TGM Nguyễn Văn Thuận, Nguyên Nhân 13 Năm Lưu Đầy Khổ Nhục
Đi tìm lại nguyên
nhân, cội nguồn 13 năm lưu đầy khổ nhục và can trường của một Tổng Giám mục
Lời nói đầu - Sau 30/04/1975, cái
cảm nghiệm day dứt nhất đến với tôi là: Thôi, thế là hết. Hết tất cả. Về mặt
tôn giáo, tôi có cảm giác là: Chúa đã khước từ! Cơ hội của Chúa không còn nữa!
Nhưng phải đến 21 năm sau, linh mục Chân Tín - người có tên trong danh sách
những linh mục đòi thay thế Khâm Sứ Henri Lemaitre và “truất phế” TGM Nguyễn
Văn Thuận mới kịp hối hận gián tiếp về những việc đã làm:
Ngày
28/01/1996, Chân Tín viết lại một cách chua cay: “Chúng tôi ngồi yên nhìn cái
ngu dốt và một cái sa lầy của một chế độ đang trên đà tan rã.” Và một Nguyễn
Văn Trung cay đắng cũng không kém: “Tham gia Cách Mạng là tham gia vào một quá
trình tự tiêu diệt sau này.”
Người
ta đã nhìn thấy khuôn mặt chế độ ngay từ đầu trong việc bắt những thành phần
“phản động” và chính sách bách hại tôn giáo xảy ra ngay những ngày đầu “Giải
phóng”. Thật vậy, từ đầu tháng 5/1975 đã nổ ra vụ trục xuất Khâm sứ, trục
xuất TGM Phó Nguyễn Văn Thuận. Nhưng trớ trêu là chính nhờ những cuộc
bách hại như thế mà miền Nam mới có những anh hùng và những thánh
nhân! Anh hùng như các sĩ quan quân đội VNCH đã tuẫn tiết, đã nhiều năm tù
cải tạo. Anh hùng như các vị hiện nay đang tranh đấu cho nhân quyền và đang
ngồi tù trong các trại giam.
Về mặt
tôn giáo thì người ta gọi những con người tù đó là những bậc thánh nhân như
trường hợp Hồng y Nguyễn Văn Thuận, Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Hồng y Trịnh
Như Khuê, thầy Marcel Văn, Lm Nguyễn Văn Vinh, Giám mục Phao lô Lê Đắc Trọng và
biết bao nhiêu người có thể chết rũ tù mà không được biết đến.
Trong
hơn 10 cuốn sách của TGM Nguyễn Văn Thuận thì tất đều được viết ra sau 13 năm
tù. Không có 13 năm tù ấy - mà ông “mất hết, cô đơn,” “tim con tan nát vì phải
xa cách giáo dân của con” đau khổ và tủi nhục, vì “họ đã liệt con vào những
người gian ác.” (trích Phúc âm Luca, 22,37) đã làm nên cái cao cả của một
Nguyễn Văn Thuận. Ông viết, “In the obscurity of faith, in service and in
humiliation, the light of hope that changed my vision.” (1)
Xin đọc
tiếp đoạn đường thương khó của người tù Nguyễn Văn Thuận: “Ở trại Phú Khánh,
tôi bị giam trong một phòng không có cửa sổ, phải đi qua 3 lớp cửa trong một
hành lang mới đến khí trời. Vào đó nóng cực kỳ, tôi ngột ngạt và cảm thấy trí
óc mất sáng suốt dần dần, cuối cùng là mê man. Có lúc người ta để đèn sáng như
ban ngày, lúc khác lại nằm trong bóng tối. Buồng vừa nóng vừa ẩm, đến nỗi tôi
xuống nằm dưới nền, còn nấm thì mọc lên trắng cả chiếc chiếu của tôi. Lúc nằm
trong tối tăm, tôi thấy có một lỗ dưới vách, ánh sáng lọt vào, tôi lết đến, kê
mũi vào đó để thở. Lúc nào trời mưa, nước ở ngoài ngập, những con trùng ở ngoài
bò vào, có cả giun và có lần có cả con rết dài. Dù thấy vậy, nhưng tôi yếu mệt
quá không làm gì được, tôi cứ để cho chúng bò quanh, ngày nào nước xuống, thì
chúng lại bò ra. Sau này hai linh mục bị giam cách tôi 2 lớp cửa, đã thuật lại
cho tôi biết: “Một hôm cô Thanh, cấp dưỡng, đã mỡ cửa cho chúng con ra đứng
nhìn Đức Cha nằm dưới đất và bảo: cho hai anh nhìn thấy ông Thuận, ông sắp
chết!” Nhưng trong cơn cơ cực này, Chúa đã cứu tôi! Tôi phải chọn Chúa chứ
không phải việc của Chúa: Chính Chúa muốn cho tôi ở đây, chứ không phải nơi
khác” (2).
Bài
viết này sẽ khơi lại đầy đủ những nguyên nhân và hậu quả 13 năm tù của Hồng y
Nguyễn Văn Thuận. Bài viết được căn cứ vào những tài liệu thuộc loại đầu nguồn
và khả tín do giáo sư Nguyễn Văn Trung còn giữ lại. Những tài liệu hiếm có này
do linh mục Thanh Lãng trao cho Nguyễn Văn Trung trước khi linh mục Thanh Lãng
qua đời. Thanh Lãng là một nhân chứng quan trọng hàng đầu trong việc trục xuất
Hồng y Nguyễn Văn Thuận ra khỏi Sài Gòn và đưa đến hệ lụy 13 năm tù lưu đầy.
Bài
viết cũng còn dựa trên chứng từ của chính quyền cộng sản như quan điểm của ông
Nguyễn Hộ, Uỷ ban Quân quản thời bấy giờ cũng như quan điểm của ông Nguyễn Văn
Hanh, Mặt trận tổ quốc và chủ tịch Trương Tấn Sang, chủ tịch UBND TPHCM. Và
cuối cùng là tài liệu sách của Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã viết và được in dịch
ra nhiều thứ tiếng. Đồng thời tài liệu đủ loại của người Thiên Chúa giáo phần
lớn ở hải ngoại.
Chúng
tôi từ đó đi lại những bước đường dẫn đưa đến 13 năm lưu đầy của người con cao
quý nhất của giáo hội công giáo VN. Bài viết sau đây sẽ chỉ tập trung vào diễn
biến, những nguyên nhân dẫn đưa đến 13 năm lưu đầy của Hồng y Nguyễn Văn Thuận
và những hệ quả của 13 năm tù đầy.
13 năm
ấy đứng về mặt con người và trần thế thì đúng là một bi kich, một bất hạnh.
Nhưng đứng về mặt tinh thần và giá trị siêu nhiên, TGM Nguyễn Văn Thuận đã biến
những đau khổ ấy thành một “của lễ dâng hiến”, đưa con người ông vượt thắng
được chính mình, biến những đau khổ thành sức mạnh về niềm tin và hy vọng. Và
từ đó, trong bóng tối của lao tù, nơi tưởng rằng chỉ có tuyệt vọng với tiếng
khóc than và lời nguyền rủa oán hận, lóe lên sự tha thứ và tình yêu tha nhân,
đồng loại.
Chúng
tôi xin tự giới hạn và tập trung vào 4 cuốn chính đã được dịch sang tiếng Anh
và những bản tiếng Việt. Đó là: Five loaves and two fish. Prayers of hope. Testimony
of hope và Road of Hope.(3). Những ai muốn tra cứu đầy đủ về những sách của
TGM. Nguyễn Văn Thuận, xin vào trong Web Dunglac.com
Nguyên
nhân, cội rễ
Sự đóng góp của một gia
đình bình thường đến vô danh và của môt em bé tên Quang đã khởi đầu làm nên những
trang ký này. Quang có bổn phận về xin bố mẹ những tấm giấy lịch xé rời và
Quang kín đáo đưa vào trong tù cho người tù Nguyễn Văn Thuận và đến lấy mỗi
ngày. Công việc xem ra là thường, nhưng thật ra đã là một hiểm nguy cho gia
đình nếu Quang bị bắt quả tang. Nhờ một đứa trẻ, hôm nay chúng ta có dịp đọc
được những suy nghiệm của Giám mục Nguyễn Văn Thuận.
Và từng ngày, “những giây
phút hiện tại” là quý báu, người tù kiệt xuất ấy chiêm nghiệm, “tĩnh tâm” viết
để lại cho đời những trang ký về chiêm nghiệm thần học công giáo, về lý tưởng
phục vụ, về con người trong những mối tương quan đẵm thắm tình người yêu thương
và tha thứ đồng thời những sứ điệp về niềm tin và niềm hy vọng ông gửi đến
trong một tình thế bị biệt giam. Đó là hoàn cảnh tuyệt vọng mở ra ngưỡng cửa
của hy vọng.
Những trang ký ấy sau này
được đánh máy lại hoàn chỉnh và phổ biến rồi được in thành sách tại hải ngoại.
Chỉ rất tiếc, tôi không có được trong tay một bản viết trên tấm giấy lịch xé
rời. Tôi cũng không thấy các sách in ở Hải ngoại làm công việc này. Phần tôi,
sẽ thử tìm xem sao.
Theo linh mục Phan Văn
Lợi, người đã gửi tài liệu cho tôi thì những tác phẩm của TGM Thuận đã được
chính Lm Phan Văn Lợi ngồi đánh máy lại và phổ biến. Lm Phan Văn Lợi, người con
tinh thần, nghĩa tử của cố TGM - cũng là một trong hơn 40 linh mục được TGM
Nguyễn Văn Thuận truyền chức chui ngay lúc còn bị quản chế với sự tiếp tay của
giám mục Phạm Đình Tụng. Việc truyền chức linh mục chui này ngay lúc còn bị
quản chế nghĩ lại thật kỳ diệu. Giáo hội hầm trú là biểu tượng tinh thần và ý
chí của Giáo Hội Thiên Chúa giáo VN.
TGM Nguyễn Văn Thuận- một
con người - một cuộc đời- một đời tu sĩ- một mảnh đời đi tù - một mảnh đời
truyền giáo - một gương mẫu điển hình tại Giáo triều Vatican - đã làm nên lịch
sử đời mình đã để lại một tấm gương sáng và làm vẻ vang cho giáo Hội Việt Nam.
Mới đây, tôi lại được
nhìn thấy chân dung của ông do một họa sĩ người Úc tên là Paul Newton vẽ theo
lời yêu cầu của Hồng y Pell tại Úc. Bức họa mô tả cảnh người tù kiệt xuất này
đang quỳ, hai tay giang ra dâng thánh lễ trong nhà giam. Ai đã nhìn bức hình đó
thì không khỏi bồi hồi xúc động. Nó như thật, nó sống động, nó mô tả từng chi
tiết nhỏ nơi giam cầm. Nó hình như không nói gì, nhưng gián tiếp tố cáo một chế
độ tàn bạo, bất nhân, tha hóa con người. Ngược lại bức hình đó cũng làm nên cái
cao quý của con người - trong tuyệt vọng vẫn còn hy vọng - trong tối tăm tù đầy
vẫn còn ánh sáng của niềm tin tôn giáo. Nó toát ra sự can trường, nhẫn nhục, sự
khó nghèo, sự khổ cực đồng thời sự cao cả tâm hồn của người tù nhân. Nói tóm
gọn, tấm hình có giá trị bằng hàng ngàn lời nói như lời chú thích của hai ông Lê
Thiên và Lê Tinh Thông khi cho đăng bức họa này trên báo Diễn Đàn Giáo Dân, số
122. Hiện nay, bức họa được treo trong nguyện đường Domus Australia của Giáo
Hội Úc mới được khánh thành tại Rome tháng 10-2011.
Cảm nhận từ bức hình đó,
tôi sẽ viết về ông trong tâm tình chia xẻ và cảm mến. Một người mà từ khi được
tấn phong hồng y tại Vatican với chức danh là chủ tịch Hội đồng tòa Thánh “Công
Lý và Hòa Bình” đã được tiên đoán là một trong 14 vị Hồng y có hy vọng thay thế
giáo hoàng Jean-Paul II.(4) Và khi ông qua đời ngày 16/09/2002 thì đúng năm năm
sau, ngày 17/09/2007, giáo hội Thiên Chúa giáo Rôma bắt đầu làm những thủ tục
phong chân phước cho ông.
Trong cả bốn cuốn sách
của ông, tôi nhận ra một điều quan trọng sau đây: ông không hề có một lời oán
hận đến những người đã đầy đọa ông. Ông đã hoán cải cả những người cộng sản vốn
là cai tù của ông. Tôi đánh giá rất cao về việc này. Vì thế xin ghi lại đây
chứng từ của một người đáng lẽ phải được coi là kẻ thù của ông - người cộng sản
- đã trở thành một người bạn. Ông đã đảo lộn tất cả vị thế của hai người và sau
6 năm bị biệt giam, ông nhận được thư của người cai tù như sau:
“Anh Thuận thân mến,
Tôi đã hứa với anh sẽ cầu nguyện Đức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi chủ
nhật, nếu Trời không mưa lúc nghe chuông la vang, tôi lấy xe đạp vào trước đền
thờ Đức Mẹ vì chiến tranh bom đạn đã đánh xập nhà thờ rồi. Tôi cầu nguyện như
thế này: Thưa Đức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. Nhưng tôi
đã hứa cầu nguyện cho anh Thuận nên tôi đến đây xin Đức Mẹ biết anh Thuận cần
gì thì cho anh ấy” (5).
Chẳng những thế, ông
không có đến một chữ nói về những người đồng đạo của ông trong đó có giám mục,
linh mục, trí thức đủ loại và cả các tu sĩ, ngay cả chủng sinh còn ngồi trên
ghế nhà trường đã nhất quyết tẩy chay sự có mặt của ông trong vai trò Tổng Giám
Mục phó Sài Gòn có quyền kế vị.
Chỉ mãi đến sau này một
trong những linh mục nằm trong danh sách những người xua đuổi ông ra khỏi thành
phố Sài Gòn là linh mục Thanh Lãng - chủ tịch Văn Bút, giáo sư đại học Văn khoa
Sài Gòn - trước khi chết đã để lại một tập Bút Ký 39 trang ghi lại đầy đủ sự
việc đã xảy ra như thế nào, trách nhiệm thuộc về ai, v.v.. và một chúc thư dài
13 trang mà nội dung nhằm sám hối và xin tha thứ.
Và phần quan trọng nhất
của chúc thư này là Thanh Lãng cúi mình sám hối, nhận phần lỗi và trách nhiệm
đồng thời xin Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận rộng lòng tha thứ. Có thể một phần
vì lá chúc thư này mà TGM Nguyễn Văn Thuận đã hoàn toàn giữ im lặng về việc
trục xuất ông dẫn đến cảnh lưu đầy 13 năm - với 9 năm biệt giam - Im lặng trong
chỗ riêng tư cũng như trong sách của mình.
Phải chăng sự giữ im lặng
đó cũng làm nên cái cao cả của con người ông, của một tâm hồn cao thượng để đến
lúc ông lìa khỏi cõi đời, Giám mục Giapaolo Crepaldi, Tổng thư ký Hội Đồng tòa
thánh Công Lý và Hòa Bình đã tuyên bố với báo chí: Một vị thánh vừa mới ra đi.
Chữ thánh tôi hiểu một nghĩa mang
tính nhân bản mà không mặc tính siêu nhiên của đạo giáo.
TT. Nguyễn Văn Thiệu vận động với Vatican nhằm đề cử giám mục
Nguyễn Văn Thuận làm Tổng Giám Mục Sài Gòn vào năm 1974.
Một số linh mục, trí
thức, tu sĩ đã chống đối việc bổ nhiệm TGM Nguyễn Văn Thuận về làm TGM phó với
quyền kế vị sau 30/4/1975. Họ đã hiểu lầm việc bổ nhiệm này và nghĩ rằng đây là
một “âm mưu chính trị” của Khâm sứ hay của Vatican nhằm đưa một Tổng giám mục
thuộc một gia đình vốn dĩ nổi tiếng chống cộng sản nhằm đương đầu với “chính
quyền cách mạng”.
Nhưng sự thật họ đã để
cái lòng nhiệt huyết ấy sai chỗ. Bởi vì ngay từ năm 1974, TT. Nguyễn Văn Thiệu
trong một tình thế hầu như tuyệt vọng về quân sự và chính trị đã có vận động
Vatican để bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận về Sài Gòn trong những toan tính
chính trị của ông (6).
Vào lúc bấy giờ, cao trào
chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh cho thấy tình thế nền đệ nhị cộng
hòa đã nguy ngập. Và theo linh mục Thanh, chống tham nhũng là để trong sạch hóa
guồng máy chính quyền cũng như nhằm thay thế TT. Nguyễn Văn Thiệu bằng một
chính phủ mạnh để đương đầu với cộng sản. (7) Tiếp theo ngay sau đó là Ngày Ký
giả đi ăn mày vào ngày 10-10-1974. Và cuối cùng là Ngày báo chí và công lý thọ
nạn, 31.10.1974, với tờ Sóng Thần của chủ bút Uyên Thao phải ra tòa. Tất cả
tình hình chính trị rối như canh hẹ cho thấy chỉ còn hơn nửa năm nữa, miền Nam
sẽ rơi vào tay cộng sản.
Ông Thiệu coi như bị thất
thế về thế đứng chính trị nên muốn tìm một sự ủng hộ nơi giới công giáo. Phần
Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình vốn “xa lánh” dinh Độc Lập nên ông Thiệu mới có
cuộc vận động đưa Giám Mục Nguyễn Văn Thuận về làm Tổng Giám Mục Sài Gòn.
Cũng theo Giám mục Phạm
Ngọc Chi thì đã có dự định đưa Giám mục Nguyễn Văn Thuận về Sài Gòn ngay từ năm
1974. Nhận xét của Giám mục Chi được củng cố thêm vì sau 1975, người ta tìm
thấy một tài liệu mang số NT 1/4-LM10/12 ở bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia với đề
mục: Giám Mục Trần Thanh Khâm tiết lộ việc tòa thánh Vatican không chấp nhận cuộc
vận động của TT. VNCH đề cử Giám Mục Nguyễn Văn Thuận làm Tổng Giám Mục Sài Gòn
ngày 10.1.1974. (8) Hồ sơ cũng cho biết thêm là ông Nguyễn Văn Hiếu, anh của TT
Thiệu, đại sứ VNCH tại Ý đã không thành công trong cuộc vận động này vì bị
Vatican từ chối.
Theo người viết bài này,
có ba lý do cắt nghĩa tại sao Vatican từ chối không cứu xét lời đề cử kể trên.
- Thứ nhất Cuộc vận động
đề cử mang tính chính trị đi ra ngoài khuôn khổ, thủ tục rất nghiêm nhặt trong
việc tấn phong một giám mục mới của Giáo Hội Thiên Chúa giáo. Việc đề cử và
chọn lựa do một giám mục do chính thẩm quyền giáo hội như Khâm sứ hay Hội đồng
giám mục đề cử và đệ trình lên Tòa Thánh với điều kiện tuyệt mật.
- Thứ hai là đường lối
của Vatican thông qua Giáo Hoàng Phao lồ Đệ lục là kêu gọi hòa bình, chấm dứt
chiến tranh, gián tiếp chống lại quan điểm của người Mỹ và chính quyền VNCH.
Năm 1968, Giáo Hoàng Phao lồ Đệ lục đã lập ra ngày Quốc tế Hòa Bình. Ngài còn
kêu gọi Hòa Bình bằng thương thuyết tại Việt Nam và trung Đông.
Cụ thể hơn, ngay từ
2/5/1967 khi chiến tranh leo thang đến đỉnh điểm của nó, GH Phaolô VI đã đưa ra
đề nghị và giải pháp: “Phải chấm dứt các
cuộc oanh tạc trên lãnh thổ Bắc Việt và đồng thời cũng phải chấm dứt những cuộc
xâm nhập vũ khí và vật liệu chiến tranh vào miền Nam.” (9)
Trong Hội nghị thường
niên của các giám mục Việt Nam, nhân dịp này, Giáo Hoàng Phao Lồ đệ lục đã gửi
một tâm thư đề ngày 13-2-1965 mà Ngài bầy tỏ như sau đã được đăng trên tờ Xây
Dựng: “Tuy xa cách ngàn dậm mà lòng vẫn
gần gũi và theo sát những biến cố dồn dập ngày nay đang rung chuyển và gây nên
cảnh thịt rơi máu đổ trên mảnh đất Việt Nam.”
Và Ngài hứa tìm cách đưa
lại Hòa bình cho Việt Nam. Ngài viết tiếp, “Ta
đã cố gắng dùng đường lối kín đáo để tiếp xúc với nhiều nhân vật đại diện trong
các chính phủ, mục đích là thành khẩn xin các vị đó tìm lấy một giải pháp danh
dự, nhưng hòa bình cho các vấn đề khó khăn quốc tế đang làm ta lo nghĩ”. (10)
Tóm lại, lập trường của
Vatican rất rõ ràng: Cổ võ Hòa bình, chấm dứt chiến tranh, quan hệ tốt với
chính quyền miền Bắc và Chính phủ lâm thời miền Nam. Sau 30 tháng tư, yêu cầu
các Giám Mục ở lại, hợp tác với chính quyền mới theo chính sách Hòa giải Dân
tộc. Trong tinh thần đó, rất nhiều bài báo, truyện ngắn trong các tờ tập san
Đất Nước, Hành Trình, Trình Bầy cổ võ cho Hòa Bình, chống chiến tranh và Hòa
Hợp Hòa Giải. Lý Chánh Trung, một trong những thành phần trí thức cực đoan viết
rằng: Tôi cổ võ cho Hòa Bình vì tôi là
người Việt Nam và hơn thế nữa, tôi là một người công giáo. (11)
- Lý do thứ ba là sau khi
Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27/2/1973, miền Bắc đã nghĩ ngay đến việc
thiết lập một tòa đại sứ của họ tại Ý Đại Lợi tại số 156, đường Bravetta. Tòa
đại sứ này chắc hẳn không nhằm lợi thế chính trị đem lại từ nước Ý cho bằng
nhận được sự ủng hộ của Vatican.
Và trên thực tế, Giáo
Hoàng Phao Lô Đệ lục đã tiếp kiến phái đoàn của MTGPMN Việt Nam. Sự thất bại
của đại sứ Nguyễn Văn Hiếu trong cuộc vận động này là điều không tránh khỏi.
Theo linh mục Cao Văn Luận cho biết Hồng y Casaloli, phụ trách ngoại giao của Tòa
thánh nhờ linh mục Luận về nước nhắn nhủ lại: yêu cầu các giám mục Việt Nam
không di tản, chuẩn bị sống chung và tìm cách hợp tác với chính quyền mới một
khi tình thế đã thay đổi.
Và việc bổ nhiệm Giám mục
Nguyễn Văn Thuận sau này thật ra nằm trong tinh thần sống chung và hợp tác với
chính quyền mới. Bằng chứng là ở Nha Trang, Giám mục Thuận đã khôn ngoan giao
hảo với chính quyền mới và đã được họ cho phép mở lại chủng viện để sinh hoạt
bình thường.
Việc mất Phước Long, một
lần nữa liên quan đến việc chọn Giám Mục Nguyễn Văn Thuận về làm phó TGM với
quyền kế vị. Phước Long là một địa điểm chiến lược như cửa ngõ vào Sài Gòn.
Cộng sản đã chiếm được Phước Long vào đầu tháng 1/1975. Việc mất Phước Long mở
đường cho cộng sản xâm chiếm Sài Gòn. Trước tình hình quân sự như vậy, vị Khâm
sứ Tòa thánh đã trao đổi với TGM Nguyễn Văn Bình phải tìm một giám mục phụ tá
với một vài tiêu chuẩn sau đây:
- Vị đó không quá già. 5
giám mục sau đây đều đã luống tuổi như các giám mục Ngữ, Quang, Chi, Thiện (Mỹ
Tho) và Thiện (Phú Cường).
- Các vị khác còn lại thì
quá trẻ.
- Chỉ còn lại giám mục
Nguyễn Văn Thuận không già mà cũng không trẻ.
Theo linh mục thư ký tòa
Khâm sứ, Lm Trần Ngọc Thụ cho biết rằng việc chọn lựa giám mục Thuận, Khâm sứ
chỉ bàn với Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình và một vài vị khác và hoàn toàn được
giữ kín như thông lệ. Ngay cả người được bổ nhiệm là giám mục Thuận cũng không
được biết.
Khâm sứ cũng yêu cầu giám
mục Huỳnh Văn Nghi, vì hoàn cảnh cấp bách ra nhận Phan Thiết. Điều này cũng làm
Giám Mục Nghi buồn lòng vì coi như bị thất sủng. (Thật ra theo quy luật, một
giám mục phụ tá không thể làm Phó Tổng Giám mục được). Mặc dầu vậy, Giám mục
Nghi cũng đành lòng chấp thuận và đã tuyên thệ ngày 23-3 tại tòa khâm sứ.
Chỉ rất tiếc là thời gian
đề cử Giám mục Nguyễn Văn Thuận và lúc được Vatican chấp thuận kéo dài đến 4
tháng. Giả như Giám Mục Nguyễn Văn Thuận được về làm Tổng giám mục Sài Gòn
trước ngày 30/4/1975 vài tháng thì câu chuyện bổ nhiệm trở thành bình thường và
sẽ không thể có lý chính đáng gì để gây nên những chống đối như đã xảy ra.
Từ chuyện bổ nhiệm này
đưa ra hai giả thuyết:
- Giả dụ Khâm sứ và TGM
Nguyễn Văn Bình chọn được một người khác- không phải Giám Mục Thuận - thì có
thể có sự chống đối không?
- Giả dụ TGM Thuận về
được Sài Gòn trước 30/4 và dĩ nhiên sẽ đứng ký tên chung vào những Thư luân lưu
của TGM Bình trong đó có nội dung kêu gọi giáo dân sẵn sàng hợp tác với chính
quyền mới thì có sự phản đối hay không? (Như Thông cáo của Tòa TGM ngày 08.04.1975
hay Tâm Thư của Đức Tổng Giám Mục Sài Gòn đề ngày 05.05.197).
Thời gian nhận được điện tín từ Rome liên quan đến việc bổ nhiệm
Từ lúc mất Phước Long
(tháng 1-1975) đến lúc mất miền Nam, thời gian khoảng 4 tháng. Nhưng cho mãi
đến ngày 25/4, điện tín từ Rome mới gửi đến Sài Gòn xác nhận việc bổ nhiệm
này. Những chi tiết về ngày tháng này rất quan trọng vì nó là cớ sự gây
ra hiểu lầm và nghi kỵ sau này.
Lúc ấy Nha Trang đã rơi
vào tay chính quyền cộng sản miền Bắc. Mọi liên lạc với Giám Mục Nguyễn Văn
Thuận đều bị cắt đứt. Vì thế, mãi đến ngày 7 tháng 5, tòa Giám Mục Sài Gòn mới
bắt được liên lạc với giám mục Nguyễn Văn Thuận và yêu cầu ông vào ngay Sài
Gòn.
Vào được Sài Gòn, Giám
Mục Nguyễn Văn Thuận được hỏi ý kiến về việc bổ nhiệm này và nếu ưng thuận thì
bàn giao chức vụ Giám Mục Nha Trang cho giám mục Nguyễn Văn Hòa. Ngày 12 tháng
5, tòa TGM chính thức loan báo tin bổ nhiệm TGM Nguyễn Văn Thuận làm TGM phó
với quyền kế vị.
Việc bổ nhiệm này bị hiểu
lầm là sau 30/4/1975 nên tạo ra hai dư luận khác nhau:
- Có những giám mục đồng
ý với quyết định của Khâm sứ và Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình như các giám mục
Thiên, Hòa, v.v... Và đa số linh mục, tu sĩ giáo dân như chứng minh sau này. Có
những người chống đối như Giám mục Sơn Lâm Đà Lạt và Nghi, Phan Thiết.
- Đặc biệt có nhóm trí
thức công giáo được coi là cấp tiến bao gồm ngay cả Giám đốc đại chủng viện,
Chưởng ấn tòa Tổng Giám mục và những người như Nguyễn Đình Đầu, Lý Chánh Trung,
Thanh Lãng, linh mục Nguyễn Huy Lịch, Nguyễn Ngọc Lan, linh mục Chân Tín, nhóm
Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Vương Đình Bích, v.v... (12)
Vai trò
của nhóm cấp tiến
Họ thật sự không có bao
nhiêu gồm trên dưới 20 người, không đại diện cho ai và cũng không trực tiếp cai
quản các giáo xứ. Nhưng vì họ là thành phần trí thức liên lạc trực tiếp và ảnh
hưởng tới những quyết định của Tổng Giám mục về cả hai phạm vi Đạo và Đời. Năm
1962, họ chủ trương tờ tuần báo Sống Đạo đưa ra những cái nhìn mới về lối SỐNG
ĐẠO. Tờ báo cũng gây được nhiều tiếng vang mặc dầu những quan điểm trình bày tỏ
ra “cấp tiến” nên bị một số linh mục phản đối.
Sau 1975 thì tiếng nói
của họ đâm ra có trọng lượng. Trước đây, họ nói tới “Đối Thoại”, “Thông cảm” và
nay họ nói bằng ngôn ngữ tố cáo, dựa vào vị thế chính trị của kẻ chiến thắng.
Tiếng nói của họ trở thành tiếng nói áp đảo, ngầm chứa đe dọa đối với những ai
không theo họ. Những người không theo họ rơi vào cái thế của đa số thầm lặng
như quy luật của các “trò chơi chính trị”.
Tiếng nói ấy qua Thanh
Lãng cho rằng không thể chấp nhận TGM phó Nguyễn Văn Thuận đứng đầu giáo phận
là vì ông là giám mục “nổi tiếng chống cộng”. Đó là một sự phản đối hoàn toàn
mang tính chính trị. Thanh Lãng đã kể lại sự việc từ lúc bắt đầu như thế nào
trong tài liệu đánh máy 39 trang, ông viết: “Đã có một buổi họp tại Câu Lạc bộ
Phục Hưng vào ngày 8-5-75 gồm chừng 20 linh mục và họ đã soạn thảo thư gửi Khâm
sứ, Tổng Giám mục Bình và Đức cha Thuận. Danh sách gồm những linh mục sau đây:
Nguyễn Huy Lịch, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Trần Viết Thọ, Nguyễn Văn Trinh,
Huỳnh Văn Huệ, Trần Xuân Lai, Nguyễn Quang Lãm, Đinh Bình Định, Trần Thái Hiệp,
Nguyễn Thiện Toàn, Hoàng Kim, Nguyễn Văn Hòa, Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh,
Hoàng Văn Thiên, Thanh Lãng, Vương Đình Bích.
Ngày 12-5-75, lại có một
buổi họp nữa và đã đề cử những người sau đây đi gặp TGM Bình và Giám mục Thuận
gồm 8 người trong nhóm, trong đó có Thanh Lãng, Hoàng Kim, Vương Đình Bích,
Phan KhắcTừ v.v...”
Những thành phần trí thức
được coi là hăng hái nhất trong đám này là Trương Bá Cần và Nguyễn Ngọc Lan. Họ
đã biến một vấn đề thủ tục bổ nhiệm nội bộ thành một âm mưu chính trị rộng lớn
lôi kéo cả giáo hội Thiên Chúa giáo Sài Gòn dính dáng vào - một thứ chính trị
liên quan động chạm đến Đường lối chính sách của Đảng. Họ chủ động trong luận
điểm tố cáo và kết tội Giám Mục Thuận mà lúc ấy chính quyền mới chưa rõ nội vụ.
Họ “bé xé ra to”, thổi
bùng lên và đưa ra những bảng kết tội hoàn toàn không có căn bản pháp lý kéo
theo một số người trí thức khác đi theo họ. Đó là những người như Thanh Lãng,
Nguyễn Huy Lịch, Chân Tín. (13)
Nói chung, những người
ủng hộ việc trục xuất Khâm sứ và TGM Thuận ra khỏi Sài gòn đã phổ biến hai tài
liệu sau đây. Hai tài liệu này đều do Nguyễn Ngọc Lan và nhóm Trương Bá Cần chủ
trương:
Tài liệu 1: Trong Tin Mừng hôm nay ngay từ các số 30 và 31 ngày
(1-4-1975) họ đã viết bài với nhan đề: Khâm sứ Tòa Thánh, Ngài là ai? Đại diện
cho ai?
Tài liệu 2: Cũng trong Tin Mừng hôm nay, số đặc biệt ngày
15-8-1975, họ đã công khai đề cập đến vụ Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, tài liệu
quay ronéo, dài 60 trang.
Tài liệu 3: Tâm thư gửi anh chị em công giáo miền Nam do các
nhóm: Phong trào thanh niên công giáo đại học, Phong trào công giáo xây dựng
hòa bình, Phong trào thanh Lao Công, Đoàn sinh viên dự tập DCCT, Liên Đoàn sinh
viên CGTH, CG và DT, Tổng đoàn Thanh niên công giáo, Nhóm Liên tu sĩ trẻ.
Tài liệu 4: Thử ghi lại một biến cố, dài 39 trang của Thanh Lãng
như đã nói ở trên trong đó ông ghi lại diễn biến toàn bộ vấn đề từ âm mưu đòi
thay thế Khâm sứ từ tháng 3/75 đến nội dung buổi họp ở Uỷ ban Quân quản (UBQQ).
Vài kẻ khuấy động vốn là
thiểu số đó đạt được mục đích của họ: họ đã trục xuất được khâm sứ Henri
Lemaitre về nước và trục xuất được Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận ra khỏi Sài
Gòn và tiếp theo đó là kiếp sống lưu đầy trong tù ngục cộng sản 13 năm của ông.
Sau này phần lớn số người
trong các nhóm kể trên đều rã đám chỉ sau vài tháng sau 1975. Họ chỉ là những
con cờ chính trị cho đám đàn anh mà tiêu biểu là Trương Bá Cần giật dây. Và như
thường lệ như thói quen viết châm biếm, mỉa mai, dùng kinh thánh để chế nhạo,
Nguyễn Ngọc Lan trong Thư ngỏ của Tạp chí Đứng Dậy, số 72, trang 70, ông viết
như sau: “Vì Giám mục Nguyễn Văn Thuận
rời Sài Gòn đi Nha Trang chỉ là chuyện của Xê Da trả lại cho Xê Da. Thật là
chính đáng công bình. Đức Cha Bình có thể nghĩ đến vị phụ tá của mình mỗi buổi
sáng khi đọc lời cảm tạ Chúa như thế trong kinh Tiền tụng lễ hằng ngày”.
Quan điểm của chính quyền cộng sản về việc bắt giam tù TGM Phó
Nguyễn Văn Thuận
Người cộng sản có một sự
sắp xếp rất máy móc, đơn giản về con người và sự việc. Hoặc họ coi là bạn, hoăc
là kẻ thù của họ. Miền Nam sau 1975 có chiến dịch đi “tìm thù” và biến miền Nam
thành mảnh đất hung bạo với những ngữ từ quen thuộc như: Quét sạch, đánh phá,
truy lùng, tố cáo.
Từ những quan điểm định
sẵn của thứ quyền lực nằm trong tay kẻ chiến thắng, người viết xin được trích
đăng lại ba quan điểm của giới chức chính quyền cộng sản giải thích lý do tại
sao họ đã trục xuất TGM Nguyễn Văn Thuận ra khỏi Tổng giáo phận Sài Gòn và sau
đó bắt giam tù 13 năm. Đó là những lý do không cần lý do. Lý của kẻ mạnh. Lý
của kẻ chiến thắng.
Lời
giải thích của ông Nguyễn Hộ
Ông Nguyễn Hộ (14) trong
buổi nói chuyện tại Đại Chủng viện Saì Gòn ngày 18-6-1975 đã giải thích quan
điểm của chính quyền như sau: Chính quyền không chính thức đặt vấn đề quá khứ
chính trị của Đức cha Thuận, vì chưa đến lúc và lúc này chỉ đặt vấn đề thủ tục.
Đức cha Thuận về nhậm chức Phó Tổng giám mục chưa được chính quyền thông qua và
cụ thể hơn nữa, thủ tục cư trú đặc biệt trong thời gian quân quản.
Tuy nói như thế, nhưng
cuối cùng ông Nguyễn Hộ cho rằng: tuy không chính thức công khai đặt vấn đề
chính trị, nhưng bên trong thì cần đặt vì đó là điều chính đáng. Vấn đề cách
đặt thế nào mà thôi.
Quan
điểm của ông Trương Tấn Sang
Năm 1993, nhân việc rắc
rối về việc bổ nhiệm Giám mục Huỳnh Văn Nghi từ Phan Thiết về Sài òn, một lần
nữa, ông Trương Tấn Sang đã gửi thư cho TGM Nguyễn Văn Bình có nhắc lại việc bổ
nhiệm TGM Nguyễn Văn Thuận như sau: “Ngày
22-9-1993, đồng chí Trương Tấn Sang, Chủ tịch UBNDTP, đã gởi thư cho cụ Nguyễn
Văn Bình, Tổng Giám mục giáo phận TP. Hồ Chí Minh toàn văn như sau: Vừa qua,
Tòa thánh Vatican đơn phương bổ nhiệm Giám mục Huỳnh Văn Nghi làm giám quản
Tông Tòa Giáo phận thành phố Hồ Chí Minh, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và
Ban Tôn giáo thành phố đã đến gặp cụ để thông báo lập trường và thái độ của
chính quyền thành phố là không công nhận sự bổ nhiệm này vì trái với quy định
của luật pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sự thật là từ nhiều năm nay, chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã đồng ý có một tổng giám mục phó với quyền kế vị được bổ nhiệm
để giúp cụ, kế thừa tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc của cụ nhằm tiếp tục
đưa đồng bào Công giáo thành phố ngày càng gắn bó với dân tộc trên con đường
tốt đạo đẹp đời.
Chính phủ đã thỏa thuận với Tòa thánh Vatican về việc bổ nhiệm
Giám mục Huỳnh Văn Nghi ở Phan Thiết về làm Tổng giám mục phó với quyền kế vị
cụ. Nhưng Tòa thánh Vatican không làm như đã thỏa thuận mà lại đơn phương bổ
nhiệm Giám mục Huỳnh Văn Nghi là Giám quản Tông Tòa Giáo phận thành phố Hồ Chí
Minh mà không bàn bạc với chính phủ Việt Nam, với ý đồ giữ chỗ để đưa ông
Nguyễn Văn Thuận về hoạt động tôn giáo tại thành phố Hồ Chí Minh.
Như cụ đã biết, năm 1975 Chính phủ ta đã không chấp nhận ông
Nguyễn Văn Thuận về Giáo phận thành phố và dứt khóat sẽ không bao giờ chấp
nhận, vì ông Nguyễn Văn Thuận đã từng gắn bó với một gia đình có nhiều nợ máu
với nhân dân và bản thân ông Nguyễn Văn Thuận cũng có một quá trình lâu dài và
tinh vi chống phá sự nghiệp giành độc lập và bảo vệ độc lập dân tộc.
Mong cụ góp phần làm cho Tòa thánh Vatican hiểu được tình hình
này, ngõ hầu làm cho đồng bào theo đạo Thiên Chúa ở thành phố được an tâm cùng
với toàn dân xây dựng cuộc sống.
Kính chúc cụ dồi dào sức khỏe.” (15)
Ý kiến của ông Nguyễn Văn
Hanh, Chủ tịch UBMTTQTPHCM trả lời phỏng vấn liên quan đến việc trục xuất TGM.
Nguyễn Văn Thuận
ĐỂ BẠN ĐỌC HIỂU RÕ THÊM
VỀ TRƯỜNG HỢP ÔNG NGUYỄN VĂN THUẬN TRONG BẢN THÔNG BÁO NGÀY 15-9-1993 CỦA ỦY
BAN NHÂN DÂN THàNH PHỐ, CHÚNG TÔI ĐÃ XIN PHÉP ĐỒNG CHÍ NGUYỄN VĂN HANH CHỦ TỊCH
ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC Thành pHỐ HỒ CHÍ MINH, CHO PHÓNG VIÊN BÁO SAIGON GIẢI
PHÓNG ĐƯỢC TRỰC TIẾP PHỎNG VẤN. DƯỚI ĐÂY LÀ NỘI DUNG PHỎNG VẤN ĐÓ.
PV: Thưa đồng chí Chủ
tịch thông báo của Ủy ban Nhân dân thành phố ngày 15-9-1993 và trong buổi làm
việc với các đại diện của giới Thiên chúa giáo thành phố sáng ngày 17-9-1993,
đồng chí cũng đã khẳng định là Chính phủ ta đã và sẽ không bao giờ chấp nhận
cho ông Nguyễn Văn Thuận được hoạt động tôn giáo tại thành phố Hồ Chí Minh. Yêu
cầu đồng chí làm sáng tỏ thêm về vấn đề này.
NVH: Thực ra, vấn đề cũng đã khá rõ. Muốn hiểu tình tiết phải hiểu từ đầu
PV: Vậy theo đồng chí
phải bắt đầu hiểu từ đâu?
NVH: Vâng, mọi sự bắt đầu từ ngày 12-5-1975, khi Tòa Tổng Giám mục giáo phận
thành phố Hồ Chí Minh loan báo là ông Nguyễn Văn Thuận về nhận chức Tổng Giám
mục phó với quyền kế vị cụ Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình. Việc bổ nhiệm ông
Nguyễn Văn Thuận đã gây nên nhiều cuộc tranh cải trong nhân dân trong số những
người theo Thiên chúa giáo có người không đồng tình, phần đông những người theo
tín ngưỡng khác hay không tín ngưỡng mà có cha, chồng, con hoặc anh chị em là
nạn nhân của chế độ gia đình trị Ngô đình Diệm đều cực lực phản đối.
Do đó đã xẩy ra xôn xao và xáo trộn, thậm chí có chết người
trong cuộc xô xát đêm 3-6-1975 gần cầu Trương Minh Giảng, Ủy ban Quân quản
thành phố Hồ Chí Minh đã nhiều lần thông báo cho cụ Tổng Giám mục Nguyễn Văn
Bình là chính quyền cách mạng không chấp nhận việc bổ nhiệm ông Thuận làm Tổng
Giám mục phó với quyền kế vị tại giáo phận thành phố Hồ Chí Minh. Ủy ban Quân
quản thành phố cũng đã nhiều lần khuyến cáo ông Thuận là phải ngưng mọi hoạt
động tôn giáo tại thành phố Hồ Chí Minh và ra lệnh cho ông phải rời thành phố
Hồ Chí Minh trước ngày 12-8-1975, nhưng ông Thuận đã không chấp hành, đồng thời
vẫn tiếp tục tập hợp và biểu dương lực lượng làm mất an ninh trật tự. Vì thế,
cuối cùng ngày 15-8-1975, Ủy ban Quân quản thành phố đã cho thi hành lệnh trục
xuất và đưa ông Thuận về sống ở họ đạo Cây Vồng, trong phạm vi hai xã Diên Sơn
và Diên Thủy thuộc huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
PV: Như thế, nguyên do là
vì thiếu sự tham khảo ý kiến của chính quyền?
NVH: Về việc này có người nói là ông Thuận được bổ nhiệm ngày
25-4-1975, lúc vào thời điểm chế độ Sàigon đang hỗn loạn và sụp đổ. Nhưng thực
tế, thì việc bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Thuận được loan báo ngày 12-5-1975, tức là
12 ngày sau toàn miền Nam được giải phóng, ở thành phố Hồ Chí Minh đã có Ủy ban
Quân quản. Lúc này Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaltre đang có mặt tại thành phố
Hồ Chí Minh. Như thế, rõ ràng là cố tình áp đặt, vi phạm chủ quyền Việt Nam.
PV: Phải chăng, vì biết
nếu có tham khảo cũng không được chấp thuận, nên người ta áp đặt?
NVH: Làm sao có thể chấp nhận một người như ông Thuận khi biết
rằng ông Thuận là một thành viên hầu như duy nhất còn lại của chế độ gia đình
trị Ngô Đình Diệm từng gây nhiều tội ác đối với nhân dân ta. Ông Thuận lại được
bố trí tại thành phố Hồ Chí Minh trong ý đồ chiến lược chống cách mạng. Bản
thân ông Thuận cũng đã có một quá trình hoạt động phá hoại sự nghiệp giải phóng
dân tộc lâu dài và tinh vi.
Nói về hoạt động chống phá cách mạng trước 30-4-1975 thì dài
dòng lắm. Tôi chỉ xin giới thiệu với các đồng chí bài “Tạm tổng kết vụ giám mục
Nguyễn Văn Thuận” đăng trên tạp chí ĐỨNG DẬY số 72 đề ngày 15-9-1075. Trong bài
viết này có đăng tải những phát biểu của linh mục Thanh Lãng, thay mặt một phái
đoàn gồm 10 linh mục chiều ngày 12-9-1975, nhằm thuyết phục ông Thuận, vì lý do
chính trị nên tự ý rút lui, bởi vì theo lời linh mục Thanh Lãng, “một vị Tổng
Giám mục Chủ tịch hàng giáo phẩm ở Sàigon mà có những thành tích như vậy, quả
thật không lợi cho thanh danh Hội thánh, không hay ho gì cho dân Chúa, không
lợi gì cho việc hòa giải, cho sự hợp tác ”.
Qua những lời nói chân tình và thẳng thắn của một linh mục và là
nhà văn và là nhà nghiên cứu có tiếng là trí thức ôn hòa, như linh mục Thanh
Lãng, các đồng chí sẽ thấy ông Thuận đã được những người Công giáo chân chính
đánh giá như thế nào.
PV: Nhưng sau hơn 18 năm,
ông Thuận có thể có những nhận thức và thái độ khác không?
NVH: Một người có gốc gác và quá khứ như ông Thuận, trải qua thực tiễn đến
nay cũng thấy chưa có gì thay đổi. Thực vậy, sau khi được đưa về nhà thờ Cây
Vồng, ông Thuận vẫn móc nối, tập hợp…. để chống phá nên chính quyền đã phải đưa
ông đi xa hơn, về họ đạo Giang Xá thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Nơi này ông cũng tiếp
tục móc nối, tập hợp, đào tạo nhân sự, phong chức cho một số chủng sinh là đồ
đệ cốt cán để hoạt động chống phá….
Tất nhiên chúng ta muốn những người có quá khứ xấu, nhưng biết
tỉnh ngộ để trở thành người hữu ích cho xã hội và cho giáo hội. Nhưng qua thực
tiễn chứng minh ông Thuận không phải là người như vậy nên không thể đảm đương
bất cứ chức vụ nào trong hoạt động tôn giáo ở địa phận thành phố Hồ Chí Minh.
PV: Như thế tại sao lại
để cho ông Thuận được tự do?
NVH: Nhân dịp tết năm 1988, chiếu cố đến tình trạng sức khỏe của ông. Chính
phủ đã cho ông về ở tại Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, sau đó cho ông đi Úc thăm gia
đình, thăm Rôma… Đã đến lúc, Nhà nước ta thấy là không cần phải quản chế ông
nữa.
Nhưng điều đó không có nghĩa là ông được tự do làm mục vụ tại
Việt Nam. Bởi vì ở thành phố Hồ Chí Minh hay bất cứ nơi nào trên đất nước Việt
Nam này, không phải chỉ có đồng bào theo đạo Thiên chúa không chấp nhận mà đồng
bào theo đạo Phật đã bị chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp đẩm máu và đông đảo những
đồng bào có tín ngưỡng khác hay không có tín ngưỡng nhưng đã là nạn nhân của
một chế độ cho lê máy chém. đi khắp cả miền Nam để chém giết những người yêu
nước, đòi hòa bình, đều không chấp nhận.
PV: Xin cám ơn đồng chí
Chủ tịch. (16)
Mười ba
năm tù vẫn chưa đủ
Chẳng những đã dùng bạo
lực như giam cầm TGM. Nguyễn Văn Thuận sau 13 năm cầm tù. Ngay cả khi được thả
ra, nhà cầm quyền cộng sản vẫn cương quyết không chấp nhận việc bổ nhiệm TGM
Nguyễn Văn Thuận vào bất cứ chức vụ gì và đã can thiệp trắng trợn với Hội Đồng
Giám Mục để ngăn cản việc bổ nhiệm.
“Năm 1989, các Giám mục
Việt-Nam hy vọng trao cho Cha trách vụ Chủ tịch hay Tổng thư ký Hội đồng Giám
mục trong kỳ Đại hội thường niên dự trù diễn ra vào cuối năm. Tuy nhiên, cùng
thời gian đó, Cha bệnh nặng phải đưa vào điều trị tại Sài Gòn vì Hà Nội không
đủ phương tiện. Bộ Nội vụ gởi ông Nguyễn Tư Hà vào gặp Cha tại bệnh viện và yêu
cầu Cha từ chối bất cứ chức vụ nào, kể cả Chủ tịch các Ủy ban hay Tiểu ban. Cha
trả lời Cha không kiểm soát sự chỉ định của Hội đồng và nếu được cử, Cha không
thể từ chối. Ông Hà đã đến phiên họp của các Giám mục và thông báo rằng chánh
phủ không muốn thấy Cha được bầu vào một chức vụ nào trong Hội đồng. Trong khi
Hội đồng Giám mục nhóm Đại hội, Cha phải chịu giải phẫu, chẳng những không
thành công mà còn bị nhiễm độc. Cha không thể đến họp và các Giám mục không bầu
cho Cha được. Nhờ sự can thiệp của Medical Community of Saint Egidio tại Rôma,
Cha được phép sang chữa trị tại Ý. Cuộc giải phẫu thành công và sau vài tuần
tịnh dưỡng, Cha đã trở lại Quê Nhà. Về đến phi trường, hộ chiếu của Cha bị tịch
thu để Cha không thể đi lại, dù trong nước và Cha bị canh chừng cẩn mật… vì,
lúc đó, chế độ cộng sản tại các quốc gia Đông Âu lần lượt tan rã. Đầu năm 1991,
Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng viết thư xin Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm
Cha vào Sứ nhiệm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Hà nội với quyền kế vị. Giáo
quyền Vatican thăm dò đề nghị này với thẩm quyền Việt Nam. Họ nổi giận tức thì.
Cha được mời đến Bộ Nội
vụ gặp Đại tá Nguyễn Hồng Lam, đứng đầu cơ quan phản gián và phụ trách tôn giáo
vụ. Ông này vừa cáo buộc Cha ‘chơi trò’ với chánh phủ vừa nói rằng Vatican
không thể bổ nhiệm Cha mà không hỏi ý họ trước. Ông nổi xung nói: «Bây giờ, những người lãnh đạo ở Rôma đã đi
xa. Bao nhiêu năm qua, cả họ và ông (Đức cha Thuận) đã biết chúng tôi không
chấp nhận ông là Tổng Giám mục TP. Hồ chí Minh. Giờ đây, thật bất ngờ, khi
Vatiacn muốn ông trở thành Tổng Giám mục tương lai của Hà nội. Đây là một mưu
đồ lớn hơn kế hoạch được đề ra bởi Vatican và đế quốc vào năm 1975.” Cha đã
im lặng nghe và, sau đó, nhẹ nhàng trả lời: “Đó
là một sự hiểu lầm, Tòa Thánh không ‘chỉ đạo’, đó không phải là một sự ‘bổ
nhiệm’ tôi. Các Giám mục Việt-Nam đề nghị Tòa Thánh chọn tôi trở thành Tổng
Giám mục phó Hà nội. Các Vị này đã làm như vậy vì muốn xây dựng một tương lai
lâu dài (cho Giáo hội Việt-Nam). Các Vị biết tôi không được cho phép giữ một
chức vụ lãnh đạo nào trong hiện tại, nên ‘chỉ định tôi lãnh nhận một chức vụ
trong tương lai’. Tòa Thánh hiểu sự khôn ngan này và, do đó, Tòa Thánh yêu cầu
chính phủ Việt-Nam chấp thuận đề nghị này.” “Ông luôn luôn nói với một vọng dịu dàng.” Ông Lam trả lời, “nhưng ông không ngừng gây cho chúng tôi
những vấn đề. Hiện giờ, chúng tôi có những chuyện phải giải quyết gấp.» Ông
quay lưng đi và, khi đối diện lại với Cha, bổng nhiên, ông đổi ý: “Sao ông không đi thăm song thân?” Ông
Lam tử tế nói “và ở lại với ông bà một
thời gian và trở lại khi mọi sự yên lặng lại.” “Tôi đã đi thăm cha mẹ tôi rồi”. Cha đáp. Nhưng ông lại đề nghị: - Như vậy, sao ông không đi Rôma trong một
thời gian? Câu chuyện được chấm dứt khi Cha nói: - Được rồi. Tôi sẽ suy nghĩ đến việc đó. (Tóm dịch theo ‘The Miracle
of Hope’) Ngày 21.09.1991, Cha rời Việt-Nam và chánh phủ Việt-Nam đã không cho
Cha trở lại Quê Hương. (17)
Nhóm
chống đối việc trục xuất khâm sứ và Giám mục Thuận
Đây là thành phần đông
đảo nhất, phần đông là giáo dân các giáo xứ và các hội đoàn. Họ là những thành
phần cốt cán nhất của giáo hội Thiên Chúa giáo. Thông thường các sinh hoạt của
họ chỉ chuyên chú vào các hoạt động tôn giáo. Họ ở thế yếu “chính trị”, vì thế
nhiều người không dám lên tiếng và có lên tiếng thì tiếng nói của họ cũng không
được nghe theo. Có nhiều nhóm như sau đây:
Nhóm sinh viên có đại
diện là Lê Hoàng Sơn và Nguyễn Thị Tường Vi. Nhóm ký tên Văn khoa đã nhắc nhở
các linh mục cấp tiến là trước đây nhiều linh mục trong bọn họ cũng chống Cộng
và cũng không muốn cho cộng sản chiếm miền Nam. Bây giờ, cộng sản thắng, họ
dành lấy thời cơ đứng ra làm trung gian giữa cách mạng và giáo hội bằng cách
kết án một người cũng chống cộng như họ trước 30-4-75. Vì thế, kết án Giám mục
Thuận là gián tiếp kết án cả Hội đồng Giám mục và ngay cả Tổng giám mục Nguyễn
Văn Bình và kết án chính họ!! Tại sao nhóm linh mục cấp tiến không lên tiếng
đòi truất phế TGM Bình, giám mục Phạm Ngọc Chi và nhiều giám mục khác? Sau này
lúc sắp được trả tự do, Hồng y TrịnhVăn Căn có được nghe một cuộn băng ghi lại
lời phát biểu của TGM Nguyễn Văn Thuận trong đó TGM Thuận phàn nàn Giáo Hội VN,
Hội đồng Giám mục ngả theo nhà nước. Một lời nhận định thật trung thực, nhưng
điều đó làm phiền lòng Hồng Y Trịnh Văn Căn và vì vậy khi TGM Thuận về tạm trú
ở 40 Phố Nhà Chung thì Hồng Y Căn tỏ ra lạnh nhạt hầu như không trò chuyện.
Lời nhận xét của TGM
Nguyễn Văn Thuận sau này cũng được Giám mục Phao lô Lê Đắc Trọng viết lại dưới
một dạng nhận định khác trong cuốn sách của ông. Và lời phê phán của TGM Nguyễn
Văn Thuận về Hội đồng Giám Mục VN hơn bao giờ hết càng thấy rõ hơn, thấy không
chối cãi được như hiện nay người ta thấy.
Cho nên, phải thêm vào
cái nhận xét của tôi ở đầu bài cho trọn nghĩa. Dưới chế độ cộng sản đã sản sinh
ra nhiều anh hùng, thánh nhân và cũng đồng thời cũng sản sinh ra rất nhiều kẻ
hèn. Những kẻ hèn này lần đầu tiên đang học hay đang nếm mùi “bài học độc tài”
nên họ phải hành xử như thế và có những người bị hy sinh trở thành con vật tế
thần.
- Các Hội đoàn công giáo
có: Legio Mariae, Thiếu Nhi Thánh Thể, Gia đình phạt tạ, Hội con Đức mẹ, Hội
các bà mẹ công giáo, Hùng tâm dũng chí, Tổng đoàn hiệp sinh, Phong trào
Cursillo, Dòng Ba Phanxico, Đạo Bình xanh Fatima, Đoàn linh mục Thánh Tâm, Hội
Bác ái Vinh Sơn, Hướng đạo Công giáo, Thanh Sinh Công, Hội Bác sĩ Công giáo,
Dòng Ba Đa Minh, Liên đoàn công tư chức công giáo, Hội Mân Côi. Người đại diện
là linh mục Gia Cô Bê Nguyễn Văn Vi. Họ âm thầm phản đối những quyết định bất
công với TGM Nguyễn Văn Thuận.
- Ngày 15 tháng 5 và 18
tháng 5-75... Họ ra một tuyên ngôn đại diện cho hàng Linh mục, tu sĩ, giáo dân,
các đoàn thể, các giáo xứ các hạt Chí Hòa, Phú Nhuận, Trương Minh Giảng, Trương
Minh Ký, Lê Văn Duyệt, Bảy Hiền, Bà Quẹo.
- Lại có những giáo xứ
tích cực hơn gửi thư bầy tỏ sự trung thành với giáo hội, với khâm sứ, với Giám
mục Thuận như các xứ Nghĩa Hòa, Nam Thái, Thái Hòa, Tân Việt, Phú Nhuận, Bùi
Phát, Phát Diệm, Tân Hoa, Gia Đinh, Hòa Hưng..
Trong tập ký 39 trang,
Thanh Lãng đã kể lại vụ linh mục Trần Du- nguyên Chủ nhiệm báo Hòa Bình- trong
một buổi họp có đại diện chính quyền ở dinh Độc Lập. Cha Du đã dám đứng lên
công khai phản bác những luận điểm của nhóm Cấp tiến mà ông gọi là “con nít”.
Ông nói: “Chuyện Nhân Xã, ai chả biết đó
là Đảng ma, gồm vài mạng chẳng có uy tín gì, chỉ nhằm xôi thịt.. Giám mục Thuận
có thể liên hệ với họ vì quen biết, nhưng người ta nói ngài khôn ngoan để kết
tội Ngài, tại sao không hiểu ngược lại vì khôn ngoan nên ngài không thể để mình
dính líu thực sự với một tổ chức như thế”.
Chú thích thêm của người
viết: Thật
ra, sau 1963, có ba đảng sau đây liên hệ với chế độ đệ nhất cộng hòa ra đời. Đó
là Đảng Nhân Xã do các ông Trương Công Cừu, Nguyễn Hữu Khai, Ngô Hữu Thời chủ
trương. Đảng Cộng Hòa đại chúng do ông Cao Xuân Vỹ điều khiển. Đảng thứ bà là
Lực Lượng Nhân dân Kiến Quốc, 1970 do các ông Ngô Khắc Tỉnh, Nguyễn Trọng Quát
và Trương Vĩnh Lễ cầm đầu.
Vụ Corev, tiền của Tòa
Thánh nhằm giúp cả Bắc Việt. Người ta cố cáo Ngài làm tay sai cho Mỹ, Tòa Thánh
làm tay sai cho Mỹ. Thằng Mỹ duy vật vô luân. Tòa Thánh đã chống lại kế hoạch
hạn chế sinh nở để bán thuốc làm giàu cho tư bản. Một người trong gia đình có
ba người bị Mỹ giết (Diệm, Nhu, Cẩn) còn dại gì can tâm làm tay sai cho Mỹ. Hơn
nữa một người bị vu cáo là khôn khéo hẳn thừa biết làm sao chống lại được cách
mạng. Và chống để làm tay sai cho những kẻ đã sát hại cậu, bác mình sao?” (18)
Chú thích thêm của người
viết: Đây là
một vu cáo theo thói quen cho rằng có sự cấu kết giữa Mỹ và Vatican. Trục của
điều xấu là Mỹ-Vatican. Thật ra tổ chức Corev do Giám mục Nguyễn Văn Thuận cầm
đầu gồm nhiều tổ chức từ thiện xã hội Thiên Chúa giáo trên thế giới như:
Misereor- Caritas Đức- Secours Catholiques của Pháp - Catholic Relief Services
của Mỹ và Secours International.
Một tấn bi kịch đã xảy ra
vào tối ngày 3.6.1975 là có một đám giáo dân kéo nhau đến bảo vệ Tòa Khâm sứ ở
đường Hai Bà Trưng. Nhưng đến cầu Truơng Minh Giảng thì bị bộ đội chặn lại bắn
chết và bị thương vài người.. Đám đông đã chạy tán loạn và rã đám. Ông Nguyễn
Văn Hanh cũng nhắc lại sự việc này như sau và nói là hai bên do xô sát.
“Do đó đã xẩy ra xôn xao và xáo trộn, thậm chí có chết người
trong cuộc xô xát đêm 3.6.1975 gần cầu Trương Minh Giảng, Ủy ban Quân quản
thành phố Hồ Chí Minh đã nhiều lần thông báo cho cụ Tổng Giám mục Nguyễn Văn
Bình là chính quyền cách mạng không chấp nhận việc bổ nhiệm ông Thuận làm Tổng
Giám mục phó với quyền kế vị tại giáo phận thành phố Hồ Chí Minh.” (19)
Chứng từ 39 trang và di chúc 13 trang của Thanh Lãng
Ngày hôm nay, nhờ những
chứng từ của Thanh Lãng- người trong cuộc- đã để lại một chứng từ dày 39 trang
và một bản được coi như chúc thư, dày 13 trang và giao cho Nguyễn Văn Trung
trước khi chết. Chúc thư đề ngày 28.11.1988 và chưa đầy một tháng sau Thanh
Lãng qua đời ngày 17.12.1988.
Theo Thanh Lãng ghi lại
trong Di chúc 13 trang đánh máy thì việc đòi Tòa Thánh phải thay thế ngay Khâm
sứ đã được ghi lại như sau: “Chính Đức cha
Lâm (được phong chức ngày 17.3.75) trước khi lên máy bay về nhậm chức tại Đà
lạt đã cùng thảo luận với tôi và cha Bouchaud, bề trên Cả Xuân Bích và cũng đi
đến kết luận là muốn cứu giáo hội Việt Nam khỏi bị sa lầy vào những đường lối
chính trị có hại cho giáo hội, dân tộc thì phải xin Tòa Thánh thay thế ngay Đức
Khâm sứ Henri Lemaitre.” (20)
Sau này, đoạn văn trích
dẫn ở trên cũng được trích đăng lại trong bài được gọi là :"Tạm Tổng kết vụ Giám Mục Nguyễn Văn Thuận” do Nguyễn Nghị
viết trên tạp chí Đứng Dậy, số 72, ngày 15.9.75, trang 52.
Theo những vị trí thức,
linh mục thiên tả trên, họ chỉ nhìn như một thói quen suy diễn có nếp là Giám
mục Nguyễn Văn Thuận là con cháu dòng họ Ngô Đình Diệm- những người chống Cộng
khét tiếng - như vậy, việc bổ nhiệm ông làm TGM phó với quyền kế vị sẽ gây bất
lợi cho giáo hội. Và bằng mọi giá, phải khai trừ ông.
Trong tập ký của Thanh
Lãng ghi lại rằng: Ngày 6.5.1975 mới chỉ nghe tin Giám Mục Thuận có thể về Sài
Gòn làm Giám Mục phụ tá, ông đã vội vã chạy đến Trương Bá Cần báo “hung tin”
nói cần phải hành động gấp, cứu nước như cứu cháy. Nghĩa là cần ngăn chặn trước
việc bổ nhiệm, không để cho bất cứ ai trở thành Thánh Tử Đạo (tập ký 39 trang,
trích dẫn trang 11). Sau đó Trương Bá Cần và Nguyễn Ngọc Lan đứng ra triệu tập
các buổi họp linh mục, rồi đi gặp Tổng Giám mục.
Lý do đưa ra là chính
trị: Giám mục Thuận có tội chống Cộng (đặc biệt qua 3 tội: ủng hộ đảng Nhân xã,
tổ chức phong trào công lý đòi hòa bình, điều khiển chương trình Corey. Những
đám tu sĩ trí thức trên tụ tập ở tòa Tổng Giám Mục, tòa Khâm sứ với những biểu
ngữ khích động và ngay cả có những hành vi, cử chỉ có tính bạo lực trong lời
nói và hành động lúc ở tòa Khâm sứ như la lối, đả đảo, đập phá. Họ gọi Khâm sứ
là Thái thú, đòi lục sóat hồ sơ tiền bạc, hành hung Khâm sứ, không chấp nhận
một Giám Mục được Tòa Thánh bổ nhiệm. (21)
Những hành động bạo động
đó làm cho người ta không thể không liên tưởng tới những vệ binh đỏ thời Cách
Mạng Văn Hóa bên Trung Quốc hay trong vụ sinh viên nổi loạn ở Pháp vào tháng
5-1968.
Những thành phần đến đập
phá, la lối trước tòa Khâm sứ là những học sinh, thanh niên do Phan Khắc Từ
điều động và xuất phát từ nhà thờ Tân Cảng. Người dẫn đầu đám “lâu la” này là
Tư Oánh, một ông Từ giữ nhà thờ làm việc cho Huỳnh Công Minh. Tân Cảng là một
nhà thờ nhỏ do Huỳnh Công Minh coi sóc. Cũng vì việc này Huỳnh Công Minh và
Phan Khắc Từ tranh cãi nhau. Đám thanh niên này không liên hệ trực tiếp đến
thái độ phản kháng của nhóm linh mục, tu sĩ cấp tiến. Nhưng những hành động quá
khích này bị coi là của nhóm linh mục cấp tiến. Điều đó có ảnh hưởng tai hại
đến công việc họ đang làm.
Trong tập ký Thanh Lãng
cũng xác nhận những hành vi bạo động đó không do ai xúc dục như chính quyền mới
mà do những hành động tự phát của đám người cấp tiến gây ra. Dưới đây, xin mời
bạn đọc xem lại những gì đã xảy do chính TGM. Nguyễn Văn Thuận kể lại: “Ngày 24.04.1975, Cha được Đức Thánh Cha
Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng Giám mục phó Tổng
Giáo phận Sàigòn với quyền kế vị. Thưa Cha, Cha quyết định đi vào Sàigòn, noi
gương Đức Kitô đã phải đi Giêrusalem, dù Cha có thể tiên đoán những gì mình sẽ
phải gặp tại đó như Cha viết trong ‘NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ’: “Giờ đây,
tôi phải đi vào Sàigòn lập tức, theo lệnh Đức Phaolô VI bổ nhiệm… Đêm ấy
07.05.1975, khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha trang, tôi đã khóc
nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã
khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang - vì thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất
bình an, vì tôi vâng lời Đức Thánh Cha. Tiếp đến là gian khổ, thử thách tại Sài
Gòn…”
Và tiếp theo là lời ghi
lại trong Vietcatholic để rõ thêm sự việc: “Từ
ngày 08.05.1975, nhóm 14 Linh mục do Trương bá Cần và Huỳnh công Minh đứng đầu
đã gởi một kiến nghị đến Đức Tổng Giám mục Nguyễn văn Bình bày tỏ mối quan tâm
lo ngại về việc thuyên chuyển Cha về Sài Gòn trong tình thế hiện nay sẽ không thuận
lợi cho Giáo hội tại Việt Nam. Trong phiên họp ngày 27.06.1975, tại Dinh Độc
lập, kéo dài từ 15 đến 19 giờ, Cha đã đối diện với ba Cán bộ cao cấp của Ủy Ban
Quân Quản cùng các Linh mục và giáo dân tự nhận là ‘Công giáo yêu nước’. Đối
với Chính quyền Cộng sản, sự thuyên chuyển độ một tuần trước khi họ tiếp thu
Sài Gòn vào ngày 30.04.1975, là bằng cớ âm mưu giữa Vatican và các Đế Quốc. Để
trả lời sự cáo buộc đó, Cha chỉ xác nhận sự vâng lời của Cha đối với Bài Sai
của Đức Thánh Cha. Cha cũng bác bỏ lời cáo gian có âm mưu nói trên. Chiều
15.08.1975, Ủy Ban Quân Quản mở cuộc họp tại Nhà hát Thành phố để cáo buộc ‘sau
lưng’ Cha. Khoảng 350 giáo sĩ, tu sĩ được mời buộc nghe. Ủy Ban muốn ngừa tránh
mọi phản ứng của người dân đối với vụ bắt Cha. Trước đó, Đức Tổng Giám mục
Nguyễn văn Bình và Cha được đưa đến Dinh Độc Lập lúc 14 giờ. Tại đó, Đức cha
Bình bị đưa vào một căn phòng khác với Cha. Sau đó, Cha bị bắt và đem đi trên
một xe hơi có hai công an đi kèm và cuộc phiêu lưu của Cha bắt đầu… Trong cuộc
hành trình, Cha biết mình đang mất tất cả. Cha ra đi với chiếc áo chùng thâm
trong túi có một cỗ tràng hạt. Cha chỉ còn biết phó thác cho Chúa Quan Phòng. Nhưng
giữa bao lo âu ấy, Cha vẫn thấy có một niềm vui lớn: ‘Hôm nay là lễ Đức Mẹ Hồn
Xác Lên Trời...’ và Chúa yêu cầu Cha hãy trở về với điều cốt yếu. Trên đường dài
450 cây số, không có một ai. Cha thực sự bị bỏ rơi. Cha đã bị giam giữ nhiều
nơi khác nhau, trong đó, có 9 năm bị biệt giam, cho đến ngày 23.11.1988, Cha
được trả tự do nhưng vẫn bị quản chế tại Hà Nội.”
Nội
dung chúc thư xin lỗi và xin tha thứ của Thanh Lãng
Điều gì nói ra trước khi
chết đều có giá trị sự thật và trối trăn. Linh mục Thanh Lãng trước khi qua đời
có nói với Nguyễn văn Trung là đã gửi thư cho Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Nhưng
do cẩn trọng, ông cũng đã đưa cho Nguyễn Văn Trung giữ một bản. Phần lá thư gửi
cho TGM Nguyễn Văn Thuận có lẽ ngài đã dấu kín và không bao giờ tiết lộ ra cho
bất cứ ai vì khiêm tốn, vì khoan dung ... Hiện nay, không hiểu những tài liệu
lưu trữ của ông có còn giữ lại lá thư này hay không?
Riêng bản di chúc trao
cho Nguyễn Văn Trung thì có nội dung như sau: “Tôi xin công khai sám hối với Chúa và Hội thánh Toàn cầu và Việt Nam.
Lạy Chúa xin tha thứ cho con mọi lầm lẫn và ban cho con lòng tin, lòng trông
cậy và ơn tha thứ. Tôi xin công khai sám hối xin lỗi Đức cha Nguyễn Văn Thuận,
xin Chúa giữ gìn và trả công cho Đức cha. Tôi xin công khai sám hối xin lỗi tất
cả và tình anh em linh mục mà tôi vô tình hay cố ý, làm mất lòng.
Tôi xin công khai và xin lỗi toàn thể dân Chúa mà tôi hối tiếc
là chưa được phục vụ trong Mục vụ. Tôi xin mọi người tha tội cho tôi để Hội
Thánh và Chúa tha tội cho tôi”.
Ngày 28.11.1988, Đinh
Xuân Nguyên, Thanh Lãng. (Trích tài liệu 13 trang của Thanh lãng, Nguyễn
Văn Trung. Linh mục Thanh Lãng qua đời ngày 17-12-1988)
Nhận
Định Tổng kết
Thật khó để đưa ra những
nhận định theo nhãn quan bây giờ. Tình thế lúc bấy giờ còn nhiều nghi ngờ và
nghi ngại vì tình hình chính trị chưa ổn định. Cố TGM Thuận rơi vào tình huống
cực đoan và nhận lãnh hậu quả của sự cực đoan ấy. Người ta không thể nại cớ ra
cái đúng, cái sai trong một hoàn cảnh một chính quyền cộng sản vừa mới chiếm
được miền Nam trong tay.
Họ còn
say máu chiến thắng lắm.
Giới người công giáo là
một lực lượng đáng nể, nhất là trong thành phần những người di cư từ Bắc vào
Nam. Không bắt TGM Thuận thì họ cũng có thể bắt người khác- và thực tế không
bắt trước cũng bắt sau và đã bắt và giam cầm nhiều người-, mặc dầu việc trục
xuất và giam cầm này nay xét là hoàn toàn vô căn cớ.
Những việc làm của đám
linh mục, trí thức cấp tiến cho thấy tính cách xung động quá mẫn cảm của họ
trước một tình thế chưa đến lúc phải “ra tay sớm” như thế! Nay nhìn lại, họ
cùng lắm chỉ là những chuyên viên thẩm mỹ muốn làm đẹp mặt chế độ trong lúc ban
đầu.
Họ chưa được nhìn nhận
nên muốn chứng tỏ một điều gì đó và đây là “món quà ra mắt” của họ. Việc trục
xuất Khâm sứ và bắt tù TGM Thuận chỉ cho thấy tạo một tình trạng bất ổn đáng
nhẽ không nên xảy ra. Nó chỉ là phiên bản một cuốn film tồi từng đã xảy ra sau
1954 tại Hà Nội.
Người ta còn nhớ tất cả
các thừa sai Pháp tại Hà Nội đều bị trục xuất, cộng chung là hơn 20 vị trước
con mắt bất lực của tòa đại sứ Pháp. Khâm sứ Dooley, người Ái Nhĩ Lan (Irish)
vì lý do chữa bệnh đã phải rời VN sang Campuchia. Người kế vị là O'Driscoll,
cũng người Ái Nhĩ Lan mới ngồi được ba tuần thì bị dẫn độ sang biên giới Trung
Cộng với tội danh có “hoạt động khuynh đảo”(22).
Tại miền Nam cũng vậy.
Chuyến bay thứ tư kể từ sau 30/4/1975 thì những tu sĩ sau đây phải rời VN trong
vòng 48 tiếng đồng hồ ngày 12/8/1975. Họ gồm 11 người mà người đứng đầu bảng là
Giám Mục Paul Seitz, địa phận Kon Tum, tác giả cuốn sách Le temps des chiens
muets.(23) Chuyến bay thứ ba có ông đại sứ Pháp Merillon cũng phải ra đi.
Những sự việc có xảy ra
như thế thì mới đúng là Cộng sản. Cộng sản là như thế. Cộng sản là một thể chế
luôn luôn có vấn đề với những xung khắc thường trực và trở thành những vấn đề
muôn thuở, trong đó có vấn đề tôn giáo.
Cho đến nay những bất ổn
chính trị và tôn giáo cũng đã kéo dài trên mấy chục năm mà tình trạng vẫn không
thấy có những dấu hiệu khả quan! Nguy cơ sụp đổ xã hội và đất nước đang trên bờ
vực thẳm theo như lời báo động của những người có lòng như tiến sĩ Lê Đăng
Doanh trong bài viết mới đây của ông.
Nhận định về những xung
đột trên, ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, một nhà ngoại giao có tầm nhìn xa và
cao cho rằng nếu ông ở vị thế thuận lợi thì sẽ mời đại sứ Mỹ ở lại, mời những
giới chức ngoại giao ở lại, thì khỏi mất 20 năm cầu cạnh họ quay trở lại.
Phần TGM Nguyễn Văn Thuận
từ 1975 đến giờ luôn luôn tuyên bố: Mọi công việc của tôi là tùy Tòa thánh
quyết định.Tất cả đường hướng phục vụ và lý tưởng của ông tóm gọn trong bản trả
lời cuộc phỏng vấn TGM Thuận ngày 28.7.89.
“Vị Tổng giám mục Phó của Sài Gòn tuyệt đối không có ý định nói
về 13 năm tù tội của mình. Đối với sự tò mò, ngài không cho biết gì về những
cuộc thẩm cung và về cách sống của mình trong trại cải tạo dành riêng cho một
Giám mục.
“Tôi không muốn nói tới những năm đó. Trong thời gian đó, tôi đã
cầu nguyện rất nhiều cho dân tộc tôi và cho toàn thể giáo hội. Thời gian đó đối
với tôi là một cuộc tĩnh tâm thiêng liêng kéo dài ...
[...]
Tôi tin tưởng ở Chúa quan phòng, nếu sau 13 năm khổ đau mà tôi
còn sống và đang ở Rô Ma đây nói chuyện với ông thì có nghĩa rằng nhiều điều đã
được thực hiện” (24).
Tôi cũng có liên lạc với
cựu Trung Tá Nguyễn Văn Minh, bí thư văn phòng ông Ngô Đình Cẩn để hỏi thêm
những chi tiết liên quan đến TGM Nguyễn Văn Thuận. Ông Minh cho hay trong những
dịp lễ tết cuối năm sum họp đại gia đình thường cũng có mặt TGM Nguyễn Văn
Thuận với tư cách người cháu trong gia đình. Nhưng ông thường không tham dự bàn
bạc những vấn đề chính trị với các bác, các cậu.
Sau này, ông vẫn giữ một
khoảng cách như thế. Khi được hỏi về cái chết của ông Ngô Đình Cẩn: Ông trả
lời: “Con người, rồi tất cả sẽ qua đi,
Chỉ có Đất nước và Dân tộc mới trường cửu”. Trong cuốn The Miracle of Hope,
trang 123-124 có kể lại viêc Lm Thuận đi Rôma, Ông Diệm và Giám mục Thục muốn
giúp đỡ người cháu. Nhưng Cha Thuân đã từ chối, “không muốn làm phiền tới các cậu về các việc nhỏ mọn này. Thiên Chúa
biết các cậu có nhiều việc khác phải lo lắng hơn.” (Trích lại trong sưu tập
của nhóm Cơ sở Hy vọng, 2004 do L.M Phanxicô B. Trần Văn Khả sưu tập, trang
36).
Sự tham gia tích cực nhất
và cụ thể nhất vào hậu trường chính trị VN là khi được tin hai anh em ông Ngô
Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị thảm sát, Lm Thuận lúc đó đang làm giám đốc chủng
viện đã nhờ một linh mục người ngoại quốc từ Huế vào Sài Gòn, tìm cách liên lạc
với gia đình cố đại tá Lê Quang Tung và đưa hai người con trai đại tá Tung một
cách kín đáo ra Huế ăn học, tránh mọi tai mắt dòm ngó cho đến lúc hai anh ấy
học thành tài. (25)
Hỏi rằng ông có tiếc
thương ông Diệm hay không? Hẳn là có chứ sao không! Gián tiếp thì ông thương mẹ
của ông đã phải lao đao vất vả lo chôn chất các cậu, các bác của ông. Qua đó,
tình mẹ con lúc nào cũng đầy vơi.
Nếu như không có cái ngày
30/4. Nếu như TGM Thuận không phải là hậu duệ con cháu của một dòng họ nổi
tiếng. Nếu như ông vào Sài Gòn sớm, và bao nhiêu cái nếu nữa thì chúng ta hẳn
sẽ vẫn có được một con người tu hành đạo đức, một giám mục gương mẫu.
Nhưng nhờ không có những
cái nếu đó mà ngày nay chúng ta có một vị thánh theo nghĩa khiêm cung nhất.
© DCVOnline
(1) Francis Xavier Nguyen
Văn Thuan, Testimony of Hope, trang
79
(2) Hồng Y Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Thuân, Những chứng nhân hy
vọng trong sạch, trang 61
(3) Cuốn Five loaves and two fish viết về những
gì đã xảy ra trong 13 năm nhà tù cộng sản với góc nhìn tôn giáo và cảm nghiệm
siêu nhiên của ông căn cứ vào 5 chiếc bánh và hai con cá. Mỗi Một chiếc bánh và
mỗi con cá là mỗi thông điệp của tác giả được gửi đi đến con người.
- Cuốn Prayers of Hope, ông viết từ những mảnh
giấy vụn mà người cai tù cho. Ông viết mỗi ngày, từng đoạn riêng rẽ, không theo
một thứ tự nào như một chứng từ của hy vọng và yêu thương bằng tiếng Ý để “khỏi
quên chữ”. Tất cả cộng lại 90 suy niệm và những lời cầu nguyện của ông.
- Testimony of Hope được coi là một cuốn sách Best seller của ông.
Cuốn sách tập trung những bài giảng của ông trong tuần tĩnh Tâm mùa chay cho
Giáo Hoàng Jean-Paul II và Hội đồng Tòa thánh Vatican nhân dịp năm thánh 2000-
năm mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo Hội Thiên Chúa giáo. Trong cuốn sách, ông
nhắc lại nhiều lần những năm tháng tù đầy của ông và minh chứng rằng trong
những lúc đen tối nhất, gần như tuyệt vọng, chúng ta vẫn có quyền hy vọng vào
Thiên Chúa - Người của Hy vọng.- The Road
of Hope : Đây là cuốn sách viết sớm nhất của ông trong tù vào năm 1976.
Cuốn sách như một di chúc tinh thần gửi cho người người công giáo VN. Ông viết
từ những tấm giấy lịch và được một cậu thanh niên tên Quang mỗi ngày đến thăm
Giám Mục mang về nhà giao cho các anh chị . Các anh chị em của cậu chép lại rồi
phổ biến; The Road of Hope tập trung 1.001 những suy nghiệm của ông như một
người cha gửi cho con cái mình nhằm củng cố niềm tin nơi những nguời đã mệt mỏi
vì tắt nguồn hy vọng. Ông ngừng lại ở 1001 như câu chuyện nghìn lẻ một đêm.”
- The Road of Hope: Đây là cuốn sách viết sớm nhất của ông trong tù
vào năm 1976. Cuốn sách như một di chúc tinh thần gửi cho người người công giáo
VN. Ông viết từ những tấm giấy lịch và được một cậu thanh niên tên Quang mỗi
ngày đến thăm Giám Mục mang về nhà giao cho các anh chị . Các anh chị em của
cậu chép lại rồi phổ biến; The Road of Hope tập trung 1.001 những suy nghiệm
của ông như một người cha gửi cho con cái mình nhằm củng cố niềm tin nơi những
nguời đã mệt mỏi vì tắt nguồn hy vọng. Ông ngừng lại ở 1001 như câu chuyện
nghìn lẻ một đêm.”
(4) The Los Angeles
Times, “The men who would be Pope”.
Francois Xavier Nguyen
Van Thuan, 73, president of the Pontifical Council for Justice and Peace.
Arrested in his native Vietnam after the 1975 Communist takeover of the south,
he spent 13 years in prison camps and later wrote spiritual books on his suffering.
As pope, his message would be similar--the value of the gospel for a godless
world.
(http://articles.latimes.com/2001/feb/21/news/mn-28257),
21/02/2001.
(5) Nguyễn Văn Thuận, Năm
Chiếc bánh và hai con cá, trang 43.
(6) Trong sách Tâm tư TT.
Nguyễn Văn Thiệu, ông Nguyễn Tiến Hưng cũng đã viết: “Cho nên, sau cùng thì ông Thiệu cũng như nhiều người trong chúng ta:
khi ở vào những tình huống éo le, tuyệt vọng thì chỉ còn cách là đến với Thiên
Chúa, đến với Trời , Phật.” Đôi khi tôi có cảm tưởng như chẳng còn có thể
làm gì hơn được nữa ngoài việc cầu xin Chúa,” Ông Thiệu tâm sự với nữ ký giả
Oriana Fallaci. trang 521
(7) Phong trào Nhân dân
chống tham nhũng khởi đầu bằng cuộc Họp báo ở Tân Sa Châu ngày 18.6.1974.
(8) Nguyễn văn Trung, Hồ
sơ về Hội đồng Giám Mục Việt Nam, tài liệu photocopy, không phổ biến, trang
308.
(9) Trần Ngọc Báu, 30
mươi năm công giáo Việt Nam dưới chế độ cộng sản 1975-2005, bài “Ba mươi năm sống phúc âm giữa lòng dân tộc”,
trang 49.
(10) Nguyễn Ngọc Lan, Những kẻ sợ Hòa Bình, Hành Trình số 5,
tháng hai, 1965, trang 55-60.
(11) Lý Chánh Trung, Đối diện với chiến tranh, NXB Trẻ 2000.
(12) Sau 1975, trước tình
hình mới, TGM Nguyễn Văn Bình thành lập một nhóm cố vấn bao gồm một số linh mục
và giáo dân như: Nguyễn Đình Đầu, các linh Mục Huỳnh Công Minh và Phan Khắc Từ (nhóm
báo Công giáo và dân tộc), linh mục Chân Tín và Nguyễn Huy Lịch (nhóm Canh Tân
và Hoà Giải) và linh mục Mai Xuân Hậu. Nhóm này còn có tên nhóm là “Thứ hai” vì
họ thường họp vào mỗi buổi sáng ngày thứ hai.
Phần TGM Nguyễn Văn Bình
được coi là một người hiền lành, đạo đức, nhưng “ba phải”, dễ ngả nghiêng theo
những thúc bách và “cố vấn” của đám người trên.
Trong đám ấy, bên cạnh
Thanh Lãng tự sám hối trước khi chết. Còn có ông Nguyễn Văn Chín, đại diên
Phong trào Công giáo - Dân Tộc cũng bày tỏ sự hối hận. Ngoài ra còn có sự thay
đổi lập trường, trước theo bây giờ chống, là Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín.
Họ theo như thế nào thì
nay chống như thế nấy.
Trong vụ Giám Mục Nguyễn
Văn Thuận thì nay linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan họp tại dòng Chúa Cứu
Thế, Sài Gòn hồi tháng 8.1989-nghĩa là 14 năm sau- gửi hai thư- một cho TGM Sài
Gòn, một cho HĐGMVN yêu cầu can thiệp đưa Tổng Giám Mục phó Nguyễn Văn Thuận về
Sài Gon và kết án sự có mặt của Huỳnh Công Minh ở Tổng giáo phận Sài Gòn.
(13) Chân Tín và Nguyễn
Ngọc Lan có mối liên hệ cùng dòng tu, cùng chung làm báo Đối Diện rồi đổi ra
Đứng Dậy, cùng lập trường chính trị- lúc theo MTGPMN thì cùng theo, lúc quay
lại chống thì cùng chống, sống chết có nhau . Họ còn coi nhau như cha-con. Sau
này viết thư cho con gái là Chi Lan, Nguyễn Ngọc Lan gọi Chân Tín là ông nội.
Nhưng liện hệ dồng chí là quan trọng nhất. Vì cả hai trước 1975 cùng làm báo
Đối Diện (Theo nghĩa tinh thần phản kháng đối với chính quyền VNCH), sau 30-4-
197, Đối Diện đổi ra là Đứng Dậy (tinh thần hợp tác với chính quyền mới).
Nhưng sau chuyến đi tham
quan miền Bắc cùng với 25 nhân sĩ miền Nam, Nguyễn Ngọc Lan về viết bài nhan
đề: Hà Nội tôi thế đấy. Nghĩa là vẫn
nghèo nàn cũ kỹ, không thay đổi. Có kẻ xấu miệng dèm pha nói chỉ cần thêm một
dấu huyền vào chữ Tôi, nó sẽ biến thành: Hà
Nội tồi thế đấy!
Sau đó, Nguyễn Ngọc Lan
bị thất sủng và một ngày đẹp trời Huỳnh Công Minh đến cho hay: Đứng Dậy đã làm
xong nhiệm vụ và Đảng đề nghị Nguyễn Ngọc Lan làm chủ bút một tờ báo “bánh
vẽ"- tờ Thần Học.
Vốn sòng phẳng và trung
thực, Nguyễn Ngọc Lan không thích ăn bánh vẽ kiểu Chế Lan Viên. Báo Đứng Dậy
nay trở thành tờ báo “Ngồi Xuống”. Nguyễn Ngọc Lan biến thành kẻ chống đối lại
chính quyền mới cùng với Chân Tín.
(14) Ông Nguyễn Hộ nguyên
là chủ tịch Hội Truyên Thông kháng chiến thành phố Hồ Chí Minh, tác giả cuốn
Quan Điểm và cuộc sống, 60 trang, gửi cho Bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam.
Ông bị quản chế 3 năm. Cuối cung thì bị bắt và quản thúc ngày 7-3-1994. Trích
lại trong: Những người kháng chiến cũ,
Đỗ Trung Hiếu.
(15) Trích báo Sàigon
Giải Phóng ngày 23/9/1993.Trích lại trong donguongthoibao.com, tháng 11-2011.
(16) Trích báo Sàigon
Giải Phóng, ngày 24/9/1993. Ibid
(17) TríchVietcatholic
(18) Trích tài liệu 39
trang của Thanh lãng, Nguyễn Văn Trung, trang 315 Ibid
(19) Trích báo Sài gòn
giải phóng, ngày 23-9-1992. Phỏng vấn
Nguyễn Văn Hanh, ibid
(20) Trích dẫn Nguyễn Văn
Thuận, Ibid, trang 307.
(21) Trích Nguyễn Văn
Thuận, ibid, trang 315
(22) Xem T.O Driscoll,
eight years in Viet Nam trong Catholiques et Bouddhistes au VN, Piero Gheddo,
trang 123.
(23) Mgr Paul Seitz, Le temps des chiens muets, trang 201.
(24) Bài báo có nhan đề: Đúng là có cuộc đổi mới với giáo hội VN.
Bài của ký giả Alberto Bobbio, bản dịch từ tiếng Ý của Nguyễn Văn Nội trong báo
Jesus di Culturea Attualita Cristina, 1989, trang 78-83. được phổ biến chuyên
tay ở VN.
(25) Theo lời kể của anh
Lê Quang Phúc, con trai cố đại tá Lê Quang Tung.
Nguyễn
Văn Lục