QUYỀN BÍNH 

TRONG CỘNG ĐOÀN SỐNG ĐỜI  THÁNH HIẾN

MỤC LỤC

 

I. Cộng đoàn tu sĩ diễn tả mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội

ĐSHĐ 10

II.  Quyền bính để phục vụ tình huynh đệ

ĐSHĐ 47-53

a) Quyền bính về tâm linh

b) Quyền bính kiến tạo sự hiệp nhất

c) Quyền bính có khả năng quyết định cuối cùng và bảo đảm việc chấp hành

                  -  Sự phân định của cộng đoàn

                  -  Những dự phóng của cộng đoàn

III. Quyền bính để phục vụ vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa 

QB&VP 12

1. Một số ưu tiên trong sự phục vụ của quyền bính 

QB&VP 13

        a)  Trong đời sống thánh hiến, quyền bính trước hết là quyền bính thiêng liêng.

        b)  Những người có quyền bính được gọi để đảm bảo cho cộng đoàn thời gian và phẩm chất của cầu nguyện.

        c)  Những người có quyền bính được gọi để cổ xúy nhân phẩm.

        d)  Những người có quyền bính được gọi để thôi thúc lòng can đảm và niềm hy vọng giữa những khó khăn.

        e)  Những người có quyền bính được gọi để giữ cho đoàn sủng của gia đình tu sĩ của họ được sống động.

        f)  Những người có quyền bính được gọi để giữ cho “sentire cum Ecclesia” sống động.

        g)  Những người có quyền bính được gọi để cùng đi theo hành trình đào luyện liên tục.

 

2. Sự phục vụ của quyền bính theo ánh sáng những quy tắc của Giáo hội

VP&QB 14

                  a)  Sự vâng phục của Bề trên

         b)  Tinh thần phục vụ

         c)  Chăm sóc mục vụ

 

3. Những người có quyền bính phục vụ cộng đoàn, cộng đoàn phục vụ triều đại Thiên Chúa

QB&VP 17

4. Dễ dạy đối với Thần Khí, Đấng dẫn tới hiệp nhất 

 QB&VP 18

5. Vì linh đạo hiệp thông và sự thánh thiện của cộng đoàn

QB&VP 19

IV. Vai trò của những người có quyền bính đối với sự tăng trưởng của cộng đoàn   

QB&VP 20

a)  Phục vụ việc lắng nghe 

b)  Sáng tạo bầu khí thuận lợi để đối thoại, chia sẻ và đồng trách nhiệm 

c)  Thu hút sự đóng góp của mọi người vì quan tâm đến tất cả 

d)  Phục vụ cá nhân và cộng đoàn 

e)  Việc phân định cộng đoàn 

f)  Phân định, quyền bính và vâng phục  

g)  Vâng phục huynh đệ 

 

V. Quyền Bính và Sứ Mệnh  

QB&VP 25

a)  Những người có quyền bính khích lệ việc đảm nhận trách nhiệm và kính trọng những người nhận trách nhiệm 

b)  Những người có quyền bính mời gọi chúng ta đối diện với sự khác biệt trong tinh thần hiệp thông

c)  Những người có quyền bính duy trì sự quân bình giữa những chiều kích khác nhau của đời thánh hiến  

d)  Những người có quyền bính có lòng xót thương 

e)  Những người có quyền bính có cảm thức về công bằng 

f)  Những người có quyền bính cổ võ cộng tác với giáo dân 

 

VI. Những loại khó khăn của quyền bính   

QB&VP 28

         a- Cám dỗ chịu nhượng bộ    b-Trách vụ của tỉnh yêu mến    c- Thánh hóa bản thân

 

KẾT LUẬN : "Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em" (Mt 20,27)

 

QB&VP 21

--------------------- 000 ---------------------

 

I. Cộng đoàn tu sĩ diễn tả mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội

ĐSHĐ 10

 

Ngay từ đầu, đời sống thánh hiến đã nuôi dưỡng bản chất thâm sâu này của Kitô giáo. Thật vậy, công đoàn tu trì cảm thấy chính mình đang tiếp nối nhóm người đã đi theo Chúa Giêsu. Ngài đã kêu gọi đích danh từng người một để họ sống hiệp thông với chính Ngài và với các người môn đệ khác, để chia sẻ cuộc sống và thân phận của Ngài (x. Mc 3,13-15), và qua đó, cộng đoàn tu trì trở thành dấu chỉ sự sống, sự hiệp thông mà Ngài đã khởi đầu. Các cộng đoàn đan tu đầu tiên đã coi cộng đoàn các môn đệ đi theo Chúa Kitô, và cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi Giêrusalem là lý tưởng sống của họ. Như Giáo Hội thời sơ khai chỉ có một trái tim và một tâm hồn, cũng vậy, các đan sĩ sống với nhau dưới sự hướng dẫn tinh thần của đan viện phụ, quyết tâm sống hiệp thông triệt để cả về tinh thần lẫn vật chất, và sống sự hiệp nhất mà chính Chúa Kitô đã thiết lập. Sự hiệp nhất này có khuôn mẫu đầu tiên và động lực là đời sống hiệp nhất của các Ngôi vị trong Ba Ngôi Chí Thánh.

    

Vào những thế kỷ tiếp theo, nhiều hình thức cộng đoàn đã nảy sinh do tác động đoàn sủng của Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng dò thấu chiều sâu lòng dạ con người ; Ngài đã tác động để làm thỏa mãn các nhu cầu của con người. Ngài đã làm xuất hiện những người nam người nữ, để nhờ ánh sáng Tin Mừng soi dẫn, và nhạy bén với những dấu chỉ thời đại, họ khai sinh ra những gia đình dòng tu mới, và từ đó, khai sinh ra nhiều phương thế mới để sống sự hiệp thông duy nhất trong tính đa dạng của các tác vụ trong cộng đoàn.

 

Chúng ta không thể nói về cộng đoàn tu trì một cách như nhau. Lịch sử đời sống thánh hiến làm chứng rằng có nhiều cách khác nhau để sống sự hiệp thông tùy theo bản chất của mỗi hội dòng. Nhờ đó, ngày nay, chúng ta có thể ngưỡng mộ "sự khác biệt kỳ diệu" của các gia đình dòng tu đã làm phong phú cho Giáo Hội và trang bị Giáo Hội hầu thi hành mọi việc thiện ; và từ đó, chúng ta cũng nhận thấy sự khác biệt trong các hình thức sống cộng đoàn.

 

Tuy nhiên, trong những hình thức khác nhau, đời sống huynh đệ cộng đoàn luôn luôn là cách diễn tả triệt để tinh thần huynh đệ phổ quát là tinh thần hiệp nhất tất cả các Kitô hữu. Cộng đoàn tu trì là biểu hiện hữu hình của sự hiệp thông vốn là nền móng của Giáo Hội và đồng thời là lời tiên báo sự hiệp nhất mà Giáo Hội nhắm tới như là cùng đích của mình. Vì vậy, như những nhà chuyên môn về sự hiệp thông, được kêu gọi để trở nên một cộng đoàn Giáo Hội ở trong Giáo Hội và trong thế giới, các tu sĩ là những chứng tá và những người kiến tạo chương trình hiệp nhất, đỉnh vinh quang của lịch sử loài người trong kế hoạch của Thiên Chúa. Trên hết, nhờ khấn giữ các lời khuyên phúc âm là lời khấn giúp cho con người thoát khỏi những trở ngại để đạt tới đức ái nhiệt thành, các tu sĩ cùng nhau là dấu chỉ mang tính ngôn sứ của sự hiệp nhất thâm sâu với Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta phải yêu mến trên hết mọi sự. Hơn nữa, qua kinh nghiệm hằng ngày của sự hiệp thông trong đời sống, trong cầu nguyện và hoạt động tông đồ, - những yếu tố chủ yếu và đặc biệt của đời sống thánh hiến,- họ là dấu chỉ của tình huynh đệ. Thật vậy, trong một thế giới thường bị chia cắt sâu xa, ngay trước mắt anh em của mình trong đức tin, họ đưa ra chứng tá là họ có khả năng để chung của cải, yêu thương huynh đệ, có một chương trình  sống và hoạt động riêng, vì họ đã chấp nhận lời kêu gọi đi theo sát Chúa Kitô cách tự do hơn, Đấng đã được Chúa Cha sai đến, để với tư cách là trưởng tử giữa nhiều anh chị em, Ngài thiết lập tình huynh đệ trong ân sủng của Chúa Thánh Thần.  

 

Tất cả những điều này sẽ trở nên rõ ràng hơn đến độ họ không chỉ suy tưởng với Giáo Hội và trong Giáo Hội, mà còn cảm thấy chính mình là Giáo Hội, bằng cách đồng hóa chính mình với Giáo Hội, trong sự hiệp thông trọn vẹn với giáo thuyết, với sự sống, với các mục tử, có niềm tin và với sứ vụ của Giáo Hội trong thế giới.

 

Chứng tá do các tu sĩ chiêm niệm đem lại có ý nghĩa đặc biệt. Đối với họ, đời sống huynh đệ có những chiều kích sâu rộng hơn, bắt nguồn từ những đòi hỏi cơ bản của ơn gọi đặc biệt này là tìm kiếm một mình Thiên Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện. Việc họ thường xuyên gắn bó với Thiên Chúa làm cho họ gắn bó với các phần tử khác trong cộng đoàn cách tế nhị và tôn trọng hơn, và sự chiêm niệm đem lại sức mạnh giải phóng họ ra khỏi mọi hình thức ích kỷ.

 

Đời sống huynh đệ cộng đoàn trong đan viện được coi là dấu chỉ sống động của mầu nhiệm Giáo Hội : mầu nhiệm ân sủng càng lớn thì hoa quả ơn cứu độ càng dồi dào. Bằng cách này Thần Khí của Chúa, Đấng đã quy tụ các tín hữu đầu tiên và là Đấng tiếp tục kêu gọi Giáo Hội trở thành một gia đình duy nhất, cũng kêu gọi và nuôi dưỡng các gia đình tu sĩ, nhờ những cộng đoàn của mình rải rác trên khắp thế giới có sứ vụ trở nên những dấu chỉ rõ rệt của sự hiệp thông nội tại, sự hiệp thông sâu đậm làm sinh động và kiến tạo Giáo Hội, đồng thời hỗ trợ cho việc hoàn thành chương trình của Thiên Chúa.

 

 

 

II.  QUYỀN BÍNH ĐỂ PHỤC VỤ TÌNH HUYNH ĐỆ

ĐSHĐ 47-53

 

Nói chung, người ta đồng ý rằng sự phát triển trong những năm gần đây đã đóng góp vào sự trưởng thành đời sống huynh đệ trong các cộng đoàn. Trong nhiều cộng đoàn, bầu khí đời sống chung đã được cải thiện : có nhiều chỗ cho mọi người tích cực tham gia ; đã có sự chuyển biến từ một đời sống chung dựa quá nhiều vào việc giữ luật đến một đời sống lưu tâm nhiều hơn đến những nhu cầu cá nhân, nghĩa là chú trọng hơn tới con người. Nỗ lực xây dựng những cộng đoàn bớt vụ hình thức, bớt độc đoán, thêm tình huynh đệ và thêm sự tham gia, là điều nhìn chung được coi là một trong những kết quả dễ nhận thấy hơn trong những năm gần đây. 

 

Tuy nhiên, ở vài nơi, sự phát triển tích cực này có nguy cơ bị tổn thương do thiếu tin tưởng vào quyền bính.

 

Ước vọng có sự hiệp thông sâu xa hơn giữa các phần tử và một phản ứng tất nhiên chống lại những cơ cấu được coi là quá  cứng nhắc và độc đoán đã góp phần làm thiếu hiểu biết phạm vi đầy đủ của vai trò quyền bính. Thật vậy, một số người coi quyền bính là hoàn toàn không cần thiết cho đời sống cộng đoàn ; một số khác lại giản lược vào vai trò thuần túy phối hợp những sáng kiến của các phần tử. Kêt quả, một số cộng đoàn đi đến chỗ sống không có người phụ trách, trong khi ở các cộng đoàn khác, mọi quyết định đều có tính cách tập thể. Tất cả những điều đó đều đưa đến nguy cơ - chứ không chì là giả thiết - đổ vỡ đời sống cộng đoàn hoàn toàn, chủ ý nhằm ưu tiên cho những đường lối cá nhân và đồng thời làm lu mờ chức năng của quyền bính, một chức năng vừa cần thiết cho sự thăng tiến đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, vừa cần thiết cho hành trình thiêng liêng của người tận hiến. 

     

Tuy nhiên, kết quả của những thử nghiệm này dần dần đưa tới việc tái khám phá nhu cầu và vai trò quyền bính cá nhân, nối tiếp toàn bộ truyền thống đời tu.

 

Nếu bầu khí dân chủ lan rộng đã khuyến khích sự phát triển tinh thần đồng trách nhiệm và sự tham gia của mọi người trong tiến trình quyết định, ngay cả trong đời tu, thì chúng ta đừng quên rằng tình huynh đệ không phải chỉ là kết quả của cố gắng nhân loại, nhưng cũng là, và trên hết, là hồng ân của Thiên Chúa. Đó là hồng ân do tuân phục Lời Thiên Chúa, và trong đời tu, cũng là tuân phục quyền bính. Nó nhắc nhở chúng ta về Lời đó và hướng về Lời trong những hoàn cảnh đặc biệt, phù hợp với tinh thần của Hội Dòng.

 

"Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý trọng những ai đang vất vả vì anh em để lãnh đạo anh em nhân danh Chúa và khuyên bảo anh em. Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy vì công việc họ làm" (1Tx 5,12-13). Cộng đoàn Kitô hữu không phải là một tập thể vô danh, nhưng ngay từ lúc đầu, họ đã có các vị lãnh đạo là những người mà Thánh Tông đồ muốn mọi người phải lưu tâm, kính trọng và yêu mến.

 

Trong các cộng đoàn tu trì, các vị hữu trách, những người được quan tâm và kính trọng cũng do lời khấn vâng phục, được đặt lên để phục vụ tình huynh đệ, để phát triển, để hoàn thành những mục tiêu thiêng liêng và tông đồ.  

 

Cuộc canh tân mới đây đã giúp phác họa lại quyền bính với ý định liên kết quyền bính, một lần nữa, mật thiết hơn với các nguồn gốc Tin Mừng, và do đó, liên kết với việc phục vụ sự tiến bộ thiêng liêng của mỗi người và phát triển tình huynh đệ trong cộng đoàn.

 

 

Mỗi cộng đoàn có một sứ vụ riêng phải chu toàn. Vì thế, các vị hữu trách phục vụ cộng đoàn là những người phải chu toàn một sứ vụ riêng biệt, được Hội Dòng và đoàn sủng Hội Dòng tiếp nhận và xác định. Ở đâu có sự đa dạng về sứ vụ, ở đó cũng phải có những loại cộng đoàn khác nhau, và vì thế, có những cách thực thi quyền bính khác nhau. Do đó, đời tu có những quan điểm và đường lối thi hành quyền bính khác nhau, được quy định theo luật riêng.

 

Theo tinh thần Tin Mừng, quyền bính luôn luôn là để phục vụ. Cuộc canh tân trong những năm gần đây đã nêu bật một vài khía cạnh của quyền bính.

   

a) Quyền bính về tâm linh

 

         Nếu những người tận hiến đã dâng hiến bản thân để hoàn toàn phụng sự Thiên Chúa, thì quyền bính cổ võ và nâng đỡ sự tận hiến của họ. Theo một nghĩa nào đó, quyền bính có thể được coi là "tôi tớ của các tôi tớ của Thiên Chúa". Nhiệm vụ chính của quyền bính là xây dựng trong sự hiệp nhất anh chị em, "một cộng đoàn huynh đệ trong đó, mọi người tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự" (GL 619). Do đó, trước hết, bề trên phải là một con người tâm linh, xác tín tính ưu việt của khía cạnh tâm linh, vừa liên quan đến đời sống cá nhân lẫn sự phát triển đời sống huynh đệ. Nói cách khác, vị ấy phải biết rằng tình yêu Thiên Chúa càng tăng lên trong tâm hồn mỗi cá nhân, thì càng có sự hiệp nhất giữa các tâm hồn hơn. Như thế, nhiệm vụ chính của bề trên là vị linh hoạt đời sống tâm linh, đời sống cộng đoàn và tông đồ của cộng đoàn mình.

  

 

b) Quyến bính kiến tạo sự hiệp nhất

 

Quyền bính kiến tạo sự hiệp nhất là quyền bính quan tâm lo sáng tạo bầu khí thích hợp cho sự chia sẻ và tinh thần đồng trách nhiệm : khuyến khích mọi người đóng góp vào công việc chung, cổ võ các phần tử đảm nhận và tôn trọng trách nhiệm, qua sự lưu tâm đến con người, cổ võ đức tuân phục tự nguyện, sẵn lòng lắng nghe các phần tử, xúc tiến sự cộng tác hài hòa vì lợi ích của Hội Dòng và của Giáo Hội (x. GL 618), tham gia đối thoại và tạo những cơ hội gặp gỡ thuận tiện, đem lại sự can đảm và hy vọng trong những lúc khó khăn, dự đoán và vạch ra những chân trời mới cho sứ vụ. Hơn nữa, quyền bính còn phải tìm cách duy trì sự quân bình giữa những khía cạnh khác nhau của đời sống cộng đoàn, giữa cầu nguyện và làm việc, tác vụ tông đồ và việc huấn luyện, làm việc và nghỉ ngơi. 

 

Quyền bính của một bề trên phải tác động thế nào để cho Nhà Dòng không chỉ là nơi trú ngụ, tập họp một số người sống riêng rẽ, nhưng là một "cộng đoàn huynh đệ trong Đức Kitô" (GL 619).

 

c) Quyền bính có khả năng quyết định cuối cùng và bảo đảm việc chấp hành

 

Sự phân định của cộng đoàn là tiến trình khá hữu ích mặc dù không dễ dàng hay đương nhiên vì nó liên quan đến khả năng của con người, sự khôn ngoan thiêng liêng, và sự khách quan. Nơi nào được thực hiện với đức tin và sự nghiêm túc thì nơi đó, sự phân định của cộng đoàn có thể cung cấp cho các bề trên những điều kiện thuận lợi để đi tới những quyết định cần thiết cho lợi ích tối hảo của đời sống huynh đệ và sứ vụ.  

 

Khi một quyết định được đưa ra thực hiện theo đúng thủ tục do luật riêng ấn định, các bề trên cần nhiều kiên nhẫn và can đảm để bảo đảm rằng những gì đã được quyết định không chỉ là những chữ viết ghi trên giấy tờ.  

 

Luật riêng của mỗi hội dòng cũng phải xác định càng rõ càng tốt thẩm quyền liên hệ của cộng đoàn, của những hội đồng khác nhau, của những vị điều phối các ban ngành và của bề trên. Một cái nhìn thiếu sáng suốt trong lãnh vực này sẽ là đầu mối gây ra lộn xộn và xung đột.   

 

"Những dự phóng của cộng đoàn" có thể giúp gia tăng việc tham gia vào đời sống của cộng đoàn và vào sứ vụ trong những bối cảnh khác nhau ; cũng phải lưu ý xác định rõ vai trò và thẩm quyền của các vị hữu trách, phù hợp với Luật Dòng. Các cộng đoàn huynh đệ và hiệp nhất ngày càng được mời gọi trở thành yếu tố quan trọng và đầy sức thuyết phục đối với nền văn hóa phản Tin Mừng. Các cộng đoàn này là muối của trần gian và là ánh sáng cho đời.

     

Do đó, chẳng hạn, nếu trong xã hội Tây phương, nơi chủ nghĩa cá nhân lan tràn, thì cộng đoàn tu trì được mời gọi trở thành dấu chỉ ngôn sứ có khả năng kiến tạo tình huynh đệ và liên đới trong Đức Kitô ; trong những nền văn hóa mà chủ nghĩa độc tài hay chủ nghĩa cộng đồng lan tràn, thì cộng đoàn được mời gọi để trở thành dấu chỉ tôn trọng và cổ võ quyền con người, và cũng là lời mời gọi thi hành quyền bính phù hợp với ý Thiên Chúa.  

 

Trong khi các cộng đoàn tu trì phải tham dự vào nền văn hóa nơi họ sống, họ cũng được mời gọi để thanh tẩy và nâng cao nền văn hóa đó, nhờ muối và ánh sáng của Tin Mừng, qua các cộng đoàn, đem lại một tổng hợp cụ thể về cái không chỉ là Phúc âm hóa nền văn hóa mà còn là Phúc âm hóa việc hội nhập văn hóa, và việc Phúc âm hóa được hội nhập văn hóa.

 

Sau cùng, chúng ta không bao giờ được quên một vấn đề thường gây đau khổ, phức tạp và tế nhị, đó là đức tin đóng vai trò quyết định giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm cứu độ của đức tuân phục (x. PC 14). Cũng như vì sự bất tuân của một người đưa đến sự tan rã của gia đình nhân loại, và sự tuân phục của Con Người Mới đã khởi đầu công cuộc tái tạo (x. Rm 5,19) thì sự tuân phục sẽ luôn luôn là một sức mạnh thiết yếu cho mọi cuộc sống gia đình. Đời sống tu trì luôn sống nhờ xác tín này của đức tin và được mời gọi để cũng sống theo xác tín đó hôm nay, với lòng can đảm để không chạy theo việc tìm kiếm những tương quan huynh đệ cách vô ích, và để trở nên một thực tại Phúc âm thích hợp trong Giáo Hội và trong xã hội.     

 

 

III. QUYỀN BÍNH ĐỂ PHỤC VỤ VÂNG PHỤC THÁNH Ý THIÊN CHÚA 

QB&VP 12

 

Trong đời sống thánh hiến, mọi người phải chân thành tìm kiếm ý Chúa Cha, vì nếu không, lý lẽ cho sự chọn lựa này sẽ mất ngay ; họ phải cùng nhau thực thi việc tìm kiếm ấy với anh chị em mình ; điều này cũng thật quan trọng, bởi vì nó chính là điều kết hợp họ, "làm họ thành một gia đình được kết hợp với Đức Kitô".

 

Những người được trao cho quyền bính là để phục vụ việc tìm kiếm này, hầu bảo đảm việc tìm kiếm được thực hiện chân thành trong sự thật. Trong bài giảng khởi đâu tác vụ Phêrô, Đức Benedicto XVI đã xác quyết rất có ý nghĩa : "Chương trình cai quản thật sự của tôi là không làm theo ý riêng tôi, không theo đuổi những ý tưởng của riêng mình, nhưng cùng với toàn Giáo Hội, lắng nghe Lời Chúa và ý muốn của Chúa, để được Ngài dẫn dắt, hầu chính Ngài sẽ dẫn Giáo Hội trong giờ phút lịch sử này của chúng ta". Đàng khác, nhất thiết phải nhận biết rằng trách vụ làm người hướng đạo cho người khác quả không dễ dàng gì ; cách riêng khi cảm thức về sự tự lập cá nhân trở nên thái quá hoặc mâu thuẫn và ganh đua trong những mối liên hệ với tha nhân. Do đó, mỗi người nhất thiết phải trau dồi khả năng của mình để nhìn những cuộc gặp gỡ của trách vụ này trong đức tin, hầu được gợi hứng để có thái độ của Đức Giêsu là Tôi Tớ rửa chân cho các tông đồ, cho họ được dự phần trong sự sống và trong tình yêu của Ngài (x. Ga 13,1-17).

 

Điều này đòi hỏi sự kiên định lớn lao nơi những người hướng dẫn các hội dòng, tỉnh dòng (hay những phần khác của một hiệp hội) và cộng đoàn. Những người được gọi để thi hành quyền bính phải biết rằng họ có thể làm như thế chỉ với điều kiện trước hết, họ phải đảm nhận cuộc lữ hành dẫn tới việc tìm kiếm ý Thiên Chúa cách mãnh liệt và ngay chính. Lời khuyên của Thánh Ignatio thành Antiokhia cho một người bạn giám mục thật có giá trị đối với họ : "Đừng để người khác làm việc gì mà ngài không đồng ý, nhưng ngài cũng đừng làm bất kỳ điều gì mà Chúa không đồng ý". Những người có quyền bính phải hành động thế nào để anh em, chị em  mình có thể nhận thức rằng khi ban một lệnh truyền, thì họ làm thế chỉ vì vâng phục Thiên Chúa.

     

Lòng tôn kính thánh ý Thiên Chúa giữ người có quyền bính trong tình trạng khiêm tốn tìm kiếm, hầu việc hành xử của họ phù hợp bao có thể với thánh ý Thiên Chúa. Thánh Augustino nhắc nhở chúng ta rằng những ai vâng phục thì  luôn chu toàn ý Chúa, không phải vì mệnh lệnh của quyền bính tất yếu phù hợp với ý Chúa, nhưng vì Thiên Chúa muốn chúng ta vâng phục người đang chịu trách nhiệm. Nhưng về phần mình, những người có quyền bính phải siêng năng tìm kiếm điều Thiên Chúa thật sự muốn, qua sự trợ giúp của kinh nguyện, suy tư và lời khuyên của những người khác. Bằng không, thay vì đại diện Thiên Chúa, các bề trên liều đặt mình vào địa vị của Thiên Chúa một cách bất cẩn.  

 

Với ý muốn thực thi thánh  ý Thiên Chúa, quyền bính và vâng phục như vậy không phải là hai thực tại hay hai điều khác biệt đối kháng cách tuyệt đối, nhưng đúng hơn là hai chiều kích của cùng một thực tại Tin Mừng, của cùng mầu nhiệm Kitô hữu, là hai cách thức bổ sung của việc tham dự vào cùng một hiến lễ của Đức Kitô. Quyền bính và vâng phục được nhân cách hóa trong Đức Giêsu, vì lẽ này, chúng phải được hiểu trong mối liên hệ trực tiếp với Ngài và trong việc đồng hình đồng dạng thật sự với Ngài. Đời sống thánh hiến chỉ muốn sống Quyền Bính của Ngài và sự Vâng Phục của Ngài. 

 

 

1. Một số ưu tiên trong sự phục vụ của quyền bính 

QB&VP 13

 

a) Trong đời sống thánh hiến, quyền bính trước hết là quyền bính thiêng liêng. Những người có quyền bính nhận biết rằng họ được gọi để phục vụ một lý tưởng vĩ đại hơn chính mình, lý tưởng mà họ chỉ tiếp cận được trong bầu khí của cầu nguyện và khiêm nhường tìm kiếm, cho phép họ hiểu biết hoạt động của cùng một Thần Khí trong tâm hồn của mỗi người anh chị em mình. Những người có quyền bính là "thiêng liêng" khi họ đặt mình phục vụ những gì Thần Khí muốn hiện thực qua những hồng ân Ngài phân phát cho mỗi phần tử của cộng đoàn, trong dự phóng đoàn sủng của hội dòng đó.

   

Để đứng trong vị thế cổ vũ đời sống thiêng liêng, những người có quyền bính, trước hết phải vun trồng nơi mình cõi lòng rộng mở, biết lắng nghe tha nhân và những dấu chỉ thời đại nhờ hằng ngày quen cầu nguyện với Lời Chúa, với Quy Luật và những chuẩn mực khác của đời sống. "Việc phục vụ của quyền bính đòi hỏi phải hiện diện kiên trì, có khả năng sinh động và tiếp thu sáng kiến, gợi nhắc những lẽ sống (raison d'être) của đời thánh hiến, để giúp những người được ký thác cho anh em đáp trả tiếng gọi của Thần Khí với lòng trung thành liên lỉ được canh tân".

      

b) Những người có quyền bính được gọi để đảm bảo cho cộng đoàn thời gian và phẩm chất của cầu nguyện, đang khi chăm lo để cộng đoàn ngày ngày trung thành cầu nguyện, ý thức rằng cộng đoàn đến gần Thiên Chúa qua từng bước tiến nhỏ bé nhưng liên lỉ, mọi ngày và bằng nỗ lực của mỗi người, những người được thánh hiến có thể làm ích cho nhau theo mức độ họ kết hiệp với Thiên Chúa. Hơn nữa, người có quyền bính được gọi để chú tâm khởi sự với chính mình, hằng ngày tiếp xúc với Lời không biến mất, vì “có sức xây dựng” (Cv 20,32) cá nhân và cộng đoàn, và chỉ ra những lối đường cho sứ mệnh. Ghi nhớ mệnh lệnh của Chúa, “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19),  người có quyền bính sẽ đảm bảo mầu nhiệm thánh thiện là Mình và Máu Đức Kitô được cử hành và tôn kính như “nguồn mạch và tột đỉnh”  của sự hiệp thông với Thiên Chúa giữa những người anh em chị em. Khi cử hành và thờ lạy hồng ân Thánh Thể trong sự vâng phục trung tín đối với Chúa, cộng đoàn rút ra từ đó niềm khởi hứng và sức mạnh cho sự tận hiến hoàn toàn của mình cho Thiên Chúa, để trở thành dấu chỉ về tình yêu nhưng không của Ngài dành cho nhân loại và hướng tới những của cải mai sau cách hữu hiệu.     

  

         c) Những người có quyền bính được gọi để cổ xúy nhân phẩm, khi chú ý đến từng phần tử của cộng đoàn và tới sự tăng trưởng của họ, tôn trọng xác đáng và tích cực lưu tâm đến từng người, nuôi dưỡng tình cảm chân thành hướng tới mọi người và cẩn mật giữ kín tất cả những gì họ tín nhiệm nói ra.

 

         Thật thích hợp để gợi nhắc rằng trước khi kêu nài sự vâng phục (cần thiết) ta cần phải thực thi đức ái (bất khả thế). Rất nên sử dụng thích đáng từ ngữ hiệp thông nhưng không thể và không được hiểu nó như một loại ủy quyền cho cộng đoàn (mặc nhiên để cho mỗi người được “làm điều họ muốn”), cũng không được ít nhiều áp đặt che dấu quan điểm của riêng mình (mọi người phải ‘làm điều tôi muốn”).

 

         d) Những người có quyền bính được gọi để thôi thúc lòng can đảm và niềm hy vọng giữa những khó khăn. Như Phaolô và Barnaba đã khích lệ các môn đồ, khi dạy rằng “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22),  người có quyền bính phải trợ giúp việc chấp nhận những khó khăn của thời khắc hiện tại, nhớ rằng chúng là một phần của những đau khổ thường được rải rắc trên đường dẫn tới Triều Đại Thiên Chúa.

 

         Đứng trước một vài  hoàn cảnh khó khăn trong đời thánh hiến, chẳng hạn, ở nơi sự hiện diện của đời sống thánh hiến dường như đang suy yếu và thậm chí biến mất, người lãnh đạo cộng đoàn sẽ gợi nhắc những giá trị bất diệt của đời sống này, bởi vì ngày nay, cũng như hôm qua và mãi mãi, không gì quan trọng hơn, đẹp đẽ hơn và chân thật hơn là dành cuộc đời mình để phụng sự Chúa và những người con bé nhỏ nhất của Ngài.

 

         Người lãnh đạo của cộng đoàn giống như Người Mục Tử Tốt Lành hiến mạng sống mình cho đàn chiên, bởi vì ngay cả trong thời khắc quyết liệt, họ không rút lui, nhưng hiện diện, chia sẻ những mối quan tâm và khó khăn của dân được trao phó cho họ săn sóc, đang khi họ làm cho chính mình can dự cách hữu vị; và như người Samari Tốt Lành, họ sẽ sẵn sàng băng bó bất kỳ vết thương nào. Hơn nữa, người lãnh đạo khiêm tốn nhận biết những giới hạn nơi chính mình và cần những người khác trợ giúp, họ biết làm thế nào để biến đổi những thất bại thảm hại thành những bài học kinh nghiệm phong phú.

 

e) Những người có quyền bính được gọi để giữ cho đoàn sủng của gia đình tu sĩ của họ được sống động. Việc thực thi quyền bính cũng bao gồm việc đặt mình phục vụ đoàn sủng riêng của hội dòng mà họ thuộc về, đang khi cẩn thận gìn giữ đoàn sủng và làm cho doàn sủng hiện thực trong cộng đoàn địa phương, trong tỉnh dòng hay trong toàn hội dòng, theo những kế hoạch và định hướng  được cống hiến, đặc biệt do các Tổng Tu Nghị (hay những cuộc họp tương tự). Người có quyền bính phải có được kiến thức thích đáng về đoàn sủng của hội dòng, làm cho đoàn sủng nên thiết thân với chính mình, hầu có thể nhìn thấy rõ đoàn sủng hơn trong mối liên hệ với đời sống cộng đoàn, cũng như chỗ đứng của đoàn sủng trong bối cảnh giáo hội và xã hội.

 

         f) Những người có quyền bính được gọi để giữ cho “sentire cum Ecclesia” sống động. Họ có trách vụ giúp đỡ để giữ cho cảm thức đức tin và sự hiệp thông giáo hội được sống động, giữa một dân tộc nhận biết và ca ngợi những kỳ công của Thiên Chúa, làm chứng cho niềm vui thuộc về Người trong gia đình rộng lớn là Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Trách vụ theo Chúa không được thực hiện do những người cầm lái cô đơn nhưng được hoàn thành trong con thuyền của Phêrô  vốn vượt qua được bão tố; và những người được thánh hiến đóng góp sự trung tín vui tươi, cần mẫn cho việc lái tàu được tốt đẹp.  Do đó, người có quyền bính nên nhớ rằng “sự vâng phục của chúng ta là lòng tin cùng với Giáo hội, cùng suy tư và lên tiếng với Giáo hội, phục vụ qua Giáo hội. Điều Đức Giêsu tiên báo cho Phêrô luôn được áp dụng: “Anh sẽ được đem đến nơi anh không muốn đến”. Tự đặt mình để được hướng dẫn đi tới nơi mà ta không muốn là yếu tố cốt yếu của việc phục vụ và chính điều ấy làm chúng ta tự do”.

        

         Sentire cum Ecclesia tỏa chiếu nơi các Đấng sáng lập hàm ẩn khoa linh đạo chân chính của sự hiệp thông, nghĩa là “một mối liên hệ hữu hiệu và cảm động với các Giám mục, trước hết với Đức Giáo Hoàng, trung tâm của sự hiệp nhất của Giáo hội.” Mọi người sống đời thánh hiến có bổn phận vâng phục trọn vẹn và tín nhiệm Đức Giáo Hoàng chính vì lời khấn của họ. Hơn nữa, sự hiệp thông giáo hội đòi hỏi phải gắn kết với Huấn Quyền của Đức Giáo Hoàng và các Giám mục như chứng nhân cụ thể yêu mến Giáo hội và say mê sự hiệp nhất của Giáo hội. 

        

         g) Những người có quyền bính được gọi để cùng đi theo hành trình đào luyện liên tục. Một trách vụ ngày nay luôn phải được coi là quan trọng nhất đối với những người có quyền bính là trách vụ đồng hành với những người mà họ được mời gọi để chăm sóc suốt đời sống của họ. Họ thực thi điều này không chỉ bằng việc cống hiến sự trợ giúp để giải quyết những vấn đề hay những cơn khủng hoảng có thể xảy ra, nhưng còn ở việc chú ý đến sự tăng trưởng bình thường của từng người trong mỗi giai đoạn, mỗi thời khắc của cuộc đời, hầu đảm bảo rằng “tinh thần trẻ trung được kéo dài vượt qua cả năm tháng”  và điều đó làm cho những người được thánh hiến mãi đồng hình đồng dạng hơn với “những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2,5). 

 

         Vì vậy, trách nhiệm của những người có quyền bính là giữ lòng rộng mở thật cao độ để được đào luyện cũng như có thể học hỏi từ cuộc sống. Cách riêng, đây là điều quan trọng phải làm cách tự do, để chính mình được đào luyện bởi những người khác và cảm nhận được trách nhiệm đối với sự tăng trưởng của người khác. Cả hai sẽ được cổ võ bằng việc sử dụng những phương thế tăng trưởng trong cộng đoàn được chuyển giao do truyền thống và ngày nay điều đó được đặc biệt khuyên nhủ do những người có kinh nghiệm dày dạn trong lãnh vực đào luyện thiêng liêng: chia sẻ Lời Chúa, những dự phóng cá nhân và cộng đoàn, sự phân định cộng đoàn, duyệt xét đời sống và sửa bảo huynh đệ.

 

2. Sự phục vụ của quyền bính theo ánh sáng những quy tắc của Giáo hội

VP&QB 14

        

         Trong những đoạn trước, việc phục vụ của quyền bính trong đời sống thánh hiến được mô tả qui chiếu với việc tìm kiếm ý Chúa Cha theo một vài ưu tiên. 

 

         Để những ưu tiên này không bị hiểu như hoàn toàn tùy ý, chúng ta cần  xem xét những đặc tính biệt loại của việc thực thi quyền bính theo Giáo Luật.  Theo Giáo luật những đường nét Tin mừng của quyền bính được thực thi do các bề trên dòng tu, trên nhiều bình diện khác nhau, đã được chuyển dịch thành những quy luật.

 

         a) Sự vâng phục của Bề trên. Chuyển từ bản chất đặc trưng "munus" của quyền bính Giáo hội, Giáo luật nhắc nhớ các bề trên dòng, trước tiên ngài được gọi để làm người vâng phục. Với sức mạnh của phận vụ được đảm nhận, ngài phải vâng phục luật Thiên Chúa ; nơi xuất phát quyền bính của ngài và lương tâm ngài phải trả lẽ với luật ấy, ngài phải vâng phục luật của Giáo hội, Đức Giáo Hoàng Roma, và luật riêng của tu hội.

 

         b) Tinh thần phục vụ. Sau khi đã xác nhận nguồn gốc đặc sủng và sự trung gian có tính giáo hội của quyền bính tu trì, ta hãy xác nhận lại, như tất cả quyền bính trong Giáo hội, quyền bính của bề trên tu sĩ cũng phải được đặc trưng bởi tinh thần phục vụ, theo gương Đức Kitô là Đấng “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10,45), và đặc biệt cho thấy tinh thần phục vụ ấy dưới nhiều khía cạnh; trung thành tuân giữ chúng sẽ đảm bảo các bề trên được nhận biết là người “dễ dạy đối với thánh ý Thiên Chúa”, trong khi chu toàn sự phục vụ của mình.

 

         Vì vậy, là người anh đối với anh em, là người chị đối với các chị em, mỗi bề trên đều được gọi để đem lại sức sống cho tình yêu, nhờ đó Thiên Chúa yêu thương con cái mình, đang khi tránh xa mọi thái độ thống trị, và cũng xa tránh tất cả mọi hình thức "cha chú".

 

         Tất cả những điều này đều có thể thực hiện nhờ lòng tín nhiệm vào trách nhiệm của các anh em, chị em, “cổ võ sự vâng phục tự nguyện của những người thuộc quyền với lòng kính trọng nhân vị”, và qua đối thoại, luôn  nhớ rằng điều ràng buộc phải đến “trong một tinh thần đức tin và yêu mến bước theo Đức Kitô vâng phục,’ chứ không phải vì những động cơ khác. 

 

         c) Chăm sóc mục vụ. Bộ Giáo Luật cho thấy mục tiêu tiên quyết của việc thực thi quyền bính trong đời tu là để xây dựng “một cộng đoàn anh em, chị em trong Đức Kitô, trong đó Thiên Chúa được tìm kiếm và yêu mến trên hết mọi sự”. Vì vậy, trong cộng đoàn tu sĩ, quyền bính tự bản chất cốt yếu có tính mục vụ, bởi nó hoàn toàn có chức năng xây dựng đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, theo chính căn tính giáo hội của đời thánh hiến.

 

Phương thế cốt yếu các bề trên phải sử dụng để đạt tới mục tiêu tiên quyết đó chỉ có thể được xây dựng trên đức tin :  nhất là lắng nghe Lời Chúa và cử hành Phụng vụ.

        

         Cuối cùng, ta kể ra một vài lãnh vực các bề trên cần đặc biệt quan tâm đối với các anh em, chị em tu sĩ : “đáp ứng cách thích đáng các nhu cầu bản thân họ , ân cần chăm sóc và thăm viếng khi họ đau yếu, sửa dạy khi họ vô kỷ luật,  ủy lạo khi họ nhút nhát, và kiên nhẫn với mọi người” (GL 619).

 

3. Những người có quyền bính phục vụ cộng đoàn, cộng đoàn phục vụ triều đại Thiên Chúa

QB&VP 17

          “Phàm ai được Thần khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14). Thật vậy, chúng ta là anh em, chị em với nhau, vì có Thiên Chúa là Cha hướng dẫn cộng đoàn của các anh em, chị em bằng Thần khí Ngài, làm họ nên đồng hình đồng dạng với Người Con của Ngài. 

 

         Chức năng của quyền bính đi vào trong kế hoạch này. Các bề trên, hiệp nhất với những người được trao phó cho họ, những người được gọi để xây dựng một cộng đoàn huynh đệ trong Đức Kitô,  trong đó, Thiên Chúa được kiếm tìm và yêu thương trên hết mọi sự, hầu hoàn thành kế hoạch cứu chuộc của Người. Vì vậy, người có quyền bính phục vụ cộng đoàn giống như chính Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, để đến lượt mình, cộng đoàn phục vụ Triều Đại Thiên Chúa (x. Ga 13,1-17). Thực thi quyền bính giữa anh em hay chị em mình nghĩa là phục vụ họ, theo gương Đấng đã “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45), để họ cũng có thể trao hiến đời sống mình.

 

         Chỉ khi nào chính bề trên sống vâng phục Đức Kitô và chân thành tuân giữ Luật, các thành viên của cộng đoàn sẽ hiểu rằng sự vâng phục của họ đối với bề trên không chỉ không trái nghịch với sự tự do của con cái Thiên Chúa, nhưng khiến họ trưởng thành trong sự đồng hình dạng với Đức Kitô, Đấng vâng phục Chúa Cha.

 

4. Dễ dạy đối với Thần Khí, Đấng dẫn tới hiệp nhất 

 QB&VP 18

         Cùng một tiếng gọi từ Thiên Chúa đã qui tụ các phần tử của cộng đoàn hay hiệp hội lại với nhau (x. Cl 3,15); cùng một ước muốn kiếm tìm Thiên Chúa tiếp tục hướng dẫn họ. “Do đó, đời sống trong cộng đoàn là dấu chỉ đặc biệt, trước Giáo hội và xã hội, của mối liên kết đến từ cùng một tiếng gọi và ước muốn chung – bất kể những khác biệt chủng tộc và nguồn gốc, ngôn ngữ và văn hóa – để vâng phục tiếng gọi ấy. Trái với đường lối bất hòa và chia rẽ, quyền bính và vâng phục chiếu tỏa như dấu chỉ về tư cách người cha đến từ Thiên Chúa, về tình huynh đệ sinh ra từ Thần khí, về sự tự do nội tâm của những người đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, bất chấp những giới hạn nhân loại nơi những người đại diện Ngài.”

 

         Thần khí mở rộng từng người tới Triều Đại Thiên Chúa, đang khi duy trì những ân huệ và vai trò khác biệt của họ (x. 1 Cr 12,11). Vâng phục tác động của Thần khí sẽ hiệp nhất cộng đoàn trong vai trò chứng tá cho sự hiện diện của Ngài, làm cho mọi người hân hoan tiến bước (x. Tv 37,23), và trở thành nền tảng của đời sống cộng đoàn, trong đó tất cả mọi người đều vâng phục, mỗi người có những trách vụ khác nhau. Việc tìm ý Chúa và tự nguyện thực thi là chất kết dính thiêng liêng cứu cả tập thể khỏi bị phân mảnh có thể nảy sinh vì những khác biệt lớn lao của con người trong tất cả tính đa biệt của họ khi họ thiếu một nguyên lý duy nhất hóa. 

 

5. Vì linh đạo hiệp thông và sự thánh thiện của cộng đoàn

QB&VP 19

          Trong những năm qua, một khái niệm canh tân của khoa nhân học đã làm cho tầm quan trọng của chiều kích tương quan nhân vị nên hiển nhiên. Một quan niệm như thế tìm được sự xác quyết rộng lớn trong hình ảnh của nhân vị nổi lên từ Kinh thánh và chắc hẳn cũng ảnh hưởng đến cách thức quan niệm những mối tương quan trong cộng đoàn tu trì, làm chú tâm hơn tới giá trị của sự rộng mở đến một ai khác hơn là chính mình, tới hoa trái của mối tương giao với những đa biệt phong phú trải đến cho từng người.

 

         Khoa nhân học tương quan như thế cũng tạo ra ảnh hưởng, ít nhất là gián tiếp, như chúng ta đã gợi nhắc về linh đạo hiệp thông, và đã đóng góp vào việc canh tân khái niệm về sứ mệnh được hiểu như chia sẻ cam kết với tất cả các phần tử của Dân Chúa, trong tinh thần cộng tác và đồng trách nhiệm. Linh đạo hiệp thông đã tự trình bày chính mình như bầu khí thiêng liêng của Giáo hội vào lúc khởi đầu của Thiên Niên Kỷ thứ ba và, vì thế, như một trách vụ tích cực và mô phạm của đời sống tôn giáo trên mọi mức độ. Linh đạo này tìm thấy sự qui chiếu dứt khoát của mình trong mầu nhiệm Thánh Thể luôn được coi như trung tâm điểm, chính bởi vì “Thánh Thể  cấu thành bản chất và hoạt động của Giáo hội” và “điều này được tìm thấy ở cội rễ của Giáo hội như là mầu nhiệm hiệp thông.”

 

         Sự thánh thiện và sứ mệnh chuyển qua cộng đoàn bởi vì Chúa Phục Sinh đã làm cho chính ngài hiện diện trong đó và qua đó, làm cho cộng đoàn nên thánh thiện và thánh hóa những mối tương quan. Đức Giêsu đã chẳng hứa là ngài sẽ hiện diện ở đâu có hai hay ba người qui tụ lại nhân danh Người hay sao (x. Mt 18,20) ? Thế nên, các người anh em, chị em đã trở thành bí tích của Đức Giêsu và sự gặp gỡ với Thiên Chúa, điều rất cụ thể là họ có thể sống giới răn yêu thương lẫn nhau. Bằng cách này, lối đường nên thánh trở thành con đường mà tất cả phần tử trong cộng đoàn đều cùng nhau theo đuổi ; nó không chỉ là đường lối cá nhân nhưng ngày càng trở thành kinh nghiệm cộng đoàn: trong niềm vui đón nhận nhau, chia sẻ cho nhau những ân huệ, trên hết là ân huệ yêu thương, tha thứ, sửa lỗi huynh đệ; cùng nhau tìm ý Chúa là Đấng giàu ân sủng và lòng thương xót; sẵn sàng mang lấy gánh nặng của nhau.

 

         Trong bầu khí văn hóa ngày nay, thánh thiện cộng đoàn là chứng từ rất thuyết phục, có lẽ còn hơn cả sự thánh thiện của cá nhân: điều này cho thấy giá trị trường cửu của sự hiệp nhất, hồng ân được Chúa Giêsu để lại. Điều này đặc biệt hiển nhiên trong các cộng đoàn quốc tế và liên văn hóa vốn đòi hỏi những cuộc đối thoại và đón tiếp ở mức độ cao.

 

 

IV. VAI TRÒ CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ QUYỀN BÍNH ĐỐI VỚI SỰ TĂNG TRƯỞNG CỦA CỘNG ĐOÀN  

QB&VP 20

         Sự tăng trưởng của cộng đoàn là kết quả của đức ái “có trật tự” vốn kính trọng những điểm qui chiếu của nó. Như vậy, “luật riêng của mỗi hiệp hội cũng cần phải chính xác bao có thể trong việc ấn định thẩm quyền tương ứng của cộng đoàn, những ban cố vấn khác nhau, những người điều phối các ban ngành và bề trên. Thiếu rõ ràng trong lãnh vực này là nguyên cớ gây ra lộn xộn và đối kháng. "Dự phóng cộng đoàn" có thể giúp gia tăng việc thông dự vào đời sống và sứ mệnh của cộng đoàn trong những bối cảnh khác nhau. Các dự phóng ấy cũng phải lưu ý để xác định rõ ràng vai trò và thẩm quyền của quyền bính, phù hợp với Hiến Pháp Dòng”.

        

         Với hình ảnh này,  những người có quyền bính cổ võ sự tăng trưởng đời sống huynh đệ qua việc phục vụ lắng nghe và đối thoại, kiến tạo một bầu khí thuận lợi để chia sẻ và đồng trách nhiệm, sự thông dự của mọi người trong những mối quan tâm của từng người, sự phục vụ quân bình giữa cá nhân và cộng đoàn, giữa phân định và cổ võ sự vâng phục huynh đệ. 

 

a) Phục vụ việc lắng nghe 

        

         Việc thực thi quyền bính hàm ý rằng những người có quyền phải hân hoan lắng nghe những người đã được ký thác cho họ.  Thánh Biển Đức nhấn mạnh: “Đan viện trưởng kêu gọi toàn thể cộng đoàn lại”; “tất cả chúng ta được gọi để cho lời khuyên . . . bởi vì thông thường Chúa hay mạc khải những giải pháp tốt nhất cho những người bé nhỏ nhất.”

        

         Lắng nghe là một trong những tác vụ chính của các bề trên và họ phải luôn sẵn sàng cho việc này, trước hết đối với những ai cảm thấy mình đơn độc và cần được quan tâm. Thật vậy, lắng nghe nghĩa là chấp nhận người khác vô điều kiện, cho họ có chỗ trong chính cõi lòng mình. Vì vậy, lắng nghe diễn đạt tình cảm và thông cảm, tuyên bố rằng tha nhân được trân trọng, và sự hiện diện cũng như ý kiến của họ sẽ được cứu xét.

 

         Bất kỳ ai lãnh đạo phải nhớ rằng người nào không lắng nghe anh em, chị em mình, thì cũng không biết cách lắng nghe Thiên Chúa, đây là sự lắng nghe chăm chú cho phép ta phối kiếm tốt đẹp hơn năng lực và những ân huệ Thần khí ban cho cộng đoàn và cũng ghi nhớ những giới hạn và khó khăn của một vài phần tử, khi đưa ra những quyết định. Thời gian dành cho việc lắng nghe không bao giờ là thời gian lãng phí, và lắng nghe thường có thể ngăn cản những cơn khủng hoảng và tình trạng khó khăn cả trên bình diện cá nhân lẫn cộng đoàn.

 

b) Sáng tạo bầu khí thuận lợi để đối thoại, chia sẻ và đồng trách nhiệm 

        

         Những người có quyền bính phải quan tâm đến việc kiến tạo môi trường tín nhiệm, cổ võ việc nhìn nhận khả năng, những điều nhạy cảm nơi mỗi cá nhân. Hơn nữa, bằng lời nói và việc làm, họ sẽ nuôi dưỡng niềm xác tín cộng đoàn cần tham gia và vì thế, cần thông tin.

 

         Ngoài việc lắng nghe, những người có quyền bính sẽ coi trọng cuộc đối thoại chân thành và tự do, chia sẻ những cảm nhận, viễn cảnh và kế hoạch: trong bầu khí này, từng người sẽ được nhìn nhận căn tính chân thật của mình và cải thiện khả năng tương quan của chính mình. Những người có quyền bính sẽ không sợ nhìn nhận và chấp nhận những vấn đề rất dễ nảy sinh từ việc tìm kiếm, quyết định, thực thi và cùng đảm nhận những cách thức tốt nhất để thể hiện sự cộng tác hữu hiệu. Họ sẽ truy tìm nguyên do của mọi cái khó chịu hay hiểu lầm, chia sẻ nhiều bao có thể, biết cách đề xướng những đường hướng giải quyết. Hơn nữa, chính họ sẽ cam kết tìm ra cách vượt thắng mọi hình thức ấu trĩ, và ngăn chặn ý đồ trốn trách nhiệm hay lẩn tránh những cam kết lớn hơn, để tự đóng kín vào thế giới của riêng mình, vào những mối lợi riêng tư, để làm việc cách biệt lập.

  

c) Thu hút sự đóng góp của mọi người vì quan tâm đến tất cả 

          

         Bất kỳ người phụ trách nào cũng đều có trách nhiệm để đưa ra quyết định cuối cùng, nhưng họ đạt tới đó không phải do chính mình, đúng hơn, do việc lượng giá những đóng góp tự do lớn nhất có thể có được từ tất cả các anh em hay chị em. Cộng đoàn thực sự do các phần tử tạo nên. Vì thế, kích thích và tạo động cơ để mọi người đóng góp, để mỗi người cảm thấy bổn phận phải đóng góp đức ái của mình, khả năng và tinh thần sáng tạo là cơ bản. Thực vậy, tất cả những nguồn lực nhân linh được kiện cường và qui tụ lại với nhau trong dự phóng cộng đoàn, tạo động cơ và tôn trọng.

 

         Đặt chung của cải vật chất thì không đủ; hiệp thông của cải và những khả năng cá nhân, những khả năng thiên phú và tài năng, những trực giác và những khởi hứng, vẫn luôn có ý nghĩa hơn ; song cơ bản hơn nữa, chia sẻ những của cải thiêng liêng, lắng nghe Lời Chúa, đức tin phải được cổ võ: “chúng ta càng chia sẻ những điều chủ yếu và sống động, thì mối dây huynh đệ càng tăng trưởng, thêm sức mạnh.”

 

         Có lẽ không phải tất cả sẽ sẵn sàng ngay cho loại chia sẻ này. Khi đối diện với những đối kháng có thể xảy ra, không bỏ đi dự phóng, những người có quyền bính phải khôn ngoan tìm cách quân bình tình trạng khẩn cấp cho sự hiệp thông năng động và bạo dạn với nghệ thuật kiên nhẫn, không kỳ vọng để thấy ngay tức khắc những kết quả trong những cố gắng của riêng mình. Họ cũng phải nhận biết rằng Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất, Đấng có thể chạm đến và thay đổi cõi lòng của con người.

 

d) Phục vụ cá nhân và cộng đoàn 

        

         Trong việc trao phó những trách nhiệm khác nhau cho các phần tử của cộng đoàn, những người có quyền bính phải để ý đến nhân cách của từng anh em, chị em cũng như những khó khăn và khuynh hướng của từng người, hầu cho mỗi người một cách, diễn đạt những ân huệ Chúa ban ; đồng thời họ nhất thiết phải xét đến thiện ích của cộng đoàn và phục vụ công việc được giao phó cho họ.

 

         Việc tổ chức như thế để đạt tới mục tiêu không luôn luôn dễ dàng để đem ra thực hành. Vậy nên, chính sự quân bình của những người có quyền bính sẽ trở thành yếu tố bất khả thế.  Sự quân bình này được tỏ lộ trong khả năng nắm bắt những khía cạnh tích cực của từng người và tận dụng tốt nhất những mặt mạnh sẵn có.  Điều này phải được thực hiện với ý hướng ngay chính vốn làm cho quyền bính trở thành tự do nội tâm, không quá quan tâm đến việc làm vui lòng hay dễ dãi, nhưng chỉ ra cho người được thánh hiến thấy rõ ràng ý nghĩa chân thật của sứ mệnh vốn không thể giản lược vào việc định giá suông những khả năng của từng người.  

 

         Tuy nhiên, điều thiết yếu là những người được thánh hiến phải chấp nhận, trong tinh thần đức tin và từ tay Chúa Cha, trách nhiệm được giao phó cho họ ngay cả khi nó không hợp với những ước ao và kỳ vọng của họ, hay với cách thức họ hiểu biết ý Chúa. Mỗi người vẫn có thể diễn đạt những khó khăn biệt loại bằng cách thẳng thắn cho thấy chúng cũng đóng góp cho sự thật. Do vậy, vâng phục có nghĩa là tin tưởng vào quyết định sau cùng của người có quyền bính, với niềm xác tín rằng vâng phục như thế là đóng góp quí báu – cho dù có phải chịu đau khổ - vào việc xây dựng Triều Đại Thiên Chúa. 

 

e) Việc phân định cộng đoàn 

 

         “Trong đời sống cộng đoàn được khởi hứng do Thánh Thần, mỗi người dấn thân vào cuộc đối thoại hiệu quả với những người khác để khám phá ý Chúa Cha. Đồng thời, những phần tử của cộng đoàn cùng nhau nhận biết nơi người chủ sự lối diễn đạt tư cách là Cha của Thiên Chúa và thực thi quyền bính nhận được từ Thiên Chúa, nhằm phục vụ sự phân định và hiệp thông.”

 

         Đôi lúc, khi luật riêng qui định hay khi tầm quan trọng của quyết định buộc phải đòi hỏi, việc tìm kiếm câu trả lời thích hợp được ký thác cho sự phân định của cộng đoàn. Theo đó, vấn đề chính là lắng nghe điều Thần khí nói cho cộng đoàn (x. Kh 2,7).

 

         Mặc dù sự phân định đích thực và thích hợp được dành cho những quyết định quan trọng nhất, tinh thần phân định phải đặc trưng hóa mọi tiến trình làm ra những quyết định can dự đến cộng đoàn. Trước mọi quyết định, không thể bỏ qua thời gian cầu nguyện và suy tư cá nhân, cùng với một loạt những thái độ quan trọng để cùng nhau chọn lựa điều gì là đúng và làm vui lòng Thiên Chúa. Dưới đây là một vài thái độ : 

 

         – quyết tâm không tìm kiếm điều gì khác hơn là ý Chúa, để chính mình được khởi hứng bởi cách hành động của Thiên Chúa như ta thấy trong Kinh Thánh và trong lịch sử đoàn sủng của tu hội, và với ý thức lý luận của Tin Mừng thường “đảo lộn” so với lý luận của con người vốn tìm kiếm thành công, hiệu quả và đòi hỏi được nhận biết; 

         – rộng mở để nhận thức khả năng khám phá chân lý nơi từng anh em chị em, mặc dù chỉ có một phần, và như vậy, rộng mở tiếp đón những ý kiến của họ như trung gian để cùng nhau khám phá ý Thiên Chúa – rộng mở tới độ biết cách để nhìn nhận những ý tưởng của tha nhân là tốt hơn ý tưởng của chính mình;

         – chú tâm tới những dấu chỉ thời đại, kỳ vọng của dân tộc, tới nhu cầu của người nghèo, những nhu cầu thúc bách của việc loan báo tin mừng, những ưu tiên của Giáo hội phổ quát và các Giáo hội địa phương và những chỉ dẫn của các Tổng Tu Nghị và các bề trên thượng cấp; 

         – tự do thoát khỏi những thành kiến, những gì gắn bó quá độ vào các ý tưởng của riêng mình, những khung cảm nhận vốn cứng ngắc hay bị bóp méo và những lập trường mạnh mẽ, chống lại các ý kiến khác biệt;

         – can đảm đặt nền vững chắc những ý tưởng của riêng mình đang khi cũng mở rộng mình cho những viễn cảnh mới và thay đổi quan điểm của mình;

         – mạnh mẽ đề xướng gìn giữ sự hiệp nhất trong mọi trường hợp, bất kể quyết định chung cục ra sao.

 

         Sự phân định cộng đoàn không phải là thay thế bản chất và chức năng của người có quyền bính, mà từ đó ta kỳ vọng quyết định chung cục. Tuy nhiên, những người có quyền bính không thể bỏ qua cộng đoàn là chỗ tốt nhất để nhận biết và chấp nhận ý Chúa. Bất luận thế nào, phân định là một trong những thời khắc tột đỉnh trong cộng đoàn sống đời thánh hiến, ở đó  nổi bật cách rõ ràng và đặc biệt, Thiên Chúa là trung tâm, cùng đích tối hậu mà mọi người tìm kiếm, cũng như trách nhiệm và sự đóng góp của từng người trong hành trình hướng tới Chân Lý, 

 

f) Phân định, quyền bính và vâng phục  

        

         Những người có quyền bính sẽ kiên nhẫn trong tiến trình phân định khá tế nhị ; họ sẽ tìm cách để đảm bảo các giai đoạn của nó và nâng đỡ những bước then chốt, và cũng để vững vàng trong việc đòi hỏi phải thi hành bất cứ điều gì đã quyết định. Họ sẽ chú tâm không phải từ bỏ trách nhiệm riêng của mình, ngay cả vì yêu thích cách sống bình an hay vì lo sợ làm tổn thương tình cảm của một ai đó. Họ sẽ cảm thấy trách nhiệm không tránh né những tình trạng mà trong đó cần phải làm rõ những quyết định và đôi khi, không dễ chịu chút nào. Tình yêu chân thật đối với cộng đoàn thực sự là điều làm cho những người có quyền bính có thể hòa giải cứng rắn với kiên nhẫn mềm mại, lắng nghe từng người, và can đảm lấy những quyết định, vượt thắng cơn cám dỗ "giả câm giả điếc".

 

         Cuối cùng, ta phải nhận xét rằng một cộng đoàn không thể ở trong một tình trạng phân định liên tục. Sau thời gian phân định có thời gian cho vâng phục, đó  là thi hành quyết định. Cả hai đều là thời gian mà trong đó sống tinh thần vâng phục là cần thiết. 

 

 

g) Vâng phục huynh đệ 

                 

         Kết thúc cuốn Qui luật của mình, thánh Biển Đức xác quyết: “Anh em phải diễn tả sự phục vụ của vâng phục không chỉ cho Đan Viện trưởng, nhưng họ cũng phải vâng phục lẫn nhau, biết rằng họ sẽ đi tới Thiên Chúa bằng đường lối vâng phục này.” “Ước gì họ kính trọng vượt lên nhau (x. Rm 12,10). Họ hãy mang những bệnh tật của nhau, dù của thân xác hay tâm trí, với sự kiên nhẫn cực điểm; họ hãy ganh đua lẫn nhau trong vâng phục. Đừng ai theo đuổi điều họ nghĩ là hữu ích cho chính mình, nhưng tốt hơn cho kẻ khác”. Thánh Basilio tự hỏi: “Chúng ta phải vâng lời nhau theo cách nào?” ngài trả lời: “như những tôi tớ đối với ông chủ, như Chúa đã ra lệnh cho chúng ta: ‘Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người (x. Mc 10,44)’; rồi Người thêm những lời còn ấn tượng hơn: ‘Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ’ (Mc 10,45); và như thánh Tông đồ nói: ‘Hãy lấy đức mến [của Thần khí] mà phục vụ lẫn nhau’ (Gl 5,13).”

        

         Tình huynh đệ chân thật được dựa trên sự nhận biết phẩm giá của các anh em, chị em và trở thành cụ thể trong sự chú tâm dành cho những người khác và những nhu cầu của họ, trong khả năng hân hoan vì những hồng ân được ban cho họ và hoàn thành chúng, tùy ý chọn thời gian thích hợp để lắng nghe và để được soi sáng; tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải có tự do nội tâm.

 

         Ai thâm tín rằng những ý tưởng và giải đáp của họ luôn là tốt nhất; ai giả thiết rằng họ có thể quyết định tự mình không cần bất kỳ trung gian nào để biết ý Thiên Chúa; ai nghĩ về chính mình là luôn luôn đúng và không có chút hoài nghi nào rằng, chính những người khác mới phải thay đổi; ai chỉ nghĩ về những điều của riêng mình và không chú ý đến những nhu cầu của tha nhân; ai nghĩ rằng vâng phục là cái đến từ kỷ nguyên khác và không thể được đề xuất trong một thế giới vốn được tiến hóa hơn;  chắc chắn đó là những người không có tự do... 

 

         Đúng hơn, người tự do là những ai biết thường xuyên chú tâm và vươn lên trong cuộc sống để đón nhận lời khuyên trong mọi tình huống của cuộc đời, và trên hết từ những người sống bên họ, như trung gian của ý Chúa, dẫu có huyền nhiệm. “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Người đã giải thoát chúng ta để chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa bằng muôn vàn cách thức trong đời sống hằng ngày. 

 

 

V. QUYỀN BÍNH VÀ SỨ MỆNH  

QB&VP 25

         Tất cả những điều này hàm ý rằng quyền bính được nhìn nhận như một trách vụ quan trọng trong việc thực thi sứ mệnh, trung thành với đặc sủng riêng của từng người. Đây không phải là trách vụ đơn giản, cũng không phải không có những khó khăn và hàm hồ. Trong quá khứ, nguy cơ có thể đến từ những người có quyền bính, chủ yếu nhắm vào việc điều hành công việc, với mối nguy hiểm là không quan tâm đến con người. Ngày nay, đúng hơn, nguy cơ có thể đến từ việc sợ hãi quá đáng là làm tổn thương những tình cảm của tha nhân hay từ sự phân mảnh các năng lực và trách nhiệm vốn làm suy yếu, vận hành được thống nhất tới mục tiêu chung và làm cho vai trò của quyền bính mất tác dụng. 

 

         Tuy nhiên, những người có quyền bính không chỉ chịu trách nhiệm sinh động cộng đoàn nhưng còn điều phối những khả năng khác nhau trong liên hệ với sứ mệnh. Do vậy, họ kính trọng những vai trò và theo những quy tắc nội bộ của hiệp hội. Mặc dù những người có quyền bính không thể - và không được – làm mọi sự, thế nhưng, họ lại có trách nhiệm cuối cùng về mọi sự.

 

         Nhiều thách đố hiện nay đang đặt trên vai những người có quyền bính trách vụ điều phối các năng lực cho sứ mệnh. Một số trách vụ quan trọng được kể ra như sau: 

 

a) Những người có quyền bính khích lệ việc đảm nhận trách nhiệm và kính trọng những người nhận trách nhiệm 

 

         Đối với một số người, trách nhiệm có thể gây ra cảm thức sợ hãi. Vì vậy những người có quyền bính cần phải bày tỏ cho các cộng sự viên của mình sức mạnh Kitô hữu và lòng can đảm đối diện với những khó khăn, vượt thắng những sợ hãi và thái độ bỏ cuộc.

 

         Mối quan tâm của họ sẽ được chia sẻ không chỉ tin tức nhưng còn là những trách nhiệm, cam kết kính trọng từng người trong sự tự lập chính đáng của họ. Về phía người có quyền bính, điều này liên can đến điều phối kiên nhẫn; còn về phía người được thánh hiến, điều này liên can đến sự rộng mở chân thành để cùng nhau làm việc.

 

         Những người có quyền bính cần phải “hiện diện” khi cần thiết, để cổ võ các phần tử của cộng đoàn cảm thức về sự tương thuộc, đây không phải là lệ thuộc ấu trĩ cũng không phải là độc lập tự đủ. Sự tương thuộc này là hoa trái của tự do nội tâm cho phép mỗi người làm việc và cộng tác, thay thế cũng như được thay thế, tham gia tích cực và đóng góp phần của mình, ngay cả phía sau hậu trường.

 

         Bất cứ ai thực thi sự phục vụ của quyền bính sẽ phải chú tâm không nhượng bộ cơn cám dỗ tự mãn cá nhân, tin rằng mọi sự lệ thuộc vào họ và cổ xúy sự tham gia cộng đoàn sẽ là không quan trọng và hữu ích; cùng nhau đi một bước thì tốt hơn là đi riêng một mình hai bước, hay nhiều hơn nữa. 

 

b) Những người có quyền bính mời gọi chúng ta đối diện với sự khác biệt trong tinh thần hiệp thông

        

         Những thay đổi văn hóa đang tiến mau chóng không chỉ gây ra những biến đổi cơ cấu ảnh hưởng đến các hoạt động và sứ mệnh, nhưng còn gây ra những căng thẳng trong cộng đoàn, ở đó những loại khác nhau của đào luyện văn hóa hay thiêng liêng đã khiến cho các phần tử cống hiến những cách thức khác nhau để đọc những dấu chỉ thời đại và, vì vậy, đề xướng những dự phóng khác nhau, và không luôn luôn có thể giải hòa. Ngày nay, những tình trạng như thế có thể xuất hiện thông thường hơn trong quá khứ, bởi đang gia tăng con số các cộng đoàn được hình thành do những người đến từ những nhóm chủng tộc hay văn hóa khác nhau, do đó làm cho những khác biệt thế hệ thành hiển nhiên hơn. Trong một thế giới nổi cộm vì nhiều chia rẽ, những người có quyền bính được gọi để phục vụ với tinh thần hiệp thông, ngay cả những cộng đoàn tổ hợp này, giúp họ để cống hiến chứng từ cùng nhau sống và yêu mến lẫn nhau cho dù có những khác biệt. Vì vậy phải nắm giữ một vài nguyên tắc lý thuyết-thực tiễn sau đây:

 

         – nhớ rằng theo tinh thần Phúc Âm, xung đột các ý tưởng không bao giờ được trở thành xung đột con người;

         – gợi nhắc rằng những viễn cảnh khác nhau cổ võ đào sâu vấn nạn;

         – cổ võ thông giao để tự do trao đổi tư tưởng làm cho các lập trường nên rõ ràng và làm cho việc đóng góp tích cực của từng người được nổi lên; 

         – giúp giải thoát chính mình khỏi chủ nghĩa qui ngã và chủ nghĩa vị chủng, có khuynh hướng quy những nguyên do rắc rối vào người khác, để được thông cảm hỗ tương thật sự

         – hiểu rằng lý tưởng không phải là có một cộng đoàn không có xung đột, nhưng là cộng đoàn sẵn sàng đối diện với những căng thẳng của chính mình hầu giải quyết chúng cách tích cực, tìm kiếm những giải pháp mà không bỏ qua những giá trị buộc phải lưu ý.

 

c) Những người có quyền bính duy trì sự quân bình giữa những chiều kích khác nhau của đời thánh hiến  

 

         Những chiều kích này có thể gây ra căng thẳng giữa chúng. Người có quyền bính phải đảm bảo sự hiệp nhất đời sống phải được gìn giữ và điều đáng chú ý nhất chính là sự quân bình giữa thời gian dành cho cầu nguyện và thời gian cống hiến cho công việc, giữa cá nhân và cộng đoàn, giữa dấn thân và nghỉ ngơi, giữa chú ý đến đời sống chung và chú ý đến thế giới và Giáo hội, giữa đào luyện cá nhân và đào luyện cộng đoàn.

 

         Một trong những sự quân bình tế nhị nhất là giữa cộng đoàn và sứ mệnh, giữa đời sống ad intra và đời sống ad extra.  Bình thường, căn cứ trên tính cấp bách của những điều phải làm, có thể ta không lưu tâm tới những điều liên quan đến cộng đoàn và ngày nay còn thông thường hơn nữa, khi người ta được gọi để làm việc như một cá nhân, quả đúng là ta phải tôn trọng một vài qui luật không thể vi phạm, đảm bảo tức thời cho cả tinh thần huynh đệ trong cộng đoàn tông đồ và tính nhạy bén tông đồ trong đời sống cộng đoàn cần được tôn trọng. 

 

         Điều này thật quan trọng. Người có quyền bính phải là người bảo vệ những qui luật này và nhắc nhớ từng người và mọi người biết rằng một phần tử của cộng đoàn đang thi hành sứ mệnh hay đang chu toàn việc phục vụ tông đồ nào đó, ngay cả khi làm việc một mình, vẫn luôn hành động nhân danh Tu Hội hay cộng đoàn và vì thế, làm việc nhờ cộng đoàn. Thường thường, nếu một vài người có thể chu toàn hoạt động đặc biệt ấy, là vì những người khác trong cộng đoàn cống hiến thời gian cho họ, khuyên bảo họ hay biểu lộ một tinh thần nào đó. Hơn nữa, người ở lại trong cộng đoàn cũng đã làm thay một vài trách vụ trong nhà cho những người cam kết dấn thân ngoài cộng đoàn, hay cầu nguyện cho họ, hay trợ giúp họ bằng chính sự trung thành của mình.

 

         Nay thật là chính đáng, vì không chỉ các tông đồ phải tri ân sâu xa nhưng họ còn được hiệp nhất mật thiết với cộng đoàn của mình trong mọi việc họ làm. Vị tông đồ không được hành động như chủ nhân của cộng đoàn nhưng phải cố gắng bằng bất kỳ giá nào để xin cộng đoàn cùng tiến bước, chờ đợi, nếu còn những người đi chậm hơn, coi trọng sự đóng góp của từng người, chia sẻ bao có thể niềm vui và nỗ lực, trực giác và những điều không chắc, để tất cả đều cảm thấy việc tông đồ của mỗi người khác như là của mình, không chút đố kỵ hay ghen tuông. Các tông đồ có thể chắc chắn rằng cho dù họ cống hiến cho cộng đoàn nhiều bao nhiêu chăng nữa, thì cũng chẳng bao giờ cân xứng với những gì họ đã nhận và sẽ tiếp tục nhận được từ cộng đoàn. 

 

d) Những người có quyền bính có lòng xót thương 

        

         Thánh Phanxicô Assisi, trong lá thư cảm động gởi cho một bề trên, đã đưa ra chỉ dẫn sau đây về những yếu đuối có thể có của anh em ngài: “Trong chuyện này tôi muốn biết, nếu anh yêu mến Chúa và chính tôi đây, là tôi tớ của Chúa và của anh, nếu anh đã làm điều này, nghĩa là, chẳng có tu sĩ nào trên thế gian đã phạm tội, nhiều như người ta có thể phạm, và sau khi người đó đã bắt gặp ánh mắt của anh, người đó không bao giờ ra đi mà không nhận được lòng xót thương của anh, nếu người ấy tìm kiếm lòng xót thương. Và nếu như người tu sĩ đó không tìm ra lòng thương xót,  anh đã phải hỏi xem người đó có cần lòng xót thương không. Và giả như sau đó người ấy lại sai phạm cả ngàn lần, trước mắt anh thì vì lẽ đó, anh hãy yêu họ hơn yêu tôi, hầu anh lôi kéo người ấy đến với Chúa; và anh phải luôn thương xót những người như thế.”

 

         Những người có quyền bính được gọi để khai triển khoa sư phạm của ơn tha thứ và lòng thương xót, nghĩa là, trở nên những dụng cụ của tình yêu Thiên Chúa đến tiếp đón, sửa sai và luôn cống hiến một cơ hội khác cho người anh em, chị em lỗi lầm, phạm tội. Trên hết,  họ cần ghi nhớ rằng không có hy vọng được tha thứ,  người ta khó có thể trở lại đường ngay nẻo chính và không thể né tránh xu hướng làm tăng thêm sai lầm này đến sai lầm khác, thất bại này đến thất bại khác. Thay vào đó, viễn cảnh của lòng xót thương xác quyết rằng Thiên Chúa có thể rút ra con đường dẫn tới sự thiện, ngay cả từ những tình trạng tội lỗi. Ước chi những người có quyền bính không hề tiếc nuối một nỗ lực nào để toàn cộng đoàn có thể học hỏi  loại xót thương này.

 

 e) Những người có quyền bính có cảm thức về công bằng 

        

         Nếu lời mời gọi của thánh Phanxicô Assisi để tha thứ cho người anh em phạm tội có thể được coi là qui luật quí giá chung, thì ta phải biết rằng có thể có những lối hành xử nơi những phần tử của một số cộng đoàn những người được thánh hiến gây hại nghiêm trọng cho người lân cận và hàm ẩn trách nhiệm đối với người ngoài cộng đoàn, cũng như trong chính Hội Dòng mà họ thuộc về. Nếu cần thiết phải thông cảm đối với sai trái của cá nhân, thì cũng cần thiết phải có một cảm thức nghiêm nhặt về trách nhiệm và bác ái đối với những người rốt cuộc bị làm hại vì lối hành xử không đúng của người được thánh hiến. 

 

         Ước gì người sai phạm biết rằng mình phải trả lời cho những hệ quả của những hành vi của mình. Sự thông cảm đối với người tu sĩ không thể loại bỏ công bằng, cách riêng đứng trước những người bị thương tổn và nạn nhân của lạm dụng. Biết đón nhận,  nhận biết sự dữ thật sự và đảm nhận trách nhiệm đối với nó và những hệ quả của nó, đã là những bước đi trên con đường dẫn tới lòng thương xót: như đối với Israel thuở xưa đã tự mình xa cách Chúa, việc chấp nhận những hệ quả của sự dữ, chẳng hạn như kinh nghiệm "Lưu Đày" là bước đầu tiên trong việc đảm nhận con đường hoán cải và khám phá lại một cách sâu xa hơn mối liên hệ thật sự với Ngài.

 

f) Những người có quyền bính cổ võ cộng tác với giáo dân 

        

         Sự cộng tác ngày càng gia tăng với người giáo dân trong những công cuộc và hoạt động do những người được thánh hiến chỉ đạo nêu lên những vấn nạn mới, đòi hỏi phải có những giải đáp mới về phía cộng đoàn cũng như phía nắm giữ quyền bính. “Sự tham gia của giáo dân thường mang những trực giác bất ngờ và phong phú vào một số khía cạnh của đoàn sủng,” căn cứ vào giáo dân được mời gọi để cống hiến “cho những gia đình tu sĩ sự đóng góp vô giá của việc ‘họ ở trong thế giới’ và sự phục vụ biệt loại của họ.”

 

         Thật thích hợp để ta nhắc lại việc đạt tới mục tiêu cộng tác hỗ tương giữa tu sĩ và giáo dân : “nhất thiết phải có những cộng đoàn tu sĩ với một căn tính đoàn sủng rõ ràng, được hấp thụ và sống, có khả năng truyền đạt nó cho người khác và sẵn sàng chia sẻ ; các cộng đoàn tu sĩ với khoa linh đạo mãnh liệt và nhiệt tâm truyền giáo để thông truyền cùng một tinh thần và cùng một sức thúc đẩy loan báo tin mừng; các cộng đoàn tu sĩ biết cách sinh động và khích lệ giáo dân để chia sẻ đoàn sủng của hội dòng mình, theo đặc tính trần thế và kiểu sống khác nhau của người giáo dân, mời họ khám phá những cách thức mới để làm cho cùng một đoàn sủng và sứ mệnh hoạt động. Bằng cách này, cộng đoàn tu sĩ trở thành trung tâm tỏa chiếu ra bên ngoài một sức mạnh thiêng liêng, một trung tâm sinh động, trung tâm của tình huynh đệ phát sinh tình huynh đệ, trung tâm của hiệp thông và cộng tác trong giáo hội, ở đó những đóng góp khác nhau của từng người sẽ giúp xây dựng Thân Mình Đức Kitô là Giáo hội.”

        

         Hơn nữa, thật cần thiết là phải có một bản mô tả xác định rõ ràng về khả năng và trách nhiệm của giáo dân cũng như của tu sĩ, cũng như của những thực thể trung gian (các hội đồng quản trị..v.v).  Trong việc này, người phụ trách cộng đoàn những người được thánh hiến có một vai trò không thể thay thế.

 

 

VI. NHỮNG LOẠI KHÓ KHĂN CỦA QUYỀN BÍNH   

QB&VP 28

         Nhưng những người có quyền bính cũng có thể bị nản chí và vỡ mộng. Đứng trước sự chống đối của một số phần tử trong cộng đoàn và trước một vài vấn nạn dường như không thể giải quyết, họ có thể bị cám dỗ chịu nhượng bộ và coi mọi cố gắng để cải thiện tình trạng ấy là vô ích. Điều chúng ta thấy ở đây là mối nguy hiểm trở thành người điều hành những cái thường lệ, cam chịu sự tầm thường, dè dặt để khỏi phải can thiệp, không còn can đảm để chỉ ra những mục đích của đời sống thánh hiến đích thực và liều đánh mất tình yêu là nhiệt tình ban đầu của họ với ước muốn làm chứng cho tình yêu đó.  

 

         Khi việc thực thi quyền bính trở nên nặng nề và khó khăn, thật tốt đẹp để chúng ta nhắc lại Chúa Giêsu đã coi trách vụ đó là hành động yêu mến Người: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?” (Ga 21,16), và cũng thật ích lợi để chúng ta lắng nghe lại lời Thánh Phaolô : “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh túng thiếu” (Rm 12,12-13).   

 

         Cuộc đấu tranh nội tâm thầm lặng vốn kèm theo lòng trung thành đối với trách vụ của mình, đôi khi được ghi dấu bằng sự cô tịch hay hiểu lầm của những người mà ta hiến mình cho họ, sẽ trở thành con đường thánh hóa bản thân và là phương thế của ơn cứu độ do bởi họ phải chịu đựng những đau khổ.

 

 

 

KẾT LUẬN : "Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em" (Mt 20,27)

QB&VP 21

        

         Ngày nay, đảm nhận những trách nhiệm theo đúng với quyền bính dường như  là gánh nặng đặc biệt và đòi buộc phải có đức khiêm nhường để trở nên tôi tớ của tha nhân. Dù sao, cũng  luôn tốt đẹp để chúng ta gợi nhắc lại đây những lời nghiêm nhặt của Chúa Giêsu dành cho  những kẻ bị cám dỗ muốn mặc cho quyền bính cái uy thế trần gian: “Ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,27-28).

 

         Ai muốn tìm trong chức vụ của mình các phương thế để nên cao trọng hơn hay để khẳng định chính mình, đòi mình phải được phục vụ hay làm cho kẻ khác phục vụ mình, rõ ràng những ngưới ấy đã đặt mình ra ngoài khuôn mẫu Tin mừng về quyền bính. Lời Thánh Bê-na-đô dạy người môn đệ của ngài sau này trở thành người kế vị thánh Phêrô rất đáng cho chúng ta lưu ý: “Hãy coi xem con có tiến bộ trên đường nhân đức, khôn ngoan, hiểu biết, tốt lành. Con ngạo mạn hơn hay khiêm nhường hơn? Nhân từ hơn hay kiêu kỳ hơn? Bao dung hơn hay cố chấp hơn? Điều gì đang phát triển nơi con : lòng kính sợ Thiên Chúa hay là cái vô liêm sỉ nham hiểm ?”

        

         Vâng phục ngay cả trong hoàn cảnh tốt nhất cũng không dễ dàng, nhưng nó sẽ nên dễ dàng hơn khi người được thánh hiến thấy những người có quyền bính đặt mình phục vụ cộng đoàn và sứ mệnh cách khiêm tốn và cần mẫn:  loại quyền bính luôn cố gắng trình bày lại thái độ và tình cảm của Vị Mục Tử Tốt Lành, ngay cả với những giới hạn nhân loại của nó khi hành động.  Thánh Clara xác quyết nguyện vọng trong chúc thư cuối cùng của ngài: “Tôi cầu xin cho người sẽ nhận lãnh chức vụ biết chịu trách nhiệm đối với các chị em mình, dấn thân để phụ trách những người khác qua nhân đức và lối cư xử thánh thiện, hơn là bằng sức mạnh của chức vụ, hầu các chị em, được khởi hứng do gương lành của chị, vâng phục chị không phải vì chức vụ của chị, nhưng vì tình yêu.”

 

 


Trang Mục Vụ