HÀNH
TRÌNH LÃNH ĐẠO CỦA MÔ-SÊ
”Hành trình lãnh đạo của Mô-sê” là bài nói chuyện thứ hai của
Cha Charles Conroy, MSC., trích từ Journeys and Servants,
do Catholic Biblical Association of the Philippines xuất bản, (Quezon City,
2003). Bản dịch của thầy Phêrô Nguyễn Quí Khôi (ĐCV Huế).
==========================
Chủ đề của chúng ta hôm nay là cuộc hành
trình lãnh đạo của Mô-sê. Tuần trước, tôi đã nói về hành trình đức tin của
Áp-ra-ham. Vẫn là “hành trình”, nhưng đây là một loại hành trình khác, một cách
nào đó nó có tính tương phản với cuộc hành trình trước. Nhưng tôi nghĩ đây cũng
là một hành trình có thể hữu ích cho chúng ta trong thời đại hôm nay.
Tôi sẽ không đề cập đến công trình nghiên cứu lịch sử gần đây nhất
về sự hiện diện của người Do thái và người Ít-ra-en ở Ai-cập, hay về khảo cổ
học. Điều tôi trình bày sẽ đơn giản hơn nhưng đồng thời cũng sâu hơn. Đó là các
bản văn Thánh Kinh, tức Lời của Thiên Chúa. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban
Thánh Thần của Ngài cho chúng ta khi tìm hiểu các bản văn này. Chúng ta tiếp
cận các bản văn này như một phần của Thánh Kinh, và đọc chúng để nghe chúng nói
với kinh nghiệm của chúng ta trong tư cách là những người tin ngày nay. Tất cả
điều tôi muốn làm là trao cho các bạn những suy tư của một độc giả của các bản
văn này. Hết thảy các bạn đều là các độc giả. Có lẽ những gì tôi sắp chia sẻ sẽ
có phần hơi khác với cách đọc của các bạn. Cũng có thể các bạn nghĩ rằng cách
đọc của các bạn đã đi sâu hơn vào bản văn. Điều đó thật tuyệt. Chúng ta có thể
chia sẻ những hiểu biết của mình và giúp nhau cởi mở hơn để đón nhận Lời Thiên
Chúa.
Mục tiêu của chúng ta, vì thế, là cung cấp chất liệu cho việc suy
tư; và quan trọng hơn nữa, đó là cung cấp chất dinh dưỡng cho việc cầu nguyện
và việc kết hiệp với Chúa Phục Sinh, Đấng kêu gọi và sai mỗi người chúng ta vào
sứ mạng hôm nay. Tiêu đề phụ của bài nói chuyện này là “Ơn gọi và sứ mạng của
Mô-sê”. Nhưng ở đây chúng ta không chỉ đang quan tâm đến chuyện đời xưa. Chúng
ta cũng đang quan tâm đến những gì Mô-sê có thể nói với hoàn cảnh của chúng ta
trong hiện tại.
I. MÔ-SÊ TRƯỚC KHI ĐƯỢC GỌI
Trước hết tôi
sẽ đề cập về Mô-sê trước khi được gọi. Lý do là vì để hiểu ơn gọi của bất kỳ
ai, chúng ta phải nhận thức rằng ơn gọi đến với một người cụ thể có lịch sử,
bối cảnh, những giới hạn và điều kiện riêng do quá khứ của mình. Ơn gọi không
đến với mọi người theo cùng một cách giống nhau. Ơn gọi có tính đặc thù cho mỗi
người, vì mỗi người đều độc đáo. Vì thế cần phải tìm hiểu Mô-sê trước khi được
gọi.
Cách đọc mà tôi đang sử dụng ở đây là cách đọc mà khoa nghiên cứu
Thánh Kinh gọi là đọc bản văn ở dạng cuối
cùng. Tôi sẽ
dùng một số bản văn của Sách Xuất hành và vài bản văn thuộc một số sách khác
nữa ngoài Sách Xuất hành, trong hình thức mà chúng ta thấy chúng ngày nay trong
bộ Ngũ Kinh. Chúng ta biết rằng bộ Ngũ Kinh không phải được viết tất cả cùng
một lúc hay do bởi một người. Nó đã trải qua một quá trình phát triển vô cùng
phức tạp mà các chuyên gia vẫn thường bất đồng ý kiến về quá trình đó. Nhưng
chúng ta sẽ dùng bản văn như ta thấy nó hôm nay, và tìm hiểu xem nó có thể nói
với chúng ta những gì.
Chúng ta hãy nhìn thoáng qua Mô-sê trước khi ông được kêu gọi, bằng
cách nêu câu hỏi: Tiếng gọi ấy đã đến với một con người như thế nào? Câu chuyện
bắt đầu với việc lên ngôi của một vị tân vương Ai-cập, một Pha-ra-ô mới.
Pha-ra-ô là tước hiệu chứ không phải tên người. Vị vua mới này khác xa với vị
vua có tấm lòng rộng lượng thời Giu-se. Bạn hãy nhớ lại câu chuyện Giu-se được
vua Ai-cập phong chức tể tưởng. Giu-se đã mời gia đình ông sang định cư ở
Ai-cập. Sau đó, dân Ít-ra-en là ăn rất phát đạt ở Ai-cập khiến người dân nước
này phải lo lắng. Pha-ra-ô bắt đầu một chính sách đàn áp và bóc lột những người
lao động Ít-ra-en, và ra lệnh phải giới hạn nghiêm ngặt dân số của họ. Tất cả
các con trai mới sinh của Ít-ra-en đều phải bị giết. Câu chuyện tiếp tục với
việc cứu sống trẻ Mô-sê, với những người phụ nữ đóng vai trò quan trọng: hai bà
đỡ, chị gái của Mô-sê – người đã rất khéo léo thuyết phục công chúa của
Pha-ra-ô nhận nuôi đứa trẻ và gọi bà mẹ của đứa trẻ đi theo chăm sóc cho nó,
một công việc được trả thù lao đàng hoàng. Đây là cách xử trí đầy khôn khéo của
Mi-ri-am, người chị gái Mô-sê.
Từ bé, Mô-sê được nuôi dạy như một người Ai-cập. Chúng ta muốn biết
chi tiết hơn nhưng Sách Xuất hành không nói gì thêm. Về sau, truyền thống Do
thái có kể những câu chuyện khác về việc này, và cũng có một đề cập thoáng qua
trong sách Tông Đồ Công Vụ (Cv 7,22). Trong lời phát biểu của mình, Tê-pha-nô
nói rằng Mô-sê được dạy cho biết tất cả lẽ khôn ngoan của người Ai-cập, vì thế
ông trở thành con người đầy uy thế trong lời nói cũng như việc làm. Nói cách
khác, ông được giáo dục trong tư cách một thành viên thuộc tầng lớp được ưu đãi
ở Ai-cập, được hướng đến một sự nghiệp sáng giá là làm quan triều đình, nghĩa
là một cuộc sống dễ chịu và sung túc. Rõ ràng ông có nhiều khả năng và được sự
hậu thuẫn của gia đình Pha-ra-ô. Mọi sự đều rất thuận tiện cho ông. Đó là con
người Mô-sê trước khi được gọi.
Mô-sê “đi ra”
Một ngày kia, Mô-sê quyết định đi ra để thăm đồng bào Ít-ra-en của
mình (Xh 2,11). Cụm từ “đi ra” thật thú vị. Ông đi ra từ một thế giới đầy ưu
đãi để đến với một loại thế giới khác và chứng kiến những người lao động khổ
sai. Tại sao ông đi ra? Bản văn không cho ta biết lý do. Có lẽ vì ông tò mò. Dù
lý do nào đi nữa, quyết định có vẻ tình cờ này đã trở thành bước ngoặt trong
cuộc đời Mô-sê và cũng là bước ngoặt của hàng triệu người Do thái, Ki-tô giáo,
Hồi giáo – những người nhìn nhận Mô-sê là một trong các tổ tiên họ trong đức
tin.
Tôi đã tra tìm từ “Mô-sê” trong kinh Co-ran thông qua bản dịch
tiếng Anh và nhận thấy rằng tên gọi này xuất hiện ít nhất là một trăm ba mươi
lần. Nghĩa là ông có một chỗ đứng rất quan trọng trong kinh Co-ran, chưa nói
đến trong các truyền thống Do thái giáo và Ki-tô giáo. Khi bạn suy nghĩ về điều
này, bạn sẽ thấy một điều rất lạ lùng: bao nhiêu điều đã gắn liền với bao con
người qua các thế hệ dọc theo bao thế kỷ… đã bắt đầu từ một chuyến đi ra tình
cờ vào buổi sáng hôm đó!
Có một bài học cho tất cả chúng ta. Một tiếng gọi rất đặc biệt của
Chúa có thể xuất phát từ những sự kiện xem chừng rất tình cờ, rất ngẫu nhiên.
Tiếng gọi không nhất thiết phải giống như tiếng gọi dành cho Phao-lô trên đường
đi Đa-mát, qua đó ông ngã ngựa và bị mù – một cái gì rất đặc biệt. Song tiếng
gọi cũng có thể rất đỗi bình thường, như cách mà Mô-sê bắt đầu nghe tiếng gọi.
Vì vậy, chúng ta nên trân trọng giây phút hiện tại.
Hôm ấy, Mô-sê nhìn thấy một người Ai-cập đánh một người Do thái,
điều có lẽ xảy ra khá thường xuyên. Thường thì người ta sẽ không chú ý đến một
điều như thế, nhưng Mô-sê chứng kiến sự việc xảy ra và nhận thức mối liên đới
của mình với người Do thái đang bị đánh đập kia. Nhận thức này làm bộc phát một
hành động bốc đồng: ông giết gã Ai-cập và đem giấu thi thể.
Chúng ta để ý rằng trong đoạn văn này không có đề cập gì đến danh
Thiên Chúa. Có thể nói đây là một phản ứng tự phát tự nhiên của Mô-sê. Ông là
một con người hành động: ông quyết định và thực hiện ngay tức khắc. Ông có khả
năng bạo lực. Ông có thể giết người và đã thực sự giết người. Rõ ràng Mô-sê là
một nhân vật rất mạnh mẽ, một người quyết định nhanh và quyết liệt.
Điều gì xảy ra sau đó? Không có chuyện gì cả! Mô-sê trở về ngôi nhà
tiện nghi của mình giữa những người Ai-cập. Ngày hôm sau, ông lại đi ra ngoài
và lần này nhìn thấy hai người Do thái đánh nhau. Việc đi ra ngoài ấy không làm
thay đổi Mô-sê. Ông vẫn còn địa vị danh giá, vẫn sống ở một nơi giàu sang với
nhiều đặc ân. Vẫn còn sự tách biệt giữa Mô-sê và đồng bào Do thái đang đau khổ
của mình. Dù sao, ông quyết định đi ra để đến với họ.
Mô-sê can ngăn vụ đánh nhau giữa hai người Do thái. Ông xử sự như
một người lãnh đạo. Cả ở đây nữa, cũng không có đề cập gì đến danh Thiên Chúa.
Thiên Chúa không bảo Mô-sê: “Hãy can ngăn và giải hòa họ”. Mô-sê tự mình làm
thế. Không ai trao cho Mô-sê vai trò lãnh đạo. Nhưng ông nghĩ rằng mình có
quyền làm người lãnh đạo. Vì thế, ông đã can ngăn và cố gắng giải hòa dù không
nhận được lời đề nghị nào. Tuy nhiên, sự can thiệp của Mô-sê đã bị từ chối một
cách thô thiển. Người sai quấy trong hai người ấy đã lên tiếng: “Ai đặt ông làm
người lãnh đạo hay xét xử chúng tôi?” Anh ta nhận hiểu Mô-sê đang hành xử như
một người lãnh đạo. Và anh ta bồi thêm một lời nói bóng gió thật độc miệng: “Hay
là ông định giết tôi như đã giết người Ai-cập kia?” Rõ ràng người ta đã biết
câu chuyện ấy và việc nó đến tai các quan lại Ai-cập chỉ còn là vấn đề thời
gian. Mô-sê lo lắng. Không còn cách nào khác hơn là đi trốn. Quả thế, khi
Pha-ra-ô nghe biết sự tình, đã cho tìm giết Mô-sê, vì thế Mô-sê trốn thoát khỏi
Pha-ra-ô.
Không còn ở vị thế được ưu đãi nữa
Chúng ta dừng lại một chút để xem xét tình cảnh của Môsê vào lúc
này. Tất cả dường như mất mát và vô nghĩa. Mô-sê phải trốn đến sa mạc. Ông sống
với một gia đình nghèo khổ. Ông đã hoàn toàn đánh mất địa vị danh giá trong
triều đình Ai-cập. Ông bị tách ly khỏi những người Do thái. Toàn bộ sự việc xem
ra rất trái khuấy: ông cố làm điều tốt nhưng thật sự đã làm ơn mắc oán. Mô-sê
đã đánh mất tất cả. Tất cả tương lai của ông hẳn sẽ gắn với gia đình ở sa mạc
này trong một khung cảnh rất tẻ nhạt, một lối sống quá đơn điệu, ngoài ra chẳng
còn gì khác. Nơi đó, ông sẽ sống và sẽ chết. Nếu chúng ta xét về những khía
cạnh tâm lý như thế thì cuộc sống vô nghĩa đối với Mô-sê biết là ngần nào.
Mô-sê sống trong sa mạc với một người Ai-cập ở vùng Man-đi-an,
người này có bảy cô con gái. Câu chuyện này cũng khá nổi tiếng: ông giúp đỡ các
cô con gái tại giếng nước và được mời về nhà. Ông kết hôn với Xíp-pô-ra, một
trong các cô con gái ấy, và sinh được một cậu bé trai. Nghĩa là Mô-sê đang ổn
định với lối sống của một gia đình du mục.
Sa mạc là nơi hoang sơ, khắc nghiệt, ở đó cuộc sống chỉ còn là sự
tồn tại. Những nhu cầu của người ta chỉ ở mức tối thiểu: căn lều, vài loại thức
ăn đạm bạc, nước uống (là thứ cần thiết trên hết), và manh áo đủ để che nắng và
giữ ấm. Thật lạ là ban ngày sa mạc rất nóng nhưng nó không giữ được sức nóng
nên ban đêm rất lạnh. Trong sa mạc, cuộc sống con người trở nên hết sức bấp
bênh. Cơ man những khó khăn rình rập, và việc chính yếu là làm sao để tồn tại.
Đó là kinh nghiệm mà Mô-sê trải qua, theo mô tả của các bản văn nói về giai
đoạn ông ở Ai-cập.
Mô-sê đã bộc lộ tất cả những phẩm chất lãnh đạo xét theo quan điểm
con người – đưa ra quyết định nhanh, thực hiện quyết định, can thiệp, được công
nhận là người lãnh đạo. Ông có tất cả những phẩm chất tự nhiên của một người
lãnh đạo, tuy nhiên ông chưa được gọi để làm người lãnh đạo. Sự việc đã đi trật
đường rây.
II. ƠN GỌI CỦA MÔ-SÊ
Chúng ta bước sang điểm thứ hai để tập chú vào tiếng gọi dành cho
Mô-sê và những phản ứng tức thời của ông trước tiếng gọi ấy. Ở cuối chương 2
Sách Xuất hành, vua Ai-cập băng hà. Điều này có nghĩa là Mô-sê đã sống một thời
gian dài trong sa mạc.
Từ thân phận nô lệ của mình, dân Ít-ra-en kêu cầu Thiên Chúa giúp
họ. Thiên Chúa nhớ đến giao ước của Ngài với Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, và
Ngài lưu tâm đến họ. Thế là xảy ra tiếng gọi dành cho Mô-sê: đó là lời Thiên
Chúa đáp trả lời khẩn cầu của dân Ít-ra-en. Những con người từng khước từ Mô-sê
ấy đã cầu xin Thiên Chúa giải cứu – và họ sẽ có được một nhà lãnh đạo là chính
người mà họ đã khước từ. Thiên Chúa đã làm những việc lạ lùng với dân của Ngài.
Trình thuật về tiếng gọi bắt đầu. Phần đầu tiên của trình thuật này
là đoạn văn nổi tiếng về tiếng Chúa phán từ bụi gai đang bốc cháy. Lúc ấy Mô-sê
đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô. Lần đầu tiên trong câu chuyện của Mô-sê,
một cuộc thần hiện, một cuộc gặp gỡ với chính Thiên Chúa được đề cập đến. Mô-sê
nhìn thấy bụi gai đang cháy; sự kiện này thu hút sự chú ý của ông. Bụi gai cháy
nhưng không bị thiêu rụi. Khi Mô-sê đến gần, Thiên Chúa gọi tên ông hai lần: “Mô-sê,
Mô-sê”. Và ông thưa: “Dạ, con đây”. Cảnh tượng lạ lùng này càng lên cao trào
với lệnh truyền phải cởi dép ra, vì nơi ông đang đứng là nơi thánh.
Câu chuyện tiếp tục với việc Mô-sê được Thiên Chúa sai đi. Mô-sê
phải rời bỏ cuộc sống yên hàn để trở lại với đồng bào mình. Giờ đây, ông được
Thiên Chúa sai đi, được gọi trở thành nhà lãnh đạo. Mô-sê sẽ đi gặp Pha-ra-ô,
người đang tìm giết mình, và ông sẽ dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi xứ sở đầy áp bức
này để đến vùng đất tự do, tràn trề sữa và mật. Thật thú vị để ghi nhận rằng
trong những lời Thiên Chúa nói với Mô-sê, Ngài không hề đề cập gì đến những
việc ông đã làm trước kia. Dường như Thiên Chúa mở ra một trang mới và quên hết
tất cả những gì ông đã làm: việc ông giết gã Ai-cập nọ, và bao chuyện khác nữa.
Đây là một sự khởi đầu mới. Nhưng đây là một sự khởi đầu mới cho Mô-sê là một con
người đã học biết nhiều điều. Chúng ta sẽ nhận thấy sự thay đổi nơi Mô-sê khi
ông bắt đầu phản ứng trước tiếng gọi này.
Tôi muốn nói rằng: Trước khi đối mặt với bụi cây đang cháy, có lẽ
chính Mô-sê vốn đang cháy bỏng. Ông đầy nhiệt huyết, là một con người hành
động; ông can thiệp mà không cần người ta lên tiếng yêu cầu. Mô-sê có ngọn lửa
như thế trong mình. Người ta nghĩ rằng sau khi được Thiên Chúa kêu gọi, lòng
nhiệt thành của Mô-sê sẽ càng tăng lên, vì tự bản chất ông là một người lãnh
đạo, ông được phú bẩm đặc ân này. Người ta hẳn sẽ kỳ vọng như thế vì đó là bản
chất tự nhiên của ông. Giờ đây Thiên Chúa gọi ông, hẳn là ông sẽ càng nhiệt
thành hơn nữa và sẵn sàng hơn nữa để đảm nhận sứ mạng lãnh đạo. Nhưng, thật bất
ngờ, sự việc lại không diễn ra như thế. Ngọn lửa bây giờ chỉ được thấy ở phía
Thiên Chúa mà thôi. Dường như Mô-sê cố hết sức để tưới nước vào ngọn lửa này và
dập tắt nó bằng cách kể ra cơ man những khó khăn và những hồ nghi về tiếng gọi
dành cho mình.
Như thế, chúng ta chứng kiến một sự khủng hoảng ơn gọi ngay từ đầu.
Nó không chỉ xảy ra một lần nhưng là năm lần. Mô-sê bây giờ khác biết bao so
với một Mô-sê mà chúng ta từng biết trong năm chương đầu tiên. Giờ đây chúng ta
nhìn thấy một con người lừng khừng, nhút nhát, sợ hãi. Một sự thay đổi thật lạ
lùng.
Những phản kháng và những khó khăn
Chúng ta hãy xem xét năm phản ứng của Mô-sê. Những phản kháng mà
Mô-sê đưa ra là những phản kháng mà đôi khi chúng ta có thể gặp thấy nơi chính
mình. Đây là điểm thú vị của đoạn văn này.
Phản ứng đầu tiên là: “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con
cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập?” (Xh 3,11). Đứng trước lời chống chế này, người ta
sẽ nói: “Nhưng ông là người lý tưởng – ông biết triều đình Pha-ra-ô, ông biết
ngôn ngữ và văn hóa Ai-cập”. Hẳn Mô-sê cũng ý thức điều đó. Nhưng dường như ông
đang cảm nhận sự bất xứng quá hiển nhiên của bản thân mình. “Con không thể, con
không phù hợp để làm công việc đó”. Khi được gọi đảm nhận một sứ mạng nào đó,
cảm nhận mình yếu kém không chỉ là cảm nhận của Mô-sê. Tất cả chúng ta đều có
những lúc cảm nghĩ y như thế. Vì vậy, ta hiểu tại sao một nhà lãnh đạo tầm cỡ
như Mô-sê cũng đã từng có cảm nghĩ ấy. Có lẽ kinh nghiệm sống trong sa mạc đã
dạy Mô-sê nhận biết một số giới hạn của bản thân mình.
Dù sao, kể từ lúc này ngọn lửa sẽ đồng hành với Mô-sê không phải là
ngọn lửa tự nhiên của ông. Đó là một ngọn lửa khác, ngọn lửa đến từ câu trả lời
của Thiên Chúa: “Ta sẽ ở với ngươi”. Chừng đó thôi, nhưng chừng đó là quá đủ.
Một khi Thiên Chúa đã hứa như thế, thì sẽ hoàn toàn trái khoáy việc Mô-sê hay
bất cứ ai trong chúng ta chống chế rằng “Con là ai mà dám làm điều này? Con
không đủ khả năng”. Nhưng đó không phải là điểm đáng chú ý nhất ở đây. Điểm
đáng lưu ý là: nếu đó là một tiếng gọi thật sự thì quyền năng và sức mạnh nơi
chúng ta không phải của chính chúng ta, nhưng là của Đấng đang gọi chúng ta. Có
nhiều điều để ta ghi nhận trong đoạn văn vắn vỏi này. Chúng ta nhận ra rằng cảm
thức về sự bất xứng của bản thân có thể song hành với một tiếng gọi đích thực
từ Thiên Chúa. Việc cảm thấy bất xứng không hề có nghĩa rằng chúng ta không
được kêu gọi.
Thánh Phao-lô đã nói điều tương tự như thế trong 2 Cr 12. Thánh
nhân kể cho chúng ta cách thức Thiên Chúa đáp trả lời ngài cầu xin cho được
giải phóng khỏi sự bất lực của bản thân, một cái dằm bí hiểm nào đó của Sa-tan.
Dù cái dằm đó là gì đi nữa, thì nó chính là cái làm cho Phaolô cảm thấy mình
yếu ớt. Rất có thể đó là một sự đau ốm thể xác, căn bệnh mờ mắt hay bất cứ thứ
gì khác. Và Phaolô đã nhận được câu trả lời của Chúa. “Khi tôi yếu chính là lúc
tôi mạnh. Vì vậy tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn
nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô”. Đấy là vì Thiên Chúa đã quả quyết với
Phao-lô: “Ơn Ta đủ cho con vì sức mạnh của Ta biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu
đuối”. Đây là một châm ngôn tuyệt vời mà chúng ta cần liên lỉ nhắc nhở chính
mình: Sức mạnh đạt mức trọn vẹn trong sự yếu đuối.
Có lẽ chúng ta nên nói thêm một hàm ý ở đây: Sức mạnh của Thiên Chúa sẽ bị cản
trở nếu chúng ta cứ cố sấn tới làm việc bằng sức riêng của mình.
Cảm thức “Tôi là ai mà dám…?” thật hữu ích vì nó giúp chúng ta
khiêm nhường và nhận biết chính mình. Nhưng đó cũng chỉ là một nửa của bức
tranh, vì chúng ta không thể quên hay làm như điếc trước lời hứa “Ta sẽ ở với
ngươi”. Lẽ ra Mô-sê nên bằng lòng. Nhưng ông lại đưa ra một chống chế khác. Ông
nêu ra khó khăn bằng cách hình dung trước tương lai. Đứng trước một sứ mạng hay
một lời mời gọi, chúng ta ngay lập tức cố hình dung nó sẽ ra sao, những khó
khăn sẽ phải đương đầu là gì. Ý nghĩ này có thể khiến chúng ta nhụt chí.
Mô-sê thưa với Chúa: “Nếu con đến với con cái Ít-ra-en và nói với
họ: ‘Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con:
Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?’’’ Có lẽ Mô-sê muốn nói rằng:
“Ngài không thể sai con vì con chưa trang bị đủ những kiến thức tôn giáo”.
Chúng ta nhớ lại rằng ông được nuôi dạy như một người Ai-cập. Ông chấm dứt cuộc
sống Do thái ngay từ khi còn là một đứa trẻ chưa biết gì, thậm chí có thể không
biết cả tiếng mẹ đẻ của mình. Thế đấy, ông là một người nói tiếng Ai-cập mà lại
được sai đến với dân chúng Do thái, ngộ nhỡ họ chất vấn: “Thiên Chúa của tổ
tiên ông là ai?” thì quả là gay go để trả lời họ đây! Có một điều rất thú vị ở
đây. Mô-sê ý thức rằng ơn gọi của ông là ra đi với tư cách là sứ giả, là phát
ngôn viên của Thiên Chúa. Ông không được kỳ vọng trình bày ý kiến riêng của
mình, cũng như không vẽ ra một hình ảnh về Thiên Chúa của riêng mình. Ông phải
trình bày cho dân hình ảnh chân thực về Thiên Chúa.
Kinh nghiệm ơn gọi có bao hàm nhu cầu khẩn thiết phải biết rõ hơn
về Đấng gọi mình. Để phục vụ người khác và giúp giải phóng họ, chúng ta phải có
khả năng chuyển thông cho họ cảm thức sống động về Đấng đã sai chúng ta đến để
làm điều đó. Khía cạnh ngã vị ở đây là: “Đấng đã sai tôi đến với anh em là ai?
Tên của Đấng ấy là gì?” Kiến thức sách vở có phần ở đây, nhưng không đủ. Sự
hiểu biết hiện sinh, sự hiểu biết của trái tim, sự hiểu biết cầu nguyện mới là
điều thiết yếu. Ta không nhất thiết phải luôn biết định thức hóa sự hiểu biết
này trong những thuật ngữ thần học chuẩn xác; chỉ cần có sự hiểu biết này bên
trong chính mình là đủ. Trong ngôn ngữ Ki-tô giáo, chúng ta nói rằng loại hiểu
biết này được Chúa Thánh Thần ban cho. Và người ta có thể chuyển thông sự hiểu
biết này qua hành động cũng như qua lời nói của mình.
Chúng ta cần biết Đấng đã kêu gọi mình là ai. Chúng ta không đang
phục vụ cho một lý tưởng thuần lý thuyết, một ý thức hệ trừu tượng; nhưng chúng
ta đang phụng sự một Thiên Chúa có ngã vị. Điều này được ghi nhận qua câu trả
lời của Thiên Chúa đối với Mô-sê để mạc khải danh Ngài: “Ta là Đấng hiện hữu”.
Những từ Híp-ri sử dụng ở đây là những động từ có nghĩa “hiện hữu, hiện diện,
tác động”; những động từ này khá giống với tên “Gia-vê”. Ý nghĩa của tên được
mạc khải ở đây không được rõ lắm. Một ý nghĩa huyền bí! Bản văn này dường như
muốn nói rằng: “Vâng, Ta sẽ cho ngươi biết tên Ta, nhưng ngươi sẽ không hiểu
tên Ta trọn vẹn, vì sự thực về Ta siêu vượt trên mọi tên gọi”. Thiên Chúa không
thể được định loại, nhưng Ngài có thể được gặp gỡ. Nói đúng hơn, Ngài có thể
đến để gặp con người. Và khi Ngài đến gặp ai, Ngài tỏ chính mình cho người đó
biết. Vì thế, sự chống chế thứ hai mà Mô-sê nêu ra nhắc chúng ta rằng mỗi tiếng
gọi là một lời mời gọi lớn lên trong sự phục vụ và đồng thời là một lời mời gọi
lớn lên trong sự hiểu biết đầy tinh thần cầu nguyện về Đấng đang kêu gọi chúng
ta. Hai điều này gắn với nhau và thiết yếu phải gắn với nhau.
Tới đây, Mô-sê vẫn chưa bằng lòng. Ông tiếp tục chống chế. Ta đọc
thấy ở đầu chương 4 Sách Xuất hành: “Nếu họ không tin con thì sao?” Một lần
nữa, Mô-sê lại mường tượng tất cả các loại khó khăn và trở ngại có thể xảy ra
trong tương lai, và ông dựa vào đó để lập luận rằng Chúa không nên sai ông đi.
Bấy giờ Thiên Chúa ban cho Mô-sê những quyền năng thật kỳ diệu. Ông có thể biến
cây gậy thành con rắn, làm cho người sạch bị phong hủi hoặc người phong hủi nên
sạch, khiến nước sông trở thành máu trên mặt đất. Ba phép lạ này có thể thuyết
phục bất cứ người nào. Nhưng chúng vẫn không lay chuyển được Mô-sê.
Ông đưa ra lý do thứ tư để chống chế, lần này ông quay trở lại với
sự bất tài, thiếu khả năng của mình, nhưng cụ thể hơn lần trước. Mô-sê viện dẫn
một thực tế là ông không có tài ăn nói. Có lẽ một phần bởi vì ông không thành
thạo ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Híp-ri. Dẫu sao đi nữa, ông nói rằng mình không
phải là một nhà hùng biện: “Lạy Chúa, từ hồi nào đến giờ, ngay cả lúc Chúa ban
lời cho tôi tớ Ngài, con không phải là kẻ có tài ăn nói, vì con cứng miệng cứng
lưỡi”. Mô-sê nhận hiểu rằng phần lớn công việc ông được kêu gọi đảm nhận sẽ là
tác vụ giảng thuyết, tác vụ lời. Ông ý thức được sự ké cỏi của mình ở phương
diện này. Phải chăng Mô-sê đang phóng đại, hay ông nói thật tình? Chúng ta thật
sự không biết. Nhưng ta biết chắc rằng Mô-sê là một con người hành động, một con
người sáng tạo, và ta dễ hiểu rằng ông không phải là một con người diễn thuyết
dông dài. Thật vậy, loại người hành động thường không thích dùng nhiều lời
lẽ.
Nhưng ngay cả khi Thiên Chúa kêu gọi một người đảm nhận sứ vụ lời,
thì không có nghĩa là người đó phải có tài hùng biện. Điều đó không có nghĩa
rằng bạn phải đánh động được công chúng nhờ khả năng ăn nói lưu loát của bạn.
Người lợi khẩu vẫn có thể là một người giảng thuyết tồi, vì sứ vụ lời đòi hỏi
người ta phải có sự chân thành, phải có khả năng nội tâm hóa lời để rồi chia sẻ
lời cho người khác. Có những lúc một bài giảng vấp váp, vụng về, mắc nhiều lỗi
ngữ pháp nhưng lại chân thực và thuyết phục người ta hơn là những lớp ngôn từ
trôi chảy, ngọt ngào và đầy hùng biện nhưng lại nghe quá chuyên nghiệp, quá giả
tạo.
Như chúng ta có thể đoán, những chống chế của Mô-sê không lay
chuyển được Thiên Chúa. Ngài đưa cho Mô-sê một câu trả lời có tính ‘bắt giò’: “Ai
cho con người có mồm có miệng? Ai làm cho nó phải câm phải điếc, cho mắt nó
sáng hay phải mù lòa? Há chẳng phải là Ta, Đức Chúa, đó sao?” Hầu như Ngài muốn
nói: “Ngươi có tài ăn nói hay không cũng chẳng sao. Ta sai ngươi đi để nói và
Ta sẽ cho ngươi biết phải nói gì. Khỏi thắc mắc nữa nhé!” Theo như cách trình
bày của bản văn thì Thiên Chúa có phần hơi ‘tức giận’. Cuối cùng, khi Chúa nói “Bây
giờ ngươi hãy đi”, thì Mô-sê lại phản đối. Thiên Chúa nói: “Đừng chống chế nữa.
Hãy cứ đi. Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi và sẽ chỉ cho ngươi biết phải nói gì”.
Việc phản đối dường như kết thúc, vì bạn có thể nói gì hơn được nữa?
Thế nhưng Mô-sê vẫn đưa ra sự chống chế thứ năm, và lúc này sự thật
mới lộ ra. Trong Xh 4,13, Mô-sê nhất mực đòi: “Lạy Chúa, xin hãy sai người khác”.
Cách diễn đạt rất ư lịch sự: “Xin Chúa hãy sai bất cứ ai mà Ngài sẽ sai”. Nghĩa
là: “Con không muốn đi. Xin hãy sai bất cứ ai Ngài muốn, còn con không muốn đi.
Con muốn ở lại đây hơn”. Trong ánh sáng ở đây, chúng ta có thể nói rằng một số
trong những chống chế trước kia của Mô-sê chỉ là sự viện cớ. Ông đang tìm lý do
thoái thác nhưng điều căn bản là tấm lòng ông không thật sự mở ra với Thiên
Chúa. Ông thực sự không muốn đi. Và điều này cũng rất giống với mỗi chúng ta.
Nếu không muốn làm điều gì đó, chúng ta thường tìm đủ thứ lý do có vẻ hợp lý và
thuyết phục để thoái thác. Nhưng vấn đề thật sự nằm ở chỗ chúng ta không muốn
làm gì cả – chúng ta ngại phiền toái, ngại nguy hiểm, ngại đủ thứ.
Đến mức này, có vẻ như Thiên Chúa đánh mất sự kiên nhẫn. Bản văn
cho chúng ta biết: “Đức Chúa nổi giận với ông Mô-sê; Ngài phán: ‘Nào chẳng có
A-a-ron, anh ngươi, là người Lê-vi đó sao? Ta biết: nó ăn nói được lắm. Nó đang
tới gặp ngươi.’’’ Nói cách khác, việc này đã được chuẩn bị. “A-a-ron đang tới
gặp ngươi. Ta sẽ đặt lời lẽ vào miệng nó và Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi và nơi
miệng nó. Ta sẽ chỉ cho các ngươi những gì các ngươi phải làm.” Bản văn chuyển
sang dạng số nhiều ở đây. Và Thiên Chúa kết thúc cuộc trao đổi bằng một lệnh
truyền: “Cây gậy này, ngươi hãy cầm nó trong tay; ngươi hãy dùng nó mà làm các
dấu lạ”. Đó là một mệnh lệnh và cũng là sự chấm dứt những chống chế của Mô-sê.
Trình thuật ơn gọi khép lại và Mô-sê bắt đầu sứ mạng của mình.
Nếu nhìn lại năm lần phản đối – gồm những cố gắng từ chối hay những
cuộc khủng hoảng ơn gọi, chúng ta nhận thấy trong cả năm lần, lời nói, tâm trí,
ý muốn của người được gọi tỏ ra ngập ngừng trong việc đi theo tiếng gọi – chúng
ta có thể nhận ra trong bản văn này một bài học phổ quát hơn cho chúng ta là
những người bằng cách này hay cách khác đã nhận được lời Chúa kêu gọi sống đời
Ki-tô hữu và sống sứ điệp Tin Mừng. Câu chuyện có thể ở trong khung cảnh gia
đình hoặc cộng đoàn, có thể liên hệ tới loại sứ vụ này hay sứ vụ khác. Ai trong
chúng ta cũng đã nhận một tiếng gọi, và không phải bao giờ mọi khó khăn cũng ập
đến ngay lúc đầu. Nhưng ở đây thì mọi khó khăn ập đến ngay từ đầu. Chúng ta
biết rõ rằng đây không phải là tình huống thông thường. Như ta có thể thấy
trong hành trình của Ap-ra-ham…
Chuyện của Mô-sê là chuyện đời của chúng ta. Quá trình đáp trả ơn
gọi của chúng ta tiếp diễn trong nhiều năm, trong suốt đời. Chúng ta không
ngừng được gọi, và được yêu cầu canh tân sự đáp trả của mình đối với ơn gọi.
Rất có thể chúng ta không ngớt đưa ra những chống chế ở chỗ này hay sự dè dặt ở
chỗ kia. Vì thế, tiếng gọi không xảy ra một lần thay cho tất cả vào lúc đầu, và
nó không loại trừ những thăng trầm có thể diễn ra trong một thời gian dài. Một
số người gặp nhiều khó khăn hơn người khác, một số người đáp trả ngay lập tức
từ ban đầu. Hãy nhớ rằng Áp-ra-ham đã đứng lên ra đi, từ bỏ gia đình – không
hỏi tới hỏi lui, không có khó khăn gì. Nhưng ông đã có những vấn đề về sau đó.
Còn ở đây Mô-sê có đủ loại khó khăn ngay lúc khởi đầu, và cũng sẽ còn những vấn
đề về sau. Có nhiều kiểu ơn gọi khác nhau. Thiên Chúa đối xử với mỗi người
chúng ta một cách cá vị.
III. BA LÃNH VỰC TƯƠNG QUAN
Ở điểm thứ ba này chúng ta sẽ tập chú vào ba lãnh vực tương quan –
giữa Thiên Chúa và Mô-sê, giữa Mô-sê và dân, giữa Thiên Chúa và dân. Chúng ta
sẽ tìm hiểu những thăng trầm của các mối tương quan này, những thăng trầm của
một hành trình lãnh đạo.
Tôi chia hành trình lãnh đạo của Mô-sê thành ba giai đoạn, dù có
hơi gượng ép. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ khi Mô-sê được gọi đến lúc vượt qua
Biển Sậy, mà ta vẫn gọi là Biển Đỏ. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ sau khi vượt
qua Biển Đỏ và tiêu diệt quân Ai-cập đến hành trình dài về Đất Hứa. Giai đoạn
thứ ba là khi tiến gần đến Đất Hứa.
1. Từ khi Mô-sê được gọi đến lúc vượt qua Biển Đỏ
Mô-sê và A-a-ron đã tập họp tất cả các kỳ mục của Ít-ra-en (Xh
4,29). A-a-ron nói với dân tất cả những lời Thiên Chúa đã phán với Mô-sê, làm
nhiều dấu lạ, và dân đã tin. “Đã tin” là một
động từ được nhấn mạnh ở đây. Nói cách khác, dân niềm nở đón nhận Mô-sê và
A-a-ron, và họ tin vào lời của các ông. Họ sấp mình thờ phượng Thiên Chúa. Cuộc
hành trình bắt đầu với âm hưởng vui vẻ. Mọi việc diễn ra tốt đẹp. Nhưng âm
hưởng vui vẻ ấy không luôn luôn được duy trì. Nó không kéo dài đối với Mô-sê,
và cũng không luôn luôn được duy trì trong hoàn cảnh của chúng ta. Những cam go
thực tế sớm hiện ra. Trong Xh 5,14-21, những người quản đốc Ít-ra-en bị những ông
cai Ai-cập đánh đập vì đã không làm đủ số gạch như yêu cầu. Họ trở về và nói
với Mô-sê: “Xin Đức Chúa chứng giám và xét xử cho: các ông đã làm cho chúng tôi
trở nên đáng ghét trước mắt Pha-ra-ô và bề tôi của vua; thật các ông đã trao
gươm vào tay họ để giết chúng tôi”. Nói khác đi, họ đang phàn nàn Mô-sê vì
những sự ngược đãi mà họ phải chịu.
Mô-sê hướng về Thiên Chúa và cầu nguyện. Một trong những điều thú
vị trong lời cầu nguyện của Mô-sê – nhiều lời cầu nguyện như thế xuất hiện ở
đây – đó là ông cầu nguyện rất thẳng thắn, tự nhiên và chân thành. Đây là đặc
điểm của nhiều lời cầu nguyện trong Thánh Kinh. Bạn hãy nghĩ đến một số Thánh
Vịnh, trong đó người cầu nguyện tỏ ra khá tự nhiên khi phàn nàn Thiên Chúa,
thậm chí tố cáo Ngài nữa. Trong thực hành cầu nguyện Ki-tô giáo của chúng ta,
tôi tự hỏi phải chăng chúng ta nên học hỏi từ sự thẳng thắn này, để có thể chân
thành bày tỏ những cảm nghĩ của mình với Chúa. Tôi nghĩ điều này có thể rất bổ
ích.
Mô-sê hướng về Thiên Chúa và thưa: “Lạy Chúa, tại sao Ngài làm khổ
dân này?” Mô-sê đang buộc tội Thiên Chúa. Rồi ông lại than thở về hoàn cảnh của
mình: “Tại sao Ngài sai con làm việc này?” Ông quay trở lại với những khó khăn
của ông: “Từ khi con đến với Pha-ra-ô để nhân danh Ngài mà nói, thì vua ấy đã
làm khổ dân này, và Ngài chẳng giải thoát dân Ngài gì cả!” Một lần nữa, ông nói
thẳng với Thiên Chúa như lần trước: “Ngài hứa giúp chúng con, Ngài hứa ở với
chúng con, nhưng rồi Ngài chẳng làm bất cứ điều gì cả”. Và Thiên Chúa đã lên
tiếng. Ngài không vạch cái sai của Mô-sê, cũng không khiển trách ông. Thiên
Chúa phán: “Giờ đây ngươi sắp thấy điều Ta làm cho Pha-ra-ô”. Và Thiên Chúa bắt
đầu một loạt những hành động đối với người Ai-cập.
Nhưng trước hết ta hãy xem bản văn Xh 6,9-12. Đây là một trình
thuật khác nữa xem ra tương tự hay là sự lặp lại của trình thuật trong Xh 3,
đoạn mà Thiên Chúa mạc khải danh của Ngài. Mô-sê kể tất cả những điều này cho
dân Ít-ra-en nhưng họ không nghe; lần này họ không tin Mô-sê (Xh 6,9). Dân
không nghe Mô-sê vì tinh thần họ đang tan nát và vì họ đang chịu cảnh nô lệ cơ
cực. Tôi tin rằng đây cũng là một trong những khó khăn lớn của vai trò lãnh đạo
trong các cộng đoàn Ki-tô hữu tại nhiều nơi. Những người bị chà đạp khó lòng
thực sự đón nhận ngay cả một sứ điệp giải phóng. Sứ điệp giải phóng dường như
không thực tế đối với họ. Họ quá nản lòng và quá bị chèn ép đến nỗi không còn
tin tưởng, dù sứ điệp được trao cho họ là: “Ta sẽ cứu các ngươi khỏi lao dịch
cho người Ai-cập, sẽ giải thoát các ngươi khỏi thân phận nô lệ”. Việc thuyết
phục người ta chấp nhận một sứ điệp giải phóng quả không dễ chút nào. Chúng ta
cũng thấy điều này nơi một số tiên tri. Dù sao, phản ứng này của dân chúng làm
cho Mô-sê lại rơi vào khủng khoảng. Ông cầu nguyện với Thiên Chúa và bảo: “Dân
Ít-ra-en đã không nghe con”. Ông nói tiếp: “Làm sao Pha-ra-ô chịu nghe con, một
người ăn nói vụng về?” Mô-sê rơi trở lại với ý nghĩ rằng mình thiếu khả năng và
không biết ăn nói.
Thế rồi, Mô-sê và A-a-ron được sai đến để gặp Pha-ra-ô. Sắc thái
của bản văn thay đổi kể từ lúc này. Từ chương 7 đến chương 15 trong Sách Xuất
hành, dường như không có bất cứ cuộc khủng hoảng nội tâm nào nơi Mô-sê liên
quan đến ơn gọi của mình. Mối tương quan giữa ông và dân dường như trở nên tốt
đẹp. Họ vâng lời ông và chấp nhận những chỉ dẫn của ông. Họ cử hành cuộc Vượt
Qua (Xh 12), hoàn toàn vâng lời Mô-sê và A-a-ron. Họ đi theo Mô-sê xuyên qua sa
mạc để đến Biển Sậy; và ở cuối trình thuật này, dân chúng nhận ra và tin vào
Gia-vê cũng như vào Mô-sê, tôi tớ Ngài (Xh 14,31). Chúng ta có bài ca của bà
Mi-ri-am và của các phụ nữ ở Xh 15. Mọi sự dường như tốt đẹp. Dân đã chấp nhận
Mô-sê, họ đã thoát khỏi quyền lực của người Ai-cập, và kể từ đây cuộc hành
trình xem ra sẽ dễ dàng.
2. Hành trình tiến về Đất Hứa
Chúng ta sang giai đoạn thứ hai: cuộc hành trình dài về Đất Hứa. Ở
đây ta chú ý một điều nghịch lý: dân đang trong hành trình đi đến tự do, nhưng
nhiều lần họ bị khủng hoảng về điều đó. Hành trình đến với tự do quả không dễ
dàng. Đôi khi ở lại trong kiếp sống nô lệ lại dễ dàng hơn. Ở lại trong tình
trạng bị áp bức xem ra dễ dàng hơn, vì hành trình tiến đến tự do là một hành
trình gắn liền với những rủi ro, nguy hiểm. Tình cảnh nô lệ và bị áp bức thì
không hề dễ chịu, nhưng ít ra người ta được “an toàn” một mức nào đó. Khi bạn
làm ra đủ số gạch yêu cầu, dẫu sao bạn sẽ sống. Ít nhất bạn sẽ nhận được khẩu
phần ăn. Vì thế, ở đây người ta đứng trước một thế lưỡng nan: tự do là một sự
mạo hiểm.
Đây là khởi điểm của tất cả những phàn nàn của dân Ít-ra-en. Đầu
tiên, họ than phiền về vật chất – nước uống rất tệ. Nước ở Ma-ra có vị đắng. Họ
kêu trách ông Mô-sê: “Chúng tôi sẽ lấy gì mà uống?” Và ông làm nước trở nên
ngọt cho họ. Trong Xh 16, họ than phiền về thức ăn. Thức ăn quá tệ. Họ bắt đầu
ao ước: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi
bên nồi thịt và ăn bánh thỏa thuê”. Mô-sê nói thẳng với họ rằng “Anh em không
phải kêu trách chúng tôi mà là kêu trách Đức Chúa”. Sau đó Thiên Chúa ban cho
họ chim cút và man-na. Nhưng họ tiếp tục phàn nàn. Và sự phàn nàn của dân bắt
đầu tác động đến Mô-sê. Gánh nặng của vai trò lãnh đạo đang bắt đầu được cảm
nhận rõ. Mô-sê cầu nguyện với Thiên Chúa, và kêu lên: “Con phải làm gì cho dân
này bây giờ? Họ hầu như sẵn sàng để ném đá con rồi đó!” (Xh 17,4). Lúc này,
Mô-sê thật sự bị dân ngán ngẩm. Thiên Chúa bảo Mô-sê đập vào tảng đá để nước
chảy ra cho dân uống. Thế là nước chảy ra!
Ở điểm này, tôi muốn đề cập đến một đoạn văn nhỏ trong Xh 18 vì tôi
nghĩ rằng nó rất quan trọng trong nhãn quan về vai trò lãnh đạo. Mô-sê quay về
và gặp nhạc phụ Gít-rô. Ông đã đoàn tụ với vợ là Xíp-pô-ra và hai người con
trai. Khi họ vẫn còn ở với gia đình Gít-rô thì Mô-sê ngồi xử kiện cho dân và
dân đứng quanh ông từ sáng đến tối. Họ đang có đủ thứ bất đồng; trong tư cách
thẩm phán, Mô-sê đưa ra những quyết định. Việc này kéo dài từ sáng đến tối. Sự
tận tâm của Mô-sê bộc lộ qua sự kiện một mình ông làm hết mọi việc. Nhưng đó
không phải là cách lãnh đạo tốt.
Và chúng ta thấy cụ Gít-rô đầy khôn ngoan nói: “Hãy nghe đây, anh
nên phân chia một ít công việc cho người khác. Hãy chọn một số cộng sự để họ
phụ trách một số việc đơn giản, còn những việc khó khăn thì chính anh hãy giữ
lấy. Như vậy, anh mới không kiệt sức”. Các vị lãnh đạo có thể tự làm mình kiệt
sức nếu nghĩ rằng mình phải can dự vào hết mọi việc lớn nhỏ. Sự phân nhiệm cho
người khác là điều khôn ngoan ở chỗ ta biết rằng người khác có thể giúp mình,
người khác có thể đảm nhiệm, và không nhất thiết mình phải có mặt mọi lúc mọi
nơi. Điều này rất quan trọng. Vì vậy, Mô-sê phân công cho những người khác, ông
tuyển chọn những người đàn ông trung thực, đáng tin cậy trong dân Ít-ra-en, và
họ ngồi làm việc với Mô-sê trong tư cách những người lãnh đạo. Mô-sê có sự
khiêm nhường để đón nhận lời khuyên và chia sẻ công việc. Một người lãnh đạo
giỏi cần khiêm tốn đón nhận lời khuyên và ủy thác trách nhiệm cho người khác.
Tiếp đó, ta có Mười Điều Răn trong Xh 20, rồi còn có những luật
khác nữa. Tiếp đến là việc lập giao ước trên núi Xi-nai (Hô-rép) mà tôi sẽ
không khai triển vì nó không liên quan nhiều đến phương diện lãnh đạo. Tôi sẽ
chuyển đến các chương 32-34 Sách Xuất hành. Trong những chương này đoàn dân
thật sự rơi vào một cuộc khủng hoảng. Mô-sê lên núi, ở đó một thời gian dài với
Chúa và nhận lãnh nhiều điều luật khác. Dân bắt đầu trở nên hoàn toàn mất định
hướng và họ làm một tượng thần cho mình: một con bò vàng. A-a-ron cũng liên
quan trong sự việc này. Đây quả là một sự bất trung lớn. Lòng trung thành của
dân đối với Thiên Chúa không được nội tâm hóa, nó phụ thuộc quá nhiều vào sự
hiện diện cụ thể của người lãnh đạo. Đó là một điểm đáng lưu ý trong thuật lãnh
đạo. Người lãnh đạo không nên là một con người mà thiết yếu phải có sự hiện
diện trực tiếp của anh ta thì cộng đoàn mới hoạt động tốt. Chức năng của người
lãnh đạo là giúp cộng đoàn nội tâm hóa con đường đúng đắn, để cho dù không luôn
luôn có sự hiện diện trực tiếp của anh ta thì cộng đoàn vẫn vững mạnh. Đây cũng
là một mẹo trong thuật lãnh đạo.
Mô-sê chuyển cầu cho dân để Chúa không trừng phạt họ vì tội lỗi
này. Đó là lời chuyển cầu của người lãnh đạo. Một trong những chức năng của vai
trò lãnh đạo là cầu nguyện cho những người mà mình sống với và chịu trách nhiệm
về họ. Sứ vụ cầu nguyện là một phần của việc lãnh đạo. Và lời cầu khẩn của
Mô-sê được Thiên Chúa nhậm lời. Mô-sê có lúc thậm chí sẵn lòng hy sinh chính
mình cho dân. Trong Xh 32,30-35, ông thưa: “Ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng
không, thì xin Ngài xóa tên con ra khỏi cuốn sách Ngài đã viết”. Điều này có
phần giống với người Tôi Tớ Đau Khổ trong Is 50: gánh tội cho kẻ khác. Mô-sê
cũng thực sự chịu đau khổ thay cho người khác.
Chúng ta tiếp tục đi vào phần trình thuật của Sách Dân số, bắt đầu
ở chương 10. Sau những chương dài về việc ban luật, phần kể chuyện được tiếp
tục với sự phàn nàn của dân. Đây là sự lặp lại của điều đã xảy ra trước đó. Dân
than phiền về man-na. Họ nhớ cá mà họ vẫn thường ăn bên Ai-cập, rồi nào dưa
gang, dưa bở, nào hẹ, nào hành, nào tỏi và đủ mọi của ngon. Bây giờ, họ chỉ có
thứ man-na nhạt nhẽo này thôi. Tất cả những điều này bắt đầu tác động đến
Mô-sê. Ông khổ tâm còn Thiên Chúa thì nổi giận. Mọi thứ dường như trở nên tệ
hại vào lúc này. Thế rồi chúng ta gặp lời cầu nguyện này của Mô-sê, một lời cầu
nguyện rất cảm động vì nó cho thấy hầu như Mô-sê đã bị dồn vào chân tường. Một
người lãnh đạo có thể phải sẵn sàng để chịu đau khổ! Mô-sê thưa với Thiên Chúa
như sau:
“Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng
Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? Có phải con đã cưu mang
tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không? Con không phải là mẹ
chúng. Tại sao con lại chịu gánh nặng này? Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này
ăn khi chúng khóc lóc đòi con: ‘Cho chúng tôi thịt để chúng tôi ăn’. Con không
làm được điều đó. Tại sao Ngài lại đặt con vào tình cảnh này? (Ds 11,11-13).
Mô-sê nói tiếp: “Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa vì
nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy thì thà giết con đi còn hơn.
Đừng để con thấy mình phải khổ nữa”. Mô-sê thật sự thất vọng. Là những người
lãnh đạo, đôi khi chúng ta phải chịu đựng loại đau khổ này. Ta cần ý thức rằng
Mô-sê đã từng ở vào hoàn cảnh như thế.
Trong Ds 11, Thiên Chúa cho chúng ta một bài học khác, không duy
chỉ là về chuyện xét xử các vụ kiện tụng của dân. Thiên Chúa phán với ông
Mô-sê: “Ta sẽ lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ngươi mà đặt trên bảy mươi kỳ
mục của dân”. Đây chính là sự chia sẻ trách nhiệm lãnh đạo cụ thể hơn. Thế là
bảy mươi kỳ mục được tuyển chọn. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ lấy một phần Thần Khí
đang ngự trên ngươi mà đặt trên chúng. Chúng sẽ cùng ngươi gánh vác dân này”.
Nghĩa là, các kỳ mục không chỉ đưa ra các quyết định liên quan pháp lý nhưng
còn mang lấy gánh nặng của dân.
Có một trình thuật rất hay về hai người không hiện diện với những
kỳ mục khác khi Thần Khí ngự xuống trên họ và trên Giô-sua, người phụ tá của
Mô-sê (các phụ tá lãnh đạo đôi khi là những con người cay nghiệt). Giô-sua rõ
ràng là một con người nệ luật ở đây. Ông nói với Mô-sê: “Có hai người không
hiện diện với những kỳ mục khác nhưng Thần Khí cũng ngự xuống trên họ. Xin ngài
hãy ngăn cản và cho họ biết rằng họ không được làm thế”. Nhưng Mô-sê trả lời: “Anh
ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ
đều là ngôn sứ!” (Ds 11,29). Quả là một câu trả lời tuyệt vời! Điểm cần lưu ý ở
đây liên quan đến thuật lãnh đạo, đó là người lãnh đạo không phải lúc nào cũng
nghe theo những người phụ tá khi họ muốn đưa ra những phản đối đầy tính nệ
luật.
Có một chuyện hơi buồn trong Ds 12. Mô-sê gặp khó khăn với chính
gia đình của mình. Chị gái Mi-ri-am, người đã cứu ông lúc còn nhỏ, và A-a-ron,
người đã giúp ông nhiều trong việc ăn nói, đã lên tiếng chống đối Mô-sê vì
người đàn bà dân ngoại xứ Cút mà ông lấy làm vợ. Họ nói: “Đức Chúa chỉ phán với
một mình Mô-sê sao? Ngài đã chẳng nói với cả chúng ta nữa ư?” Bấy giờ, Mi-ri-am
và A-a-ron bị Thiên Chúa trừng phạt. Mi-ri-am mắc bệnh phong. A-a-ron thì đã bị
khiển trách về vụ con bò vàng. Nhưng Mô-sê khóc, kêu cầu lên Thiên Chúa và
Mi-ri-am lập tức được chữa lành. Đây là một biến cố nhỏ mà nỗi buồn xen lẫn
niềm vui.
3. Đến gần Đất Hứa
Tôi chuyển sang điểm cuối cùng với chương 20 Sách Dân số: đến gần
Đất Hứa. Ở đây chúng ta có một tình tiết kỳ lạ, một tình tiết làm đau đầu các
nhà chú giải Do thái giáo và Kitô giáo từ lâu nay. Đó là sự kiện lần thứ hai
nước từ tảng đá chảy ra.
Sự kiện đầu tiên được nói đến trong Xh 17 và lúc đó không có vấn đề
gì, mọi sự diễn biến tốt đẹp. Trong sự kiện lần thứ hai (Ds 20,2-6), dân lại
than phiền về việc không có nước. Thiên Chúa trả lời Mô-sê: “Hãy cầm lấy cây
gậy và cùng với A-a-ron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng,
các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước”. Hãy cầm lấy cây gậy và nói với tảng đá. Đó là những gì Mô-sê được ra
lệnh để thực hiện. Từ tảng đá, ngươi sẽ làm
cho nước chảy ra. Mô-sê
đã làm gì? Mô-sê cầm lấy cây gậy và cùng với A-a-ron triệu tập dân. Ông hùng
hồn nói với họ rằng: “Nghe đây, hỡi quân phản nghịch! Từ tảng đá này, chúng tôi
có thể làm cho nước chảy ra cho các người được không?” – tức là ông muốn nói: “Chúng
tôi có thể làm cho nước chảy ra từ tảng đá này”. Sau đó, Mô-sê giơ tay và đập
gậy vào tảng đá hai lần. Nước trào ra và dân uống. Tất cả dường như mỹ mãn. Thế
nhưng sự tình thực ra có vấn đề.
Bấy giờ, Thiên Chúa nói với Mô-sê và A-a-ron: “Bởi vì các ngươi đã
không tin vào Ta để biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái Ít-ra-en,
nên các ngươi sẽ không được đưa đại hội này vào đất Ta ban cho chúng”. Đây là
một hình phạt nghiêm khắc. Mô-sê và A-ra-ron đã dẫn dân đi suốt cuộc hành trình
nhưng chính họ lại không được vào Đất Hứa. Nhưng họ đã làm gì sai quấy?
Nước đã trào ra từ tảng đá và dân đã lấy được nước uống, nhưng
Mô-sê và A-a-ron đã làm gì sai? Họ đã không tin tưởng vào Thiên Chúa để biểu
dương sự thánh thiện của Ngài như thế nào? Các độc giả và sinh viên đã nhức đầu
với đoạn văn này trong nhiều thế kỷ qua. Có một luận án tiến sĩ cách đây ít
năm, trong đó tác giả tìm không dưới mười ba lý do khác nhau, hay đúng hơn là
mười ba giả thuyết hay cách giải thích khác nhau cho sự kiện này. Chính tác giả
cũng đưa ra một giả thuyết của riêng mình. Nhưng không một sự giải thích nào
trong số đó hoàn toàn thỏa đáng. Tôi sẽ chỉ đề cập ở đây một cách giải thích.
Và rất có thể bạn cũng có những cách giải thích khác thuyết phục hơn.
Nếu xem lại lệnh truyền của Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng Mô-sê
được bảo hãy cầm lấy cây gậy và ra lệnh cho tảng đá. Thiên Chúa không hề bảo
ông nói nặng lời với dân và đập vào tảng đá. Nào, chúng ta có thể kết hợp hai
hành động của Mô-sê (nói nặng lời với dân và đập vào tảng đá) và suy ra rằng
ông thích tỏ ra mình là một nhà lãnh đạo đầy quyền lực. Ông mắng dân nặng lời
và thể hiện một hành động mạnh bạo – như thể chính nhờ sức mạnh của ông đánh
vào tảng đá mà nước sẽ trào ra. Có lẽ Mô-sê muốn tạo ấn tượng trên dân rằng đó
là việc làm của ông chứ không phải của Thiên Chúa. Đấy có thể là lý do khiến
Thiên Chúa nói rằng “Các ngươi đã không tin vào Ta”. Thật rõ ràng là chính
quyền năng của Thiên Chúa đã khiến nước trào ra. Đây là một khả năng giải
thích. Nhưng như tôi đã nói, có ít nhất mười ba giả thuyết. Và bạn cũng có thể
có những cách giải thích khác tốt hơn.
Bây giờ tôi sẽ chuyển đến chương cuối cùng của sách Đệ nhị luật,
một chương đượm buồn. Và đó cũng là chương kết thúc bộ Ngũ Kinh. Toàn bộ nguyên
động lực của bộ Ngũ Kinh là lời hứa về một dân và lời hứa về một vùng đất. Và
toàn bộ To-ra đều qui chiếu vào nội dung này. Điều kỳ lạ là bộ To-ra kết thúc
nhưng dân vẫn chưa vào được Đất Hứa. Truyền thống Do thái đã hữu ý kết thúc bộ
To-ra ở đây.
Một số học giả không hài lòng, và họ nói: “Chúng ta không nên nói
về bộ Ngũ Thư, nhưng là bộ Lục Thư”. Nghĩa là nên nói về sáu quyển sách, bao
gồm quyển kế tiếp là sách Giô-suê. Trong sách Giô-suê, dân Ít-ra-en vào Đất
Hứa. Từ Sách Sáng thế đến sách Giô-suê, chúng ta nên làm thành một đơn vị, hẳn
sẽ có ý nghĩa nhiều hơn. Và như thế thì mới trọn vẹn. Vâng, nhưng có lẽ đó là
sự trọn vẹn theo lô-gic của chúng ta. Tôi cho rằng có nhiều điều thú vị cho cả
độc giả Do thái và Ki-tô giáo trong sự kiện bộ Ngũ Kinh, tức To-ra, kết thúc
trước khi dân Ít-ra-en thật sự tiến vào Đất Hứa.
Theo nhãn quan của độc giả Do thái, điều đó nói lên rằng “Chúng ta
vẫn chưa hoàn toàn ở trong Đất Hứa”. Nhiều người Do thái ở ngoài Đất Hứa – họ
vẫn còn sống ở Ba-bi-lon, Ai-cập và một số nơi khác – và họ cũng được bao gồm
trong bộ Ngũ Kinh, vì vẫn có gì đó liên hệ tới họ trong sự kiện rằng dân
Ít-ra-en được Mô-sê dẫn đi vẫn còn ở bên ngoài Đất Hứa khi ông chết và bộ Ngũ
Kinh khép lại.
Cả các độc giả Ki-tô giáo cũng có liên hệ với sự kiện trên. Cuộc lữ
hành trần thế hay hành trình lãnh đạo của chúng ta xem ra đi đến kết thúc khi
nó vẫn còn dang dở, khi chúng ta chưa làm xong tất cả những gì chúng ta muốn
làm, khi những kế hoạch mà chúng ta dự tính vẫn chưa được hoàn thành. Điều đó
chẳng sao cả, nó đã xảy ra với Mô-sê. Một lần nữa, chúng ta phải nhớ rằng khi
Thiên Chúa kêu gọi một người trở thành lãnh đạo thì điều này không đảm bảo rằng
tất cả các kế hoạch lãnh đạo sẽ chắc chắn được hoàn thành mỹ mãn trong sinh
thời hay trong nhiệm kỳ của người ấy. Ta phải sẵn sàng chấp nhận khi mọi sự
chưa được làm xong. Đây chính là trường hợp của Mô-sê.
Chúng ta chứng kiến cảnh tượng rất cảm động khi Mô-sê được đưa lên
núi Nơ-vô ở Gio-đan, nơi ông có thể nhìn thấy Đất Hứa. Có một mô tả chi tiết về
địa dư ở đây; tất cả các địa danh đều được đề cập. Thiên Chúa phán với Mô-sê: “Đây
là miền đất Ta đã hứa ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp và con cháu. Ta đã
cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không được qua đó”. Mô-sê qua đời trên
núi và không ai biết mộ ông ở đâu. Ông hưởng thọ một trăm hai mươi tuổi.
Bản văn kết thúc với việc đề cập đến Mô-sê lần cuối cùng, cũng là
sự trân trọng cuối cùng dành cho ông: “Trong Ít-ra-en, không còn xuất hiện một
ngôn sứ nào như ông Mô-sê, người mà Đức Chúa biết rõ, mặt giáp mặt”. Một ngôn
sứ là một người trình bày Lời của Chúa. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng điều
cốt yếu và quan trọng nhất nơi Mô-sê đích thực là sứ vụ lời. Người lãnh đạo can
dự vào đủ loại công việc thực tế; nhưng có lẽ việc chuyển đạt lời Thiên Chúa
cho dân mình hay cho nhóm mình là điều quan trọng nhất. Khuôn mặt Mô-sê nổi bật
trong khía cạnh này, trong tư cách vị ngôn sứ quan trọng bậc nhất trong
Ít-ra-en. Không còn xuất hiện một ngôn sứ nào như ông. Những ai trong chúng ta
muốn tiếp tục đọc phần còn lại của Thánh Kinh phải ghi nhớ điều này. Mô-sê được
trình bày như một ngôn sứ vĩ đại hơn tất cả những ngôn sứ xuất hiện sau ông,
hơn cả I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en và tất cả những vị khác. Mô-sê là người
vĩ đại nhất (Ga 5,46-47).
HỎI – ĐÁP
1. Có phải mười tai ương là
sự thử thách dành cho Mô-sê? Có vẻ như Thiên Chúa thật sự muốn làm cho lòng dạ
Pha-ra-ô ra cứng cỏi. Hay phải chăng Ngài muốn thử Mô-sê và đồng thời cho thấy
quyền năng của Ngài trên người Ai-cập? Cha nghĩ sao về điều này?
CONROY: Tôi nghĩ rằng giải thích của bạn có lẽ là những gì thật sự
xảy ra trong bản văn. Đó là một loại thử thách dành cho Mô-sê; nhưng tôi đã
không nói đến những đoạn văn trình bày về mười tai ương bởi vì – ít ra theo như
cách đọc của tôi – dường như Mô-sê không hề có bất kỳ khó khăn hay sự nghi ngờ
nào. Dù giả thiết rằng ông đang được thử thách đi nữa, thì xem ra đó không phải
nhằm đặt ông vào khủng hoảng. Mô-sê không than trách Thiên Chúa: “Tại sao
Pha-ra-ô không nghe con?” Ông ung dung tiến tới. Vì thế toàn bộ sự việc dường
như là giữa Thiên Chúa và Pha-ra-ô, hay thậm chí giữa Thiên Chúa và các thần
của người Ai-cập. Vì thế trong bài nói chuyện của mình ở đây, tôi có quan điểm
rằng ở giai đoạn này của hành trình lãnh đạo, Mô-sê đang hành động đúng như một
nhà lãnh đạo. Như tôi đã đề cập, tôi thấy rằng không có biến động gì nơi Mô-sê
trong chương nói về những tai ương.
Đó là lý do (và cũng vì thời gian không cho phép) tại sao tôi không
nói nhiều về những đoạn văn này. Dĩ nhiên, bạn có thể thắc mắc: “Việc Thiên
Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá có ý nghĩa gì?” Thật không dễ để trả lời
câu hỏi này. Nó có mối liên hệ với đoạn văn nổi tiếng trong Is 6 nói đến việc
I-sai-a được truyền lệnh làm cho lòng dân ra chai đá. Lệnh truyền trong Is 6 có
ý nghĩa gì? Một số người nghĩ rằng trong Is 6 – và ở đây cũng tương tự như thế
– lệnh truyền I-sai-a làm cho lòng dân ra chai đá thực ra là một cách nói về
những gì đã thực tế xảy ra xét như kết quả của sứ vụ lời của ông. Kết quả là
lòng dân ra chai đá, vì vậy theo một nghĩa nào đó ta có thể nói rằng I-sai-a đã
làm ra điều này. Song đó không phải là ý định của ông. Vậy thì điều tương tự
cũng xảy ra trong những đoạn văn này của Sách Xuất hành, trong đó Thiên Chúa
làm cho lòng dạ Pha-ra-ô ra chai đá. Thực tế là Pha-ra-ô rất ngoan cố và không
giữ lời hứa – và vì Thiên Chúa kiểm soát mọi sự nên chắc hẳn Ngài đã làm ra
điều đó. Bạn biết đó, đây là kiểu suy nghĩ đi thẳng tới nguyên nhân chủ yếu và
bỏ qua những nguyên nhân trung gian. Đây là một cách giải thích khả dĩ.
2. Xin Cha chia sẻ với
chúng con những lý do khả dĩ khác khiến Mô-sê không được vào Đất Hứa. Con muốn
tìm hiểu những lý do này.
CONROY: Phải thừa nhận rằng tôi không nhớ tất cả mười ba lý do.
Nhưng tôi nhớ rất rõ cách giải thích mà tác giả của luận văn tiến sĩ ấy ưa
thích. Giả thuyết của ông là có sự lạm dụng chiếc gậy của Thiên Chúa. Ông dồn
chú ý vào chiếc gậy trên tay Mô-sê. Và ông cho rằng việc dùng chiếc gậy để đập
vào tảng đá là sự lạm dụng nó một phần nào đó. Nếu xem lại câu chuyện, ta thấy
rằng chiếc gậy đã đi theo Mô-sê ngay từ đầu. Bạn hãy nhớ rằng, một cách nào đó,
chiếc gậy là một người bạn đồng hành của Mô-sê. Nó được Thiên Chúa trao cho Mô-sê
ban đầu là để làm cho dân Ít-ra-en tin, vì chiếc gậy biến thành con rắn. Đó là
lần đầu tiên chiếc gậy được nhắc đến. Như vậy, chức năng của nó là đem lại niềm
tin. Dường như có sự lạm dụng mục đích chiếc gậy qua việc dùng nó đập mạnh vào
tảng đá hai lần. Đây là giả thuyết của vị học giả nói trên. Tôi không biết nó
có thuyết phục các bạn nhiều hay không, nhưng dù sao đó cũng là một cách giải
thích. Có lẽ người khác sẽ bổ sung hoặc nhớ một số trong mười hai cách giải
thích còn lại.
3. Đâu là cách tốt nhất cho
chúng ta ngày nay đọc, hiểu và chú giải Sách Xuất hành? Lần đầu tiên con biết
Sách Xuất hành là vào đầu thập niên 1960, khi đạo diễn Cecil B. De Mille cho ra
đời bộ phim Mười Điều Răn, và lúc đó con mới sáu tuổi nên con tin mọi sự theo
nghĩa đen. Khi con đến Ateneo vào năm 1979, giáo sư môn “Theology 101” của con
nói rằng một số học giả cho biết việc nước Biển Đỏ rẽ ra thật ra chỉ là một
hiện tượng thủy triều xuống thấp, và nhiều điều khác nữa cũng được người ta
giải thích lại. Vậy, trong thời điểm hiện nay, năm 2003, đâu là cách tốt nhất
để ta đọc Sách Xuất hành?
CONROY: À, bạn hãy lưu ý rằng tôi đã không đi vào những vấn đề này.
Lý do là vì tôi đang đọc bản văn ở dạng cuối cùng của nó, như những độc giả Do
thái thuở ban đầu đã đọc. Tôi nghĩ rằng những độc giả Do thái thuở ban đầu
không đặt ra những thắc mắc như vậy. Đó là loại thắc mắc xuất phát từ nền văn
hóa và não trạng của chúng ta. Có lẽ, để có câu trả lời, chúng ta phải tìm hiểu
toàn bộ lịch sử của các bản văn ấy, để tìm ra những tầng truyền thống cổ xưa
nhất chứa đựng trong các bản văn, và xét xem truyền thống nào là khả dĩ.
Có một điều mà tôi cho rằng nhiều học giả bắt đầu đồng ý với nhau
một mức nào đó, đó là nhóm người Ít-ra-en ở Ai-cập là một nhóm khá nhỏ xét về
số lượng. (Ở đây thì tôi đang nói về nhãn quan lịch sử chứ không phải về việc
đọc bản văn ở dạng cuối cùng hay về thần học của bản văn). Và nhiều người
Ít-ra-en tham gia sự kiện tiếp quản vùng đất Ca-na-an ấy đã cư trú luôn tại đó.
Những lý do để suy luận như trên một phần có tính khảo cổ học. Tôi
không biết các bạn có quen thuộc với một nhà khảo cổ gốc Ít-ra-en tên là
Finkelstein không. Ông thực hiện nhiều nghiên cứu khảo cổ về thời kỳ này, và rõ
ràng là nhiều đồ gốm của những ngôi làng Ít-ra-en thời ban đầu ở cao nguyên
miền trung khá giống với những loại chum vại mà dân bản địa sử dụng thời bấy
giờ. Vì thế, ngày nay nhiều học giả cho rằng phần lớn dân Ít-ra-en thời ban đầu
ở Pa-lét-tin đã cư ngụ ở đó rất lâu. Và các vị ấy cho rằng nhóm người đi với
Mô-sê và Giô-sua từ Ai-cập tới có lẽ là một nhóm tương đối nhỏ.
Suy luận đó tương phản với nghĩa đen của bản văn Thánh Kinh theo đó
có khoảng sáu trăm ngàn người ra khỏi Ai-cập, một con số rất lớn! Theo góc độ
lịch sử, con số người như thế không thể nào đi qua sa mạc được. Đơn giản là vì
họ sẽ không tài nào sống nổi. Tôi muốn nói rằng ngay cả nếu có những ốc đảo có
nước và nhiều thứ khác đi chăng nữa, thì lượng người như thế cũng không thể đi
qua sa mạc được. Có lẽ đó là kiểu nói cường điệu của bản văn. Tuy nhiên, trở
lại với vấn đề thần học, tôi nghĩ rằng (bất kể con số người ra khỏi Ai-cập là
bao nhiêu, và bất kể biến cố Xuất hành đã diễn ra chính xác như thế nào) thì
điều quan trọng mà bản văn thật sự muốn nói là: tất cả những người Ít-ra-en về
sau này đều nhìn nhận đó là những biến cố của mình.
Trong phụng vụ Vượt Qua ngày nay, chúng ta tuyên bố rằng tất cả
chúng ta đều tham dự vào những biến cố ấy. Và đây là điểm cốt yếu. Người Do
thái ngày nay cũng cử hành những biến cố ấy: cử hành lễ Vượt Qua. Điểm nhấn của
bộ Ngũ Thư là: bao gồm vào trong câu chuyện cả những người Ít-ra-en thuộc các
thế hệ sau, các thế kỷ sau, và tuyên bố rằng đây là lịch sử của chúng ta – dù
tổ tiên huyết thống của chúng ta có thể chẳng có mặt ở đó. Căn cước của chúng
ta là đây. Chúng ta thuộc về câu chuyện này, và câu chuyện này muốn nói với ta
như thế. Chúng ta từng là một dân tộc bị áp bức, một dân tộc được giải phóng và
được ban cho một vùng đất đầy sữa và mật, nhưng rồi chúng ta đã đánh mất tất
cả. Song Thiên Chúa có thể đưa chúng ta trở về mảnh đất ấy. Tôi cho đây mới là
điểm chủ yếu. Vì thế, dù các học giả tiếp tục tranh cãi về chuyện thủy triều
lên xuống hay chuyện gì đi nữa, thì tôi nghĩ rằng những tranh cãi ấy cũng chẳng
liên quan gì đến việc nhận hiểu của chúng ta đối với các bản văn. Đó là những
tranh cãi có tính tò mò và thú vị, nhưng thật sự chẳng giúp gì cho việc hiểu
các bản văn, đơn giản bởi vì sự nhận hiểu của chúng ta nằm trên một bình diện
khác.
4. Dù Cha đã không đề cập
điều này, nhưng con muốn quay trở lại lúc mà Thiên Chúa muốn giết Mô-sê, vì con
nghĩ chuyện này rất quan trọng trong việc lãnh đạo, đó là Thiên Chúa xếp đặt
đặt để có những con người nào đó trong cuộc đời của người lãnh đạo. Chẳng hạn,
chính nhờ hành động nhanh nhạy của người vợ mà Mô-sê đã được cứu sống. Xin Cha
giải thích hoặc làm sáng tỏ hơn về đoạn văn này.
CONROY: Đó là đoạn văn Xh 4,24-26 – các bạn có thể mở Sách Xuất
hành và tra lại sau. Phần đông người ta cho rằng đây là một loại văn rất xa
xưa. Có một số điểm nổi bật như sau: Mô-sê lúc ấy đang trở lại Ai-cập, vợ ông
là Xíp-pô-ra và các con có mặt với ông trước khi ông gặp dân chúng Ít-ra-en lần
đầu tiên trong chuyến trở lại này. Trên đường, tại nơi trú đêm, Thiên Chúa gặp
ông và tìm cách giết ông. Đây là một đoạn văn rất kỳ lạ. Dường như nó chẳng có
nghĩa gì. Thiên Chúa bảo Mô-sê trở lại Ai-cập, và Ngài đã trao cho ông một sứ
mạng. Vậy tại sao Thiên Chúa muốn giết Mô-sê? Rất ư tối nghĩa! Bấy giờ, bà
Xíp-pô-ra suy nghĩ rất nhanh, lấy một mảnh đá sắc cắt bì cho con, đụng vào chân
chồng và nói: “Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi”. Sau đó, Thiên Chúa
tha cho Mô-sê và bà nói: “Kết nghĩa vợ chồng nhờ máu cắt bì”. Một trong những
khía cạnh của các đoạn văn này có vẻ như là để giải thích tầm quan trọng của
phép cắt bì. Có lẽ đó là một trong những điểm chính ở đây. Và theo một số học
giả, “ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi nhờ máu cắt bì” muốn nói rằng tự nguyên
thủy thì thế lực thù nghịch không phải là Gia-vê nhưng là một loại ma quỷ nào
đó thuộc một giai đoạn trước đó trong truyền thống.
Trong Sách Sáng thế cũng có một tình tiết kỳ lạ, đó là có một
người, một nhân vật siêu nhiên nào đó gặp Gia-cóp, bắt đầu vật lộn và muốn giết
ông (x. St 32,23-33). Câu chuyện Gia-cóp có thể tương tự trường hợp ở đây. Đây
là một loại truyền thống địa phương qui chiếu đến một con quỷ rất nguy hiểm, hay
cái gì đó tương tự như thế, và ý nghĩ rằng phép cắt bì có thể bảo vệ con người.
Tôi nghĩ rằng đó là một trong những cách khả dĩ để hiểu những đoạn văn này. Đây
là một đoạn văn khó, và các nhà chú giải cũng sẽ nêu ra những khả năng khác
nữa. Tôi không biết có người nào trong cử tọa muốn giải thích rõ hơn không. Nói
cho cùng, tôi nghĩ rằng đây vẫn là một câu hỏi hóc búa.