Đời Sống Tâm
Linh: Lịch Sử Các Hình Thức Tu Trì Kitô Giáo
(daminhvn.net) 13/12/2014
PHẦN THỨ NHẤT
LỊCH SỬ CÁC HÌNH THỨC TU TRÌ
Trong phần này, chúng
tôi sẽ trình bày sự tiến triển của các hình thức tu trì, được phân làm ba giai
đoạn chính: thời giáo phụ; thời trung cổ; thời cận đại.
I. THỜI GIÁO PHỤ
Trong giai đoạn Một,
chúng ta sẽ theo dõi sự phát triển các hình thức tu trì Kitô giáo từ hồi khởi
thủy Giáo Hội cho đến hết thời các giáo phụ, và nói được là kéo dài ra suốt
thiên niên kỷ thứ nhất: bắt đầu là các nhà khổ hạnh và các trinh nữ (chương Một),
rồi đến đời sống đan tu dưới nhiều hình dạng khác nhau bên Đông phương và Tây
phương (chương Hai-Bốn).
Chương Một
NHỮNG HÌNH THỨC SƠ KHỞI
Đời tu trì Kitô giáo
khởi đầu từ khi nào? Thật không dễ trả lời. Có người cho rằng đời sống tu trì
Kitô giáo bắt đầu từ thế kỷ IV với nếp sống đan tu trên sa mạc. Một ý kiến đối
lập cho rằng không thể nào xác định khởi điểm đời sống tu trì Kitô giáo, bởi vì
hiện tượng này đã hiện hữu từ nhiều thế kỷ trước Kitô giáo. Một ý kiến thứ ba
cho rằng đời tu trì Kitô giáo xuất hiện với Đức Kitô, bởi vì Người đã mang lại
một sắc thái mới cho hiện tượng tu trì.
Thiết tưởng cả ba ý kiến
vừa nói đều có lý, tùy theo quan điểm của mỗi người về đời tu trì. Ngay trong lịch
sử Kitô giáo, đời sống tu trì đã mang nhiều dạng thức khác nhau rồi; tất nhiên
khi đối chiếu với các tôn giáo khác thì sự khác biệt lại càng nhiều hơn nữa.
Tuy nhiên, dù có nhiều sự khác biệt đi nữa, nhưng những điểm tương đồng cũng
không ít. Vì thế, tuy hình thức tu trì Kitô giáo mang một thể chế cố định với đời
đan tu vào hôì thế kỷ IV, nhưng nó đã được manh nha ngay từ khi Kitô giáo xuất
hiện, và ta không thể phủ nhận ảnh hưởng của các phong trào khổ hạnh tu đức đã
được thực hành nơi các tôn giáo khác.
MỤC 1
ĐỜI TU TRÌ TRƯỚC KITÔ GIÁO
Một sự thực không thể chối cãi được là đời tu
trì đã xuất hiện trước Kitô giáo, một cách cụ thể là ở Phật giáo, với ba cột trụ
là “Phật - Pháp – Tăng”. Nếu bên Phật giáo, Tăng đoàn là một thành phần cốt yếu,
thì thử hỏi: có thể khẳng định tương tự như vậy bên Kitô giáo không? Thực ra
câu hỏi này có thể hiểu theo hai nghĩa:
1) Đời tu trì có thiết
yếu đối với Kitô giáo hay không; nói khác đi: phải chăng duy chỉ các nhà tu
hành mới thực là Kitô hữu chân chính?
2) Đời tu trì Kitô
giáo chịu ảnh hưởng của Phật giáo không?
Câu hỏi thứ nhất (phải
chăng chỉ có tu sĩ mới thực là Kitô hữu chân chính?) sẽ được trả lời trong mục kế tiếp khi
bàn về nguồn gốc đời tu theo Tân ước. Câu hỏi thứ hai (về ảnh
hưởng của Phật giáo đối với đời tu Kitô giáo), thì thiếu tài liệu
chắc chắn. Phật giáo bắt nguồn từ Aán độ, sau đó được truyền bá sang Trung Hoa,
Việt Nam, nghĩa là hướng về phương Đông. Không có tài liệu nào cho biết là Kinh
Phật được truyền bá sang miền Địa Trung Hải.
Tuy nhiên, lịch sử tôn
giáo cho thấy rằng hiện tượng tu trì không chỉ xuất hiện ở bên Ấn Độ mà thôi,
nhưng còn ở nhiều miền khác nữa. Cách riêng, các Kitô hữu tiên khởi đã có dịp
tiếp xúc với những hình thức tu trì bên Palestina, hoặc xa hơn chút nữa, với những
hình thức tu trì ở vùng Địa-Trung-hải.
I. HÌNH THỨC TU TRÌ TRONG CỰU ƯỚC
Ở Việt Nam, vào ngày đầu năm, người ta chúc
cho nhau (Phúc, Lộc, Thọ), và đôi khi còn
bông đùa thêm (đầu năm sinh con trai, cuối năm sinh con gái).
Đó cũng là quan niệm về hạnh phúc ở nhiều dân tộc khác, kể cả dân tộc Israel.
Khi gọi ông Abraham lìa bỏ quê cha đất tổ để trở thành tổ phụ một dân tộc mới,
Thiên Chúa đã hứa với ông một dòng dõi đông đúc (như sao
trên trời, như cát dưới biển) và
đồng ruộng mênh mông (xc. St 13,14; 15,5). Những điều đó
sẽ còn được lặp lại trong giao ước với ông Moisen: các lời chúc phúc hoặc nguyền
rủa được đo lường theo số con cháu và hoa lợi đồng áng (xc. Đnl 28,1-68). Vì thế
không lạ gì trong các thánh vịnh ta thấy những lời cầu chúc không khác gì những
lời chúc Tết ở xứ mình:
“Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ
Chúa,
ăn ở theo đường lối của Người.
Công khó tay bạn làm,
bạn được an hưởng,
bạn quả là lắm phúc nhiều may.
Hiền thê bạn ở trong nhà
khác nào cây nho đầy hoa trái;
và bầy con tựa những cây ô-liu
mơn mởn,
xúm xít tại bàn ăn.
Đó chính là phúc lộc
Chúa dành cho kẻ kính sợ Người”
(Tv 128, 2-4; xc.144, 12-15).
Trong bối cảnh đó, thật
khó mường tượng có ai đón nhận cảnh độc thân hoặc thanh bần như là phúc lành của
Chúa. Tuy vậy, các học giả đã ghi nhận một thể chế những nhà khổ hạnh mang tên
là Nazir. Hình ảnh quen thuộc với
chúng ta hơn hết là ông Samson. Khi bà mẹ còn mang thai, thiên sứ đã nói trước
về nếp sống của con mình như sau: “Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con
trẻ sẽ là một nazir của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Israel khỏi
tay người Philitin” (Tl 13,5-7; 16,17). Thực ra đây không phải là một kỷ luật
áp đặt riêng cho ông Samson vì là một anh hùng dân tộc, nhưng là một thể chế
khá phổ thông mang tên là Nazir (có nghĩa là “khấn hứa, tận hiến”) đã được ghi
lại trong chương 6 của sách Dân số như sau:
“Bất cứ
ai, đàn ông hay đàn bà, đã khấn nazir, tức là khấn đặc biệt kiêng cữ để kính Đức
Chúa, thì nó phải kiêng rượu và men nồng (...). Suốt thời gian nó bị ràng buộc
bởi lời khấn, dao cạo không được đụng đến đầu nó; bao lâu chưa mãn thời kỳ khấn
đặc biệt để kính Đức Chúa, thì nó sẽ là người được thánh hiến; nó phải để cho
tóc trên đầu được mọc tự nhiên. Suốt thời kỳ khấn đặc biệt để kính Đức Chúa, nó
không được tới gần xác chết. Dù là cha mẹ hay anh chị em nó chết, nó cũng không
được để cho mình bị nhiễm uế, bởi vì nó mang trên đầu lời khấn nazir kính Thiên
Chúa. Suốt thời kỳ khấn đặc biệt, nó sẽ là người được thánh hiến cho Đức Chúa.”
Chúng ta thấy có ba
nghĩa vụ kèm theo lời khấn nazir (tận hiến): không cắt tóc; kiêng
các đồ uống có men; kiêng không chạm đến xác chết. Có thể coi đó như là dấu hiệu
bày tỏ ý muốn thuộc trọn về Thiên Chúa:
a/ không cắt tóc: tóc
là biểu tượng của sức mạnh, vì thế không cắt tóc mang ý nghĩa là đương sự phó mặc
cho Thiên Chúa tác động nơi mình;
b/ kiêng rượu: có
nghĩa là khước từ nếp sống dễ dãi;
c/ kiêng tới gần xác
chết: có nghĩa là mình hoàn toàn thuộc về Chúa.
Nói đúng ra, hình như
đó chỉ là những nghĩa vụ mà luật đã đặt ra cho một người đã khấn nazir chứ
không hẳn là một nếp sống trọn đời, bởi vì lời khấn này có thể chỉ có giá trị
trong một thời hạn. Đàng khác, tuy bản văn có giá trị cho đàn ông và đàn bà,
nhưng xem ra Kinh Thánh không thuật lại điển tích nào của nữ giới. Ngoài ông
Samson, chúng ta còn được biết các nhân vật khác giữ luật nazir, chẳng hạn như
ông Samuel (1Sam 1, 11); sang thời Tân ước,
ông Gioan Tẩy giả (Lc 1, 15) và ông Saulô (Cv
18,18).
Có những dòng tu Công
giáo lấy ông Gioan Tẩy giả làm khuôn mẫu cho nếp sống khổ hạnh và rao giảng Tin
mừng (chuẩn bị cho Chúa đến). Một khuôn mẫu khác của Cựu ước thường
được trưng dẫn là ông Elia: ông là người nhiệt thành bảo vệ đức tin, bảo vệ
công bình xã hội, cũng như là một con người chiêm niệm và hướng dẫn một đoàn
người tu trì (xc. 1V 20, 35; 2 V 2,3; TH số 84b)
[Xc. Đời sống tâm linh, tập IV, trang
131-139].
II. HÌNH THỨC TU TRÌ Ở PALESTINA:
NHÓM ESSENI
Từ lâu các sử gia đã nghe ông Josephus Flavius
và ông Philo Alexandria nói đến một cộng đoàn tu trì Do thái mang tên là nhómEsseni. Danh xưng này có lẽ bắt nguồn
từ tiếng Hy-lạp hosioi (những kẻ
thánh thiện) hoặc
tiếng Aramic hassaya (những kẻ
sùng đạo). Nhóm này
tách ly ra khỏi quần chúng, rút vào sa mạc để tìm sự thánh thiện. Do một tình
huống may mắn, mãi đến năm 1947, các nhà khảo cổ khám phá ra được địa điểm
Qumran, ở bờ Biển Chết, nhờ đó người ta mới biết chi tiết hơn về nếp sống cụ thể
của họ. Bản luật của họ được viết vào khoảng từ năm 110 đến năm 75 trước Công
nguyên, với những điểm nổi bật sau đây: vâng lời Bề trên (được gọi
là “Thầy Công chính”), tình yêu huynh đệ, đức khiêm nhường, việc sữa
lỗi huynh đệ.
Lý tưởng của cộng đoàn
là nhắm tới sự hoàn hảo thánh thiện. Sự thánh thiện được đạt tới bằng sự thông
hiệp với thế giới thần linh (Thiên Chúa và các thiên sứ); sự
hoàn hảo được diễn tả qua việc tuân giữ nghiêm ngặt bản Luật. Vì thế cuộc đời của
các thành viên được đan dệt bởi sự cầu nguyện, lao động và học hỏi Lề Luật.
Từ sáng sớm, họ đã thức
dậy để đọc kinh chung với nhau. Tiếp đó, mỗi người làm công tác được trao phó ở
trong cộng đoàn: làm bếp, làm bánh, làm vườn, đồ gốm, chép sách,.v.v... Đến 11
giờ trưa, họ tham dự một cuộc thanh tẩy (tắm rửa), rồi bữa ăn cộng đoàn. Bữa
ăn này mang tính cách phụng vụ: chỉ những phần tử cộng đoàn mới được dự phần,
và phải khoác phẩm phục. Dĩ nhiên là trước và sau bữa ăn đều hát kinh chúc tụng
và tạ ơn. Sau đó mỗi người trở về với công tác lao động cho đến chiều tối. Sau
bữa ăn là buổi canh thức kéo dài 3 tiếng rưỡi đồng hồ.
Cộng đoàn Qumran gồm
những người độc thân, chuyên chăm nghiền ngẫm Lời Chúa; nhưng xem ra cũng có
hàng giáo sĩ ở đây nữa.
III. HÌNH THỨC TU TRÌ BÊN AI CẬP
Trong khảo luận De vita
contemplativa (về đời sống chiêm niệm), ông Philô (k.20
trước CN - k.50 CN) có
nhắc đến những nhà khổ hạnh sống ở phía Đông thành phố Alêxandria
(Ai-cập), gần hồ Mariotis. Ông đặt tên cho họ là Therapeutae,
gốc Hy-lạp có nghĩa là “phục vụ” hoặc “chữa trị”, nhưng ông nghiêng về
nghĩa thứ hai hơn, bởi vì họ là những kẻ chữa trị bệnh tật của linh hồn, tức là
những dục vọng, gây ra sầu não cho con người. Họ sống cuộc đời lành mạnh,
chuyên chú vào việc chiêm niệm. Ông thuật lại rằng thỉnh thoảng ông cũng rút
lui vào ở với họ, xa cách cảnh náo nhiệt của thành phố.
Chắc rằng một vài Kitô
hữu tiên khởi đã có dịp tiếp xúc với nhóm Esseni và có lẽ kể cả với nhóm
Therapeutae. Thử hỏi: những nhóm đó đã tác dụng như thế nào đối với lý tưởng đời
tu Kitô giáo? Thật khó trả lời, bởi vì thiếu tài liệu lịch sử. Dù sao, bên cạnh
những định chế tu trì, chúng ta đừng nên bỏ qua những luồng tư tưởng tâm linh
đã tiềm tàng trong Cựu ước, chẳng hạn như khát vọng “đi tìm
Chúa, khao khát chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa” (Tv 42,2-3; 143,6-7),
hoặc những “người nghèo của Giavê” (anawim),
nghĩa là những kẻ khiêm tốn bé mọn (xc. Xp 2,3; 3,11; Lc 1,47).
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.