Đời Sống Thánh Hiến: Hãy Trỗi
Dậy Và Bước Đi
Vượt
qua hiện tại gian khổ với lòng say mê và hướng về tương lai với niềm hy vọng.
Nhiều người tự hỏi: Tình trạng sức khỏe hiện nay của đời sống thánh hiến ra
sao?
Có nhiều câu trả lời
khác nhau, tùy theo ai là người đặt câu hỏi và ai là người trả lời, và cũng tùy
thuộc nhiều vào chỗ người ta nhìn đời sống thánh hiến với con mắt nào và khởi
đi từ những phán đoán hay thành kiến nào.
Phần tôi, tôi không tự cho là mình có thể đưa
ra một câu trả lời có tính khách quan và thuyết phục một trăm phần trăm. Tôi
cũng không tự cho là mình đưa ra được một câu trả lời có sức đổi mới. Làm như
thế thì tôi sẽ phạm vào tội tự cao. Chủ ý duy nhất của tôi, và có lẽ là tham vọng
của tôi, là cống hiến một câu trả lời, cùng với câu trả lời của nhiều người
khác, khả dĩ tiến gần tới một hình thức sống đời Kitô hữu ở ngay giữa lòng đời
sống của Hội Thánh, và – không phải dễ dàng – tìm cho mình một lối đi giữa lòng
một xã hội đang ngày một tục hóa, và trong một Hội Thánh mà không phải lúc nào
cũng hiểu đời sống thánh hiến theo đúng bản chất của nó, nhưng nhiều khi chỉ
nhìn theo khả năng cung cấp nhân lực của nó thôi.
I. MỘT THỜI KỲ MANG DẤU ẤN CỦA KHỦNG HOẢNG[1]
1. Ba hình ảnh vừa mạnh vừa có sức gợi suy
nghĩ
Trong số những người thử bắt mạch đời sống
thánh hiến trong thời kỳ hiện nay, nhiều người mượn một số hình ảnh. Những hình
ảnh này có một giá trị tích cực và một mặt tiêu cực.
Hình ảnh thứ nhất được dùng để nói về hiện trạng
đời sống thánh hiến là “xế
chiều”. Sự kiện: thiếu ơn gọi, nhiều công việc trước nay do những người sống đời
thánh hiến điều khiển đã đóng cửa, nhiều môi trường hiện diện nay vắng bóng tu
sĩ. Sự kiện này khiến nhiều người nghĩ rằng đời sống thánh hiến đang đau nặng.
Có những người không ngần ngại đưa ra những dự kiến nghiêm trọng, khẳng định rằng
đời sống thánh hiến đang đếm ngày chờ tắt thở, nhất là đời sống thánh hiến hoạt
động của nữ giới, theo mô hình nó đã xuất hiện và phát triển trong ba thế kỷ gần
đây, tập trung vào những công việc cụ thể như giáo dục và chăm sóc sức khỏe, và
tự giới thiệu như là “cánh
tay phục vụ” của Hội
Thánh. Theo ý kiến đó thì số đông các Hội Dòng ấy được sinh ra như là để đáp ứng
những nhu cầu riêng lẻ nhất định của một thời, nay thì xã hội đảm nhận những việc
đó rồi; các Dòng Tu kia đã hoàn thành sứ mạng và không còn lý do tồn tại nữa.
Những người theo ý kiến này là những người cho rằng đời sống thánh hiến đang ở
lúc “xế chiều”; họ dùng
hình ảnh này để nói về một cái gì đang tới ngày tàn.
Cách vận dụng từ “xế chiều” như thế hẳn cũng đúng; như khi
chúng ta nói về “ngày đã xế
chiều” hay “cuộc đời đã xế
chiều”thì chúng ta nghĩ về một ngày sắp tàn hay một cuộc đời sắp hết. Tuy nhiên
hình ảnh này cũng có thể mở ra niềm hy vọng. Tiếng gà gáy báo đêm tàn cũng là
tiếng gà báo một ngày mới đang đến. Lúc xế chiều nói với chúng ta về một cái gi
đang chết đi, mà cũng nói về một cái gì mới đang đến gần: lúc xế chiều bao giờ
cũng nhường bước cho buổi bình minh. Liệu ta không thể nhìn ra hiện tượng này
trong đời sống thánh hiến hiện nay sao? Hẳn là có. Trong đời sống thánh hiến có
nhiều điều đã thay đổi so với quá khứ. Nhưng cũng có nhiều sức sống mới đang
triển khai, cả trong những hình thức gọi là “mới”của
đời sống thánh hiến cũng như trong những đặc sủng đã có trong lịch sử. Chỉ cần
nhìn với con mắt đức tin để thấy“đồng lúa đã chin vàng đang chờ gặt hái” (x. Ga
4,35).
Có những người khác, nhấn mạnh tính trầm trọng
của hiện trạng đời sống thánh hiến, dùng hai hình ảnh khác: “hỗn mang” và “đêm tối”.
“hỗn
mang” là một hình ảnh mạnh,
nhưng cũng gợi suy nghĩ, vì những âm vang kinh thánh của nó. Theo những âm vang
đó thì hình ảnh này có những hàm nghĩa tiêu cực, nhưng cũng đưa chúng ta vào những
viễn tượng rất tích cực. Chẳng hạn, “hỗn
mang” chắc chắn nói với
chúng ta về sự hỗn độn, nhưng cũng nói đến công trình kỳ diệu của tạo dựng. Đó
là tình trạng của vũ trụ (x.
St 1,1) trước khi xuất hiện
trong đó tất cả những gì làm nên sự phong phú và vẻ đẹp của nó, trước khi xuất
hiện trật tự của tạo thành, công trình của Đấng Tạo Hóa, Ngài dùng lời của Ngài
mà đặt mọi sự vào vị trì của nó (x.
Tv 148,5).
Hình ảnh “hỗn
mang” cũng nói lên nỗi sợ
hãi, sự mất phương hướng, nhưng cũng nói lên sự khải hoàn của lòng thương xót của
Chúa và sự khai sinh của dân Chúa. Sợ hãi và mất phương hướng vì “vùng đất đáng sợ” của hoang địa (x.Đnl 1, 19), trước khi vào được
Đất Hứa, đất chảy ra sữa và mật ong. Hoang địa là nơi thử thách, mà cũng là nơi
dân Chúa được sinh ra, là nơi dân Chúa bất trung và “lẩm bẩm kêu ca” (x. Xh 14,11),
nhưng cũng là nơi Chúa kêu gọi hoán cải (x.
Đnl 8,2tt.15-16), và nơi khải hoàn của lòng Chúa thương xót (x. Ds 20,13); nơi Chúa muốn
dùng để giáo dục và dắt dìu dân Chúa. Sợ hãi và mất phương hướng là những cái
đóng đô trong lòng các môn đệ của Chúa Giêsu sau khi Chúa chết (x. Lc 24,11tt), nhưng đã bị
xua tan bởi niềm vui gặp Chúa Phục Sinh (x.
Lc 24, 41). Vậy thì hình ảnh “hỗn
mang” nêu lên tình huống
khủng hoảng, nhưng cũng nói cho chúng ta cơ may và sự mào đầu của một cái gì mới.
Chủ đề “đêm
tối” rất phổ biến trong văn
chương linh đạo Kitô giáo, nhất là trong truyền thống thần bí. Tiền thân của nó
trong Kinh Thánh có thể gặp thấy ở chuyện Mô-sê tiến về phía “mây mù nơi Thiên Chúa ngự” (Xh
20, 21). Đối với các nhà thần bí, đặc biệt đối với Thánh Gioan Thánh Giá, người
đã làm cho thành ngữ này trở nên phổ thông để nói về bước đường của con người
tiến về phía Thiên Chúa[2], “đêm tối” nói lên những lúc khủng hoảng
sâu xa, những lúc thử thách, cắt tỉa và thanh luyện giác quan và tinh thần, ở
đó chỉ có thể bước đi trong đức tin. Như vậy kinh nghiệm của các nhà thần bí mở
cho chúng ta thấy ý nghĩa tích cực của “đêm
tối”. Đối với các vị ấy, “đêm tối” mang theo ánh sáng của tình
yêu, qua sự chiêm niệm. Theo cách hiểu này thì chúng ta hoàn toàn có thể nói được
rằng cơn khủng hoảng phải sống trong “đêm
tối” là cơn khủng hoảng của
sự lớn lên.
Như đã nói trên, những hình ảnh “xế chiều”, “hỗn mang” và “đêm
tối” không chỉ có một
nghĩa: tích cực hay tiêu cực. Đúng hơn, ý nghĩa của nó tùy thuộc bối cảnh trong
đó người ta nói đến. Điều được gợi lên là những tình huống mang dấu ấn của sự
khủng hoảng riêng trong tiến trình vượt qua cái chết để đến sự sống, trong những
bối cảnh khác nhau, những tình huống tế nhị và khó khăn qua đó chỉ có thể rút
ra được sự sống nếu bén rễ trong đức tin; những tình huống không dễ dàng mà chỉ
có thể biến thành “thời
thuận lợi” (kairos) qua sự
hiến tế và cái chết. Đó là một cuộc hiến tế bao gồm hành trình – chúng ta không
biết bao lâu, nhưng chắc chắn không ngắn – trong “đêm tối” của sự bấp bênh, trong khi
không ngừng tìm kiếm ý nghĩa tròn đầy của đời sống thánh hiến của chúng ta. Đó
là một cái chết bao gồm sự chết đi đối với những bảo đảm mà đời sống thánh hiến
đã tích lũy trong dòng lịch sử, để bám chặt vào Thiên Chúa của lịch sử, với một
đức tin trưởng thành và một sự thanh luyện sâu xa khỏi những hình ảnh sai lầm về
Thiên Chúa, để đến với Thiên Chúa của lịch sử, Đấng xem ra Ngài đang ngủ, nhưng
vẫn cùng đi với chúng ta trên một con thuyền đang bị bão tố của lịch sử xô đẩy (x. Mc 4,35tt).
2. Thời gay go, tế nhị và gai góc
Chờ mong một cuộc tạo thành mới trong khi tất
cả xem ra còn chìm trong cảnh “hỗn
mang”, dõi nhìn chân trời trong “đêm
tối”, làm “lính canh chờ trời sáng” giữa lúc xế chiều không phải là dễ dàng và cũng
không thể coi như đã cầm chắc trong tay, như những câu trả lời khác nhau được
đưa ra trong hoàn cảnh như thế cho thấy. Lời mời gọi của Đức Benedict XVI ngỏ với
chúng ta lần cuối về đời sống thánh hiến, ít ngày trước khi Ngài từ nhiệm khỏi
Tòa Thánh Phêrô, thật đầy ý nghĩa khi Ngài xin chúng ta: “Đừng vào hùa với những tiên
tri báo họa khi họ công bố sự tàn lụi hay vô nghĩa của đời sống thánh hiến
trong Hội Thánh thời chúng ta”.[3] Phải chăng ngay trong hàng ngũ
những người sống đời thánh hiến lại chẳng thiếu những tiên tri báo họa đó sao?
Đúng, trong hiện trạng của đời sống thánh hiến,
cuộc băng qua hoang địa của “hỗn
mang”, “đêm tối” và “buổi xế chiều”không phải dễ dàng. Cần phải “ý thức về thời kỳ chúng ta
đang sống” (x. Rm 13, 11). Canh gác suốt ngày và suốt đêm, đứng vững và dõi
nhìn chân trời với đôi mắt của con tim như người lính canh, để không bị kẻ thù
bắt bất chợt (x. Is
21,6tt) “hãy tỉnh thức và canh chừng”[4], “với
đèn thắp sáng” (x. Lc 12,35tt) để
không làm nạn nhân của giấc ngủ mà rơi vào một cơn mê đưa thẳng đến tử vong, với
một đức tin trưởng thành và một “lòng
trông cậy không thể chuyển lay”, được
nuôi bằng bánh Lời Chúa và Thánh Thể, để không gục ngã trên con đường chúng ta
đã khởi bước mà không biết bao giờ mới kết thúc.
Câu chuyện của dân Israel cho chúng ta thấy
con đường qua hoang địa quả là gay go. Trong hoàn cảnh chúng ta đang sống, thường
mang dấu ấn của sự hoang vu, của sự im lặng của Thiên Chúa và sự khô khan
thiêng liêng, thật không dễ nhận ra được là Ngài đang cùng đi với chúng ta (x. G 23,8-9) và đang hành động ngay trong
cơn “khủng hoảng” và những lúc tối tăm. Trong những
lúc ấy cần được trang bị thật kỹ: mặc lấy Đức Giêsu Kitô và mang lấy binh giáp
của ánh sáng, như thánh Phaolô khuyên nhủ (x.
Rm 13,11-14).
3. Thời của sáng suốt
Không phải mọi sự đều ổn trong đời sống thánh
hiến, như một số người cảm thấy có nhiệm vụ phải nói lên điều ấy, nhưng cũng
không phải mọi sự đều tệ hại như những vị tiên tri báo họa loan truyền. Ở vào một
thời kỳ khủng hoảng như thời chúng ta, nhất thiết phải đón nhận một sự thách đố
đầu tiên cho đời sống thánh hiến hiện nay, mà nhiều người gọi là sự“thách đố mở
đường”, theo nghĩa là nó mở
đường cho chúng ta tiếp cận nhiều thách đố khác: thách đố nhìn thẳng vào chính
mình[5], thách đố làm sáng tỏ tình trạng của
đời sống thánh Đảm nhận thách đố làm rõ sự thật, với sự thanh thản và tinh thần
trách nhiệm nghĩa là gì?
Đảm nhận thách đố làm rõ sự thật cách thanh
thản và với tinh thần trách nhiệm bao gồm sự vượt qua ngôn từ hoa mỹ về đời sống
thánh hiến và sự công thức hóa đơn giản về lý tưởng đời tu[6],
để tập quen phân tích một cách nghiêm túc hiện trạng mà đời sống thánh hiến
đang trải qua, chấp nhận với một óc thực tế lành mạnh sự kiện chúng ta đang sống
một tình trạng khủng hoảng, một thời kỳ “khủng
hoảng” mà chính triết tự của
từ ngữ vạch cho thấy là chúng ta cần phải sáng suốt và lấy những quyết định can
đảm, dù không phải luôn được mọi người hoan hô.[7]
Đảm nhận thách đố làm rõ sự thật cách thanh
thản và với tinh thần trách nhiệm bao gồm vượt trên sự tìm kiếm một số cách giải
thích những nguyên nhân đã đưa chúng ta tới tình trạng khủng hoảng: cần thiết
phải phản ứng lại, phải thực hiện những bước cụ thể để ra khỏi tình trạng này.
Những phân tích, những chẩn đoán là cần thiết, nhưng không đủ. Đến lúc phải
hành động, ngay dù không chắc chắn một trăm phần trăm rằng điều chúng ta làm là
điều thích đáng nhất với thời kỳ chúng ta đang sống. Ở đây, câu nói của Antonio
Machado thật chí lý: “Khi
ta đang đi, không có con đường, nhưng con đường hình thành dưới bước chân ta”
(Viandante, non c’è strada, si fa strada camminando).
Đảm nhận thách đố làm rõ sự thật cách thanh
thản và với tinh thần trách nhiệm đòi ta vượt qua cám dỗ cáo lỗi và tránh né
trách nhiệm của mình. Một tình trạng nguy hiểm, khá thường xảy ra, làm tê liệt
hiện tại và phá hỏng tương lai, đó là sự truy tìm thủ phạm, tạo những con dê tế
thần, hoặc tự biện minh. Tình trạng hiện nay của đời sống thánh hiến phức tạp đến
nỗi nhiều yếu tố và nhiều tác nhân phối hợp trong đó. Tiến trình làm rõ sự thật
phải xét tới điều ấy và – cần phải nhớ kỹ – không thể làm được việc ấy nếu
không đưa việc tự phê tới chỗ kiểm tra sâu xa, sửa chữa những lỗi lầm trong quá
khứ và ngăn chặn những sai lầm tương lai.
Đảm nhận thách đố làm rõ sự thật cách thanh
thản và với tinh thần trách nhiệm nghĩa là không ngừng lại ở những nỗ lực để sống
còn, hoặc ở cấp cơ chế hoặc ở cấp cá nhân, như: chỉ lo sửa chữa “bề mặt”, viết hoặc viết lại lịch
sử oai hùng của quá khứ, viết những văn bản thật hay, tự che mắt bằng một chủ
nghĩa hoạt động quay cuồng, chọn lẩn trốn bằng thần bí hoặc ngụy thiêng liêng,…
Điều ấy có thể làm ta khỏi chú ý đến bổn phận khẩn cấp là dựa vào điều thiết yếu,
hoặc trộn lẫn những ước mơ và lý tưởng với thực tế.
Thách đố làm rõ sự thật cách thanh thản và với
tinh thần trách nhiệm đòi hỏi tất cả những điều đó. Thách đố này không dễ đáp ứng,
nhưng lại khẩn thiết phải đưa ra một sự đáp ứng bởi vì nó mang tính Tin Mừng
sâu xa. Năm mươi năm sau Công Đồng, đã đến lúc phải làm điều này. Nhất thiết phải
làm rõ sự thật về tình trạng chúng ta đang sống và lấy những quyết định mà chúng
ta cho là thích hợp để thời “khủng
hoảng” biến thành thời thuận
lợi (kairos) và thời của ân sủng.
Chắc hẳn việc này sẽ dẫn tới một cuộc khủng
hoảng về hình ảnh mà chúng ta đã xây dựng về đời sống thánh hiến. Tôi thấy một
hình ảnh có vẻ rất ý nghĩa, hình ảnh đất sét trong tay thợ gốm (x. Gr 18,1-6). Đời sống thánh
hiến luôn được mời gọi, và cách riêng trong thời hiện nay, để cho bàn tay yêu
thương của Thiên Chúa như người thợ gốm nặn hình. Có khi Ngài đòi chúng ta phải
đập vỡ cái bình đẹp đẽ mà chúng ta đã thừa kế, ngắm nghía, yêu mến và tái tạo,
để sống một giai đoạn mới trong cuộc phiêu lưu kỳ diệu mà Chúa khiến chúng ta
thành nhưng người tiên phong: tái lập đời sống thánh hiến.
Đây là bước khởi đầu đau đớn nhưng cần thiết
của sự hoán cải: đập vỡ cái tôi / chúng ta lý tưởng đã nặn thành, mà có khi xa
vời cái tôi / chúng ta thực tế. Không có cuộc khủng hoảng này thì sẽ không làm
rõ sự thật, sẽ không có cuộc tái sinh của đời sống thánh hiến và cũng chẳng có
cuộc tái sinh trong sự sống mới đã khởi đầu nhờ phép Rửa (x. Rm 6, 4). Cũng còn cần sự
liêm khiết sâu xa khi đối diện với thực tế và sự trung thành với thực tế, vì chỉ
có thế đời sống thánh hiến mới có thể thưa “vâng” với Thiên Chúa là Đấng mời gọi
trong lịch sử và trong đời sống hàng ngày.
4. Thời thuận lợi để phân
định
Những điều đã nói trên đây đòi phải phân định.
Trong tiếng Latin và Hy Lạp, từ mà ta dịch là “phân
định” bao hàm: lượng giá,
tách ra và phân biệt giữa hai sự vật. Rút cuộc đối với chúng ta trong mạch văn
này, phân định là phân biệt tiếng nói của Thiên Chúa với những tiếng nói khác,
điều đến từ Thiên Chúa với điều trái ngược với Thiên Chúa.[8] Nói theo thánh Phanxicô Assisi,
phân định là lần theo con đường của đức tin giúp ngưới tín hữu“có được thần khí
của Thiên Chúa và tác động thánh của thần khí”,[9] để có thể “làm điều Chúa muốn và muốn điều
đẹp lòng Chúa”.[10] Đối với thánh Inhaxiô Loyola,
phân định là tìm kiếm trong mọi sự điều gì đẹp lòng Chúa Cha hơn.[11] Trong
việc phân định nói ở đây thì không phải là chọn giữa cái tốt và cái xấu, vì quy
luật luân lý đã đủ cho việc đó, nhưng là chọn giữa cái tốt và cái tốt hơn, giữa
hai cái tốt, như thánh Biển Đức nói trong “Luật
Sống” của Ngài.
Nguồn mạch cuối cùng của phân định không phải
là chúng ta, nhưng là Thần Khí, Đấng thanh luyện, soi sáng và thắp lửa, Đấng
ban một lòng yêu mến khả dĩ biến đổi người Kitô hữu nên “con người có thần khí” (x. Rm
5,1-5; 1Cr 1,12), khiến người đó có thể “xét
đoán mọi sự” nhờ sự khôn
ngoan nhiệm màu của Thiên Chúa, vốn bị che dấu đối với kẻ khôn ngoan theo thế
gian, nhưng được mạc khải cho những người khiêm hạ và bé nhỏ (x. Mt 11,25tt), biết “lắng nghe”, để biết được tất cả
những gì Thiên Chúa ban cho chúng ta (x.
1Cr 1,7.12).
Phân định ở đây chủ yếu không phải là phân
tích, nhưng là sự biến đổi bên trong, phát triển đời sống theo thần khí có khả
năng đem cho người tín hữu có được “đôi
mắt của Thần Khí”, để “thấy
– nhận biết – tin” và tuân
theo tất cả ý muốn của Chúa[12]. Phân định của
Kitô hữu và của đời sống thánh hiến nhắm điều này: mở lòng vô điều kiện cho ý
muốn của Thiên Chúa Cha và cho thái độ nền tảng là sẵn sàng tuân theo ý muốn ấy
trong mọi sự cách vô điều kiện.
Nếu phân định là yếu tố quyết liệt và cốt yếu
trong đời sống Kitô hữu, như sự tìm kiếm và thi hành ý muốn của Thiên Chúa, thì
trong đời sống thánh hiến còn hơn thế nữa, nhất là trong thời buổi này, dù vẫn
là “tế nhị và khó khăn”,
mà có khi chính vì thế, là thời thuận lợi để phân định dưới ánh sáng đức tin: “Chúng ta đang bước đi trong đức
tin chứ không phải trong sự hưởng kiến” (2Cr 5,7). Những người đươc thánh hiến,
trên bình diện cá nhân, không thể tránh né câu hỏi mà thánh Phanxicô Assisi tự
đặt cho mình: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Cũng như ở bình diện cộng đoàn, họ
không thể không tự hỏi: Thưa anh em, chúng tôi phải làm gì? (Cv 2,37). Tất cả khởi đi từ đức
tin, điều duy nhất đưa tới một kinh nghiệm thiết thực về Thiên Chúa là Đấng
đang cùng đi với chúng ta (x.
St 28,16) và bao bọc chúng
ta mọi phía (x. Tv
139,1tt); đàng khác, kinh nghiệm này còn đưa chúng ta vào một cuộc sống được dẫn
dắt bởi Thần Khí là tác nhân đích thật của phân định.
Ở bình diện cá nhân, đối với thánh Phanxicô
Assisi, việc phân định giả thiết có sự cởi mở với ý muốn của Thiên Chúa, hòa nhịp
với Thánh Thần, bình tâm thiêng liêng, đồng hóa với Đức Kitô, nhìn thực tại với
lòng biết ơn và một thái độ căn bản sẵn sàng vô điều kiện. Phân định cũng đòi hỏi
một sự lột bỏ, “hoàn toàn
không sống cho chính mình”, lòng yêu mến vô vị lợi, sự khiêm nhường và sự vâng
phục trong đức ái[13]. Đối với thánh Têrêxa,
phân định bao hàm lòng yêu mến mãnh liệt và vô vị lợi, hoàn toàn thanh thoát và
phục vụ vô điều kiện.[14] Trên bình diện cộng đoàn, phân
định giả thiết có cộng đoàn / huynh đoàn với sự nhận thức đầy đủ về căn tính
nhân bản, Kitô và tu trì của nó cùng với cái nhìn thực tế về khả năng và giới hạn
của nó. Cộng đoàn / huynh đoàn trong đó có những nét trưởng thành và hội nhập
tâm cảm, với khả năng đối diện những xung đột bằng suy tư và đối thoại. Cộng
đoàn / huynh đoàn mở ra với cách đọc những dấu chỉ thời đại theo Tin Mừng,
không rơi vào sự tự mãn. Cộng đoàn / huynh đoàn sống chiều hướng cánh chung, tiến
đến gặp gỡ những giá trị cuối cùng, sẵn sàng dựa trên đó mà đánh giá mọi sự, xa
lánh sự dữ mà gắn bó với sự lành (x.
1Th 5, 21-22).
Phân định phải được thực hiện dưới ánh sáng của
Tin Mừng, của đặc sủng riêng và của những dấu chỉ thời đại.
Nếu đời sống thánh hiến được bén rễ trong Tin
Mừng và được mời gọi trở thành “lời
giải thích sống động” của
Tin Mừng[15], thì sự trung thành đầu tiên với
đời sống thánh hiến là trung thành với Tin Mừng, với Đức Giêsu, Tin Mừng của
Chúa Cha cho nhân loại. Vì thế đời sống thánh hiến phải để cho mình “luôn được mời gọi bởi Lời mạc
khải”[16] và “không ngừng duyệt xét chính
mình dưới ánh sáng của Lời Chúa”,[17] cách riêng của Tin Mừng là “cốt lõi của Lời Chúa”[18]. Đời sống thánh hiến không thể tách khỏi
Tin Mừng trong lúc làm rõ sự thật về chính mình và phân định để vượt từ cái tốt
sang cái tốt hơn. Chính từ Tin Mừng, đời sống thánh hiến rút được “ánh sáng cần thiết cho việc
phân định cá nhân và cộng đoàn”, nó giúp “tìm
những con đường của Chúa trong các dấu chỉ thời đại”[19].
Tin Mừng là tiêu chuẩn đầu tiên để phân định: tất cả những gì có thể coi là
chính đáng theo Tin Mừng sẽ là chính đáng đối với đời sống thánh hiến.
Đàng khác, trong việc phân định, người sống
thánh hiến phải luôn đặt trước mắt đặc sủng mà, khi tuyên khấn, mình đã cam kết
sống, giữ gìn, đào sâu và phát triển không ngừng với “sự trung thành sáng tạo”[20], hòa hợp với thân thể Đức Kitô đang lớn
lên không ngừng, và đòi sự đồng hóa sâu xa với Ngài.
Đời sống thánh hiến đa dạng, và sự phong phú
nằm trong sự đa dạng này. Sự đa dạng xuất phát từ những đặc sủng khác nhau, nổi
lên như một cách đáp lại những đòi hỏi nhất định của đời sống Kitô hữu và “từ một sự nhiệt thành sâu xa của
lòng khao khát nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô để làm chứng về một khía cạnh
nào đó trong màu nhiệm của Ngài”[21]. Đặc sủng
là hoa trái “của Thánh Thần,
Đấng không ngừng tác động trong Hội Thánh”[22], là ơn ban của Thánh Thần[23] cho
Dân Chúa, và Hội Thánh được mời gọi biết đón nhận, làm cho sinh hoa trái, xem
xét, xác nhận, giữ gìn, bảo vệ và giúp trưởng thành với lòng biết ơn”.[24]
Sau hết, trong việc nhận định phải đặt trước
mắt những dấu chỉ của thời đại: những biến cố trong đời sống như dấu ấn của một
thời đại nhất định trong lịch sử và qua đó Kitô hữu cảm thấy được Thiên Chúa mời
gọi đưa ra một câu trả lời theo Tin Mừng. Như vậy những dấu chỉ thời đại là những
tia sáng có mặt trong “đêm
tối” của cuộc sống chúng
ta và của dân chúng ta, là những ánh đèn chiếu làm nảy sinh hy vọng, trong mức
độ nó cho phép chúng ta nghe ra tiếng Chúa và khám phá ra sự hiện diện của Ngài
trong những biến cố của lịch sử.
Nếu đối với Kitô hữu việc biết giải nghĩa những
dấu chỉ ấy là một đòi hỏi (x.
Lc 12, 56), thì những người sống thánh hiến không thể bỏ qua việc chú ý cao độ
đến những dấu chỉ thời đại. Họ phải hiện diện trong Hội Thánh như là những
chuyên viên khảo sát thời điềm và giải thích dưới ánh sáng Tin Mừng[25]. Việc đọc và đáp ứng các dấu chỉ
thời đại theo Tin Mừng sẽ ngăn bước không cho tu sĩ dậm chân tại chỗ và tự lặp
lại, mà ngược lại cho phép họ “tái
hiện cách can đảm tính năng nổ, sáng tạo và sự thánh thiện của các vị sáng lập”.[26]
5. Mùa thuận lợi để vun gốc bón rễ
Một số người dùng hình ảnh “mùa đông” để nói về một cơ may mới cho đời
sống thánh hiến.
Hình ảnh mùa đông cũng có nhiều nghĩa. Bề ngoài
mùa đông là một thời của cái chết. Nhiều cây trụi lá. Không có bông cũng chẳng
có trái. Thiên nhiên có vẻ như khô cằn, ngủ kỹ và có vẻ như đến lúc chết.
Nhưng bên dưới cái vẻ chết chóc này và sự cằn
cỗi xem ra như tận cùng trước mắt chúng ta, lại ẩn dấu một sức tái sinh mãnh liệt.
Mùa đông là thời cho thảo mộc hoạt động ở chiều sâu và các bộ rễ rất năng động,
bảo đảm cho sự sống tiếp tục nhờ hoạt động khiêm tốn và lặng lẽ của chúng.
Trong đời sống thánh hiến cũng xảy ra như vậy.
Ơn gọi giảm sút, nhiều người bỏ cuộc, kim tự tháp tuổi tác bị lật ngược, vì người
già nhiều hơn người trẻ. Sự trung thành bị thử thách cùng với niềm hy vọng và sự
kiên nhẫn, giống như lòng tin, niềm hy vọng và sự kiên nhẫn của dân Israel bị
thử thách trong cuộc hành trình lâu dài qua hoang địa.
Trong hoàn cảnh này, có bàn tay Hội Thánh dắt
dìu, đời sống thánh hiến được mời gọi làm việc về điều chính yếu, về điều gì thật
sự cho nó ý nghĩa sâu xa, vượt trên con số và hiệu năng. Mùa đông là thời đi
vào gốc rễ ẩn sâu, và tuy đau đớn, mùa đông là thời vượt qua tới một cuộc sống
mới, tới một cách thức mới để bảo đảm ý nghĩa Tin Mừng là điều không bao giờ được
thiếu trong đời thánh hiến, và đôi khi làm cho nó được “hiển thị” rõ hơn, trong khi nhớ rằng nó
đi đôi với sự “tự hủy”
(kenosis), sự hạ thấp, cái chết (x.
Ga 12, 24), và với một số nhỏ, và tất cả những điều ấy đòi một lòng tin mạnh mẽ,
không thể chuyển lay, một lòng trông cậy vững chắc cả khi không còn gì để hy vọng,
một niềm trông cậy có tính phấn đấu, một sự kiên trì bền bỉ trong mọi thử thách (x. Gc 5,7-8). Đó là sự “hiển thị” và sự “phong nhiêu” của công trình cứu chuộc của Đức
Kitô (x. Pl 2, 5-8). Sự “hiển thị” và “phong nhiêu” này không bao
giờ được thiếu trong đời sống thánh hiến, sẽ bảo đảm cho nó một tương lai đầy
hy vọng (x. Pl 2, 5-8).
II. THỬ CHỤP X-QUANG ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN: GIỮA
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI
Không dễ tiếp cận thực tại hiện nay của đời sống
thánh hiến mà không rơi vào một sự chủ quan nào đó. Thực vậy, việc bắt mạch đời
sống thánh hiến trong giai đoạn hiện nay đi từ một cái nhìn tích cực thái quá,
không thấy ở đó một vấn đề nào, đến một cái nhìn cho rằng tai họa sắp tới, chỉ
chú ý tới những yếu tố tiêu cực mà chắc hẳn là có trong đó. Cái nhìn thứ nhất
có nguy cơ không chú ý tới những vấn đề thực tế mà đời thánh hiến đang trải
qua; cái nhìn thứ hai có nguy cơ không nhìn ra tác động của Thần Khí đang tiếp
tục thổi tràn trề vào những người sống đời thánh hiến, và qua đó vào đời sống của
Hội Thánh.
Cũng như trong mọi thực tại của Hội Thánh,
trong đời sống thánh hiến cũng có ánh sáng và bóng tối, có những dấu hiệu của sự
sống và những dấu hiệu của cái chết, sự thánh thiện và tội lỗi[27]. Xét vì mục đích của bài này, chúng ta hãy
nhìn lướt qua những ánh sáng và bóng tối trong đời sống thánh hiến hiện nay, điều
làm chúng ta buồn, điều làm chúng ta băn khoăn và cả điều thôi thúc đi tới một
cuộc sống thánh hiến có khả năng thức tỉnh thế giới, như Đức Thánh Cha Phanxicô
mời gọi. Tôi tiếp cận thực tế này dựa trên sự hiểu biết của tôi về đời sống
thánh hiến, sự hiểu biết được mở rộng trong một năm rưỡi làm việc ở Bộ Tu Sĩ,
nhờ phân tích những tài liệu nhận được và nhờ đối thoại liên tục với thực tiễn
đời sống thánh hiến qua những cuộc gặp gỡ với những người sống thánh hiến và nhất
là các vị Bề Trên Tổng Quản nam nữ.
Việc dự đoán tương lai của đời sống thánh hiến
lại càng không dễ. Nó không ở đây hay ở kia, mà ở trong tay Thiên Chúa. Dù sao,
tuy không thấy hoàn toàn điều Thánh Thần đang khơi dậy trong đời sống thánh hiến,
nhưng xét theo những mầm sống mới mẻ đang nảy sinh giữa chúng ta, theo nhịp của
những thực tại khác đang chết đi, chúng ta đã có thể nhận dạng một số mầm non của
cái mới mẻ và tương lai.
Với sự run rẩy và sợ hãi, chúng ta tiếp cận cả
hôm nay và ngày mai – mà trong nhiều trường hợp đã là hôm nay rồi – của đời sống
thánh hiến.
1. Điều làm chúng ta đau buồn
- Một đời sống thánh hiến tự kỷ trung tâm,
quy về chính mình, bận tâm về sự sống còn của mình hơn về sứ mạng loan báo Tin
Mừng “cho người ở gần và kẻ
ở xa”.
- Một đời sống thánh hiến bận tâm về con số
hơn là về ý nghĩa Tin Mừng, bận tâm về những công trình phải duy trì hơn là về
tính ngôn sứ phải có trong mình.
- Một đời sống thánh hiến quan tâm tới sự an
toàn xuất phát từ chỗ bám vào những cái đã quen từ xưa – “xưa nay vẫn làm thế” – hơn là đi tới những biên
cương hiện sinh của hôm nay.
- Một đời sống thánh hiến bị kềm chế bởi một
thứ “suy nhược thiêng
liêng” làm cho lo lắng, vì
nó đưa tới chỗ an phận trong sự tầm thường, ngăn cản sống hiện tại với lòng say
mê và nhìn tương lai với niềm hy vọng.
- Một đời sống thánh hiến bị khống chế bởi sự
nguội lạnh: “một thứ bất
mãn kinh niên, làm khô cạn tâm hồn”[28], làm “tê liệt”bất cứ nỗ lực nào của
sự “trung thành sáng tạo”,
sản sinh một sự mệt mỏi căng thẳng, nặng nề, bất mãn, nó khống chế nhịp sống bằng
một nỗi âu lo về hiệu quả tức thời, không chịu nổi sự chống đối, thất bại, phê
bình, thập giá.[29]
- Một đời sống thánh hiến không có tính thần
bí, không có động lực và chán chường, chỉ theo thói quen; một đời sống thánh hiến
sản sinh “cuộc sống nửa chừng”,
chết ngộp vì sức ỳ của một trật tự bất di bất dịch và những truyền thống không
được xét lại; những cuộc sống không phải là sống, vì bị khống chế bởi sự vận
hành của cơ chế.
- Một đời sống thánh hiến chuyên nghiệp hóa
hơn là làm chứng về Thiên Chúa của sự sống, Đấng làm nảy sinh lòng say mê, niềm
hy vọng và niềm vui, khơi dậy sự hấp dẫn mãnh liệt, ơn sủng và thiện cảm, mời gọi,
lôi kéo và hấp dẫn.
2. Điều làm chúng ta băn khoăn
Không truy tìm thủ phạm không có nghĩa là nhắm
mắt trước thực tại, trong đời sống thánh hiến chúng ta phải nhận ra những triệu
chứng làm chúng ta băn khoăn, vì nó che khuất vẻ đẹp của việc đi theo Đức Kitô
trong đó. Nếu chúng ta vạch ra những triệu chứng ấy thì không phải là để rơi
vào mặc cảm tội lỗi, nhưng, đơn giản là để tìm cách vượt qua những triệu chứng ấy.
- Sự dòn mỏng đang thấy trong một số Dòng Tu.
Sự dòn mỏng này có những biểu hiện khác nhau: con số thành viên giảm sút;[30] vắng
mặt khỏi nhà Dòng,[31] sống ngoại vi,[32] thải
hồi,[33] những
khiếu nại lên Bộ Tu Sĩ hoặc Tòa án Tối Cao, thiếu thay đổi người trong việc quản
trị, điều thường thấy nhất trong các nữ đan viện tu kín, do đó việc xin chuẩn hạn
cho các Viện Mẫu đang trở thành một sự thực hành quá thường xuyên.[34] Sự
dòn mỏng cũng nhận thấy trong việc sáp nhập, liên kết và xóa bỏ những Dòng Tu.[35] Với
đời đan tu thì cũng năng xảy ra việc bãi bỏ những đan viện.[36]
- Khoảng cách giữa quy luật và khả năng thực
tế của một số Dòng Tu. Khoảng cách này tỏ ra qua nhiều sự miễn chuẩn luật
riêng.[37] Tôi
nghĩ tốt hơn là nên thay đổi Hiến
Pháp. Nhiều điều trong Hiến
Pháp có thể chuyển sang phần Quy Chế hay Nội Quy, những Quy Chế hay Nội Quy
không cần sự can thiệp của Tòa Thánh. Không hiếm trường hợp “xin chữa” (sanatio) nhất là
liên quan tới nhà tập, điều này chứng tỏ thiếu hiểu biết Luật, Luật riêng hoặc
Luật chung của Hội Thánh.
- Con số xuất tu lên cao mỗi năm[38] và
thiếu người trẻ thế chân người già, vì thế không ít Dòng Tu sẽ phải biến mất
trong một thời gian ngắn và một số khác được mời gọi sáp nhập với những Dòng Tu
có đặc sủng tương tự.
- Con số những Dòng Tu đang được Tòa Thánh đặt
Thụ Ủy quản trị[39] là lớn, và nhiều cuộc Thanh Tra
Tông Tòa[40] đang diễn ra, chủ yếu vì bốn
tình huống đau đớn và có khi là gương xấu: các vấn đề tình cảm, một số trường hợp
liên quan tới chính các vị nam nữ sáng lập viên;[41] việc huấn luyện, đôi khi trái với
Công Đồng: quản lý tài chánh thiếu trong sáng, trong đó đồng tiền “cai trị thay vì phục vụ”;[42] độc
tài trong việc thi hành quyền bính.
- Việc quản trị tài chánh không thỏa đáng của
một số Dòng Tu. Hiện nay việc quản trị tài sản là một vấn đề khiến một số Dòng
Tu băn khoăn. Có trường hợp vì tích lũy quá nhiều tiền bạc, có những trường hợp
khác vì việc quản trị các tài sản không thỏa đáng, khiến Dòng Tu rơi vào tình
trạng thiếu hụt khó xử. Trường hợp sau này thường là do quản trị theo cách cá
nhân, nhất là nơi các vị quản lý.
- Cách thi hành việc phục vụ của quyền bính
không thỏa đáng trong một số Dòng Tu, khiến người ta bám lấy quyền hành và theo
một “chính sách” mà không ít trường hợp theo “thói đời” nhiều hơn là Tin Mừng. Đang gia
tăng con số những bề trên cả nam lẫn nữ muốn trường kỳ nắm các vị trí quyền lực,
và không thiếu những trường hợp độc tài.
- Tính cách “thế
tục” xuất hiện nơi một số
không ít những người sống thánh hiến, thấy được trong một “lối sống” chẳng phù hợp bao nhiêu với
tinh thần của các vị nam nữ sáng lập viên. Chúng ta không thể im lặng trước lối
sống trưởng giả và se xua của một số tu sĩ, họ làm lu mờ bộ mặt của đời sống
thánh hiến.
- Một hoạt động chủ nghĩa làm tha hóa, xa vời
việc cổ võ tính sáng tạo, lại còn làm giảm thiểu đời sống huynh đệ trong cộng
đoàn, đời sống cầu nguyện và chính lý tưởng của đời thánh hiến. Hoạt động chủ
nghĩa nói trên thường mang theo sự giảm suy động lực, được nuôi dưỡng bởi sự thất
chí, oán hận, chán nản, lãnh đạm.
- Sự tìm kiếm thành tựu bản thân, không quan
tâm tới đời sống huynh đệ trong cộng đoàn và những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa,
biểu lộ một cá nhân chủ nghĩa xâm thực, nhìn mọi sự bằng con mắt tự kỷ trung
tâm.
3. Điều làm chúng ta vui mừng
Khoảng thời gian ngăn cách giữa chúng ta với
Công Đồng hẳn là tế nhị và khó khan, “không
thiếu căng thẳng và khắc khoải”, cũng là một thời giàu hy vọng, với nhiều kế hoạch
thấm nhuần Tin Mừng cách sâu xa, trong đó nhiều người sống đời thánh hiến, có lẽ
đại đa số, đã dấn thân “với
một đà lực mới” trong việc
canh tân sâu xa về mặt thiêng liêng và tông đồ đem lại hoa trái là một đời sống
thánh hiến “được đổi mới
và đầy sức sống”.[43]
Vì tất cả những điều đó, trong khi chúng ta
nhớ lại giai đoạn này với lòng biết ơn[44],
chúng ta vui mừng vì:
- Sự trung thực của số đông những người sống
đời thánh hiến đang tích cực nỗ lực làm cho đời thánh hiến nhập thể vào hiện tại,
với một chọn lựa rõ ràng là đi đến những vùng ngoại biên khác nhau của cuộc sống.
- Sư khai sinh của những Dòng Tu mới, chứng tỏ
lối sống đi theo Đức Kitô này luôn đổi mới.[45] Nhiều đan viện khác nhau đã được
thiết lập, nhất là ở châu Mỹ và châu Á.[46]
- Một đời sống thánh hiến trở nên phong phú
nhờ một linh đaọ hiệp thông đưa tới mở ra với “cái
khác”, cái dị biệt, cả trong lòng đời sống thánh hiến, cũng như trong Hội Thánh
và bên ngoài Hội Thánh; nhờ một linh đạo nhập thể trở thành ngôn sứ; nhờ một
linh đạo toàn diện, trong khi không ngừng hưóng thẳng con mắt và trái tim vào
Chúa, vẫn không coi rẻ những gì thuộc riêng về người nam và người nữ đã được tạo
dựng theo hình ảnh giống Thiên Chúa.
- Một đời sống thánh hiến được sinh động bởi
một lòng khao khát mãnh liệt sống đặc sủng tận căn hơn và một sự trung thành
say mê sáng tạo.
- Một đời sống thánh hiến quan tâm cống hiến
một nền huấn luyện phù hợp với thời hiện tại và chuẩn bị cho việc đọc những dấu
chỉ của thời đại: một nền huấn luyện toàn diện, thường xuyên, có đồng
hành…
- Một đời sống thánh hiến đặt ưu tiên vào con
người và nhằm đơn giản hóa cơ cấu, đặt cơ cấu xuống phục vụ con người và đặc sủng
cùng sứ mạng riêng của mỗi Hội Dòng, không cắm sào trong nỗi luyến tiếc những
cơ cấu và những thói quen không còn mang sức sống trong thế giới hiện nay[47], cũng chẳng còn là kênh truyền thích hợp
cho đặc sủng riêng của một Hội Dòng.
- Một đời sống thánh hiến biết nhìn thế giới
không phải như một nguy cơ hay một đe dọa, nhưng như là “tu viện” và cánh đồng thích hợp cho sứ mạng;
một đời sống thánh hiến phóng vào thế giới tầm nhìn cởi mở để đối thoại và hội
nhập văn hóa.
- Một đời sống thánh hiến có ý thức rõ ràng về
tính cách thuộc về Hội Thánh, trong khi không từ bỏ tính cách ngôn sứ và một
tinh thần phê phán lành mạnh trong lòng Hội Thánh.
4. Điều thôi thúc chúng ta
Cả đời sống thánh hiến
lẫn Hội Thánh đều không được phép tê cứng, bại liệt, không đếm xỉa tới thế giới
trong đó mình phải phục vụ. Đứng trước một sự thay đổi mô hình có tính lịch sử
như cuộc thay đổi chúngta đang sống, trong đó người nam và người nữ đều thay đổi
cách hiểu chính mình và cách hiểu những tương quan của mình với nhóm của mình
và với đấng siêu việt, đời sống thánh hiến đang đứng trước một thách đố lớn:
tìm một “khuôn mặt lịch sử” có ý nghĩa hơn với con người
hôm nay, tránh xa hai cám dỗ có vể mâu thuẫn nhau nhưng lại nguy hiểm như nhau:
bám vào quá khứ, thương tiếc nhớ nhung một cái gì đó mà chẳng bao giờ sẽ trở lại;
hay túm lấy cái mới mẻ đầu tiên xuất hiện ở chân trời, không phân định xem nó có
thúc đẩy chúng ta theo hướng của Thần Khí “muốn
thổi đâu thì thổi” (x. Ga 3, 8). Những người sống thánh hiến không thể là người
luyến tiếc quá khứ hay người phiêu lưu, nhưng là những người nam, người nữ để
cho mình được tái sinh không ngừng nhờ hơi thở của Thần Khí.
5. Thần Khí thúc đẩy chúng ta tới
- Một đời sống thánh hiến cảm thấy mình luôn ở
trên đường, tập trung vào Chúa, và trở thành dấu chỉ của sự siêu việt: sự thánh
hiến, đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, sứ mạng; ra khỏi trung tâm, có khả
năng đi tới ngoại biên.
- Một đời sống thánh hiến khát khao Thiên
Chúa, được linh hoạt bởi sự không ngừng tìm kiếm một Thiên Chúa là Đấng để cho
gặp gỡ và cuốn hút chúng ta vào với sự hiện diện của Ngài trong thế giới; một đời
sống thánh hiến mạnh vì một linh đạo thống nhất, có sức năng động vươn tới và
thông dự; một đời sống thánh hiến sẵn sàng để cho mình được Thiên Chúa làm lại,
tái tạo, “như đất sét
trong tay thợ gốm” (x. Gr 18,1-6); một đời sống thánh hiến có tính thần bí,
chiêm niệm, biết nhìn ra sự cao cả thánh thiêng của người bên cạnh và khám phá
ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi con người; một đời sống thánh hiến biết
mở ra cho tình yêu Thiên Chúa; một đời sống thánh hiến được dẫn dắt bởi đức tin
được chia sẻ và trở nên phong phú.
- Một đời sống thánh hiến khát khao đời sống
huynh đệ trong cộng đoàn và ước mong tái tạo nó, làm cho nó ngày càng hiện rõ
trước mắt người nam và người nữ ngày nay; một đời sống huynh đệ trong cộng đoàn
được linh hoạt bởi đối thoại và việc phân định huynh đệ, tạo thuận lợi cho việc
đồng trách nhiệm và đồng tham gia giữa mọi thành viên; một đời sống huynh đệ
trong cộng đoàn trở thành trường dạy nhân bản và đời sống Kitô hữu chân chính;
một đời sống huynh đệ trong cộng đoàn với những tín hiệu mạnh mẽ về sự tự chủ bản
thân được sống trong tình hiệp thông huynh đệ; một đời sống huynh đệ trong cộng
đoàn trong đó sự khác biệt được đón nhận như ơn ban của Thần Khí[48], dù nó có thể là phiền toái; một đời sống
huynh đệ trong cộng đoàn biết xây dựng giây liên kết bền lâu chứ không chỉ có
tính chức năng và hiệu quả; một đời sống huynh đệ trong cộng đoàn được dẫn dắt
bởi luật của sự hiệp thông.
- Một đời sống thánh hiện chấp nhận lệnh lấy sáng kiến[49];
mở ra những con đường, bước đi trên những nẻo đường mới, nhận ra khả thể chứ
không chỉ thấy vấn đề; một đời sống thánh hiến biết dùng dấu hiệu và lời để nói
lên quyền làm Chúa của Thiên Chúa trong lịch sử của mỗi con người nam cũng như
nữ.
- Một đời sống thánh hiến “đi ra” và biết mình đi đâu; một đời sống
thánh hiến theo kiểu mẫu người “samari”,
biết dừng lại đáp ứng những điều khẩn trương của sứ mạng lúc hiện tại, và biết
khởi từ đó tính toán và lên chương trình hành động; một đời sống thánh hiến có
khả năng để 99 con chiên tại đó mà đi tìm con chiên bị lạc (x. Lc 15, 3-7); biết quét dọn
cả nhà để tìm cho ra đồng tiền bị mất (x. Lc 15, 8-10); một đời sống thánh
hiến luôn giữ “cửa mở” để tiếp đón vô điều kiện.[50]
- Một đời sống thánh hiến đi gọi, đi mời và
loan báo, chú ý tới chiều kích ngôn sứ của mình, làm nổi lên những giá trị của
Tin Mừng và duy trì tính độc sáng Tin Mừng của đời sống huynh đệ trong cộng
đoàn như một dấu chỉ ngôn sứ ngược chiều văn hóa, gợi lên Nước Trời.
- Một đời sống thánh hiến không để mất trộm
niềm hy vọng, không để mất trộm tính vô vị lợi, không để mất trộm cộng đoàn và
lý tưởng tình yêu huynh đệ, không để mất trộm tính trẻ trung, không để mất trộm
lòng hăng hái, sức thừa sai và niềm vui loan báo Tin Mừng, không để mất trộm Thần
Khí, không để mất trộm Tin Mừng.[51]
- Một đời sống thánh hiến ý thức về nhiều thách
đố phải đương đầu, và đương đầu với óc thực tế, đồng thời với niềm vui, sự mạnh
dạn, và cho đi với lòng tin tưởng; một đời sống thánh hiến không chấp nhận trở
thành một viện bảo tàng cho người ta chiêm ngắm nhưng chẳng ai muốn sống trong
đó, ý thức ơn gọi của mình là đáp lại những “dấu
chỉ của thời đại”, trong đó Thần Khí nói và không ngừng kêu gọi mình.
6. Liệu đời sống thánh hiến có một tương lai
không?
Câu hỏi này nhiều người đang đặt ra hôm nay.
Tôi xin trích lời ĐTC Benedict XVI nói với các giám mục Brasil – vì tôi hoàn
toàn đồng ý: “… đời sống
thánh hiến tự thân nó bắt nguồn từ chính Chúa là Đấng đã chọn cho mình nếp sống
trinh khiết, khó nghèo và vâng phục này. Vì thế đời sống thánh hiến không thể
thiếu vắng, cũng không thể chết mất trong Hội Thánh”(5/11/2010).
Vâng, có một tương lai cho đời sống thánh hiến,
nhưng một số hình thức đời sống thánh hiến lỗi thời, đã trở thành kỳ quặc, cổ lỗ,
không còn nói gì nhiều hoặc không còn nói gì với người người nam, người nữ hôm
nay, sẽ không tồn tại, ngay cả khi bề ngoài có chút thành công nào đó vì có sự
an toàn và quyền lực. Đời sống thánh hiến có một tương lai trong mức độ nó trở
thành sứ giả mang chứng từ và ý nghĩa, đáp lại những “dấu chỉ của thời đại” và “với sự trung thành sáng tạo” biết khám phá cội rễ của các đặc
sủng khác nhau và đọc lại trong vùng đất màu mỡ của văn hóa hiện tại. Tương lai
của đời sống thánh hiến ở trong tayThiên Chúa, nhưng cũng tùy thuộc phần lớn
vào khả năng đổi mới, tái tạo, khám phá lại nền tảng của nó.
Điều này bao hàm:
- Đời sống thánh hiến phải là một lời ngôn sứ
sống động với kinh nghiệm về những giá trị của Nước Trời, dù những giá trị ấy
không phải là của riêng đời sống thánh hiến, nhưng đời sống thánh hiến phải nhấn
mạnh như một sự khiêu khích, chẳng hạn: sự tìm kiếm Thiên Chúa với lòng say mê,
lòng yêu mến vô vị lợi và không biên giới, sự chia sẻ trong tình liên đới và hiệp
thông với một nếp sống đơn sơ, đạm bạc và vui tươi, tình huynh đệ nồng nàn biết
tiếp đón, thúc đẩy, tha thứ,… Đời sống thánh hiến phải chia sẻ sứ mạng của Chúa
Giêsu Kitô, Đấng mời gọi làm việc trong vườn nho của Ngài để phục vụ Dân Thiên
Chúa đang bước đi, chiến đấu, chịu đau khổ và hy vọng, trong sự tuân phục vô điều
kiện đối với Thánh Thần là Đấng tạo dựng, tái tạo và đổi mới mọi sự.
- Đời sống thánh hiến phải biết sống một nếp
sống khác và ngược chiều văn hóa, không làm sai lạc chức năng ngôn sứ, không
che khuất tính cách biểu tượng của mình, không làm mất đi cái mũi nhọn cánh
chung của mình.
- Đời sống thánh hiến phải mạnh dạn đảm nhận
giai đoạn “tế nhị và khó
khăn” hiện nay như một thời
thuận lợi (kairos) của sự thanh luyện, và dịp thuận tiện để trở lại với cái cốt
lõi, ngõ hầu cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang trải qua trở thành một cuộc khủng
hoảng để tôi luyện lại, và sẽ từ đó bước ra thêm mạnh mẽ trong chiều kích thần
bí và ngôn sứ. Đời sống thánh hiến phải cổ võ một kinh nghiệm về Thiên Chúa nhập
thể có sức hấp dẫn và đặt nền tảng, một cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa (x. Xh 34, 29) (chiều kích thần
bí) và làm việc không mệt
mỏi để phát triển con người toàn diện, bằng việc loan báo kế hoạch của Thiên
Chúa về con người, và tố giác những mơ tưởng phi nhân về con người của biết bao
người (chiều kích ngôn sứ);
một đời sống thánh hiến cảm nhận và truyền đạt lòng say mê đối với Thiên Chúa
và say mê đối với con người.
- Một đời sống thánh hiến sống triệt để nhưng
không quá khích, trong sự hiệp thông và tính bổ sung, cởi mở và sẵn sàng, không
sợ hãi và không cứng ngắc, cởi mở với Thần Khí là Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” (Ga
3,8), Đấng thay đổi con tim, giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ hãi của
mình, những thất chí, chán chường, Đấng thúc đẩy chúng ta đi đến với người khác
và dẫn chúng ta đến sự thống nhất chặt chẽ giữa bản chất và hành động, giữa cái
gì là bản thân và cái gì là cộng đoàn.
- Một đời sống thánh hiến làm chứng nhân của
Đức Giêsu Kitô bằng một cuộc sống khó
nghèo không cần nhiều lời
giải thích, sống trong tinh thần liên đới, hiệp thông và công bằng, trong một đời
sống đơn sơ thanh đạm, bằng một đời sống“độc thân vì Nước Trời” làm cho chúng ta trở nên thân
ái và gần gũi mà không dính bén, hội nhập, nhịp nhàng, sẵn sàng và vui tươi; bằng
một sự “vâng phục” trở thành một cách thức mới để
sống tự do và qua đó ngày càng trở nên tự do, có trách nhiệm và trưởng thành, với
một đời sống huynh đệ nhân bản và nhân bản hóa trong cộng đoàn, với một sứ mạng
can đảm và mạnh dạn nâng đỡ mọi người, nhất là những người sống trong một nền
văn hóa biến họ thành cặn bã, tóm lại, với một đời sống chìm ngụp trong Thần
Khí Thiên Chúa.
- Cuối cùng, một đời sống thánh hiến biết
quan tâm đến phẩm chất Tin Mừng của đời sống của những người được thánh hiến,
không bao giờ sa vào cám dỗ của con số và hiệu năng.[52]
Thay lời kết
Đời sống thánh hiến đang đối diện với nhiều
thách đố đòi phải sống hiện tại với lòng say mê và ôm lấy tương lai với niềm hy
vọng. Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc chúng ta rằng những thách đố ở đó là để chúng
ta đương đầu. Chính Ngài đã đặt chúng ta trước một số thách đố: một đời sống
thánh hiến trong đó không bao giờ thiếu niềm vui, một đời sống thánh hiến có thể
thức tỉnh thế giới, một đời sống thánh hiến chuyên gia của hiệp thông, một đời
sống thánh hiến “đi ra”, một
đời sống thánh hiến không ngừng phân định, luôn tự hỏi mình xem Thiên Chúa và
nhân loại đang đòi gì ở mình trong lúc này.[53]
Đứng trước những nỗi sợ hãi, sự nản lòng, cám
dỗ chạy trốn, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc chúng ta rằng chúng ta không đơn độc,
và chính Chúa cũng bảo đảm với chúng ta: “Đừng
sợ… vì có Ta ở với con để bảo vệ con” (Gr 1, 6).[54] Với sự an toàn đó chúng ta hãy
nghe lời Chúa phán: Đời sống
thánh hiến, hãy chỗi dậy và bước đi.
Giêrusalem, 22 tháng 04 năm 2015
+ José Rodriguez Carballo, OFM.
Tổng Giám Mục, Thư Ký Bộ Đời Sống Thánh Hiến.
Chuyển ngữ: Lm.
Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ.
catechesis.net
***
Để bổ túc cho bài thuyết trình của Đức Tổng
Giám Mục José Rodriguez Carballo, OFM., mời quý vị đọc thêm bài viết "Thần Học Đời Sống Thánh Hiến
Trong 50 Năm Qua" của
Cha Giuse Phan Tấn Thành, OP.
--------------------------------
[1] Từ khủng hoảng, như sẽ thấy, là dị nghĩa, vì nó có thể đưa tới sự sống
hay sự chết.
[2] Th.Gioan Thánh Giá viết bài thơ “Đêm
tăm tối” và hai bài giải
nghĩa bài thơ: “Đường lên
núi Cát Minh” và “Đêm tăm tối”.Cả hai bài giải
thích đều chưa hoàn tất. Trong cả hai bài ngài đều nêu những Dấu hiệu cho thấy
bước vượt qua từ nguyện ngắm sang chiêm niệm: “Đường
lên” 2, 13; “Đêm” 1,9.
[3] ĐTC Benedict XVI, “Bài
giảng ngày quốc tế đời sống thánh hiến”, 02/02/2013.
[5] Felicisimo Martinez, “Hiện
trạng và những thách đố của đời tu”, Vitoria 2004, Frontera 44,13tt.
[6] Trong Tông thư gởi cho chúng ta là những người sống thánh hiến, ĐTC
Phanxicô nói: “Cha không
chờ mong chúng con nuôi sống những hoang tưởng, nhưng là biết tạo nên những
khung cảnh khác, trong đó người ta sống cái luận lý Tin Mừngcủa sự cho đi, của tình
huynh đệ, tiếp nhận sự dị biệt, yêu thương nhau”. (ĐTC Phanxicô, Tông Thư “gởi những người sống
thánh hiến”, Rôma, 21/11/2014,
II,2).
[7] Cuộc khủng hoảng mà đời sống thánh hiến đang sống không thuộc dạng
luân lý, nhưng là hiện sinh thì đúng hơn, khủng hoảng về ý nghĩa và sứ mạng.Dù
sao cần nhớ rằng khủng hoảng tự nó không phải là tích cực hay tiêu cực. Tất cả
tùy thuộc quyết định mà người ta lấy hoặc bỏ qua không lấy.
[8] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn “Đời Sống Thánh Hiến”, số 73.
[9] Thánh Phanxicô Assisi, Regola
Bollata2,9.
[10] Thánh Phanxicô Assisi, Thư
gởi toàn Dòng 50.
[11] Xc. Carlos Palmés, “Phân
định là tìm kiếm trong mọi sự điều đẹp lòng Chúa Cha hơn. Ignacio de Loyola”, Vitoria
2009,Frontera 65.
[12] Thánh Phanxicô Assisi, Huấn
dụ 1. Julio Herranz, “Việc phân định theo thánh
Phanxicô Assisi”, Vitoria 2009, Frontera66,60tt.
[13] Julio Herranz, Ibid., Frontera 66,85-92.
[14] Xc. Maximiliano Herraiz, “Phân
định thiêng liêng theo thánh Terexa và thánh Gioan Thánh Giá”, Vitoria 2008, Frontera71tt.
[15] ĐTC Benedict XVI, Tông Huấn “Verbum
Domini”, số 83.
[16] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn “Đời Sống Thánh Hiến”, số 81; xem thêm số 73.
[18] Sách “Giáo Lý Hội
Thánh Công Giáo”, số 125.
[19] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn “Đời Sống Thánh Hiến”, số 94.
[21] Bộ Tu Sĩ, “Mutuae
Relationes” 1978, số 51.
[22] ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn “Chứng
Tá Phúc Âm”, số 11.
[23] Công Đồng Vaticano II, Ánh
Sáng muôn dân 4;12;43-45; Đức Ái Hoàn Thiện 1-5;15; Thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II, Tông huấn “Đời
Sống Thánh Hiến”, số 36.
[24] Antonio Romano, Carisma,
trong Diccionario
teológico de la vida consagrada, Edc.Claretienas, Mdrid 1990, 150.
[25] Công Đồng Vaticano II, Hiến chế “Vui
Mừng và Hy vọng”, số 4.
[26] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn “Đời Sống Thánh Hiến”, số 37.
[27] Xc. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn “Đời Sống Thánh Hiến”, số 13.
[28] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông Huấn “Niềm
Vui Tin Mừng”, số 277.
[30] Theo các dữ liệu chúng tôi có trong tay tới ngày 31/12/2012, hiện có:
28 Hội Dòng (1 thuộc nghi
lễ Đông Phương) và hai Tu
Hội Đời Sống Tông Đồ, tất cả là nam giới, có số thành viên từ 55 tới 99; và 36
Hội Dòng nam (5 thuộc nghi
lễ Đông Phương) và 2 Tu Hội
Đời Sống Tông Đồ, cũng là nam giới, có dưới 50 thành viên. Về phía các Dòng nữ,
cũng trong năm đó, có 212 Hội Dòng (5
thuộc nghi lễ Đông Phương) và
3 Tu Hội Đời Sống Tông Đồ có từ 50 tới 99 thành viên; 161 Hội Dòng (1 thuộc nghi lễ Phương Đông) và 1 Tu Hội Đời Sống Tông Đồ có
dưới 50 thành viên. Tất cả là những Hội Dòng và Tu Hội thuộc quyền Giáo Hoàng.
[31] Từ 2008 tới 2013 Bộ Tu Sĩ đã cho phép 761 trường hợp vắng mặt khỏi nhà
Dòng.
[32] Cùng thời gian trên, 2008-2013, có 1402 trường hợp sống ngoại vi,
trong số đó 72 trường hợp bắt buộc.
[33] Từ 2008 tới 2013 Bộ chúng tôi đã phê chuẩn 1,075 lệnh thải hồi.
[34] Trong thời gian từ 2008 tới 2013 đã có 488 thỉnh nguyện được chấp thuận.
Bộ Tu Sĩ chấp thuận tới lần thỉnh nguyện thứ tư không có khó khăn. Từ lần thỉnh
nguyện thứ sáu thi Bộ sẽ đặt Viện Mẫu. Trong những trường hợp khác, Bộ Tu Sĩ đặt
một Viện Mẫu đến từ một đan viện khác. Cùng thời gian 2008-2013, Bộ đã đặt 99
Viện Mẫu.
[35] Từ 2008 tới 2013 Bộ đã đồng hành một vụ hợp nhất, 22 vụ sáp nhập và ba
vụ xóa bỏ Dòng Tu.
[36] Từ 2008 tới 2013 đã bãi bỏ 121 đan viện và hai Liên Hiệp.
[37] Vẫn trong khoảng thời gian 2008-2013 đã có 1.073 vụ miễn chuẩn, phần lớn
liên quan tới quy tắc về nhà tập hoặc khấn tạm hay khấn trọn. Phải kể thêm vào
đó 28 trường hợp miễn chuẩn vì ràng buộc hôn phối.
[38] Tổng số xuất tu mỗi năm khoảng 2.000, đó là chỉ tính những trường hợp
thông qua Bộ Tu Sĩ. Phải kể thêm vào đó những trường hợp thông qua Bộ Giáo Sĩ
và Bộ Giáo Lý Đức Tin nữa.
[39] Theo thống kê chúng tôi có được, từ 2008 tới 2013 có 39 trường hợp Tòa
Thánh đặt Thụ ủy.
[40] Từ 2008 tới 2013 có 132 vụ Thanh Tra Tông Tòa đối với các Tu Hội Đời Sống
Tông Đồ.
[41] Hiện nay đang có điều tra về cách cư xử của chừng 15 vị sáng lập viên.
[42] Xc. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông
huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, số
57-58. Thư luân lưu “Những
nguyên tắc hướng dẫn” về
việc quản trị tài sản Hội Thánh về phía các người sống thánh hiến, cũng như cuộc
Hội Thảo do Bộ Tu Sĩ tổ chức hồi tháng 3/2015 vừa qua, với sự đón nhận và tham
gia nồng nhiệt, muốn giúp cho việc quản trị thích đáng các tài sản thuộc về các
Hội Dòng. Chúng tôi đang chờ tiếp nhận những đóng góp để thực hiện một bản Chỉ
Đạo (Chỉ Thị Hướng Dẫn)về
vấn đề này.
[43] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn “Đời Sống Thánh Hiến”, số 13.
[44] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Tông thư “Khởi đầu thiên niên kỷ mới”, số
1.
[45] Từ 2008 tới 2013 đã thiết lập 20 Hội Dòng (3 nam và 17 nữ, trong số này
có 3 ở Phi châu, 7 ở Mỹ châu, 3 ở Á châu và 7 ở Âu châu); 4 Tu Hội Đời Sống
Tông Đồ (2 nam và 2 nữ,
trong số đó 3 ở Mỹ châu và 1 ở Âu châu) và
3 Tu hội Đời nữ, tất cả thuộc quyền Giáo Hoàng. Thêm vào đó, Bộ Tu Sĩ đã cho 29
ý kiến ủng hộ cho các giám mục liên hệ – hoặc thông qua Bộ Loan Báo Tin Mừng –
nhằm thiết lập ở cấp giáo phận những “Hội
Đạo Đức” công khai.
[46] Cũng trong khoảng thời gian đang phân tích (2008-2013), đã mở ra 111
đan viện.
[47] Xc. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, số 108.
[48] Xc. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, số 131.
[51] Xc. Ibid., số 80.83.86.92.97.101.
[52] Sách Giáo Lý Hội
Thánh Công Giáo, số 18.
[53] Xc. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông Thư “gởi những người sống thánh hiến”, Rôma, 21/11/2014, II.