về khoa học vật lý lẫn khoa học đời sống, cũng như thần học và triết học, những vị này có thể thể hiện bản thân qua internet, radio, hay truyền hình, và những người này có thể giải quyết rất nhiều điểm tranh luận và tiệm cận giữa đức tin và khoa học, cụ thể như: sáng tạo từ hư không, sáng tạo không ngừng, sự tiến hóa, bản chất năng động của thế giới, chú giải bản văn và nghiên cứu khoa học, vị thế và vai trò của con người trong vũ trụ, mối tương quan giữa khái niệm vĩnh hằng và cấu trúc không gian hữu hạn của vũ trụ vật lý, khoa học luận,...

− Mạng lưới liên kết truyền thông nối kết các tín hữu Công giáo, những người giảng dạy tại các học viện Công giáo ở cấp độ cao học, đại học công lập, các cơ sở giáo dục tư thục, và các trung tâm nghiên cứu, cũng như mạng lưới liên kết với các học viện khoa học, các hiệp hội công nghệ kỹ thuật với các Hội đồng Giám mục.

− Việc thành lập các học viện bảo vệ sự sống hay những nhóm nghiên cứu chuyên đề về chủ đề này, được điều hành bởi những vị giáo sư được Giáo hội chân nhận về phẩm chất nghề nghiệp và lòng trung thành của họ với giáo huấn của Giáo hội.

− Báo chí và ấn phẩm Công giáo mang tính đại chúng, được quản trị bởi các tín hữu thực sự có phẩm chất trong lãnh vực này.

− Các nhà xuất bản sách Công giáo, những người có thẩm quyền có thể đưa ra những định hướng với số lượng ngày càng gia tăng của các bài báo khoa học, các đánh giá, nhận xét mang tính khoa học, và các ấn phẩm khác.

− Gia tăng nguồn lực sẵn có nơi các giáo xứ, sách vở, các bài viết, phim ảnh, và một sự cởi mở với các ý kiến tham khảo có liên quan đến mối tương quan giữa khoa học, kỹ thuật, và đức tin.

− Một lối tiếp cận mục vụ như vậy sẽ tạo ra và duy trì được sự tăng trưởng trong chiều kích tâm linh sâu sắc nơi các khoa học gia.

Nghệ thuật và giới nghệ sĩ

36. Liên kết mỹ học với việc theo đuổi sự thiện hảo và tìm kiếm chân lý hẳn nhiên là một trong những gân mạch chính yếu được thực hiện ngày nay bằng cách thức tiếp cận mục vụ với các nền văn hóa nhằm có thể loan báo Tin Mừng theo cách thế phù hợp với những dấu chỉ của thời đại. Quan tâm mục vụ dành cho các nghệ sĩ đòi hỏi phải có sự nhạy bén về cái đẹp cũng như các giá trị Kitô giáo. Trong nền văn hóa của chúng ta, nơi thường tràn ngập những hình tượng sáo rỗng và đầy tính bạo lực được trình chiếu trên các kênh truyền hình, rạp chiếu bóng, và băng đĩa mỗi ngày, thì một sự kết hợp hiệu quả giữa Tin Mừng và nghệ thuật sẽ mang lại những biểu thị mới về cái đẹp, sản sinh ra từ sự chiêm ngắm Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người, từ sự suy niệm về các mầu nhiệm của Người, và từ sự tỏa rạng của các mầu nhiệm ấy qua Đức Trinh Nữ Maria và các thánh (x. ĐGH Gioan Phaolô II, Thư gửi các nghệ sĩ, 04/4/1999).

Ở cấp độ học viện, sự đa dạng hóa và phân mảnh mời gọi việc đối thoại canh tân giữa Giáo hội, các học viện nghệ thuật và các tổ chức xã hội. Từ các giáo xứ đến các linh mục tuyên úy, từ các Giáo phận đến các Hội đồng Giám mục, từ các chủng viện đến các học viện đào tạo và các đại học, việc tiếp cận mục vụ thúc đẩy các tổ chức có khả năng phát huy đối thoại hiệu quả với giới nghệ sĩ và thế giới nghệ thuật. Các Giáo hội địa phương tách lìa mình khỏi nghệ thuật không thể có được một sự tiếp cận đổi mới, cần phải tận dụng các cơ hội thích hợp để gặp gỡ giới nghệ sĩ và các chuyên gia khác trong thế giới nghệ thuật.

Ở cấp độ sáng tạo, kinh nghiệm chỉ cho chúng ta thấy rằng, trong những điều kiện không thuận lợi cho một nền văn hóa thực thụ, giả định là thiếu đi sự tự do, Giáo hội Công giáo đã hành động như người bảo vệ và ủng hộ cho văn hóa và nghệ thuật, và nhiều nghệ sĩ đã tìm thấy nơi Giáo hội môi trường để họ có thể thực hiện sự tự do sáng tạo của mình. Vai trò lịch sử này của Giáo hội có liên quan hơn bao giờ hết, đặc biệt là trong lãnh vực kiến trúc, ảnh tượng thánh, âm nhạc tôn giáo. Bằng việc kêu gọi các nghệ sĩ trở nên chi thể sống động của mình, Giáo hội đang mời gọi họ canh tân nghệ thuật Kitô giáo. Giáo hội tham gia vào mối quan hệ đầy tin tưởng với giới nghệ sĩ, một mối quan hệ được xây dựng trên nền tảng lắng nghe và cộng tác. Mối quan hệ này nhằm tận dụng tối đa những gì giáo dục con người và nâng người nghệ sĩ lên một tầm cao mới của tính nhân văn, bằng cách cho phép người ấy tham gia cách mạnh mẽ hơn vào mầu nhiệm của Thiên Chúa sáng tạo, Đấng là Vẻ Đẹp thực thụ và là sự thiện tối hảo. Nếu họ sinh hoa kết trái, mối quan hệ giữa đức tin và nghệ thuật không được phép giới hạn trong việc tìm kiếm sự sáng tạo. Cần phải có những lời khuyên nhủ, những sự đối diện và biện phân, vì đức tin là sự trung thành với Sự Thật tuyệt đối. Phụng vụ tự thân là một môi trường tuyệt vời, vì sức mạnh của phụng vụ là truyền cảm hứng và các cơ hội khác nhau mà phụng vụ tạo ra cho các nghệ sĩ trong tất cả tính cá vị của họ là để bổ sung cho những định hướng mà Công đồng Vatican II đã đề ra. Điều cần thiết nơi người nghệ sĩ là vừa thể hiện được đức tin Công giáo, vừa diễn tả được tính cá vị của mình, trong khi vẫn tôn trọng các nguyên tắc của phụng vụ.(26) Nhu cầu xây dựng và trang trí các nhà thờ mới dẫn đến một suy tư sâu xa hơn về thánh đường như một nơi thiêng thánh, và vẫn đảm bảo các đặc tính của phụng vụ. Các nghệ sĩ được khuyến khích thể hiện những giá trị tâm linh trong nghệ thuật của họ. Sự sáng tạo trong nghệ thuật thánh nên được hiểu là những ảnh tượng thánh và âm nhạc phát triển theo cách mà hầu hết mọi người có thể tiếp cận được, để họ có thể nhận ra sự siêu việt của tình yêu Thiên Chúa và đưa dẫn họ đến việc cầu nguyện. Công đồng Vatican II đã không ngần ngại về điểm này và đưa ra những hướng dẫn nhằm kêu gọi một sự thực hiện liên lỉ: “Vậy nên, cần phải làm sao để các văn nghệ sĩ cảm thấy rằng Giáo Hội đang lưu tâm đến hoạt động của họ và một khi được hưởng tự do đúng mức, họ có thể trao đổi với cộng đoàn Kitô hữu dễ dàng hơn. Giáo hội cũng phải công nhận những hình thức nghệ thuật mới, thích hợp với thời đại chúng ta, tùy theo bản chất của từng dân tộc, từng địa phương. Cũng nên đem vào nơi phượng tự những hình thức mới này, một khi với lối diễn tả thích nghi và phù hợp với phụng vụ, chúng giúp con người nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa.” (Hiến chế Gaudium et Spes, 62,4).

Ở cấp độ đào tạo, quan tâm mục vụ đến nghệ thuật và giới nghệ sĩ bao hàm những quyền lợi đúng đắn trong việc đào tạo.(27) Những vị hữu trách trong lãnh vực đào tạo linh mục và giáo dân, thực hiện trong sự hỗ tương với việc đào tạo thần học, phụng vụ và tâm linh, cần phải biện phân những ứng sinh có khả năng trong công tác mục vụ với giới nghệ sĩ, bởi vì điều quan trọng là phải có những cá nhân được đào tạo bài bản, có thẩm quyền, có khả năng thay mặt cho cộng đoàn Kitô hữu, để đưa ra những đánh giá mang tính khai sáng cũng như những đánh giá có căn cứ về nghệ thuật đương đại.

Các sáng kiến có thể trong lãnh vực này thì rất nhiều và đa dạng. Tất cả các hiệp hội và học viện của giới nghệ sĩ, và tác giả đang cho thấy vai trò văn hóa quan trọng của các tín hữu Công giáo, và tất cả những điều này có thể hỗ trợ cho một cuộc đối thoại hiệu quả hơn giữa Giáo hội và thế giới nghệ sĩ. Ý tưởng về tuần lễ văn hóa cũng rất thành công và có thể mở rộng theo định hướng với các tuần lễ văn hóa Kitô giáo, dựa trên một số sự kiện văn hóa mở ra cho công chúng bao nhiêu có thể. Các lễ hội và các giải thưởng ở tầm mức quốc gia và quốc tế có thể đặt ra với khía cạnh thánh nhạc hay các phim ảnh, sách báo tôn giáo.

Di sản văn hóa và những tour du lịch tâm linh

37. Trong bối cảnh phát triển của thời đại giải trí và những tour du lịch tâm linh, dường như đây là thời điểm thích hợp để đưa ra một vài sáng kiến có thể giúp bảo vệ, khôi phục, và tận dụng tối đa các di sản văn hóa tôn giáo hiện có, đồng thời cũng truyền lại cho các thế hệ tương lai những kho tàng văn hóa Kitô giáo.(28) Để đạt được mục tiêu này, có lẽ chúng ta nên khuyến khích và cổ vũ một vài sáng kiến sau:

− Việc giới thiệu các dịch vụ chăm sóc mục vụ cho các tour du lịch và giải trí hay giảng dạy giáo lý thông qua nghệ thuật như là một hoạt động thường xuyên và đồng bộ trong một Giáo phận;

− Thiết kế các chuyến hành trình cấp giáo phận hay miền dựa trên mạng lưới các thánh địa có giá trị di sản về mặt tâm linh và văn hóa;

− Tạo nên các giáo đường mở và hiếu khách, bằng cách khai thác các nguồn lực đôi khi khiêm tốn nhưng rất có ý nghĩa;

− Thiết lập một chương trình mục vụ cho các địa điểm tôn giáo thường xuyên được thăm viếng, để cung ứng cho du khách những lợi ích thiêng liêng nơi thông điệp mà nơi ấy chứa đựng, và xuất bản các tài liệu về du lịch tôn giáo hay đơn giản là về du lịch thuần túy trên quy mô mang tính nhân văn, với sự cộng tác của chính quyền địa phương nơi ấy;

− Thành lập các tổ chức hướng dẫn du lịch của Công giáo nhằm cung cấp cho du khách sự chăm sóc mục vụ văn hóa chất lượng cao, được hỗ trợ bởi các chứng nhân đức tin. Những sáng kiến như vậy có thể tạo ra công ăn việc làm, thậm chí ngay cả khi chỉ là thời vụ, cho những người trẻ và những người thất nghiệp;

− Hỗ trợ cho các tổ chức quốc tế như E.C.A., Hiệp hội Công giáo Âu châu...

− Thiết lập và phát triển các bảo tàng nghệ thuật thánh và nhân học tôn giáo để làm nổi bật phẩm chất của các tác phẩm trên màn hình, với một bài diễn giải mang tính sư phạm đầy sống động, nhằm tránh cho các bảo tàng trở thành kho lưu trữ các tác phẩm chết;

− Khuyến khích hình thành và mở rộng các kho lưu trữ hay các thư viện chuyên về các di sản văn hóa Kitô giáo và các di sản văn hóa trần thế của khu vực, để đưa ngày càng nhiều người có cơ hội tiếp cận với các di sản ấy;

− Mặc dầu ở một vài quốc gia, có những vấn đề về in ấn xuất bản và kinh doanh sách, nhưng việc hỗ trợ, và có lẽ cũng đã bắt đầu, cho các nhà sách Công giáo, đặc biệt là tại các giáo xứ và các điểm hành hương cũng đang được tiến hành. Công việc này cần phải được điều hành bởi những người có trình độ có khả năng đưa ra những lời khuyên hữu ích.

Giới trẻ

38. Một lối tiếp cận mục vụ với văn hóa sẽ ảnh hưởng trên người trẻ qua việc giảng dạy, giáo dục đại học, và giải trí, trong tiến trình truyền giáo, làm cho người trẻ ấn tượng sâu sắc hơn. Trong khi gia đình là tối cần thiết cho việc truyền bá đức tin, thì giữa tất cả những sáng kiến khác nhau dành cho người trẻ, các Giáo phận, Giáo xứ, các trường Công giáo, các đại học, cũng như nhiều phong trào khác của Giáo hội dành cho tất cả mọi tầng lớp xã hội, cần phải đi đầu trong việc thúc đẩy:

− Những nơi mà người trẻ có thể gặp gỡ nhau và hình thành các mối quan hệ xã hội lành mạnh, đồng thời, nơi ấy trở thành một môi trường tốt để phát triển đức tin;

− Các nhóm thảo luận và chia sẻ những suy tư, phù hợp với các cấp độ khác nhau, dựa trên các vấn đề quan tâm chung có ảnh hưởng đến đời sống Kitô hữu.

− Các hội nhóm văn hóa hay các câu lạc bộ xã hội đem đến nhiều hoạt động giải trí mở rộng và những sinh hoạt mang tính văn hóa như âm nhạc, kịch nghệ, điện ảnh...

− Các sách vở và phim ảnh mang tính văn hóa, cung cấp cho người trẻ những thông tin và giúp hình thành nền văn hóa Kitô giáo, nhằm giúp họ có thể trao đổi với những người trẻ và những người lớn tuổi khác.

− Giới thiệu những “thần tượng” tốt, với mục tiêu cuối cùng là đào tạo nên những người trẻ trưởng thành, có thể sống đời sống đức tin của chính mình trong môi trường mình sống, cho dẫu họ là ai, sinh viên, nhà nghiên cứu, công nhân, hay nghệ sĩ...

− Những chuyến hành hương với các nhóm suy niệm nhỏ hay với các lễ hội quy tụ đông người, nhằm giúp họ giải tỏa cơn khát văn hóa của đời sống tâm linh trong bầu khí vui tươi và cởi mở.

Tất cả những sáng kiến này là một phần không thể thiếu trong nỗ lực mục vụ mang tính toàn cầu của Giáo hội nhằm thực hiện: “một hình thức đối thoại mới, giúp đưa thông điệp Tin Mừng đến với tâm thức của con người thời đại. kế đó, chúng ta phải tái khám phá sự sáng tạo tông đồ và sức mạnh mang tính Ngôn sứ của các môn đệ tiên khởi khi họ đối diện với các nền văn hóa mới. Những lời của Chúa Kitô phải được xuất hiện trong tất cả sự tươi sáng nhất của nó nơi các thế hệ trẻ, đối tượng đôi khi rất khó để có thể hiểu và chấp nhận những lời ấy, hay là những kẻ còn ở xa với các giá trị tâm linh.”(29) Người trẻ là tương lai của Giáo hội và của thế giới. Dấn thân mục vụ nhân danh những người trẻ, cả trong các trường đại học lẫn trong các công sở, là một dấu chỉ cho niềm hy vọng trước thềm thiên niên kỷ III.

KẾT LUẬN

Hướng tới một cách tiếp cận văn hóa được canh tân nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần

39. Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng nhất đã được Công đồng Vatican II định nghĩa (Hiến chế Gaudium et Spes, 53-62) với Giáo hội, trước thềm thiên niên kỷ III, là một trong những chiều kích nền tảng của việc chăm sóc mục vụ, và công tác mục vụ thật sự trong lãnh vực văn hóa là việc làm có ý nghĩa quyết định trong việc tân Phúc Âm hóa”.(30) Những vị hữu trách trong lãnh vực văn hóa đã cam kết nỗ lực tối đa để tìm ra những phương thế truyền giảng Tin Mừng hầu đến được với con tim và khối óc của mọi người, và biến đổi những nền văn hóa trong phương thế ngày càng làm cho nó phong nhiêu hơn. Các vị hữu trách này sẽ phải cân nhắc những yếu tố văn hóa có khả năng mở ra cho việc loan báo Tin Mừng, và xem xét những thách đố có thể nảy sinh từ các nền văn hóa lãnh đạm, hoặc đôi khi thù nghịch với đức tin. “Tin Mừng mang lại cho văn hóa sự hoàn hảo của thông điệp Kitô giáo, và văn hóa đích thực mở ra để đón nhận Tin Mừng của Đức Kitô.”(31)

Nhiều cuộc gặp gỡ với các Giám mục và dân chúng từ các nền văn hóa khác nhau về nhiều lãnh vực như khoa học, kỹ thuật, giáo dục, nghệ thuật... đã cho thấy những khó khăn đang đe dọa trực tiếp vào việc tiếp cận văn hóa như vậy, cũng như cho thấy những điều giả định và những đòi hỏi của nó, những trở ngại có liên quan và những nơi mà việc tiếp cận văn hóa này có thể được thúc đẩy. Lãnh vực công tác tông đồ này là rất bao la, nơi “quảng trường Areopagô rộng lớn” này (Thông điệp Sứ vụ Đấng cứu thế, 37), các vùng văn hóa rất đa dạng và phức tạp, do vậy, rõ ràng là rất cần sự cộng tác để làm việc cùng nhau ở mọi cấp độ, các Giáo xứ và Hội đồng Giám mục, cấp khu vực và lục địa. Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, trong vai trò và sứ mệnh của mình,(32) cam kết tạo mọi điều kiện để hợp tác và thúc đẩy việc trao đổi, đặc biệt giữa các cơ quan Giáo triều, các Hội đồng Giám mục, các tổ chức Công giáo trên thế giới, các trường Đại học, các cơ quan chuyên ngành sử học, triết học, thần học, khoa học, nghệ thuật và sở hữu trí tuệ, cũng như với các Giáo hoàng học viện(33) và các trung tâm nghiên cứu văn hóa Công giáo.(34)

“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Cách tiếp cận mục vụ với các nền văn hóa phải đi theo con đường Chúa Kitô đã chỉ dẫn. Chứng tá cá nhân và cộng đoàn phải gắn bó mật thiết với nhau, đó là một phần của sứ mạng loan báo Tin Mừng cho mọi dân nước mọi thời đại. Đây là cách thế tuyệt vời để hội nhập đức tin vào việc Phúc Âm hóa các nền văn hóa. “Nhu cầu về một sự dấn thân như vậy đánh dấu chuyến hành hương của Giáo hội trong dòng lịch sử của mình, nhưng hiện nay, nhu cầu này ngày một cấp bách... Đây là cả một tiến trình dài... một tiến trình sâu sắc và toàn diện liên hệ với thông điệp Kitô giáo cũng như những suy tư và thực hành của Giáo hội. Đồng thời, đây cũng là một tiến trình đầy khó khăn” (Thông điệp Sứ vụ Đấng cứu thế, 52). Trước thềm Thiên niên kỷ III, ai trong chúng ta cũng nhận ra những mối đe dọa cho tương lai của Giáo hội và của thế giới. Việc loan báo Tin Mừng Chúa Kitô thôi thúc chúng ta hình thành nên những cộng đoàn đức tin, những cộng đoàn mang trong mình tình yêu và niềm hy vọng, hầu mang lại và dưỡng nuôi một nền văn minh tình thương và chân lý, và một nền văn minh sự sống trên khắp thế giới, nơi ấy, mỗi người sẽ có thể đảm nhận trách nhiệm cá nhân và một phần của cộng đoàn với ơn gọi của mình trong tư cách là những người con của Thiên Chúa với tầm vóc viên mãn của Đức Kitô (x. Ep 4,13). Tiếp cận mục vụ với các nền văn hóa tự thân có tính cấp bách lớn lao, đó là một trách nhiệm to lớn gồm nhiều lối tiếp cận và có những cơ hội rộng mở, trước thềm thiên niên kỷ III chờ mong sự xuất hiện của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, con Đức Trinh nữ Maria, thông điệp tình yêu và chân lý mà Chúa Kitô mang lại đáp ứng mọi nhu cầu căn bản của mọi nền văn hóa nhân loại. Niềm tin vào Đức Kitô mang đến cho các nền văn hóa một chiều kích mới, đó là niềm hy vọng vào Vương quốc Thiên Chúa. Ơn gọi của mọi Kitô hữu là làm cách nào để gieo rắc vào các nền văn hóa này niềm hy vọng về một trời mới đất mới... Khác xa với sự đe dọa và nghèo nàn, Tin Mừng làm tăng triển niềm vui và vẻ đẹp, tự do và ý nghĩa, chân lý và sự thiện nơi các nền văn hóa.(35)

Thực tế, việc tiếp cận mục vụ với các nền văn hóa trong chính những hình thức đa dạng của nó không gì khác hơn là để giúp cho Giáo hội hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình. Trước thềm thiên niên kỷ mới, với toàn bộ sức mạnh của Lời Chúa, sự linh hứng của Chúa Thánh Thần trên toàn bộ đời sống Kitô hữu (x. Tông thư Ngàn năm thứ ba đang đến, 36) đang giúp cho nhân loại vượt qua thứ chủ nghĩa vô thần nhân bản và giúp tạo nên một nền nhân bản mới (x. Hiến chế Gaudium et Spes, 55) có khả năng sinh ra ở mọi nơi trên thế giới, ngõ hầu các nền văn hóa được biến đổi nhờ năng lực tái sinh của Chúa Kitô, Đấng đã trở nên như con người để con người trở nên con Thiên Chúa,(36) phục hồi hình ảnh của Đấng Tạo hóa nơi chính bản thân con người (x. Cl 3,10) và mặc lấy con người mới (x. Ep 4,24). Chúa Kitô đã canh tân mọi nền văn hóa bằng năng lực sáng tạo của Thần Khí Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của Chân-Thiện-Mỹ.

Vatican, ngày 23 tháng 5 năm 1999,
Lễ Trọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Hồng y Paul Poupard

WHĐ (28.8.2020)
Trích 
Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 115 (tháng 11 & 12 năm 2019)

__________

Chú thích

(1) John Paul II, Discours à l’Assemblée Générale des Nations Unies, 5 October 1995, n. 9; Documentation Catholique, XCII (1995) 920.

(2) John Paul II, Letter instituting the Pontifical Council for Culture, 20 May 1982: AAS LXXIV (1982) 683-688.

(3) John Paul II, Address to the Pontifical Council for Culture, 15 January 1985.

(4) Pontifical Biblical Commission, Foi et Culture à la lumière de la Bible, Leumann, Editrice Elle Di Ci, 1981.

(5) International theological commission, Faith and Inculturation, in Origins, vol. 18, no. 47, pp. 800-807.

(6) Puebla, la evangelización en el presente y en el futuro de América Latina, 1979, n. 385-436; Santo Domingo, Nueva evangelización, promoción humana, cultura cristiana, 1992, n. 228.

(7) John Paul II, Address to UNESCO, 2 June 1980, n. 12: L’Osservatore Romano, weekly edition in English, 23 June 1980.

(8) Cf. Indiferentismo y sincretismo. Desafíos y propuestas pastorales para la Nueva Evangelización de América Latina, Simposio, San José de Costa Rica, 19-23, January 1992, Bogotá, Celam, 1992.

(9) Cf. IV Conferencia General del Episcopado Latinoamericano. Santo Domingo, op. cit., n. 230.

(10) Cf. III Conferencia General del Episcopado Latinoamericano, Pueblaop. cit., n. 405.

(11) John Paul II, Homily of the enthronement Mass, 22 October 1978.

(12) Pontifical Council for Social Communications, Pastoral Instruction Aetatis Novae, Vatican City 1992, 4.

(13) Pontifical Council for Social Communications, Ethics in Advertising, Vatican City, 22 February 1997.

(14) John Paul II, Message for the 31st World Communications Day, 11 May 1997.

(15) John Paul II, Address to the United Nations Organization, 5 October 1995, 8.

(16) Cf. Various Authors, Après Galilée. Science et Foi, Nouveau Dialogue. Paris (DDB) 1994. Italian translation, Piemme, 1996.

(17) John Paul II, Address at the General Audience, 6 December 1995.

(18) John Paul II, Address to UNESCO, 2 June 1980: L’Osservatore Romano, n. 10.

(19) Cf. IV Conferencia General del Episcopado Latinoamericano. Santo Domingo, octubre 12-28 de 1992. Nueva evangelización, promoción humana, cultura cristiana, Bogotà (Ed. Celam), 228-286; Post-synodal Apostolic Exhortation Ecclesia in America”, 22 January 1999, n. 64.

(20) Cf. Special assembly of Cardinals in Rome (4-6 April 1991); Les Sectes, défi pastoral pour l’Église, Cité du Vatican, 1986. Sects and New Religious Movements. An Anthology of Texts from the Catholic Church 1986-1994, edited by the Working Group on New Religious Movements, Vatican City. Washington, United States Catholic Conference, 1995.

(21) John Paul II, Address to the Pontifical Council for Culture, 1997, 405.

(22) Cf. two letters of the Pontifical Council for Interreligious Dialogue: “Pastoral Attention to African Traditional Religions”: Bulletin, no. 68 (1988) XXIII2, pp. 102-106; “Pastoral Attention to Traditional Religions”: ibid., no. 84 (1993) XXVIII3, pp. 234-240.

(23) Cf. Congregation for Catholic Education, Lay Catholics in Schools: Witnesses to Faith, 15 October 1982; John Paul II, Post-Synodal Exhortation “Christifideles Laici”, on the vocation and mission of the laity in the Church and in the world, n. 44.

(24) Cf. Congregation for Catholic Education, Pontifical Council for the Laity, Pontifical Council for Culture, The Presence of the Church in the University and in University Culture, Vatican City, 1994.

(25) Pontificium Consilium de Cultura, Catholic Cultural Centres, Vatican City, 1995. Pontificio Consiglio della Cultura - Commissione Episcopale CEI per l’Educazione Cattolica, la Cultura la Scuola e l’Università, I Centri Culturali Cattolici. Elenco e indirizzi, Roma, Città Nuova Editrice, 1996.

(26) Congregation for Divine Worship and the Discipline of the Sacraments, IV Instruction for the Right Application of the Conciliar Constitution on the Liturgy (nn. 37-40): The Roman Liturgy and Inculturation, Rome 1994.

(27) In this respect, the new university courses for the formation of future officials responsible for the Church’s cultural heritage should be noted, as for example at the Pontifical Gregorian University (Rome), at the Institut Catholique in Paris and at the Catholic University in Lisbon. Cf. Pontifical Commission for the Cultural Heritage of the Church, Circular letter on formation regarding the cultural heritage of the Church in Seminaries, 15 October 1992.

(28) Cf. John Paul II, Address to the first Plenary Session of the Pontifical Commission for the Cultural Heritage of the Church, 1995.

(29) John Paul II, Address to the Pontifical Council for Culture, 18 January 1983, Vatican.

(30) John Paul II, Address to the Pontifical Council for Culture, 14 March 1997, L’Osservatore Romano, 26 March 1997.

(31) Ibid.

(32) “I established the Pontifical Council for Culture to help the Church be involved in the saving exchange in which inculturation of the Gospel goes hand in hand with the evangelization of cultures” Ibid.

(33) The Pontifical Academies’ Coordination Council established by Pope John Paul II on 6 November 1995 promotes their joint contribution to Christian humanism on the eve of the new millennium. On the occasion of its first public session presided by the Holy Father on 28 November 1996, he announced the creation of the yearly Pontifical Academies’ Prize. Its aim is to support promising talents and initiatives fostering Christian humanism and its theological, philosophical and artistic expressions. On the occasion of the second public session of the Pontifical Academies, on 3 November 1997, Pope John Paul II awarded this prize for the first time.

(34) Cf. the mission and competence assigned to the Pontifical Council for Culture: John Paul II, Letter instituting the Pontifical Council for Culture, 20 May 1982: AAS LXXIV (1982) 683-688, and the Motu Proprio Inde a Pontificatus, 25 March 1993: AAS LXXXV (1993) 549-552.

(35) John Paul II, Address to the Pontifical Council for Culture, 14 March 1997: L’Osservatore Romano, 26 March 1997.

(36) Saint Athanasius, De incarnatione.

http://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/cultr/documents/rc_pc_pc-cultr_doc_03061999_pastoral_fr.html 

 


Trang Mục Vụ