Đối Thoại Xã Hội: Truyền Thông Lòng Thương Xót
Văn Phòng Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Cần không ngừng
chiêm ngắm Dung mạo Lòng Thương Xót mầu nhiệm của Thiên Chúa, vì đó là nguồn suối
của hoan lạc, thanh bình, và bình an. Ơn cứu độ của chúng ta tùy thuộc điều đó.
Thương Xót tỏ lộ chính mầu nhiệm của Ba Ngôi Ngàn Trùng Chí Thánh, là hành động
tối thượng và tối hậu của Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta. Từ đó, Thương Xót trở
thành luật cơ bản trong con tim của kẻ chân thành nhìn sâu vào ánh mắt của anh
chị em mình trên hành trình cuộc đời. Đó chính là ý nghĩa và môi sinh trong
lành nhất cho mọi cuộc gặp gỡ và đối thoại trong gia đình và xã hội. Như thế,
Thương Xót vừa là chiếc cầu nối Thiên Chúa và con người, mở ra niềm hy vọng được
yêu thương mãi mãi dẫu chúng ta bất xứng vì phạm tội, vừa là thông điệp tin mừng
cuối cùng muốn loan báo. Đối với Kitô hữu, mọi cuộc đối thoại ở mọi cấp độ thuộc
mọi lãnh vực (trong gia đình, giữa các gia đình, tại môi trường nghề
nghiệp, với người nghèo, với xã hội, với văn hóa, liên tôn, trong kinh tế-chính
trị,…) đều là đối thoại cứu độ.
1. Đối thoại cứu độ
Từ sau Công Đồng Vatican II, quan hệ giữa Hội
Thánh và thế giới hôm nay vẫn luôn được đặt nặng và theo đuổi trong tinh thần đối
thoại. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhìn nhận “tính
cách quan trọng của đối thoại như một thể thức đặc trưng của đời sống Hội Thánh
tại châu Á”.[1] Ước muốn đối thoại không phải là một chiến
lược để sống chung hòa bình giữa các dân tộc, nhưng là phần thiết yếu trong sứ
mạng của Hội Thánh,[2] vì nhằm thông chuyển Tình yêu thể hiện
qua Lòng Thương Xót muốn cứu độ. Đó là đối thoại của Thiên Chúa Cha ban ơn cứu
độ với nhân loại, qua Chúa Con trong quyền năng Chúa Thánh Thần, thể hiện nơi Hội
Thánh, Thân Thể huyền nhiệm và là Bí tích phổ quát của Chúa Kitô.
Hội Thánh chỉ
có thể chu toàn sứ mạng theo đường lối hành động của Thiên Chúa trong Đức Giêsu
Kitô. Người đã thành con người, chia sẻ cuộc sống của con người và nói bằng
ngôn ngữ loài người để truyền đạt sứ điệp cứu độ. Đối thoại mà Hội Thánh đề xuất
cũng theo cùng đường lối Mầu nhiệm Nhập thể. Chúng ta không quên:
– Sáng kiến đối
thoại là của Thiên Chúa (1Ga 4,10). Đến lượt chúng ta phải có sáng kiến nới rộng cuộc đối thoại đó
đến mọi người. Hội Thánh không chờ đợi mà phải đi bước trước.
– Đối thoại bắt
nguồn từ Tình Thương, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa (Ga
3,16). Chỉ có tình
yêu, lòng nhiệt thành vô vị lợi thúc đẩy chúng ta, mà không có động lực nào
khác.
– Đối thoại vô
cầu (không đo bằng công trạng, hay sự đáp ứng xứng hợp), vô giới hạn, không tính toán, không so
hơn thiệt, không định mức cho đối thoại.
– Đối thoại
không cưỡng chế ai đón nhận, nhưng mời gọi yêu thương, khơi trách nhiệm, để con
người hoàn toàn tự do hay từ chối. Đối thoại còn tự thích nghi với nhu cầu và
tâm trạng mỗi người.
– Đối thoại
dành cho mọi người, không phân biệt (Cl 3,11).
– Đối thoại cứu
độ là một hành trình tiệm tiến, kiên nhẫn, khởi đầu khiêm tốn, vì “thời
gian lớn hơn không gian”:[3] cần thời gian cho sự chín muồi về tâm
lý, về lịch sử, biết chờ đợi “thời gian viên mãn”, nhưng không triển hạn đến ngày mai cái có thể làm hôm
nay. Nhạy cảm với thời cơ thích hợp và ý thức giá trị thời gian. Mỗi ngày chúng
ta một đổi mới, bắt đầu lại, không chờ đợi bên đối tác.
2. Đức tính cần cho đối thoại
Đối thoại cứu độ
có thể nói là một nghệ thuật truyền thông thiêng liêng, nên chủ thể đối thoại cần
có những đức tính sau đây trong khi tiến hành đối thoại: minh bạch, dịu dàng,
tin tưởng, khôn ngoan.
– Trước tiên là sự minh bạch. Đối thoại với
nhau là để hiểu nhau. Do đó nội dung trao đổi phải rõ ràng, dễ hiểu, không mơ hồ,
không úp mở, dẫu phải hết sức tế nhị. Đối thoại là cách truyền đạt tư tưởng mời
gọi vận dụng những khả năng cao nhất của con người.
– Kế đến là sự
dịu dàng. Như Chúa Giêsu dạy “hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhượng trong
lòng” (Mt 11,29). Lời
lẽ đối thoại không được tỏ ra kiêu căng, châm chích, gây phật lòng người khác.
Sức thuyết phục do uy quyền tự bên trong của chân lý được trình bày, từ tình
yêu – thương xót mà nó tỏa ra, từ gương sống động của người đối thoại.
– Đức tính thứ
ba là tin tưởng. Tin vào sức mạnh của lời nói của mình, tin vào sự cởi mở và khả
năng đón nhận của đối tác. Lòng tin tưởng khơi gợi mở lòng, tâm sự, tạo tình
thân. Tin tưởng kết nối các tâm trí, cùng tâm tình, gắn bó với điều tốt đẹp, loại
trừ ích kỷ.
– Sau cùng là sự
khôn ngoan. Biết lưu tâm đến tâm trạng và tinh thần của người đối thoại(Mt 7,6). Thích ứng tùy theo đối tượng: có khi là đứa trẻ con, có lúc với
kẻ không có văn hóa, khi thì với người trí thức,… lưu ý đến những điểm nhạy cảm.
[1] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông
huấn Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại Á Châu), số 3.
[2] Ibid.,
số 29.
[3]
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm Vui Tin Mừng), Ngày 24-11-2013, số 222-223. “Thời
gian lớn hơn không gian” là một trong bốn nguyên tắc của Đức Giáo
Hoàng Phanxicô đưa ra trong Tông huấn. Nguyên tắc này giúp ta làm việc chậm mà
chắc chắn, không để bị chi phối quá mức bởi kết quả tức thời. Nó giúp ta kiên
trì chịu đựng khó khăn và nghịch cảnh, những đổi thay bắt buộc trong kế hoạch của
ta. Nó mời gọi ta đối diện và chấp nhận sức căng thẳng giữa cái viên mãn và
hoàn cảnh giới hạn hiện tại, và ưu tiên cho yếu tố thời gian (số
223).