Lòng thương xót Chúa (20): Thương chuộc kẻ làm tôi
(dongten.net) -
Khi còn nhỏ đọc lời này trong kinh thương
người có mười bốn mối,
tôi không hiểu được ý nghĩa của nó. Đến khi trưởng thành tôi hiểu ra ý nghĩa của
tình trạng nô lệ đã được viết trong cuốn sách lịch sử nhân loại như thế nào. Chế
độ nô lệ là chế độ mà trong đó con người được xem như một thứ hàng hóa để
trao đổi và buôn bán. Nô lệ là người bị bắt buộc phải làm việc không lương cho
người chủ, bị mất quyền con người, mất tự do và cuộc
sống phụ thuộc hoàn toàn vào người chủ. Nhiều người trở thành nô lệ, vì bị bắt
sau những cuộc chiến (hình thức tù binh), hoặc những cuộc càn quét của lực lượng
xâm lăng hoặc của giai cấp thống trị. Một số khi sinh ra đã bị coi như là
nô lệ, chỉ vì cha mẹ của họ là nô lệ. Trong lịch sử nhân loại, chế độ nô lệ đã
được công nhận bởi hầu hết các quốc gia và xã hội. Hôm nay, chế độ nô lệ theo
pháp luật quốc tế đã bị cấm đoán và coi như không còn nữa. Nhưng nhìn vào thế
giới và xã hội hiện đại xung quanh, thì lời kinh thương
chuộc kẻ làm tôi vẫn còn mang giá trị tròn đầy, bởi vì có
biết bao nhiêu người đang trở thành những nô lệ trong hình thức mới rất tàn bạo
và rất tinh vi. Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày hoà bình thế giới năm 2015 đã diễn tả nhiều bộ
mặt nô lệ hôm qua và hôm nay như sau: “Từ thời xa xưa, các xã hội khác nhau đã
biết đến hiện tượng người thống trị người. Đã từng có những giai đoạn trong lịch
sử nhân loại, nơi đó cơ cấu nô lệ được chấp nhận cách rộng rãi và được luật
pháp ghi nhận. Điều này quy định những ai được sinh ra tự do và những ai sinh
ra là nô lệ, cũng như những điều kiện mà qua đó một người vốn sinh ra là tự do
nhưng có thể bị mất đi quyền tự do của mình hay có lại nó. Nói cách khác, chính
luật pháp cũng thừa nhận rằng một số người nào đó có thể hay phải bị xem là tài
sản của người khác…; một nô lệ có thể bị mua bán, chuyển giao hay mua được, như
thể họ là một món hàng thương mại. Ngày nay, với sự phát triển tích cực của ý
thức con người, nạn nô lệ, vốn được xem như là một tội ác chống lại nhân loại,
đã chính thức bị xóa bỏ trên toàn thế giới. Quyền của mỗi người không được bị
xem là nô lệ hay phụ thuộc như nô lệ được thừa nhận trong luật quốc tế như là một
điều khoản bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, bất chấp cộng đồng quốc tế đã ký kết rất
nhiều hiệp ước nhắm tới việc chấm dứt nạn nô lệ dưới nhiều hình thức, và đã khởi
động nhiều chiến dịch khác nhau để chống lại nạn này, hàng triệu người ngày nay
– trẻ em, đàn ông và đàn bà đủ mọi lứa tuổi – vẫn bị trút bỏ quyền tự do và bị
buộc phải sống trong những điều kiện giống như các nô lệ”.[1]
Theo thống kê của
tổ chức Walk Free Foaundation được viết trong The global Slavery Index 2014, ước
tính hiện nay có khoảng 35,8 triệu người trên khắp thế giới hiện đang sống cuộc
sống như một “nô lệ thời hiện đại”.[2] Về những người bị coi là nô lệ thời hiện đại, Đức Phanxicô,
trong sứ điệp nhân ngày hoà bình năm 2015, nhắc đến nhiều lao động nam và nữ, cả những người trẻ tuổi, bị nô dịch
hóa trong nhiều
khu vực khác nhau, dù là chính thức hay không chính thức, từ công việc trong
nhà cho đến việc nông nghiệp, từ các nhà máy công nghiệp đến hầm mỏ, tại nhiều
nước những quy định về lao động không khớp với những quy định và chuẩn mực quốc
tế tối thiểu, hay thậm chí là phi pháp, khi trong hệ thống pháp luật của mình,
không hề có những quy định nào bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tiếp đến, Đức
Phanxicô cũng hướng tới nhiều người tị nạn, mà trong cuộc phiêu lưu đầy bi kịch đã phải chịu đói khát, đã
bị tước bỏ tự do, bị cướp mất của cải hay bị lạm dụng thể lý và tính dục. Trong
số ấy, có những người đến được nơi cần đến sau hành trình mệt rã rời với đầy những
sợ hãi và không an toàn, thì lại bị giam giữ trong những điều kiện hết sức tàn
nhẫn. Ngoài ra, vị cha chung cũng hướng đến những người bị buộc phải đi vào con đường mại dâm, nhiều người trong số họ còn rất nhỏ, nạn nô lệ và nô lệ tình dục; Đức Phanxicô cũng hướng đến những phụ nữ bị buộc phải kết hôn, những người bị bán trong
những vụ kết hôn được sắp xếp, hay những phụ nữ khi chồng chết thì bị chuyển
cho một người thân của chồng như tài sản thừa kế, mà không cần biết cô ta có đồng
ý hay không. Nhóm người khác mà Đức Thánh Cha hướng tới là những người lớn cũng
như trẻ em. Họ là đối tượng của nạn buôn bán cơ phận, bị bắt nhập
ngũ, để xin ăn,
để phục vụ cho những hoạt động phi pháp như sản xuất và buôn bán ma túy, hay để phục vụ cho những hình thức
trá hình của việc nhận con nuôi mang tính quốc tế. Cuối cùng, Đức Phanxicô nghĩ
đến tất cả những ai bị bắt cóc và bị giam giữ bởi những nhóm khủng bố, bị nô dịch hóa cho những mục đích của họ như là những
chiến binh, hay trên hết trong những trường hợp các thiếu nữ và phụ nữ, bị sử dụng
như là những nô lệ tình dục. Nhiều người trong số này đã biến mất, trong khi những
người khác thì bị bán vài lần, bị tra tấn và bị hành hạ hay bị giết.[3]
Trong The
global Slavery Index 2014, chúng ta đọc được một vài trải nghiệm như sau: “Khi
tôi 13 tuổi, ba tôi đã gả tôi cho một người đàn ông 45 tuổi, người đàn ông này
đã hứa trả một số tiền cho gia đình tôi để được lấy tôi làm vợ. Tôi không có hạnh
phúc với ông ta, nhưng tôi vẫn phải cam chịu sống với ông ta một năm, trước khi
tôi trốn về lại nhà của mình. Ba tôi đã rất giận dữ khi tôi trốn về nhà. Ông đã
đánh đập và hăm doạ tôi, bắt tôi trở về lại với người chồng của tôi; nhưng
không có roi đòn nặng nề nào của ba tôi tồi tệ bằng việc tôi phải sống với chồng
tôi. Khi tôi từ chối trở về với chồng, ba tôi đã đào một cái hố sâu. Ông bắt
tôi phải nhảy xuống đó, và ông bắt đầu muốn chôn sống tôi. Tôi hoàn toàn kinh
ngạc, khi ông thực sự chôn sống tôi, nếu như người hàng xóm không nghe tiếng cầu
cứu của tôi và ngăn chặn ông lại”.[4] Đó là câu chuyện của Shahida, 13 tuổi, là nạn nhân của một việc
cưỡng bức hôn nhân. Một chia sẻ khác của Moulkeheir: “Tôi lớn lên và làm việc
cho một gia đình. Tôi sinh ra và được đưa vào gia đình này – nơi mà mẹ tôi đã
làm việc trước tôi. Công việc rất nặng nhọc. Tôi đã phải đi ra ngoài để chăn
đàn dê suốt cả ngày, và khi về thì lại phải lo mọi công việc trong nhà. Tôi
không có đủ cơm ăn. Tôi thường xuyên bị đánh đập và bị xúc phạm. Tôi có con
cái. Chúng lớn lên và cũng làm việc cho gia đình này. Hai đứa con gái của tôi
là kết quả của việc hãm hiếp của người con trưởng trong gia đình ông chủ. Anh
ta đã nói rằng, anh ta sẽ chặt đầu tôi, nếu tôi nói cho bất cứ ai biết anh
chính là tác giả của việc ấy”.[5] Một nạn nhân khác của nô lệ thời hiện đại kể lại rằng: “Đến ngày
hôm nay, tôi không nhớ là từ khi nào nữa tôi đã ngủ chung với súc vật như với
bò và dê… Giống như chúng, tôi cũng thật nghèo. Nhưng các con vật thì không bị
đánh đập mỗi ngày, còn tôi thì bị”. Ker là tên của nạn nhân. Ker thường xuyên bị
hành hạ tra tấn và đã bị mù loà bởi ông chủ của mình. Ker giờ đây là một thiếu
niên, và năm ngoái đã được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ, nhưng mẹ của anh
ta, một nạn nhân khủng khiếp của bạo lực, vẫn còn sống trong hoàn cảnh cũ”.[6] Đó là một vài chia sẻ điển hình của nô lệ
thời hiện đại, mà xã hội chúng ta đang phải đương đầu. Gốc rễ của nạn nô lệ này
xuất phát từ quan niệm con người cho phép đối xử với nhau như một đồ vật. Khi
nào tội lỗi phá hỏng trái tim con người và làm ngăn cách chúng ta với Tạo Hóa
cũng như với tha nhân, thì tha thân không còn được xem là những hữu thể có cùng
phẩm giá, như là anh chị em cùng chia sẻ nhân tính, nhưng là những đồ vật. Được
tạo ra giống Thiên Chúa và theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng bằng sự cưỡng bức, sự
lừa dối, hay bằng những ép buộc về thể lý hay tâm lý, con người đã bị tước đoạt
sự tự do của mình, bị bán và bị giảm thiểu xuống thành hàng hóa của một số người;
bị đối xử như là phương tiện chứ không phải như cùng đích.
Cùng với nguyên
nhân mang tính hữu thể học này – việc loại trừ nhân tính của người khác -, cũng
còn có những nguyên nhân khác giúp giải thích những hình thức nô lệ tân thời,
nhưsự nghèo khổ, việc chậm phát triển và sự loại trừ, đặc biệt là khi nó cùng tồn
tại với việc thiếu đi nguồn đào tạo hay với một thực tại được đánh dấu
bởi sự khan hiếm, nếu không muốn nói là
không có, những cơ hội có việc làm. Nạn hối lộ những ai sẵn sàng bất cứ làm việc
gì, để họ làm giàu cho bản thần, cũng là một nguyên nhân khác của nạn nô lệ. Thực
ra, những người thực hiện việc nô dịch và buôn bán người thường phải mua chuộc
cả một hệ thống trung gian phức tạp, một số thành viên của lực lượng cầm quyền
hay các viên chức hay các thể chế dân sự và quân đội. Điều này xảy đến khi nằm ở
vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế là tiền bạc, chứ không phải là con người.
Vâng, ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế hay xã hội phải là con người,
hình ảnh Thiên Chúa, được dựng nên để làm bá chủ vũ hoàn. Khi con người bị đồng
tiền thay thế, các giá trị sẽ bị đảo lộn. Những nguyên nhân khác của nạn nô lệ
là những xung đột vũ trang, bạo lực, hoạt động
tội phạm và khủng bố. Nhiều
người đã bị bắt cóc để đem bán, bắt đi chiến đấu như binh lính, hay bị khai
thác tình dục, trong khi những người khác thì buộc phải đi tị nạn, bỏ lại mọi
thứ đàng sau tất cả những gì họ có: đất nước, nhà cửa, của cải và thậm chí là
các thành viên trong gia đình mình.[7]
Trước thực trạng
nô lệ thời hiện đại đem lại nhiều đau buồn này, chúng ta cần phải có những hành
động nào? Lời cầu kinh thương chuộc kẻ làm tôi thật vẫn còn giá trị trong thời
đại văn minh và tân tiến của internet và của truyền thông. Đức Thánh Cha
Phanxicô mời gọi mọi người, mọi chính quyền ở các quốc gia, mọi tổ chức liên
chính phủ, mọi cơ sở thương mại, mọi tổ chức tôn giáo và tổ chức xã hội cùng dấn
thân để xoá bỏ nạn nô lệ. Phần Giáo Hội Công Giáo, thì “trong việc ‘loan báo chân
lý tình yêu của Đức Ki-tô trong xã hội’, Giáo Hội luôn dấn thân không ngừng
trong các hoạt động bác ái xuất phát từ chân lý về con người. Giáo Hội có nhiệm
vụ phải phơi bày ra mọi con đường dẫn đến việc hoán cải, cho phép chúng ta thay
đổi cái nhìn về những người thân cận của mình, để nhận ra nơi những người khác ấy,
dù là ai, người anh chị em trong một gia đình nhân loại, và để thừa nhận phẩm
giá bẩm sinh của họ trong chân lý và tự do, như câu chuyện của Josephine
Bakhita soi sáng cho chúng ta. Đây là vị thánh xuất thân từ vùng Darfur của
Sudan, người đã bị bắt cóc bởi những người buôn bán nô lệ và bị bán cho những
ông chủ tàn ác khi thánh nhân chỉ mới 9 tuổi, và sau đó, từ chính những kinh
nghiệm đau thương này, thánh nhân đã trở nên một ‘ái nữ tự do của Thiên Chúa’,
nhờ Đức Tin sống trong sự hiến dâng sốt sắng và trong sự phục vụ người khác, đặc
biệt là những người thấp bé và bất lực nhất. Vị thánh này, người đã sống giữa
thế kỷ 19 và 20, ngày nay vẫn có thể trở thành một mẫu gương điển hình của niềm
hy vọng cho nhiều nạn nhân của nạn nô lệ; ngài có thể nâng đỡ cho những nỗ
lực của những ai dấn thân trong cuộc đấu tranh chống lại ‘vết thương trên thân
mình của nhân loại đương thời, một vết thương trên thân xác của Đức Ki-tô’. Dưới
viễn tượng này, tôi muốn mời gọi mỗi người, theo vai trò và trách nhiệm riêng của
mình, hãy thực thi hành vi huynh đệ đối với những ai đang bị giam giữ trong
tình trạng nô dịch…Vì thế, tôi khẩn thiết nài xin tất cả anh chị em thiện chí,
và tất cả những ai dù xa hay gần, bao gồm những cấp độ cao nhất của các thể chế
dân sự, những ai chứng kiến nỗi đau của nạn nô lệ tân thời, đừng thỏa hiệp với
sự dữ này, đừng quay mặt đi trước những nỗi đau của anh chị em mình, của đồng
loại mình, những người đã bị tước đoạt tự do và nhân phẩm, nhưng hãy có dũng lực
để đụng đến thân thể đau đớn của Đức Ki-tô, được biểu lộ nơi khuôn mặt của
vô số những con người mà chính Ngài gọi là ‘những người anh em bé mọn của Ta’
(x.Mt 25,40.45)”.[8]
Tương hợp với
tinh thần dấn thân để giải thoát những nô lệ thời hiện đại mà Đức Phanxicô kêu
gọi, cũng như theo tinh thần sống thực thi lòng thương xót nhân hậu của Chúa,
chúng ta thấy thời Giáo Hội tiên khởi thánh Phao-lô đã xin cộng sự viên của
mình là ông Philemôn đón nhận Ki-tô hữu mới là Onesimus trở nên người anh em của
ông, dù trước kia Onesimus là nô lệ của Philemon; và hôm nay chúng ta cũng thấy
các nữ tu đứng trong tuyến đầu của của việc dấn thân để cứu thoát biết bao
nhiêu nạn nhân của nô lệ thời hiện đại. Nữ tu Sharmi D’Souza đến từ Ấn Độ đã kể
về công việc hỗ trợ cho các nạn nhân và truy tố những kẻ buôn người. Nữ
tu Sharmi cho biết, các nữ tu cùng với cảnh sát truy lùng tận bên trong
các nhà thổ và giải cứu các cô gái. Ví dụ trong một cuộc đột kích, Sơ đã giải cứu
được 37 cô gái, trong đó 11 cô là gái mại dâm tuổi vị thành niên. Từ những
cô gái này, họ đã tìm hiểu tất cả các tình tiết về những kẻ buôn người là ai và
nơi chúng làm việc, và sau đó đã tống được 30 kẻ buôn bán người vào tù. Sơ
Sharmi cũng kêu gọi cho các giám mục, linh mục và mục sư sát cánh cùng các nữ
tu, để giúp đỡ họ nhổ tận gốc những kẻ buôn bán người trên khắp thế giới.[9] Mong sao, mọi người trên thế giới đều
ý thức rằng, trong mắt Thiên Chúa, mỗi con người là một người tự do,
dù đó là con gái hay con trai, phụ nữ hay đàn ông, và được tạo dựng vì thiện ích của mọi
người trong sự bình đẳng và tình huynh đệ.[10] Mong sao, thế giới này không còn tình trạng
nô lệ nữa, và mọi người đều là anh em với nhau, và tất cả đều có một Cha giàu
lòng thương xót ở trên trời.
Nguyện xin
Thiên Chúa xót thương làm “mọi sự trở nên mới” (x.Kh 21,5), và xin cứu vãn các
tương quan giữa con người chúng con, bao gồm cả tương quan giữa nô lệ và ông chủ,
bằng cách làm sáng tỏ những điều mà cả hai bên đều có chung: cùng được nhận làm
con của Cha, và cùng sống trong tình huynh đệ với Đức Ki-tô, Đấng đã trở nên
nghèo nàn, mặc lấy thân phận phàm nhân, thân phận nô lệ, để cứu rỗi chúng con,
những người sống như nô lệ của tội lỗi, của bóng đêm và của sự dữ. Xin cho
chúng con thấu hiểu và thấm nhuần tình yêu của Chúa, và xin cho chúng con luôn
gắn bó và kết hiệp mật thiết với Chúa trong cuộc sống, Đấng đã nói với chúng
con: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm,
nhưng thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi cha Thầy,
Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).[11]
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ
[1] ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 3. Bản tiếng Việt của Pr. Lê Hoàng
Nam SJ., nguồn: dongten.net.
[2] The
global Slavery Index 2014, t.6, nguồn:
www.globalslaveryindex.org
[3] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 3.
[4] The
global Slavery Index 2014, t.33.
[5] The
global Slavery Index 2014, t.69.
[6] The
global Slavery Index 2014, t.69.
[7] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 4.
[8] ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 6.
[9] X. Các nữ tu chống lại hình thức nô lệ mới, bài của Hoàng Minh, nguồn:
http://www.chuacuuthe.com.
[10] X. Tuyên bố của các nhà lãnh đạo tôn
giáo đòi hỏi xóa bỏ chế độ nô lệ, nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/
[11] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 2.