Lòng thương xót Chúa (26): Mẹ Maria, người Mẹ của lòng thương xót
(dongten.net)
Nếu lật lại các trang
sách Phúc Âm, thì Mẹ Maria xuất hiện trong một số khung cảnh. Tuy nhiên, có hai
đoạn Thánh Kinh kể về sự hiện diện của Mẹ Maria và đóng vai trò quan trọng
trong linh đạo về Mẹ Maria. Đó là việc Đức Mẹ được tổng lãnh thiên thần Gabriel
truyền tin (x.Lc 1,26-38) và sự kiện Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá (x.Ga
19,26tt). Hình ảnh thứ hai mà Gio-an kể nối kết với phép lạ đầu tiên của Chúa
Giê-su làm ở Cana được diễn tả trong Phúc Âm của Thánh Gio-an (x.Ga 2,1-12).
Như thế, có thể nói rằng, Mẹ Maria có mặt trong những biến cố quan trọng trong
lịch sử của ơn cứu độ. Dù Mẹ chỉ được nhắc đến ít lần trong Phúc Âm, nhưng Mẹ vẫn
có một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa với nhân loại
chúng ta. Đi sâu hơn một chút vào bài ca Magnificat của Mẹ Maria, chúng ta thấy
rằng, Mẹ đã tóm tắt lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, và Mẹ ca ngợi lịch sử cứu độ
này như là lịch sử của lòng thương xót, lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với
nhân loại: “Đời nọ tới
đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50).
Với việc Mẹ được chọn và được gọi là Mẹ Đấng Cứu Thế, lịch sử của
lòng thương xót đã tìm được ý nghĩa trọn vẹn. Giờ đây, Thiên Chúa qua lòng
thương xót vô bờ, Ngài muốn cứu độ nhân loại và dân của Ngài. Mẹ Maria đã được
chọn để cùng cộng tác trong công trình cứu độ này: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên
Chúa” (Lc 1,30). Điều
này có nghĩa là, không phải tự mình mà Mẹ Maria được đẹp lòng Thiên Chúa, mà tất
cả đều do ân sủng của Thiên Chúa, và vì thế mọi lời ca tụng đều hướng về Thiên
Chúa. Chính Mẹ cũng đã thốt lên rằng:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ
Người” (Lc 1,46-50).
Mẹ Maria sống trong ân sủng của Chúa, và với sự khiêm nhường của
Mẹ và qua lời xin vâng của Mẹ, Mẹ đã trở nên công cụ lòng thương xót của Thiên
Chúa dành cho nhân loại. Lời xin vâng của Mẹ đã đưa Mẹ vào vị trí của một nữ tỳ
phục vụ Thiên Chúa, phục vụ lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, phục vụ lòng thương
xót của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thật vậy, Mẹ đã dành cho Thiên Chúa một
không gian trong con người Mẹ, để Thiên Chúa có thể làm những phép lạ cứu chữa
nhân loại. Nhưng lời xin vâng của Mẹ cũng vượt trên khả năng của con người, vì
thế với lời xin vâng của Mẹ, Mẹ được coi là người có phúc. Qua lời xin vâng của
Mẹ, Thiên Chúa đã đi vào thế giới này. Qua lời xin vâng, Mẹ Maria đã trở nên một
Evà mới. Trong khi Evà đầu tiên vì sự bất tuân đã đưa lại cho thế giới này biết
bao khổ đau, thì qua lời xin vâng của mình Evà mới là đại diện của nhân loại đã
tháo cởi được nút rối mà Evà cũ đã gây ra. Vì thế, mà Mẹ Maria – Evà mới đã trở
nên người Mẹ của kẻ sống. Qua lời xin vâng của mình, trinh nữ Maria đã trở nên
một nữ tỳ lòng thương xót của Thiên Chúa, một trinh nữ đã cưu mang Đấng Cứu Thế,
Đấng là nguồn của lòng thương xót.[1] Và Mẹ đã sinh ra, nuôi nấng chăm nom Đấng
Cứu Thế, vị Mục Tử nhân hậu.
Là Mẹ Đấng Cứu Thế, là nữ tỳ của lòng thương xót của Thiên Chúa,
Mẹ cũng đi con đường Đức Tin như mọi tín hữu. Mẹ đã phải đối diện với biết bao
thử thách và đón nhận biết bao nhiêu khó khăn: Ngay từ khi Mẹ mang thai hài nhi
Giê-su, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã phải đi tìm một nơi trú ngụ và đã bị từ chối,
để rồi cuối cùng Mẹ đã phải sinh con trong một nơi dành cho chiên bò. Khi sinh
con xong, tưởng rằng cuộc đời Mẹ sẽ an bình. Với con thơ và với Thánh Cả Giuse,
Mẹ đã phải đưa con trốn chạy trước sự lùng sục độc ác của vua Hêrôđê. Một cuộc
trốn chạy đầy chông gai và thử thách qua đất nước láng giềng. Khi đưa con trẻ
Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để dự lễ hội, Mẹ đã bị lạc con và đã phải rong ruổi
tìm con với biết bao nỗi âu lo. Và cuối cùng Mẹ đã đau đớn đứng dưới chân Thánh
Giá của con Mẹ – Chúa Giê-su, (x.Ga 19,25). Khi chúng ta chiêm ngắm Mẹ Maria đứng
dưới chân Thánh Giá, chiêm ngắm người phụ nữ đang nhìn người Con duy nhất bị những
người ác nhân kết án tử và đóng đinh trên Thánh Giá, chúng ta sẽ cảm nhận được
tâm trạng của Mẹ: run rẩy, đau xót về những gì Mẹ đã chứng kiến trên con đường
khổ nạn của con. Truyền thống Ki-tô giáo, qua việc chiêm ngắm Mẹ trong khung cảnh
đó, đã nhận thấy kinh nghiệm đau khổ tột cùng của Mẹ, như một vài vần thơ khuyết
danh bằng tiếng La-tinh Stabat
Mater, được viết trong thời Trung Cổ: “Stabat Mater dolorosa, iuxta
crucem lacrimosa, dum pendebat filius – Mẹ đau thương, đứng kề bên con của Mẹ,
treo trên Thập Giá ”. Những vần thơ này đã trở thành bản đại hợp xướng của
nhà soạn nhạc người Séc Antonín Dovorak Stabat mater, op. 58. Tác phẩm này được
ông sáng tác trong hai năm 1876 và 1877. Linh mục nhạc sĩ Kim Long
cũng đã sáng tác bài Mẹ đứng
đó, để diễn tả hành trình Đức Tin của Mẹ dưới chân cây Thánh Giá
đau khổ biết chừng nào: Mẹ đứng đó khi hoàng hôn tím màu, nhạc thương trầm buồn
hắt hiu, đồi cao u hoài loang máu đào, con Chúa đau thương treo trên thập giá,
hiến thân vì nhân loại tội tình. Mẹ đứng đó, tâm hồn tê tái sầu, hiệp thông
cùng con dấu yêu, vì thương nhân loại bao khốn cùng, xin dẫn đưa bao tâm hồn lạc
hướng về bên Mẹ, Mẹ ơi.
Bản gốc La-tinh (Stabat Mater Dolorosa) được phỏng dịch qua tiếng
Việt thì như sau:
“Mẹ đứng dưới chân thánh giá con yêu,
Tâm can nát tan Mẹ chết trăm chiều,
Gần bên Chúa trong giờ tử nạn.
Mẹ diễm phúc của Con một Cha,
Đấng tạo dựng đất trời,
Buồn thương và thảm thiết biết bao!
Đức Kitô chịu hành hạ trên cao,
Bên dưới Mẹ đứng nhìn xót xa,
Thấy Con chết anh hùng, tử đạo.
Hỡi những kẻ đi đường lơ đễnh,
Hãy trông xem Hiền Mẫu chúng ta
Đau xót nào sánh bằng của Mẹ?
Trái tim ai chịu nổi được không?
Chỉ một mình phụng vụ thánh đủ khả năng khai thác tốt đề tài này
và có thẩm quyền phổ biến cho mọi thời đại suy ngẫm vì lợi ích các linh hồn
thánh thiện. Giáo Hội yêu mến hình ảnh Mẹ Sầu Bi. Người ta có thể giải thích
bài ca Stabat Mater (Mẹ đứng kề thánh giá) là phản ánh chính Giáo Hội. Nó là
bài ca về lòng mẹ hiền tan nát và khổ đau vinh quang. Giáo Hội lục lọi các lời
tiên tri và hô lớn với ngôn sứ Giê-rê-mia lên tổ phụ mình rằng: ‘Tai họa ngươi mắc phải lớn quá rồi, lớn tựa trùng
dương ai chứa nổi?’ (Ac
2,13). Hội Thánh áp dụng lời này cho Mẹ Sầu Bi, như khi nói về Đức Giêsu, Hội
Thánh áp dụng thân phận cô gái héo hắt Sion: ‘Này tất
cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem, có nỗi khổ nào so sánh được với nỗi khổ
Đức Chúa giáng trên tôi?’ (Ac
1,12).
Quả thực Đức Maria là duy nhất trong mọi sự…Đức Mẹ vượt xa trên
các thụ tạo khác trong liên hệ với định mệnh con người cả về công nghiệp, thống
khổ và vinh quang tương lai. Đức Maria vừa là người Nữ đồng trinh, vừa là Mẹ và
là Đấng Đồng công. Ngài là bông hoa chỉ mở cánh ra vì Thiên Đàng mà thôi, Ngài
là mặt trăng chiếu sáng trần gian, là mạch suối tuôn trào đức trong sạch, là luống
cầy ban tặng bánh hằng sống cho nhân loại lớn lên. Lạy Mẹ, chính từ lòng Mẹ mà
sự sống đời đời đã đến với thế giới. Bởi vì Đấng sinh ra cho chúng con đã chọn
Mẹ làm hiền mẫu (Kinh Ave Maris Stella – Kính chào Ngôi Sao Biển)”.[2]
Sự hiện diện và đau khổ tột cùng của Mẹ, một đàng diễn tả tình Mẹ
dành cho Chúa Giê-su đang bị những người ác nhân kết liễu cách hãi hùng, đàng
khác diễn tả sự quyết tâm sống lời xin vâng của Mẹ. Khi Mẹ nói lời xin vâng với
Thiên Chúa qua sứ thần Gabriel, Mẹ đã sẵn sàng đi vào con đường mà Thiên Chúa
đã chuẩn bị cho Mẹ. Ngoài ra, ở tại cây Thánh Giá, nơi con Mẹ đang bị treo đau
đớn, lời xin vâng của Mẹ mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Sự hiện diện của Mẹ bên Thánh
Giá cho thấy, Mẹ quyết tâm chia sẻ trọn vẹn sứ mạng và hy lễ cứu độ của Con Mẹ
là Chúa Giê-su. Mẹ muốn tham dự vào tận đáy sâu thẳm những thống khổ mà Chúa
Giê-su chịu. Mẹ không khước từ lưỡi gươm cụ già Si-mê-on ngày xưa tiên báo cho
Mẹ: “Còn chính bà, một lưỡi gươm
sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc
2,35b). Mẹ luôn nói lời xin vâng với Thiên Chúa, cụ thể trong chương trình huyền
nhiệm của Chúa Cha dành cho Chúa Ki-tô.
Phần cuối cùng của Phúc Âm thứ tư, thánh sử Gio-an còn diễn tả một
hình ảnh thật xúc động: Từ trên Thánh Giá, Chúa Giê-su đã trăn trối Mẹ mình cho
Gio-an, người môn đệ mà Chúa thương yêu, và trăn trối Gio-an như là đại diện
cho Mẹ mình, người nữ tỳ của lòng thương xót (x.Ga 19,26tt). Dưới chân Thánh
giá, Mẹ đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn Mẹ qua lời trao gởi của Chúa
Giê-su: Thưa Bà,
đó là con bà. Chúa Giê-su muốn Mẹ đón nhận Thánh Gio-an là người
môn đệ Chúa yêu thương, trở thành đứa con của Mẹ. Chúa muốn đem lại cho Gio-an
một mái ấm mới, một quê hương mới với người Mẹ luôn yêu thương chăm sóc con
mình.[3] Nói cách khác, vào lúc đầu tiên của biến
cố nhập thể, thiếu nữ thành Na-da-rét đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, thì trong những
giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giê-su – Con Mẹ, Mẹ trở thành Mẹ của những
người tin, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của nhân loại, người Mẹ luôn thương xót con cái của
mình. Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) nói rằng: “Ðức Trinh Nữ tiến
bước trong cuộc lữ hành Đức Tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên
Thánh Giá, là nơi theo ý Thiên Chúa, Mẹ đã đứng ở đó (x.Ga 19,25). Ðức
Maria chịu đau khổ kinh khủng với người Con duy nhất của mình, dự phần vào hy lễ
của Con, với tâm tình của người mẹ ưng thuận hiến dâng lễ vật do lòng mình sinh
ra, để cuối cùng khi hấp hối trên Thánh Giá, Chúa Giê-su Ki-tô đã trối Mẹ làm Mẹ
của môn đệ:Thưa Bà, này là con Bà (Ga
19,26-27)” (số 58).[4]
Ở gốc cây biết lành biết dữ, Evà đã mất chức làm mẹ loài người.
Ở dưới chân Thánh giá, Đức Mẹ đón nhận chức vị làm Mẹ loài người.
Là Mẹ loài người và là Mẹ Chúa Giê-su, đó là nét đẹp tuyệt vời
nơi Mẹ. Chúa Giê-su đã vẽ lên một tuyệt phẩm về chính người Mẹ của mình, và
Ngài cũng trao gởi tuyệt phẩm này cho chính môn đệ yêu dấu của Ngài, và cũng
trao gởi cho mỗi người chúng ta. Như thế, qua hành động của Chúa Giê-su, Giáo Hội
đã khám phá đôi chút về mầu nhiệm đời sống Ki-tô hữu. Tín hữu là thành viên của
một gia đình thiêng liêng. Cũng như một đứa trẻ cần có cha có mẹ để phát triển
bình thường, thì tín hữu cũng cần có Đức Maria và Cha trên trời.[5]
Đó là Mẹ của con. Khi đọc lời trên của Chúa Giê-su,
chúng ta thấy rằng, trong cái nhìn đầu tiên mang tính con người, Chúa Giê-su đã
diễn tả tình yêu của mình dành cho Mẹ Maria. Chúa là Người Con duy nhất của Mẹ,
và sau khi Chúa chết, Mẹ sẽ sống lẻ loi một mình trên thế giới này. Có lẽ vì lo
cho người Mẹ đang chịu nhiều đau khổ và mất mát, Chúa đã trao gởi Mẹ cho người
môn đệ mà Chúa tin tưởng và thương yêu. Gio-an, tên người môn đệ đó, giờ đây trở
nên người con trai của Mẹ, và Gio-an cần phải có trách nhiệm với Mẹ Maria.[6] Điều Chúa Giê-su làm thật là một cử chỉ
cao quý. Có lẽ thánh Giuse đã qua đời trước đó, nên Chúa không muốn Mẹ mình phải
sống trong cảnh goá phụ bị lệ thuộc và cô đơn, cũng như bị người đời nguyền rủa,
bởi vì trong xã hội Do Thái thời đó người phụ nữ đơn chiếc là coi như người bị
nguyền rủa.
Chúa không muốn người phụ nữ quá đau đớn vì mất con, và đã phải
trải qua biết bao thống khổ khi đồng hành với con trên đường Thánh Giá, lại phải
một mình chìm trong nỗi đau khổ tột cùng, trong những tháng ngày còn lại của
bà. Cũng thật cao quý biết bao, khi Chúa Giê-su trong hoàn cảnh đau khổ của
mình trên Thánh Giá, Ngài đã không nghĩ làm sao để Ngài có thể đỡ đau đớn, mà
Ngài lại quên mình đi, và nghĩ tới Mẹ mình, nghĩ tới người khác đang đứng kia với
một tâm hồn sầu não thảm thê. Đó là tình yêu của Chúa dành cho Mẹ. Một tình yêu
không chỉ mang sắc thái của cảm tính, mà còn mang tinh thần quên mình đi, và
luôn chú ý và chăm sóc người khác, người gần nhất cũng như người xa nhất.
Trong chính bầu khí của khổ đau, không cần nhiều lời, chỉ một
vài lời ngắn ngủi, Chúa đã đưa lại biết bao ủi an cho Mẹ mình, đã tháo cởi chiếc
dây trói buộc khổ đau vào cuộc đời của Mẹ: Đó là Mẹ
của con. Ngay trong bầu khí khổ đau này, Chúa đã tạo nên một tương
quan mới cho Mẹ mình. Trong chính bầu khí của khổ đau, một bầu khí của tình yêu
đã được khơi mào, dù rất nhỏ nhưng thật quý giá. Và với thời gian, bầu khí của
tình yêu này đã lớn dần và mạnh mẽ, lan toả đến khắp mọi nơi. Bầu khí tình yêu
của Mẹ dành cho nhân loại, giờ đây không bao giờ đóng cửa với bất cứ ai. Tình Mẫu
Tử này thật cao quý, vì thế tình của mỗi người con dành cho Mẹ cũng cần phải
cao quý như vậy.
Khi Chúa Giê-su trao phó cho Gio-an Mẹ của Người, Gio-an đã phản
ứng như thế nào? Đọc phần kế tiếp, ngay sau lời Chúa nói với Gio-an, chúng ta
thấy rằng: “Kể từ giờ
đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27b). Trong bản văn của tiếng
Hy-lạp là eis ta
idia. Theo Cha Anselm Gruen, thì có nghĩa là vào trong nội tâm của
anh, vào trong trái tim của anh.[7]Còn theo Đức Benedicto XVI, thì có nghĩa
theo mạch chữ là anh ta đón nhận Mẹ vào trong nơi sâu kín của anh, vào cuộc sống
nội tâm của anh.[8] Và
theo nhà Thánh Kinh học Schnackenburg cũng vậy. Từ ngữ eis ta idia diễn tả không gian của tâm hồn.[9] Gio-an đã mở rộng cánh cửa đón mời Mẹ
Maria vào. Cánh cửa đó không chỉ là cánh cửa nhà của ông, mà là cánh cửa tâm hồn
sâu kín của ông. Như thế, Gio-an đã sống đúng điều mà Chúa Giê-su nhắn nhủ ông.
Có thể nói rằng, khi Chúa nói “đây là Mẹ
của con”, Ngài cũng muốn Gio-an hãy yêu thương Mẹ như Chúa đã yêu
thương Mẹ.
Hơn nữa, qua lời trăn chối này Chúa Giê-su cũng đã đặt nền tảng
cho việc yêu mến Mẹ Maria trong lòng Giáo Hội, trong lòng mỗi tín hữu. Thật vậy,
tín hữu nào đón nhận Mẹ Maria vào nhà mình, vào tâm hồn sâu kín như Gio-an, sẽ
không trở thành kẻ cuồng tín hay khờ khạo, nhưng họ trở là những tín hữu với
tâm hồn khiêm tốn, đơn sơ, tràn đầy hân hoan và niềm vui tôn kính và yêu thương
Mẹ Maria như hiền mẫu của mình. Công Đồng đã dạy rằng: “Phần các tín hữu hãy nhớ
rằng, lòng tôn sùng chân chính không hệ tại ở tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng
không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một Đức Tin chân thật.
Đức Tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc
đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng
ta” (LG 67).[10]
Một trong những nhân đức cao quý của Mẹ là luôn thờ lạy Thiên
Chúa và luôn xin vâng theo thánh ý của Ngài. Vì thế, đi đôi với sự tôn sùng Mẹ
Maria, tín hữu luôn ý thức thờ lạy Thiên Chúa trên hết mọi sự, và thờ lạy Ngài
là Thiên Chúa Duy Nhất. Đó chính là nét đặc trưng của người Công Giáo: biết đón
nhận Mẹ Maria, nhưng không vì thế mà lãng quên Thiên Chúa. Khi đón nhận Mẹ
Maria, tín hữu ý thức đó là món quà vô giá mà chính Chúa Giê-su ban tặng. Thật
tuyệt vời, khi tín hữu nhận ra rằng: Vì yêu thương nhân loại quá đỗi, nên Cha
trên trời đã tặng ban Người Con Duy Nhất của Ngài cho nhân loại. Giờ đây, Người
Con Duy Nhất yêu thương nhân loại đến nỗi hy sinh chính bản thân mình cho nhân
loại, và ban tặng thêm một món quà cao quý là chính Mẹ của Ngài.
Vì thế, chúng ta xin Chúa cho chúng ta biết luôn mở rộng cánh cửa
nhà mình, cánh cửa tâm hồn mình, để như Gio-an đón Mẹ Maria vào, dọn cho Mẹ một
chỗ xứng hợp. Có Chúa có Mẹ, thì đời sống tín hữu sẽ không bao giờ lẻ loi. Có
Chúa có Mẹ, tín hữu sẽ tìm thấy được an bình và hạnh phúc đích thật. Có Chúa có
Mẹ ở bên, tất cả mọi khổ đau của cuộc đời này sẽ không thể làm cho tín hữu đánh
mất chính bản thân và cuộc sống của mình. Chữ cuối cùng của cuộc sống này sẽ
không phải do thần chết viết lên, mà do chính Chúa và Mẹ viết lên. Chữ đó là chữ
thương xót trao ban sức sống và đem lại sự sống vĩnh cửu.
Cuối cùng, hình ảnh của Mẹ ôm xác Chúa Giê-su vào lòng đã trở
thành một bức tranh tràn đầy tình yêu thương, lòng thương xót của Mẹ. Ai bước
vào đền thờ Thánh Phê-rô ở Rôma đều phải dừng bước trước bức tượng Pieta nổi tiếng
của Michelangelo, để chiêm ngắm không chỉ những đường nét nghệ thuật tuyệt vời,
mà còn khám phá được chiều sâu của lòng thương xót được tích tụ nơi người Mẹ
cao quý. Với Kasper, việc Mẹ Maria ôm con đã chết vào lòng mình diễn tả trải
nghiệm lớn nhất nhất về sự đau đớn mà Mẹ phải chịu. Nơi đây, Mẹ không chỉ đón
nhận sứ điệp của các Mối Phúc, mà Mẹ – nữ tỳ của lòng thương xót, còn sống động
các Mối Phúc đó. Mối Phúc của nghèo khó, Mối Phúc của đau buồn, Mối Phúc của
bách hại, Mối Phúc của lòng thương xót (x.Mt 5,1-12).[11]
Một số đoạn Tin Mừng nhắc đến Mẹ Maria, từ nhiều thế kỷ, đã tìm
thấy được một chỗ đặc biệt trong lòng của các tín hữu. Tinh thần đạo đức kính mến
Mẹ Maria của các tín hữu là câu trả lời sống động cho vai trò của Mẹ, nữ tỳ
lòng thương xót của Thiên Chúa, và cũng là tiếng vang lan toả khắp mọi nơi.
Tinh thần kính mến Mẹ Maria và tiếng vang này tương hợp với chính lời của Mẹ đã
thốt lên: “Từ nay,
hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48b).
Một trong những điều quan trọng trong tín lý liên quan đến Đức Mẹ
mà Công Đồng Ê-phê-sô (431) nhắc tới, là việc Mẹ Maria được diễn tả là “Người Mẹ
sinh ra Thiên Chúa”. Ở đây, điều quan trọng là tính cách Ki-tô học được nêu bật,
nghĩa là đụng tới câu hỏi mà thời đó đã tranh cãi, là Chúa Giê-su có phải là
con Thiên Chúa hay không. Như thế, vai trò của Mẹ Maria đã luôn được nhắc tới
trong sự liên hệ với với Chúa Ki-tô. Theo tinh thần nền tảng này, thì việc tôn
kính Mẹ Maria tìm được cách thức đúng đắn nhất và hữu ích nhất.
Dựa trên tinh thần nền tảng này, mà nhiều lời cầu nguyện, các
thánh thi và các bài thánh ca đã được các nhà đạo đức và thiêng liêng học viết
ra để ca tụng tôn vinh Đức Mẹ. Các nghi thức Phụng Vụ là một chứng minh cụ thể.
Vào năm 300, đã có một lời cầu nguyện tôn vinh Mẹ Maria, người Mẹ giàu lòng
thương xót: “Lạy Mẹ rất thánh sinh ra Thiên Chúa, dưới bóng cánh và dưới sự chở
che của Mẹ, chúng con xin chạy đến để ẩn náu”, và trong ý nghĩa nguyên thủy là:
“Lạy Mẹ rất thánh sinh ra Thiên Chúa, chúng con xin ẩn náu dưới lòng thương xót
của Mẹ”.[12]
Ngoài ra, một rong những lời cầu nguyện nổi bật nhất diễn tả lời
kêu cầu xin lòng thương xót của Mẹ là bài hát Salve
Regina – Kính chào Ðức Nữ Vương mà
Giáo Hội đã đưa vào giờ kinh tối trong Kinh Phụng Vụ: Kính chào Ðức Nữ Vương, Bà
là Mẹ xót thương, ngọt ngào cho cuộc sống. Kính chào Lẽ Cậy Trông! Này con cháu
E-và, thân phận người lưu lạc, chúng con ngửa trông Bà, kêu Bà mà khóc lóc,
than thở với rên la, trong lũng đầy nước mắt. Bà là Nữ Trạng Sư, nguyện đưa mắt
nhân từ, phía đoàn con đoái lại; và sau đời khổ ải, xin Bà khứng tỏ ra, cho
đoàn con được thấy, quả phúc bởi lòng Bà: Ðức Giê-su khả ái. Ôi lượng cả khoan
hồng, ôi tấm lòng xót thương, ôi dịu hiền nhân hậu, Trinh Nữ Maria.
Lời cầu nguyện này tính tới hôm nay đã 900 tuổi. Người thốt lên
lời cầu nguyện này, có lẽ đã trải qua những kinh nghiệm thật khổ đau. Trong
hoàn cảnh đau khổ đó, tín hữu này đã chạy đến với Mẹ Maria và kêu cầu cùng Mẹ
giàu lòng thương xót. Tín hữu này là chân phước Hermann sống trong thế kỷ thứ
11. Từ khi 07 tuổi, Hermann đã sống trong tu viện trên đảo Reichenau, Bodensee,
Đức Quốc. Đọc lịch sử về chân phước Hermann, chúng ta thấy rằng, ngay từ nhỏ,
Hermann đã bị tàn tật, và nếu không có sự giúp đỡ của người khác thì không thể
bước đi được. Các bạn đã gọi Hermann là thằng gù, bởi Hermann không thể đứng thẳng
lên được. Trong hoàn cảnh bất hạnh này, Hermann đã đi tìm sự ủi an và sức mạnh
trong cầu nguyện, và Thiên Chúa nhân hậu đã ban cho Hermann nhiều ơn lành.
Trong những tài liệu về đời sống thiêng liêng mà Hermann để lại, có thể tìm thấy
những lời cầu nguyện với Mẹ Maria của Hermann. Một trong những lời cầu nguyện
đó là lời kinh Salve
Regina.
Với lời kinh Salve
Regina chúng ta cảm
nhận rằng, như ngày xưa sứ thần Gabriel chào Đức Mẹ trong biến cố truyền tin thế
nào, chúng ta cũng kính chào Mẹ Maria như vậy: Kính chào Ðức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương, ngọt
ngào cho cuộc sống. Kính chào Lẽ Cậy Trông! Lời chào này diễn tả khuôn mặt
thật đẹp của Mẹ Maria. Mẹ vừa là Nữ Vương của chúng ta, vừa là người Mẹ giàu
lòng thương xót, và chúng ta được phép cậy trông vào Mẹ, vì Mẹ luôn cầu bầu cho
chúng ta, và với tấm lòng thương xót bao la, Mẹ luôn đưa lại cho cuộc sống
chúng ta sự an ủi ngọt ngào, đặc biệt trong những khi chúng ta rơi vào trong thử
thách, trong khổ đau và bất hạnh. Vì thế, trong hành trình lưu lạc trên dương
thế này, chúng ta những người con của Evà cũ, được phép hướng nhìn và kêu cầu
cùng Evà mới bất cứ lúc nào và như thế nào. Lời kêu cầu đó có là rên la, với nước
mắt, thì Mẹ Maria đều lắng nghe và đoái nhìn tới. Thật vậy, đôi tai của Mẹ
Maria luôn lắng nghe những lời kêu than của con cái khổ đau. Đôi mắt của Mẹ
không bị mù tối trước những phận người bất hạnh đang lê bước và lưu lạc trên
dương thế này. Mẹ Maria giàu lòng thương xót luôn hiện diện và bầu chữa cho
chúng ta. Không chỉ dừng ở sự an ủi đó, Mẹ còn đưa chúng ta đến gặp Chúa
Giê-su, quả phúc bởi lòng Mẹ, Đấng là nguồn mạch của lòng thương xót. Vì thế,
cùng với chân phước Hermann, chúng ta được phép cao rao lời tung hô Mẹ: Ôi lượng cả khoan hồng, ôi tấm lòng xót thương, ôi
dịu hiền nhân hậu. Trinh Nữ Maria.
Ngoài ra, trong thế kỷ thứ 12, Mẹ Maria còn được mọi người kêu cầu
đến như là người Mẹ
của lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng chữa lành các người bệnh hoạn, nơi trú
ẩn cho kẻ tội lỗi, niềm an ủi cho những người bất hạnh, và Đấng hằng Cứu Giúp
các tín hữu. Thánh
Irene thành Lyon trong thế kỷ thứ 2 đã gọi Mẹ Maria là Đấng tháo nút rối mà Evà
cũ đã làm cho bị rối qua sự bất tuân Thiên Chúa. Vì thế, Mẹ Maria đã trở thành
chuyên gia tháo cởi những nút rối bời trong cuộc sống của các tín hữu, nút rối
trong cuộc sống cá nhân, nút rối trong tương quan với người khác, và cả nút rối
bởi tội lỗi và lầm lỡ đã gây ra. Có một hình ảnh khác gắn liền Mẹ Maria với
tinh thần của lòng thương xót: Mẹ Maria với chiếc áo choàng của lòng thương
xót. Nếu đi đến nước Đức và nước Áo, đặc biệt phía Nam nước Đức, chúng ta có thể
tìm thấy trong một số nhà thờ Công Giáo cổ những tấm hình hay những bước tượng
chạm trổ hoạc điêu khắc hình ảnh của Mẹ Maria với chiếc áo choàng thật lớn. Mẹ
giang rộng áo choàng nhân ái để cho biết bao người tìm đến và trú ẩn. Trong tập
sách Gotteslob – Ca ngợi Thiên Chúa, được sử dụng cho việc hát cộng đồng trong
Thánh Lễ, trong tất cả các nhà thờ của Giáo Hội Công Giáo ở Đức, có một bài hát
diễn tả hình ảnh này. Bài hát này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1640, ở
Innsbruck, Áo Quốc, do một tác giả vô danh. Sau đó, bài hát này đã được các tín
hữu ưa chuộng và lan rộng khắp nơi trong vùng nước Đức và Áo. Theo Kasper, bài
hát này đã được các tín hữu hát lên thật sốt sắng trong chiến tranh thế giới thứ
Hai ở Đức và Áo.[13] Một
vài câu trong bài hát diễn tả sống động hình ảnh của Mẹ Maria với chiếc áo
choàng của lòng thương xót:
Lạy Mẹ Maria, xin hãy giang rộng áo
choàng, xin hãy là khiên che và thuẫn đỡ chúng con. Xin cho chúng con được trú ẩn
an toàn dưới áo Mẹ, cho đến khi mọi gió bão qua đi. Lạy Đấng Bảo Trợ và tốt
lành, xin chở che chúng con mãi mãi.
Ôi lạy Mẹ của lòng thương xót, xin
hãy giang rộng áo choàng, trong mọi lúc và trước mọi hiểm nguy, xin gìn giữ
chúng con trú ẩn dưới áo Mẹ. Lạy Đấng Bảo Trợ và tốt lành, xin chở che chúng
con mãi mãi.[14]
Ngoài ra, hình ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp rất quen thuộc với tín hữu
Công Giáo Việt Nam, cũng là một đặc trưng diễn tả lòng thương xót của Mẹ Maria.
Vẫn nhớ thời ấu thơ, mẹ tôi luôn cầu nguyện với Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cho gia
đình và cho mỗi đứa con được bình an và được lớn lên trong sự chở che giúp đỡ của
Mẹ Maria, Đấng hằng cứu giúp. Không ít người Công Giáo Việt Nam, khi gặp hiểm nguy,
hay khi rơi vào trong những hoàn cảnh bất hạnh, đều ôm ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp vào
lòng, và cầu xin Mẹ thương xót chở che, nâng đỡ, để vượt qua đại dương của cuộc
đời với biết bao sóng to gió bão đang đe doạ mỗi ngày. Khi còn thanh niên, cùng
với các bạn chúng tôi đi giúp một giáo điểm truyền giáo ở quê hương. Xung quanh
ngôi thánh đường nhỏ bé thời đó là biết bao anh chị em lương giáo khác. Kế bên
thánh đường là một cái ao nhỏ. Trước đây, vị linh mục đầu tiên đặt chân đến mảnh
đất này đã tìm thấy tấm hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được khắc bằng đá ở dưới một
cái ao, và đã bị vỡ ra thành một số mảnh. Với tất cả lòng tôn kính Mẹ Maria,
cha đã cùng anh chị em gắn lại tấm hình Đức Mẹ, và mọi tín hữu trong vùng đó
tin rằng, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đã và đang tiếp tục chở che mọi người trong giáo
điểm, và bây giờ đã trở thành một giáo xứ.
Một mẫu hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nổi tiếng dịu dàng bế Chúa
Giê-su hài đồng trên tay là mẫu hình thuộc trường phái nghệ thuật Đông Phương –
Ikone. Mẫu hình nổi tiếng này thường được gọi là Wladimirskaja, được vẽ vào thế kỷ thứ
12, tại Konstantinopel. Hiện nay, tấm hình gốc Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – Wladimirskaja được giữ trong viện bảo tàng nghệ thuật
Tretjakow – Mạc tư Khoa. Cũng có nhiều bức hình hoạ theo kiểu mẫu này đã được
các nghệ nhân vẽ trong thời gian sau này ở nhiều nơi khác nhau.[15]
Tất cả những bài thánh ca, những lời cầu nguyện và các tác phẩm
nghệ thuật diễn tả Mẹ Maria với lòng thương xót vô bờ, đã làm rung động biết
bao nhiêu tâm hồn. Thánh tiến sĩ Ambrosius cũng đã nêu bật hình ảnh của Mẹ
Maria là nguyên mẫu – nguyên bản (Typos) của Giáo Hội. Công Đồng Vaticanô II
cũng đã nhắc đến điều này. Là người đầu tiên được cứu rỗi, Mẹ Maria thật là
nguyên mẫu. Nghĩa là Mẹ là nguyên mẫu của mọi người được Thiên Chúa cứu rỗi. Là
Mẹ của Đấng Cứu Thế, thì Mẹ cũng là Mẹ của tất cả mọi người được cứu rỗi.[16] Công Đồng Vaticanô II diễn tả như sau:
“Với tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên
dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh
phúc quê trời” (Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội, s.62). Không chỉ dừng ở đó, Giáo Hội
còn đi thêm một bước, khi xác tín rằng: “Vì thế, trong Giáo Hội, Ðức Nữ Trinh
được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung
Gian” (Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội, s.62).
Trong niềm tin tưởng và với lòng tôn kính Mẹ Maria, người Nữ Tỳ
lòng thương xót của Thiên Chúa, người Mẹ luôn hằng cứu giúp con cái của mình,
các tín hữu luôn cầu xin với Mẹ Maria: “Xin cầu cho chúng con là kẻ có tội, bây
giờ và trong giờ lâm tử”. Cũng xin Mẹ cho mỗi tín hữu luôn biết hướng nhìn lên
Mẹ, nguyên mẫu của lòng thương xót, để cùng với Mẹ thực thi nền văn hoá của
lòng thương xót trong đời sống thường ngày, ngay trong xã hội tục hoá này. Qua
đó, vinh quang của Thiên Chúa và thánh ý của Ngài được thể hiện rõ rệt hơn nữa
trên dương thế, thánh ý của vị Mục Tử đầy lòng thương xót luôn đi tìm ơn cứu rỗi
cho đàn chiên của mình.
Mối Phúc về lòng thương xót là Mối Phúc nền tảng và quan trọng,
vì Mối Phúc này đưa chúng ta về lại với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót.
Ngài đã thương xót nhân loại chúng ta, đến nỗi đã ban Chúa Giê-su, người con
duy nhất của Ngài cho chúng ta. Chính Chúa Giê-su đã thực thi lòng thương xót của
Thiên Chúa một cách sống động không chỉ trong lời giảng mà trong cả hành động của
Ngài. Hành động của lòng thương xót đạt được cao điểm ở tại cây Thánh Giá. Chúa
Giê-su cũng mời gọi mọi tín hữu, những người con tin tưởng vào Ngài ý thức sống
tinh thần xót thương như Ngài đã sống. Ngài đã ban cho các tín hữu người Mẹ yêu
dấu của Ngài, Mẹ Maria, Nữ Tỳ lòng thương xót của Thiên Chúa, để các tín hữu có
thể chạy đến với Mẹ, và Mẹ sẽ dẫn họ đến với con của Mẹ là Chúa Giê-su. Ngoài
ra, lòng thương xót mà Chúa Giê-su mời gọi các tín hữu sống không chỉ mang chiều
kích cá nhân, mà còn mang chiều kích tập thể. Nghĩa là Giáo Hội của Chúa, là
thân thể mầu nhiệm của Đức Ki-tô cũng cần trở nên Giáo Hội của lòng thương xót.
Có như thế, thì muôn muôn người trên thế giới này sẽ tìm thấy được ơn cứu rỗi,
khi gặp được và chạm được chính Đấng là nguồn của lòng thương xót. Để tiếp tục
phần suy niệm các Mối Phúc, xin được chuyển tiếp qua Mối Phúc kế tiếp về sự
trong sạch của tâm hồn. Những tâm hồn biết thương xót luôn là những tâm hồn
trong trắng tuân theo thánh ý của Thiên Chúa.
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ
[1] X.
KASPER W., Barmherzigkeit,
t.203-205.
[2] SERTILLANGES
A.D., What Jesus saw from the
cross – Từ trên thập tự, Fr. Thomas Tuý OP. Chuyển ngữ,
chương 7. Người thân yêu.
[3] RATZINGER
J., Benedikt XVI, Jesus von
Nazareth II, t.244.
[4] Thánh
Công Đồng chung Va-ti-ca-nô II, Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, Đà-lạt 1972,
t.246.
[5] Chú
thích Ga 19,25 của HURAULT B., trong Lời Chúa
cho mọi người, Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, t.1862.
[6] RATZINGER
J., Benedikt XVI, Jesus von
Nazareth II, t.244.
[7] X.
GRUEN A., Sieben
Schritte ins Leben, E-book, phần 3: Das dritte Wort Jesu am Kreuz –
die Quelle der Liebe.
[8] X.
RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von
Nazareth II, t.244.
[9] SCHNACKENBURG
R., Das Johannesevangelium,
III.Teil, t.325.
[10] Thánh
Công Đồng chung Va-ti-ca-nô II, t.249.
[11] X.
KASPER W., Barmherzigkeit,
t.206.
[12] X.
KASPER W., Barmherzigkeit,
t.208.
[13] X.
KASPER W., Barmherzigkeit,
t.210.
[14] X.
Das katholische Gesangbuch Gotteslob,
Katholische Bibelanstalt, Stuttgart 1975.
unter der Nummer 595.
[15] X.
KASPER W., Barmherzigkeit,
t.209.
[16] X.
KASPER W., Barmherzigkeit,
t.210-211.