Bài 2 : Gia đình thông truyỀn sỰ sỐng
A.
Bài hát và lời chào mở đầu
B.
Kinh Chúa Thánh Thần
C.
Bài đọc Lời Chúa
St 1,27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. (St 1,27)
2,18 Đức Chúa là Thiên Chúa phán : “Con người ở một mình thì
không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”. 19 Đức
Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con
người, xem con người gọi chúng là gì : hễcon người gọi mỗi sinh vật là gì, thì
tên nó sẽ là thế. 20 Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim
trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương
xứng. 21 Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên
con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người
ra, và lắp thịt thế vào. 22 Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương
sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con
người.
23 Con người nói :
“Phen này,
đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi !
Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra”.
24 Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà
gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. (St 2,18-24)
D. Giáo lý Kinh
thánh
1. Thiên
Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Tại sao Thiên Chúa đã sáng tạo
nên người nam và người nữ ? Tại sao Ngài muốn cho đôi nam nữ này, hơn là các
thụ tạo khác, toả sáng hình ảnh Ngài ? Người nam và người nữ yêu thương nhau
với trọn bản thân mình, là chiếc nôi Thiên Chúa đã chọn để đặt tình yêu Ngài,
để tất cả những người con, trai hay gái, được sinh ra trên thế gian này có thể
nhận biết, đón tiếp và sống tình yêu ấy, từ thế hệ này sang thế hệ khác, mà
dâng lời ngợi khen Đấng Tạo Hoá.
Những trang Kinh
Thánh đầu tiên cho thấy điều tốt lành Thiên Chúa đã dự định cho những thụ tạo
của Ngài. Thiên Chúa đã tạo dựng nên người nam và người nữ phẩm giá như nhau
nhưng lại dị biệt : người này phái nam, người kia phái nữ. Sự giống nhau
kết hợp sự khác biệt phái tính cho phép cả hai bước vào trong cuộc đối thoại
sáng tạo, kí kết một giao ước đời sống. Trong Kinh Thánh, giao ước với Đức Chúa
đem lại sự sống cho dân, liên quan đến thế giới và lịch sử của toàn thể nhân
loại. Điều mà Kinh Thánh dạy về nhân loại và về Thiên Chúa bắt nguồn từ nơi
biến cố Xuất Hành, qua đó dân Do thái cảm nghiệm Đức Chúa gần gũi độ lượng và
trở thành dân riêng Ngài, khi chấp nhận giao ước mà chỉ nhờ đó dân mới được
sống.
Lịch sử giao ước của
Đức Chúa với dân riêng Ngài soi sáng cho câu chuyện sáng tạo người nam và người
nữ. Họ được tạo dựng nhờ một giao ước không chỉ liên hệ đến chính họ mà còn
liên can đến Đấng Tạo Hoá : “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh và
họa ảnh của Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”.
Gia đình sinh ra từ
đôi vợ chồng đã được dự định, với sựkhác biệt giới tính, theo hình ảnh Thiên
Chúa của giao ước. Nơi gia đình ngôn ngữ thân xác rất được đề cao vì nói
lên điều gì đó về chính Thiên Chúa. Giao ước mà một người nam và một người nữ, trong
sự khác biệt và bổ túc cho nhau, được mời gọi sống, là hình ảnh và giống như
giao ước Thiên Chúa đã ký kết với dân riêng Ngài. Thân xác của người nữ được
đặt định để khao khát và đón nhận thân xác người nam và ngược lại, nhưng trước
hết điều đó cũng đúng cả về “trí tuệ” và “tâm hồn”.
Cuộc gặp gỡ với một
người khác phái luôn khơi dậy sự tò mò, cảm kích, ước muốn được chú ý, được cho
đi điều tốt nhất của mình, được tỏ bày giá trị bản thân, được quan tâm, được
che chở… ; đó là một cuộc gặp gỡ năng động, chứa đầy năng lượng tích cực,
bởi vì trong tương quan với người khác chúng ta khám phá và tăng triển chính
mình. Căn tính của phái nam và phái nữ nổi bật cách đặc biệt khi giữa họ phát
sinh tình yêu kỳ diệu do gặp gỡ nhau và ước muốn gắn bó bền lâu.
Trong bài tường
thuật sách Sáng thế chương 2, Ađam khám phá ra mình là phái nam vào
chính lúc ông nhận ra người nữ : cuộc gặp gỡ với người phụ nữ làm cho ông nhận
thức và xác định mình là người đàn ông. Việc người nam và người nữ nhận ra nhau
làm tan biến sự xấu xa là nỗi đơn độc và vén mở cho thấy điều tốt lành của giao
ước vợ chồng. Trái với chủ trương của nhóm ý thức hệ về giới,[1]
sự khác biệt giữa hai phái tính rất là quan trọng. Đây là điều kiện tiên
quyết cho mỗi người có thể phát triển nhân cách trong việc quan hệ và tương tác
với người khác. Khi hai người phối ngẫu tự trao hiến hoàn toàn cho nhau, thì
đồng thời họ cũng trao ban chính mình cho con cái sẽ được sinh ra. Tính năng
động của việc trao hiến này bị giảm thiểu mỗi khi người ta sử dụng tính dục
cách ích kỷ, loại trừ mọi chiều kích mở ra cho sự sống.
2. Con người ở
một mình thì không tốt. Để lấp đầy sự đơn độc của Ađam, Thiên
Chúa tạo dựng cho ông “một trợ tá tương xứng với ông”. Trong Kinh Thánh hạn từ
“trợ tá” (người trợ giúp / đấng phù trợ) hầu hết được dùng với chủ thể là Thiên
Chúa, đến nỗi trởthành một tên gọi của Thiên Chúa (“Đức Chúa ở cùng tôi, Ngài
là đấng phù trợ tôi” Tv 118,7). Hơn nữa từ “trợ tá” không được hiểu như một sự
can thiệp chung chung mà như là một sự cứu viện đến bên kẻ đang gặp nguy tử.
Khi dựng nên người nữ như là trợ trá tương xứng cho người nam, Thiên Chúa kéo
ông ra khỏi sự đơn độc xấu xa khiến phải chết, và đưa ông vào giao ước ban sự
sống : giao ước vợ chồng, theo đó người nam và người nữ trao ban sự sống cho
nhau ; giao ước phụmẫu, theo đó người cha và người mẹ thông truyền sự sống cho
con cái.
Người nữ và người
nam, người này là “trợ tá” cho người kia, người này “đứng trước mặt”
người kia, nâng đỡ, chia sẻ, thông truyền, đồng thời loại trừ bất cứ hình thức
coi khinh hoặc lấn lướt nào. Phẩm giá ngang bằng nhau giữa người nam và người
nữ không cho phép bất cứ một thứ phân giai cấp nào và đồng thời không loại trừ
sự khác biệt. Sự khác biệt cho phép người nam và người nữ kết ước với nhau và
giao ước này làm cho họ thêm bền vững. Sách Huấn ca dạy như thế : “Cưới vợ là
khởi đầu sự nghiệp, là có một trợ lực tương xứng, và một cột trụ để tựa nương.
Không có hàng rào, trang trại bị cướp phá, vắng bóng đàn bà, đàn ông sẽ lang
thang, rên rỉ” (Hc 36,24-25).
Người nam và người
nữ yêu nhau bằng sự ham muốn và dịu dàng của thân xác, cũng như bằng đối thoại
sâu xa, họ trở thành những đồng minh nhận ra người này là ân sủng cho người
kia, giữ lời đã nói và trung thành với lời giao kết, giúp đỡ nhau hiện thực
hóa hìnhảnh Thiên Chúa, xét như là người nam và người nữ, mà họ được mời gọi
ngay từ khi tạo thành thế giới. Suốt hành trình đời sống họ nghiền ngẫm ngôn
ngữ thân xác và lời nói, bởi vì cả hai đều cần thiết như không khí và nước.
Người nam và người nữ cần tránh cạm bẫy của sự im lặng, xa cách và hiểu lầm.
Không phải là hiếm vì những nhịp độ của công việc mà họ trở nên mệt mỏi, bớt
xén thời gian và nhiệt tình dành cho việc chăm sóc quan hệ vợ chồng : chính
lúc đó cần phải có thời gian nghỉ ngơi để cử hành giao ước và ăn mừng cuộc sống.
Việc tạo dựng người
nữ xảy ra đang khi người nam ngủ mê. Giấc ngủ mê mà Thiên Chúa giáng xuống cho
người nam diễn tả thái độ phó thác cho một mầu nhiệm mà người nam không thể nào
hiểu thấu. Nguồn gốc của người nữ được che phủ trong mầu nhiệm Thiên Chúa, cũng
giống như đối với đôi vợ chồng khởi nguồn của tình yêu của họ, động lực thúc
đẩy họ đến gặp gỡ và thu hút lẫn nhau, từ đó dẫn đến đời sống hiệp thông, vẫn
mãi là một mầu nhiệm. Tuy nhiên, có một điều dường như thật chắc chắn : Thiên
Chúa đã ghi khắc vào trong quan hệ vợ chồng cái “logic” tình yêu của Ngài,
nhờ đó mà điều thiện hảo của sự sống bản thân mình hệ tại nơi sự tự hiến cho
người kia.
Tình yêu vợ chồng,
thực hiện qua việc lôi cuốn, đồng hành,đối thoại, tình bạn, chăm sóc… bắt nguồn
từ tình yêu Thiên Chúa, là Đấng ngay từ nguyên thuỷ đã đặt định người nam và
người nữ như là những thụ tạo biết yêu thương nhau bằng chính tình yêu của
Ngài, mặc dầu cạm bẫy của tội lỗi có thểlàm họ mệt mỏi và làm lu mờ mối quan hệ
của họ. Thật đáng tiếc, tội lỗi đã thay thế cái logic của tình yêu, của
sự tự hiến bằng cái logic của quyền lực, của sự thống trị và của tính tự quyết
ích kỷ.
3.
Cả hai thành một xương một thịt. Được tạo dựng từ xương
sườn người nam, người nữ là “thịt bởi thịt, xương bởi xương của người nam”. Vì
lẽ đó, người nữ dự phần vào xác thịt yếu đuối của người nam, và vào
cả cái cấu trúc nâng đỡ nó (xương cốt). Sách Talmud có lời bình chú rằng
“Thiên Chúa đã không dựng nên người nữ từ cái đầu của người nam để nàng thống
trị người nam ; Ngài không tạo dựng nàng từ đôi chân của người nam để nàng phải
lụy phục chàng, nhưng Ngài đã dựng nên người nữ từ xương sườn để nàng được ở
gần trái tim của chàng”. Những lời này âm vang trong những lời của “người được
yêu” trong sách Diễm Ca : “Hãy đặt em như dấu ấn trên trái tim chàng...” (Dc
8,6). Những lời này diễn tả một sự kết hợp sâu xa và mãnh liệt mà tình yêu vợ
chồng khát khao và hướng đến như đích điểm.
“Phen này, đây là
xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi !” : người đàn ông thốt lên những lời
đầu tiên này trước mặt người phụ nữ. Cho đến lúc này chàng đã “làm việc” bằng
cách đặt tên cho các loài vật, mà vẫn còn đơn độc, không thể nói lời hiệp
thông. Trái lại, khi thấy người phụ nữ trước mặt mình, người đàn ông đã thốt ra
những lời kinh ngạc, khi nhận ra nơi nàng một Thiên Chúa cao cả và tình cảm
tươi đẹp. Thiên Chúa giao phó công trình tạo dựng của Ngài cho người đàn ông và
người đàn bà hiệp thông với nhau, trong ngỡ ngàng, biết ơn và liên đới. Bằng
việc kết ước với nhau trong tình yêu, họ sẽ trở nên một “xương thịt duy nhất”
theo thời gian.
Kiểu nói “một xương
thịt duy nhất” chắc chắn ám chỉ đến con cái, nhưng trước hết nó gợi lên sự hiệp
thông liên vị giữa người nam và người nữ hoàn toàn gắn kết với nhau, đến độ tạo
thành một thực tại mới. Kết hợp nên một như thế người nam và người nữ có thể và
phải sẵn sàng thông truyền sự sống, sẵn sàng đón nhận, bằng cách sinh sản con
cái nhưng cũng đồng thời rộng mở cho những hình thức cho và nhận con nuôi. Quả
thật, sự thân mật vợ chồng là nơi từ ban đầu đã được Thiên Chúa muốn và đặt
định, là nơi sự sống con người không những được thông truyền và sinh ra, mà còn
là nơi tập hợp tất cả những tình cảm và các mối quan hệ nhân vị được đón nhận
và học hỏi.
Nơi đời sống đôi
bạn, vợ chồng sống sự kỳ diệu, tiếp đón, cống hiến, an ủi khi gặp bất hạnh và
cô đơn, giao ước và biết ơn vì những việc lạ lùng Thiên Chúa làm. Và như thế họ
trở thành mảnh đất tốt cho sự sống con người được gieo vào, nảy mầm và vươn ra
ánh sáng. Nơi của sự sống, nơi của Thiên Chúa : đôi vợ chồng nhân loại,
khi cùng đón nhận nhau họ hiện thực hoá số phận phục vụ cho công trình tạo dựng
và, đồng thời mỗi ngày một trở nên giống Đấng Tạo Hoá hơn, trên hành trình tiến
về sự thánh thiện.
Trong
đời sống gia đình những tương quan liên vị có nền tảng và được nuôi dưỡng bởi
mầu nhiệm tình yêu. Hôn nhân Kitô giáo, vốn là mối kết giao mà người nam và
người nữ thề hứa yêu nhau trong Chúa suốt đời và với toàn thể con người mình,
là nguồn mạch nuôi dưỡng và làm sống động những tương quan giữa mọi thành viên
trong gia đình. Không phải tình cờ mà trong những đoạn trích sau đây từ Tông
Huấn Familiaris Consortio và Evangelium Vitae, để
minh hoạ huyền nhiệm đời sống gia đình, nhắc đi nhắc lại nhiều lần hạn từ “hiệp
thông” và “hồng ân”.
Tình
yêu, nguồn mạch và linh hồn của đời sống gia đình
Sự hiệp thông vợ
chồng là nền tảng trên đó xây dựng sự hiệp thông rộng lớn hơn trong gia đình,
giữa cha mẹ và con cái, giữa những anh chị em trong nhà với nhau, giữa những
người bà con gần và những thành phần khác của gia đình.
Một sự hiệp thông
như vậy bắt nguồn từ những liên hệ tự nhiên ruột thịt và được phát triển cho
đến mức toàn thiện thực sự nhân bản, nhờ biết thực hiện và phát triển đến mức
trưởng thành những mối liên hệ thiêng liêng còn sâu xa và phong phú hơn, đó là
: tình yêu, là linh hồn của những tương quan liên vị giữa những thành phần khác
nhau trong gia đình, tình yêu này là sức mạnh bên trong làm nên sự hiệp thông
và làm sống động cộng đồng gia đình.
Ngoài ra, gia đình
Kitô hữu còn được mời gọi trải nghiệm một sự hiệp thông mới mẻ và độc đáo, củng
cố cho sự hiệp thông tự nhiên và nhân bản. Thật vậy, ân sủng củaĐức Giêsu Kitô,
người “Anh Cả của một đàn em đông đúc” (Rm 8,29), theo bản tính và sức
năng động nội tại của ơn ấy, là một “ân sủng của tình huynh đệ” như thánh Tôma
Aquinô vẫn gọi (S. Th. II· II·, 14, 2, ad 4). Thánh Thần được đổ tràn
xuống trong cử hành các bí tích chính là nguồn cội sống động và lương thực vô
tận cho sự hiệp thông siêu nhiên tập hợp và nối kết các tín hữu với Đức Kitô và
với nhau trong sự hiệp nhất của Hội Thánh Thiên Chúa. Gia đình Kitô hữu là một
mặc khải, một sự thực hiện đặc biệt mối hiệp thông này trong Hội Thánh. Vì thế,
gia đình Kitô hữu còn được gọi và phải được gọi là “Hội Thánh tại gia” (LG
11 ; x. AA, 11).
Tất cả mọi thành
phần trong gia đình, mỗi người theo ơn riêng của mình, đều có ân sủng và trách
nhiệm để ngày này sang ngày khác xây dựng mối hiệp thông giữa các ngôi vị, bằng
cách biến gia đình thành một “trường học đào tạo nhân tính được hoàn hảo và
phong phú hơn” (GS, 52). Điều đó được thể hiện qua việc yêu thương chăm
sóc trẻ nhỏ, những người đau yếu, những người già cả, qua những việc phục vụ
lẫn nhau trong đời sống hằng ngày, qua việc chia sẻ của cải, chia sẻ những niềm
vui và nỗi khổ. [Familiaris Consortio, 21]
Gia đình được mời
gọi can dự vào toàn bộ cuộc sống của các phần tử, từ khi sinh ra cho tới khi
qua đời. Gia đình thật là “cung thánh của sự sống… là nơi mà sự sống,
hồng ân của Thiên Chúa ban, có thể được đón nhận cách xứng hợp và bảo hộ chống
lại bao nhiêu đe dọa chực tấn công, và là nơi mà sự sống có thể phát triển theo
những đòi hỏi cho một tăng trưởng nhân bản đích thực”.[2]
Vì thế vai trò của gia đình có tính quyết định và không thể thay thế, để xây
dựng nền văn hoá sự sống.
Xét như là Giáo
Hội tại gia, gia đình được mời gọi loan báo, cử hành và phục vụ Tin mừng
về sự sống. Đó là sứ mệnh liên quan trước hết đến đôi bạn, những người được
mời gọi để truyền ban sự sống, dựa trên một ý thức luôn được canh tân về ý
nghĩa của truyền sinh, coi đó là sự kiện ưu tiên biểu lộ sự sống của con
người là một hồng ân được tiếp nhận, để rồi lại được trao ban. Khi tạo nên
một sự sống mới, người cha người mẹ như muốn nói rằng đứa con “nếu như là kết
quả của việc họ tự hiến cho nhau trong tình yêu, thì đến lượt nó, nó trở nên
một hồng ân cho cả hai người : một hồng ân phát sinh từ một hồng ân”.[3]
Trên hết chính qua
việc giáo dục con cái mà gia đình làm tròn sứ mệnh loan báo Tin mừng về sự
sống. Bằng lời nói và bằng gương sáng, trong những tương quan và chọn lựa hằng
ngày, và qua những cử chỉ và dấu hiệu cụ thể, cha mẹ khai tâm cho con cái về sự
tự do đích thực, vốn được thể hiện trong việc thành thực hiến thân, và vun
trồng cho con cái lòng kính trọng đối với người khác, ý thức về công bình, lòng
hiếu khách nồng hậu, thái độ đối thoại, tinh thần phục vụ quảng đại, tình liên
đới và các giá trị khác giúp ta sống cuộc đời như một hồng ân. Công trình giáo
dục của cha mẹ Kitô hữu phải làm sao để phục vụ đức tin của con cái và giúp
chúng đáp trả ơn gọi từ Thiên Chúa. Cũng trong sứ mệnh giáo dục của cha mẹ là
phải dạy và làm chứng cho con cái biết ý nghĩa thực củađau khổ và sự chết. Dạy
cho chúng biết về những điều ấy khi họ biết lưu tâm đến mọi người đang đau khổ
mà họ gặp thấy quanh mình, và trước hết, khi họ biết gần gũi cách cụ thể qua sự
đỡ nâng và chia sẻ với các thành viên đau ốm và những người già yếu, ngay từ
trong gia đình mình. [Evangelium Vitae, 92]
F. Những câu hỏi để
thảo luận
Những câu hỏi dành
cho các đôi vợ chồng :
1.
Chúng ta sống như thế nào [để hoà hợp] giữa ham muốn và ân cần trong quan hệ
của chúng ta ?
2.
Những cản trở nào giăng kín hành trình giao ước thâm sâu của chúng ta ?
3.
Tình yêu vợ chồng của chúng ta có rộng mở ra để có con cái, mở ra đối với xã
hội và Giáo hội không ?
4.
Chúng ta có thể có một quyết định nho nhỏ nào để giúp chúng ta hiểu rõ hơn ?
Những câu hỏi dành
cho nhóm gia đình và cộng đoàn :
1.
Làm thế nào để cổ vũ giá trị tình yêu vợ chồng trong cộng đoàn chúng ta ?
2.
Làm thế nào để giúp các gia đình thông tin dễ dàng và giúp đỡ lẫn nhau ?
3.
Làm thế nào để giúp những người đang gặp khó khăn trong đời sống vợ chồng và
gia đình ?
G.
Một quyết tâm cho đời sống gia đình và xã hội
H.
Cầu nguyện tự phát. Kinh Lạy Cha.
I.
Bài hát kết thúc.
[1] Ý thức hệ về giới hay lý thuyết phái tính là một khái
niệm chính trong ý thức hệ nữ quyền hay chủ trương đồng tính luyến ái. Lý
thuyết này phân tách giới (hay phái = gender / bình diện tâm lý xã hội)
ra khỏi tính (tính dục = sexuality / bình diện sinh học). Chủ trương này
cho rằng giới tính là tập hợp các động thái, hay các kiểu mẫu phản ứng do học
tập mà có. Các động thái này có thể thay đổi tùy ý hay do ảnh hưởng xã hội và
môi trường chung quanh.
Những
người theo ý thức hệ về giới cho rằng loài người không phải chỉ có hai giới
(nam/nữ) mà có đến những mười một giới (tính) khác nhau. Họ cho rằng quan điểm
chủ trương giới tính đồng nghĩa với giới tính sinh học (dục tính) chính là
nguồn gốc đưa đến cho tình trạng kỳ thị những người đồng tính luyến ái và thái
độ cố chấp, không khoan dung với những ai khác biệt. [Chú thích của người
dịch].
[2] Đức Gioan Phaolô II, Th.đ. Centesimus Annus – Năm thứ
một trăm (1.5.1991), số 39.
[3] Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn trước các tham dự viên Hội
nghị Giám mục Âu châu về đề tài “Những thái độ đương thời trước việc sinh ra
đời và trước cái chết : một thách đố cho việc rao giảng Tin Mừng”(17.10.1989),
số 5. Con cái theo truyền thống Kinh Thánh được trình bày cách rõ ràng như là
hồng ân của Thiên Chúa (x. Tv 127,3) và như là dấu chỉ phúc lành của
Ngài xuống trên những ai đi trong đường lối của Ngài (x. Tv 128,3-4).