Đời Sống Tâm Linh: Những Hình Thức Tu Trì Sơ Khởi (3)
(daminhvn.net) 03/01/2015
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
PHẦN THỨ NHẤT
LỊCH SỬ CÁC HÌNH THỨC TU TRÌ
***
I. THỜI GIÁO PHỤ
***
Chương Một
NHỮNG HÌNH THỨC SƠ KHỞI
***
MỤC 4
HÀNG NGŨ TRINH NỮ
Những nhà khổ hạnh vừa
nói trên đây bao gồm cả hai phái, tuy thường chú trọng đến nam giới hơn. Hàng
ngũ trinh nữ thì đương nhiên được hiểu về phái nữ. Sự hiện diện của họ đã được
ghi nhận ngay từ các tác phẩm Tân ước.
Khi đọc Phúc âm chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu đã muốn khôi phục
lại giá trị của hôn nhân khi khẳng định tính cách bất-khả-ly theo như ý định của
Đấng Tạo hoá vào thời nguyên thuỷ. Kinh nghiệm cho thấy duy trì sự chung thuỷ
hôn nhân không dễ chút nào, như các môn đệ đã thú nhận (Mt 19,10). Vì thế cần
phải huấn luyện con tim, bởi vì tội ngoại tình bắt đầu từ con tim, từ cái nhìn
ngang trái chứ không phải chỉ từ hành động mà thôi (Mt 5,27). Ngoài việc đề cao
sự thánh thiện của hôn nhân, Chúa Giêsu còn mở ra một viễn tượng mới, đó là sự
chọn lựa sống độc thân vì Nước Trời (Mt 19,11-12).
Cần phải ghi nhận một cuộc cách mạng tư tưởng giáo huấn của Đức
Giêsu. Xã hội đương thời cho rằng con cái đông đúc là một sự chúc lành của
Thiên Chúa. Người phụ nữ son sẻ bị xã hội coi như một hình phạt (xc 1Sam 1,6).
Sự trinh tiết lại càng đáng than khóc hơn nữa, như sự tích cô Mizpah được kể lại
trong sách Thủ lãnh (11,37-40). Thế nhưng, ngoài đức trinh nữ Maria, Tân ước đã
cho thấy sự hiện diện của các trinh nữ trong Hội thánh nguyên thuỷ, chẳng hạn
như bốn người con gái ông trợ tá Philipphê (Cv 21,9). Lá thư thứ nhất của thánh
Phaolô gửi giáo đoàn Corintô cũng cho ta biết rằng tại đây có những trinh nữ,
và sự độc thân để chuyên lo việc Chúa là một ân huệ chứ không phải là điều đáng
thương tiếc (1Cr 7,7.34).
I. Hàng ngũ trinh nữ
Nhiều giáo phụ đã để lại văn phẩm vừa đề cao nếp sống của các
trinh nữ, đồng thời cũng không bỏ qua những mặt trái của nó[1].
A. Thần học
Trong số những điểm tiêu
cực, ngoài nguy cơ lên mặt kiêu căng, các giáo phụ đã lên án hủ tục các trinh nữ
sống chung với các người nam độc thân (chế độ này - mang tên là virgines subintroductae, agapetae, syneisaktoi,
matrimonium spirituale -
bị nhiều công nghị lên án).
Tuy nhiên những điểm tích cực vượt xa những lệch lạc. Các vị hộ
giáo đã đề cao các trinh nữ như là chứng cớ cho sự tuyệt vời của Kitô giáo, giữa
một xã hội trụy lạc đương thời. Đi xa hơn nữa, các giáo phụ đã khai triển khía
cạnh huyền nhiệm của đức trinh khiết Kitô giáo: họ không lập gia đình để dành hết
tâm lực cho công việc của Chúa (xc. 1Cor 7,32); họ đã "kết duyên" với
đức Kitô, và như thế trở thành biểu tượng cho Hội thánh là hiền thê của Đức
Kitô (Tertullianô; Cyprianô, khai triển Ep 5,32). Đồng thời, cũng tựa như Hội
thánh, các trinh nữ cũng trở thành "hiền mẫu" bởi vì sinh ra những
con cái thiêng liêng qua việc cầu nguyện và công tác bác ái.
B. Nếp sống
Vào buổi đầu, các trinh nữ sống tại gia đình, tương tự như các
phụ nữ khác. Dần dần, phụng vụ đặt ra một nghi thức "thánh hiến trinh nữ"
(consecratio
virginum), qua lời cầu nguyện của giám mục và nghi thức trao khăn
che đầu (velatio). Các trinh nữ họp thành một hàng ngũ (ordo)
trong Giáo hội.
Về sau, khi đời sống đan tu phát triển, hàng ngũ trinh nữ được
sát nhập hàng ngũ tu trì. Sau công đồng Vaticanô II, Giáo hội đã tái lập hàng
ngũ các trinh nữ, những người dâng mình cho Chúa nhưng không gia nhập một hội
dòng. Kỷ luật được quy định ở số 604 của bộ giáo luật (ban hành năm 1983). Nhà
lập pháp để cho mỗi giám mục thiết lập hàng ngũ này trong giáo phận của mình, ấn
định những điều kiện gia nhập, việc đào tạo, sự cam kết và hoạt động. Các trinh
nữ có thể sống biệt lập hoặc quy tụ thành hiệp hội. Nghi thức thánh hiến được Bộ
Phụng tự ban hành ngày 31 tháng 5 năm 1970.
II. Các goá phụ
Trong Giáo hội sơ thủy, ngoài các trinh nữ ra, các giáo phụ còn
nhắc đến các goá phụ như hàng ngũ những người dâng mình cho Chúa. Nói đúng ra,
hiện tượng những bà goá dâng mình cho Chúa đã hiện hữu trước Kitô giáo rồi, bằng
cớ là khi Đức Mẹ dâng hài nhi Giêsu trong đền thờ thì gặp bà cụ Anna đã tám
mươi tư tuổi, goá chồng sau 7 năm thành hôn và từ đó bà dâng những tháng năm
còn lại để phụng sự Chúa (xc. Lc 2,36-38).
Trong thư thứ nhất gửi Timothê, ta thấy thánh Phaolô nhắc đến
các quả phụ không chỉ như những người cần được cộng đoàn quan tâm săn sóc,
nhưng còn như là những nhân viên phục vụ Giáo hội nữa: họ dâng mình vào việc cầu
nguyện, đón tiếp lữ khách (1Tm 5,5.10). Xem ra họ họp thành một đoàn ngũ, và một
điều kiện để được đăng ký là phải đạt được 60 tuổi đời.
Thực ra cũng nên lồng vấn đề trong bối cảnh lịch sử. Xã hội thời
xưa tôn trọng sự chung thuỷ vợ chồng, và mối dây vẫn được duy trì dù khi một
người đã qua đời; thậm chí có nơi coi việc tái giá như là ngoại tình. Não trạng
này phản ánh nơi các thư của thánh Phaolô, với nhiều ý kiến khác biệt, thậm chí
trái nghịch. Trong thư thứ nhất gửi Corintô, thánh nhân nghĩ rằng việc tái giá
không phải là chuyện xấu xa tội lỗi, nhất là khi không thể chống cự cơn cám dỗ
(1Cr 7,8-9); tuy nhiên thánh Phaolô cho rằng nên ở vậy thì tốt hơn (1Cr
7,39-40). Đến khi sang lá thư thứ nhất gửi Timothê (5,14), thánh tông đồ khuyên
các bà goá nên tái giá nhất là khi còn trẻ: "Tôi muốn các bà goá trẻ này
hãy taí giá, sinh con cái, lo việc cửa nhà, đừng để cho đối phương có dịp bới
móc".
Ý kiến của các giáo phụ cũng không đồng nhất. Một khuynh hướng
nghiêm khắc cho rằng dây hôn nhân bất khả ly cho dù một bên đã chết. Tượng
trưng cho ý kiến này là ông Tertullianô (De exhortatione castitatis; De monogamia).
Các giáo phụ khác bên Hy-lạp (Grêgôriô Nazianzô, Gioan Kim Khẩu) thì chỉ nhắm mắt
làm ngơ cho phép tái giá một lần thôi, nhưng ngăn cấm lần thứ ba hoặc thứ tư.
Nói chung, người ta cổ võ việc duy trì sự thủ tiết hơn là tái
giá. Từ thế kỷ III, nhiều tài liệu cho thấy các bà goá họp thành một hàng ngũ (Ordo
viduarum), với một nghi thức gia nhập cũng tương tự như nghi thức
thánh hiến dành cho các trinh nữ (xc. Traditio
apostolica, Didascalia). Các quả phụ cũng như một vai trò trong Giáo
hội tương tự như các "nữ trợ tá" (diaconissa), nghĩa là dạy giáo lý cho
các dự tòng, chuẩn bị cho họ lãnh bí tích rửa tội, giúp đỡ những người đồng cảnh.
Từ thế kỷ IX trở đi, hàng ngũ các goá phụ không còn được nói đến
trong các giáo hội bên Tây phương nữa. Dĩ nhiên, thời nào cũng có các goá phụ
không muốn tái giá, nhưng đó là một sự lựa chọn tư riêng, chứ không họp thành một
hàng ngũ được nhìn nhận trong Giáo hội. Tại khóa họp Thượng hội đồng giám mục về
đời thánh hiến (năm 1994), có ý kiến đề nghị khôi phục lại hàng ngũ này. Tông
huấnĐời sống thánh hiến chỉ
nói lướt qua ở số 7, mở rộng cho cả hai giới nam nữ: những người này khấn giữ
khiết tịnh trọn đời như là dấu chỉ của Nước Chúa, và dâng hiến đời mình vào việc
cầu nguyện và phụng sự Hội thánh.
Trên thực tế, trong thời
kỳ Đệ Nhị Thế chiến, một hiệp hội các bà goá đã được thiết lập tại Paris vào
năm 1943 (Notre Dame de la Résurrection), với một nghi thức chúc lành
được Toà thánh nhìn nhận năm 1984. Nghi thức bao gồm việc bày tỏ ý định dâng hiến
cuộc đời cho Thiên Chúa (bao gồm việc giữ khiết tịnh trọn đời), lời cầu cung hiến,
và làm phép nhẫn cưới (lần thứ hai).
Thật khó biết được trong tương lai hàng ngũ các người goá (nam
hoặc nữ) sẽ được tái lập như thế nào. Dù sao, giáo luật hiện hành không cấm những
người goá bụa gia nhập hàng tu sĩ, và con số những người goá vợ gia nhập hàng
giáo sĩ (phó tế vĩnh viễn hoặc linh mục) không phải là hiếm. Chúng ta sẽ còn trở
lại với vấn đề trinh khiết độc thân khi bàn đến các văn kiện Giáo hội liên quan
đến ba lời khuyên Phúc âm (chương 13). Ở đây chỉ cần ghi nhận sự phân biệt hai
khía cạnh của tình trạng sự độc thân hoặc goá bụa: xét như là điều kiện xã hội,
và xét như là một sự hiến thân. Trong thư thứ nhất gửi Timothê (5,3-16), thánh
Phaolô đã phân biệt nhiều hạng bà goá:
- có những bà được gia đình nâng đỡ; vì thế cộng đoàn khỏi bận
tâm (câu 4);
- có những bà không có chỗ nương tựa; vì thế cộng đoàn có bổn phận
phải chăm sóc (câu 3.5.16);
- có những bà (dù có chỗ nương tựa hay không), được Giáo hội mời
gọi tham gia vào công tác (câu 9-15).
Hai hạng đầu tiên bàn về điều kiện xã hội; còn hạng thứ ba mới họp
thành một "hàng ngũ" (ordo) thi hành một tác vụ, cách riêng
là việc cầu nguyện và bác ái. Dĩ nhiên là cần phải hội đủ vài điều kiện luật định
thì mới có thể gia nhập hàng ngũ này.
[1] Xc. Đời sống
tâm linh, tập II, trang 72-77.