Gợi ý
mục vụ năm 2017:
Đức Giáo hoàng và các Nghị phụ
Thượng Hội Đồng Giám mục khuyến nghị các cộng đoàn Kitô hữu, đặc biệt tại các
giáo xứ và giáo phận: “Thực tại xã hội phức tạp và những thách đố mà ngày nay
các gia đình đang phải đối diện đòi hỏi toàn thể cộng đoàn Kitô hữu dấn thân
hơn nữa trong công việc chuẩn bị cho các đôi bạn sắp kết hôn”[1].
“Tôi mời gọi các cộng đoàn Kitô hữu hãy nhận biết rằng việc đồng hành với những
người đính hôn trong hành trình tình yêu của họ là một việc thiện ích cho chính
họ”[2].
Các đức Giám mục Việt Nam, cũng theo hướng mục vụ chung quan tâm đến gia đình,
nhấn mạnh sự quan trọng của công tác chuẩn bị hôn nhân cho những người trẻ, đặc
biệt trong năm 2017: “Kết hôn là một quyết định rất quan trọng, vì thế cần được
chuẩn bị chu đáo hết sức có thể. Trong thực tế ngày nay, một số người trẻ chỉ
quan tâm đến việc tổ chức lễ cưới thật lớn, mà không hiểu biết đầy đủ về trách
nhiệm trong đời sống hôn nhân. Một số khác, vì vất vả với cuộc mưu sinh, ít có
thời giờ để chuẩn bị kỹ lưỡng cho đời sống hôn nhân họ sắp bước vào. Vì thế, cần
khuyến khích người trẻ tham dự những lớp chuẩn bị hôn nhân, đồng thời các giáo
xứ phải tổ chức chương trình cho chu đáo”[3].
Để giúp các cộng đoàn chuẩn bị
cho các bạn trẻ bước vào hôn nhân, đặc biệt cho các gia đình, vì “thực ra, mỗi người đều chuẩn bị cho cuộc hôn nhân
ngay từ lúc sinh ra. […] những
người được chuẩn bị kết hôn tốt nhất là những người đã học được từ chính cha mẹ
mình thế nào là một hôn nhân Kitô giáo”[4], chúng tôi gợi lại một số chủ đề huấn giáo cơ bản cho
Hôn nhân, trải ra mỗi tháng trong năm mục vụ 2017.
Mục
đích: để
nhận biết thời kì đính hôn, thời gian chuẩn bị hôn phối, là thời gian của ân sủng
và tăng trưởng để sống có trách nhiệm.
Xưa nay chúng ta vẫn biết đây
là thời kì đôi bạn sống trong niềm hân hoan và với cả những khó khăn, để hiểu
biết nhau sâu đậm hơn và với cả những hiểu lầm, khó hiểu về nhau. Nếu thời kì
này được sống cách nghiêm túc và trưởng thành, đó sẽ là thời gian thuận lợi cho
đôi bạn đối diện và đối thoại với nhau, cùng tiến tới trên hành trình tăng trưởng
nhằm xây dựng quan hệ lứa đôi.
Thời đính hôn được xem như là
thời gian của trách nhiệm. Thật vậy, trong viễn cảnh của ơn gọi, đây là thời
gian thuận tiện để làm sáng tỏ hơn lần đầu tiên ơn gọi cá nhân đi đến kết hôn với
người bạn của mình. Đây là một quyết định tạo khoảng không gian để kiểm nghiệm
sau đó hướng tới lời ưng thuận dứt khoát mà hai người sẽ tuyên bố trong ngày cử
hành hôn phối. Trách nhiệm của đôi bạn đính hôn được biểu lộ qua việc xây dựng
mối quan hệ của họ ngày càng bền chặt, nhưng cũng đòi hỏi phải nuôi dưỡng và củng
cố mối quan hệ thời kì này bằng một tình yêu thanh khiết.
Hôn nhân là một ơn gọi (x. 1Cr 7,7.17), là tiếng Chúa kêu gọi mỗi
người theo mỗi cách. Nó được ghi khắc trong ơn gọi bẩm sinh và nền tảng của mỗi
người hướng đến tình yêu. Đó là ơn gọi bởi vì ở nguồn cội của nó là một hành động
vĩnh cửu tiền định cho ta nên giống hình ảnh của Chúa Giêsu: Thiên Chúa đã yêu
dấu và quí mến tưởng nghĩ đến chúng ta như là hình ảnh Con của Ngài theo ơn huệ
và đặc sủng tiêu biểu của đời đôi bạn. Chúa Thánh Thần hoạt động trong mầu nhiệm
ơn gọi hôn nhân này làm sao để hai người được nên đồng hình đồng dạng với Đức
Kitô theo đặc sủng tình yêu phu thê. Tất cả những điều này được dần dần tỏ lộ
ra trong thời gian, cách riêng trong thời kì đính hôn, chúng còn được hiểu và sống
như là thời gian để chứng nghiệm ơn gọi này. Toàn bộ cuộc hành trình rồi sẽ đi
tới lúc hai người tuyên bố long trọng và đóng dấu ấn dứt khoát trong cử hành bí
tích hôn phối và đòi hỏi phải được sống trong cuộc sống hôn nhân và gia đình mỗi
ngày.
Thời đính hôn chính là thời
gian để khám phá để rồi sống những điều ấy. Như thế, đây là thời gian của ân sủng:
một ơn huệ Thiên Chúa ban cho các người trẻ, nam cũng như nữ. Với ơn ấy, các bạn
trẻ có khả năng làm triển nở tình yêu của họ đến mức trưởng thành, họ học tập
nhìn và sống tình yêu ấy như một sự thông dự vào tình yêu của Đức Kitô bằng
cách học hướng đến chính lí tưởng yêu thương ấy.
Thời đính hôn, theo viễn tượng
ấy là thời gian của tăng trưởng trong đức tin, cầu nguyện, tham dự vào đời sống
phụng vụ của Hội thánh…
Cộng đoàn Kitô hữu cảm thấy
vui mừng và có trách nhiệm giúp đỡ các đôi bạn sống thời kì đính hôn này và tạo
cơ hội ưu tiên cho việc suy nghĩ kĩ lưỡng tất cả những điều này. Chính vì yêu mến
và quí trọng những ai muốn kết hôn và kết hôn trong Hội thánh, cộng đoàn Kitô hữu
không thể chấp nhận những người sắp chọn đời sống hôn nhân mà lại không được
chuẩn bị cho thích đáng.
Được soi sáng bởi tông huấn Familiaris Consortio (1981) và tông huấn về Gia đình mới nhất Amoris Laetitia (Niềm Vui của Tình Yêu)
(2016), chúng tôi gợi lên những đề tài để thảo luận, học và sống cho hành
trình chuẩn bị này. Hành trình chuẩn bị hôn nhân cho đôi bạn diễn ra tại các buổi gặp gỡ huấn giáo như những nhịp
mạnh, thảo luận về một số chủ đề căn bản được dự liệu như sau:
1. Ý
nghĩa và giá trị của tình yêu và tính dục: Chúng
ta yêu nhau
2. Tình
yêu phu thê là đặc thù của hôn nhân: … chúng
mình kết hôn nhé
3. Hôn
nhân Kitô giáo là một bí tích: bằng một bí tích hôn phối cử hành
4. Được
cử hành và sống trong Chúa Kitô và trong Hội thánh: bởi những Kitô hữu.
5. Hôn
nhân từ góc nhìn tâm linh: Được kêu gọi
nên thánh
6. Và từ
góc nhìn luân lí, nhấn mạnh minh nhiên đến sự thủy chung, bất khả phân li, toàn
thể đời sống: chúng ta sẽ nên một xương một
thịt
7. Phong
nhiêu, cụ thể với đề tài sinh sản có trách nhiệm: và chúng mình sẽ sinh con
8. Gia
đình, một thực tại sinh ra từ hôn nhân, quan tâm đặc biệt đến việc tham dự vào
đời sống và sứ mạng của Hội thánh: Cùng
nhau tạo lập một gia đình, “Hội thánh tại gia”;
9. Và
quan tâm đến việc tham gia phát triển xã hội: trong xã hội.
Nội dung toàn thể các chủ đề
cần được đào sâu có thể cô đọng lại trong một công thức tổng hợp như sau:
Chúng
ta yêu nhau / nhiều để rồi đi đến kết hôn / bằng một bí tích hôn phối cử hành bởi
những Kitô hữu.
Được
kêu gọi nên thánh / chúng ta sẽ nên một xương một thịt / mở ngõ đón nhận sự sống.
Chúng
ta cùng nhau tạo lập một gia đình / “Hội thánh tại gia” / trong xã hội.
Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắn
nhủ:
«Thực tại
xã hội phức tạp và những thách đố mà ngày nay các gia đình đang phải đối diện đòi hỏi toàn thể cộng đoàn Kitô hữu dấn thân hơn nữa trong việc chuẩn bị cho các đôi bạn sắp kết hôn» (206).
«Tôi mời
gọi các cộng đoàn Kitô hữu
hãy nhận biết rằng việc đồng hành
với những người đính hôn
trong hành trình tình yêu của họ là một việc thiện ích cho chính họ. Như các Giám mục Ý
đã nói rất đúng rằng những người kết hôn, đối với cộng đoàn Kitô hữu, là “một
nguồn tài nguyên quí giá vì, trong khi chân thành dấn thân lớn lên trong tình
yêu và tự hiến cho nhau, họ có thể góp phần đổi mới chính tấm áo dệt nên toàn bộ
thân thể Hội thánh» (207).
Của các
chương trình Chuẩn bị Hôn nhân là để giúp các đôi bạn đính hôn:
1.
khám phá
giá trị và sự phong phú của hôn nhân (205);
2.
nhận ra
được sự hấp dẫn của một kết hợp trọn vẹn, một kết hợp nâng cao và kiện toàn chiều
kích xã hội của cuộc sống, mang lại cho tính dục ý nghĩa cao trọng nhất của nó,
và đồng thời cổ võ thiện ích của con cái và tạo cho chúng hoàn cảnh tốt nhất để
được trưởng thành và giáo dục (205).
3.
Mỗi người
học cách yêu thương con người cụ thể kia, con người mà người đó muốn chia sẻ cả
cuộc đời (208).
4.
Có khả
năng cắt đứt quan hệ yêu đương nếu thấy trước nguy cơ hôn nhân thất bại. Giúp họ
nhận biêt những vấn đề và rủi ro có thể có. Họ cần trao đổi với nhau và giúp họ
“bày tỏ những gì mỗi người mong đợi nơi cuộc hôn nhân sắp tới, hiểu thế nào về
tình yêu và sự cam kết, mong muốn gì ở nhau, muốn cùng nhau xây dựng một lối sống
chung như thế nào. Những cuộc thảo luận như thế có thể giúp họ thấy trong thực tế
họ có rất ít các điểm chung, và thấy rằng sự hấp dẫn nhau thôi sẽ không đủ để kết
hợp với nhau. Không có gì bấp bênh, mong manh và bất ngờ cho bằng sự ham muốn,
và chúng ta không bao giờ nên khuyến khích một quyết định kết hôn nếu họ không
tìm thấy những lí do sâu xa khác khả dĩ bảo đảm giao ước ấy là thật sự và bền vững
(209).
5.
«Trong bất
kì trường hợp nào, nếu người này nhận ra rõ ràng các điểm yếu của người kia,
thì người ấy cần tin tưởng cách thực tế vào khả năng có thể giúp người kia phát
triển điểm tốt nhất của bản thân họ để cân bằng với đối trọng là những khuyết
điểm của họ, với mục đích kiên quyết là thăng tiến con người. Điều đó hàm ý chấp
nhận với cả quyết tâm khả năng phải đương đầu trước một vài hi sinh từ bỏ, những
lúc gian nan và tình huống xung đột, và quyết tâm vững vàng sẵn sàng cho việc
này. Phải nhận ra được các dấu hiệu cảnh báo nguy cơ có thể có về mối quan hệ,
để trước khi kết hôn họ tìm thấy phương thế giúp đối mặt với chúng cách thành
công. Thật đáng tiếc, nhiều người đến ngày thành hôn mà vẫn chưa biết nhau. Họ
chỉ vui chơi với nhau, đã có những kinh nghiệm với nhau, nhưng chưa đối đầu trước
thách đố thể hiện chính mình và học biết người kia thực sự là ai» (210).
6.
Hiểu lễ cưới không phải là đoạn kết, hôn nhân là hành trình kéo
dài suốt đời với khả năng đương đầu với mọi thử thách gian nan (211).
1.
Chương
trình Chuẩn bị Hôn nhân cần lưu ý đến “tầm quan trọng của các nhân đức”, đặc biệt
là nhân đức khiết tịnh của vợ chồng, là điều “rất quan trọng đối với sự phát
triển đích thật của tình yêu giữa hai người”.
2.
“Nhấn mạnh
đến chứng tá của chính các gia đình”.
3.
“Gắn việc
chuẩn bị hôn nhân vào tiến trình khai tâm Kitô giáo, cho thấy mối liên kết giữa
hôn nhân, Thánh tẩy và các bí tích khác”.
4.
“Giúp
đôi bạn có một kinh nghiệm thật sự tham gia vào đời sống của Hội thánh”
5.
Giới thiệu
đầy đủ các khía cạnh khác nhau của đời sống gia đình”.
1. Có nhiều cách thức hợp pháp để tổ chức việc chuẩn bị gần cho hôn nhân, và mỗi Hội
thánh địa phương sẽ phân định thế nào là cách tốt nhất, nhờ bảo đảm một
sự huấn luyện phù hợp đồng thời không làm cho các bạn trẻ xa rời bí tích (207).
2.
Không cần phải truyền đạt cho họ toàn bộ Giáo lí,
cũng không đưa ra cho họ quá nhiều chủ đề. Thật vậy, cả trong trường hợp này,
quả đúng là “không phải biết nhiều mà làm no thỏa linh hồn, nhưng là cảm và nếm
thực tại trong tâm hồn”[5]
(207).
3.
Cần quan
tâm đến chất lượng hơn là số lượng, và phải dành ưu tiên – cùng với việc loan
báo Tin mừng kerygma cách mới mẻ –
cho nội dung, nếu được truyền đạt cách hấp dẫn và sâu sắc, sẽ giúp họ dấn thân
vào hành trình trọn cuộc đời “với cả trái tim và lòng quảng đại”[6].
Điều quan trọng là “con đường khai tâm” vào Bí tích Hôn nhân khả dĩ cung cấp
cho họ những yếu tố cần thiết để có thể lãnh nhận bí tích ấy với những điều kiện
tốt nhất và khởi đầu cuộc sống gia đình một cách vững chắc (207).
4.
có những
chương trình thực tế, những lời khuyên được đem ra áp dụng, các chiến lược rút ra từ kinh nghiệm, hướng dẫn tâm lí. Tất
cả những điều này làm nên một đường lối sư phạm của tình yêu không thể bỏ qua sự
nhạy cảm hiện nay của người trẻ, để có thể động viên họ từ bên trong. Đồng thời,
trong khi chuẩn bị cho những người đính hôn, chúng ta cần chỉ cho họ những nơi
chốn và con người, những nhà tham vấn hoặc những gia đình sẵn sàng giúp đỡ, để
họ có thể chạy đến tìm kiếm sự trợ giúp khi gặp khó khăn. Nhưng cũng không bao
giờ được quên đề nghị họ đến với bí tích Hòa Giải, giúp họ đem những tội lỗi và
những sai lầm trong quá khứ và trong chính mối quan hệ của họ, đặt dưới tác động
của lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa và của quyền năng chữa lành của bí
tích (211).
Giáo huấn
của Amoris Laetitia:
212. Về việc chuẩn bị gần cho hôn nhân người ta có xu hướng
tập trung vào những thiệp mời, trang phục, lễ lạc và vô số những chi tiết vốn
hao tốn biết bao về ngân sách cũng như sức lực và niềm vui. Các đôi bạn hầu như
đều bị rã rời và kiệt sức trong ngày hôn lễ, thay vì dành nguồn sinh lực tốt nhất
để chuẩn bị cho mình như là cặp uyên ương cùng sánh bước vào một cuộc hành
trình lớn. Não trạng này cũng được gặp nơi một số đôi bạn sống chung mà không
bao giờ đi đến hôn nhân, vì nghĩ rằng tổ chức một lễ cưới tốn kém quá nhiều,
thay vì họ dành ưu tiên tình yêu cho nhau và hợp thức hóa tình yêu ấy trước những
người khác. Các bạn đính hôn thân mến, các con hãy can đảm (làm) khác với người
ta, đừng để mình bị xã hội tiêu thụ vốn thích sự hào nhoáng bên ngoài nuốt chửng
các con. Điều quan trọng là tình yêu gắn kết các con nên một, được củng cố và
thánh hóa nhờ ân sủng. Các con có thể chọn việc tổ chức hôn lễ một cách đơn sơ
và giản dị, đặt tình yêu lên trên tất cả. Các tác viên mục vụ và cả cộng đoàn
có thể trợ giúp để sự ưu tiên này trở thành qui chuẩn chứ không phải là biệt lệ.
213.
Trong việc chuẩn bị ngay trước lễ cưới, điều quan trọng là khai sáng giúp cho
đôi bạn hiểu rõ ý nghĩa của từng cử chỉ để họ có thể sống việc cử hành phụng vụ
cách sâu xa nhất. Chúng ta nên nhớ rằng, trong trường hợp của hai người đã được
rửa tội, sự cam kết trọng đại như việc bày tỏ lời ưng thuận kết hôn, và sự kết
hợp thân xác của hai người làm hôn nhân nên hoàn hợp chỉ có thể được giải thích
như là những dấu chỉ tình yêu của Con Thiên Chúa làm người kết hợp với Hội
thánh trong giao ước tình yêu. Nơi những người đã được rửa tội, lời nói và cử
chỉ được chuyển thành một ngôn ngữ diễn tả đức tin. Thân xác, với những ý nghĩa
mà Thiên Chúa muốn đưa vào đó trong khi tạo dựng, “được biến đổi thành ngôn ngữ
của các thừa tác viên bí tích, họ ý thức rằng trong giao ước hôn nhân mầu nhiệm
được biểu lộ và thực hiện”[7].
214. Đôi
khi những người đính hôn không nhận thức được tầm quan trọng về mặt thần học và
linh đạo của những lời ưng thuận, những lời vốn làm sáng tỏ ý nghĩa của mọi
hành động tiếp theo sau. Cần phải nói rõ rằng những lời ấy không thể chỉ giản
lược trong hiện tại; chúng hàm chứa toàn thể gồm cả tương lai: “cho đến khi cái
chết chia lìa các con”. Ý nghĩa của sự ưng thuận cho thấy rằng “tự do và trung
thành chẳng những không đối nghịch, mà còn hỗ trợ lẫn nhau, ngay cả trong tương
quan liên vị cũng như trong những tương quan xã hội. Thật vậy, trong nền văn
minh của truyền thông toàn cầu, chúng ta hãy nghĩ đến những thiệt hại gây ra bởi
sự lạm phát của lời hứa hưa hoàn thành [...]. Tôn trọng lời nói, trung thành với
lời hứa, là điều người ta không thể mua hay bán. Chúng không thể bị áp đặt bằng
vũ lực, nhưng cũng không thể giữ được lời mà không có hi sinh”[8].
215. Các
Giám mục Kenya đã nhận xét rằng “nhiều đôi vợ chồng tương lai vì quá tập trung
vào ngày cưới mà quên đi họ đang phải chuẩn bị cho một sự dấn thân kéo dài suốt
cả cuộc đời”[9]. Cần giúp cho họ hiểu rằng bí tích không chỉ là một khoảnh
khắc để rồi sau đó lùi vào quá khứ và thành những kỉ niệm, bởi vì bí tích còn ảnh
hưởng thường xuyên trên toàn bộ cuộc sống hôn nhân[10].
Ý nghĩa truyền sinh của tính dục, ngôn ngữ của thân xác và những cử chỉ của
tình yêu bày tỏ trong lịch sử của một đôi vợ chồng, trở thành một “tiếp nối
không gián đoạn của ngôn ngữ phụng vụ” và “theo một nghĩa nào đó, đời sống vợ
chồng trở thành phụng vụ”[11].
216. Đôi
bạn cũng có thể suy niệm các bài đọc Thánh Kinh, và làm phong phú thêm hiểu biết
về ý nghĩa của những chiếc nhẫn cưới mà hai người trao cho nhau, cũng như những
dấu chỉ khác trong nghi thức. Nhưng thật không tốt nếu đôi bạn đến với lễ cưới
mà chưa cùng cầu nguyện với nhau, và cho nhau, cầu xin Chúa giúp để mình được sống
trung thành và quảng đại, cùng nhau xin Chúa cho biết Ngài chờ đợi gì nơi mình,
và dâng hiến tình yêu của mình cho Đức Trinh Nữ Maria. Những ai đồng hành với
đôi bạn trong khi chuẩn bị hôn nhân nên hướng dẫn để họ biết sống những giờ
phút cầu nguyện này vì là điều rất tốt cho họ. Phụng vụ lễ cưới là một sự kiện
độc đáo, là nghi lễ được sống vừa trong bối cảnh gia đình vừa xã hội. Một trong
những dấu lạ đầu tiên mà Chúa Giêsu đã làm tại tiệc cưới Cana: rượu ngon của
phép lạ của Chúa, làm cho một gia đình mới khai sinh thêm niềm vui, là rượu mới
của Giao ước của Đức Kitô với con người, nam và nữ, của mọi thời đại. [...]
Trong dịp này vị chủ tế thường có cơ hội ngỏ lời với một cộng đoàn gồm cả những
người vốn ít tham dự vào đời sống Hội thánh, hoặc những người thuộc một giáo hội
Kitô hoặc một cộng đoàn tôn giáo khác. Đây là một cơ hội quí giá để loan báo
Tin mừng của Đức Kitô.
Gặp gỡ
I:
Trước
tình hình người ta có những quan niệm rất khác nhau về hai chữ “tình yêu”, những
buổi gặp gỡ hội thảo về chủ đề này nhằm giúp các bạn trẻ nhận ra những ý nghĩa
khác nhau mà người ta thường gán cho hai chữ đó. Từ đó, họ phân biệt được ý
nghĩa thật của tình yêu đôi lứa theo cái nhìn Kitô giáo so với các quan niệm
thông thường khác: tình yêu ấy bắt nguồn từ Tình yêu Thiên Chúa và đặt nền tảng
trên tình yêu đó; trong cuộc sống hằng ngày tình yêu ấy bị đe dọa bởi những lầm
lỗi và tội lỗi của con người; tình yêu ấy cần được không ngừng vun trồng và làm
thăng tiến.
Một khi,
nhận ra và cảm nếm được ý nghĩa đích thật của tình yêu vốn tự nó hướng tới một dự phóng chung trong
đời hôn nhân, đôi bạn sẽ thấp thoáng thấy được “Niềm vui của Tình yêu” (Amoris Laetitia) trong đời sống gia đình
mình đang hướng tới.
Lời dẫn:
Thiên Chúa là tình
yêu. Người đã tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh và giống Ngài, cho họ
tham dự vào khả năng yêu thương của Ngài. Chính Ngài đã ban anh chị cho nhau,
đã cho anh chị được gặp nhau và đồng hành với anh chị để tình yêu của anh chị mỗi
ngày trở nên đích thật hơn: một tình yêu dấn thân trọn vẹn con người mình, như
một tặng phẩm dâng hiến cho người kia.
Lời
Chúa: trích trong sách Sáng thế
ĐỨC CHÚA là Thiên
Chúa phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ
tá tương xứng với nó. ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi
chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người
gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật,
mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá
tương xứng. ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người,
và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp
thịt thế vào. ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra,
làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: “Phen này,
đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì
đã được rút từ đàn ông ra”. Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ
mình, và cả hai thành một xương một thịt. Con người và vợ mình, cả hai đều trần
truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau. (St
2,18-25).
Lời nguyện
của đôi bạn:
Chúc tụng Chúa, là
Chúa cả trời đất,
Vì Ngài đã ban cho
chúng con sự sống và cho chúng con được gặp nhau.
Chúa là suối nguồn của
tình yêu nảy nở giữa chúng con và giao phó trách nhiệm cho chúng con:
Xin hãy biến đổi
tình yêu ấy mỗi ngày nên đẹp hơn, thật hơn, không vương vấn kiêu căng và ích kỉ,
nhưng quảng đại tìm kiếm thiện ích cho tha nhân.
Xin cho chúng con biết
dùng lời nói và việc làm tinh tuyền và trong sáng, để biểu lộ sự chân thành
trao hiến cho nhau,
Hầu gia tăng hiệp
thông sự sống, cho tình yêu trở nên mỗi ngày một sâu sắc hơn.
Chỉ như thế chúng
con mới có thể cảm nghiệm và làm chứng được tình yêu Chúa vô biên.
-
Ngày nay
người ta nghĩ gì về tình yêu?
-
Tình yêu
có nghĩa gì đối với anh chị?
-
Những thứ
ảo tưởng nào đe dọa tình yêu?
“Tình yêu” là một trong những từ ngữ được dùng nhiều nhất trong ngôn ngữ tôn giáo và xã hội dân sự nơi mọi dân tộc. Nó diễn tả những kinh nghiệm tôn giáo cao quí nhất, những dâng hiến quảng đại nhất, những kinh nghiệm kì diệu nhất… Mọi người đều tưởng mình biết ý nghĩa của tình yêu và hướng đến cùng một thực tại, đang khi thực ra họ hiểu theo những nghĩa khác nhau.
Không chỉ
có một loại tình yêu duy nhất: có tình bạn, tình thân tâm giao, tình liên đới vốn
khác biệt sâu xa với tình yêu hướng đến cô gái hay chàng trai mà mình phải
lòng.
Tình yêu và tình dục
Tình yêu
ban đầu khi mới nảy sinh, như bao điều tốt đẹp mới khởi đầu, bao giờ cũng tươi
vui và hấp dẫn. Những người đang yêu luôn nhìn nhau trong lí tưởng. Tình yêu nảy
nở nhiệm mầu trong con tim của chàng và nàng đòi hỏi đó phải là ái tình duy nhất
và không san sẻ và, như thế là vì ta cảm thấy người kia lấp đầy khoảng trống trải
ta thiếu thốn. Một mình ta không đủ để có hạnh phúc tròn đầy, ta được dựng nên
vì người khác, để hạnh ngộ, để đi vào đối thoại. Ta hiện hữu trong một thân
xác, vốn là thân xác của một người nam hay một người nữ, và tính dục là phần
quan trọng của cuộc hạnh ngộ này, nhưng tính dục không phải là tất cả tình yêu.
Văn hóa ngày nay, ngược lại, thường có xu hướng sống hai thái cực: một đàng, đề
cao tính dục vì chính tính dục và ban cho nó những “công trạng” quá mức, đàng
khác lại tương đối hóa tính dục đến độ dung tục.
«Tính dục không phải là
một phương tiện để thỏa mãn hay để giải trí, vì nó là một ngôn ngữ liên vị
trong đó tha nhân được nghiêm túc trân trọng, trong phẩm giá thánh thiêng và bất
khả xâm phạm của người ấy. […] Trong bối cảnh này, ái tình xuất hiện như một sự
thể hiện tính dục chuyên biệt của con người. Trong đó, người ta có thể tìm thấy
lại “ý nghĩa hợp hôn của thân xác và phẩm giá đích thực của tặng phẩm trao hiến”.[12]
Trong các bài giáo lí thần học về thân xác, Thánh Gioan Phaolô II đã dạy rằng
thân xác với tính dục dị biệt không những là “nguồn của sự phong nhiêu và sinh
sản”, mà nó còn sở hữu “khả năng diễn tả tình yêu: tình yêu mà chính ở đó con
người – nhân vị trở thành một quà tặng”.[13]
Một khao khát tình dục lành mạnh, cho dù gắn với một mưu cầu lạc thú, đều giả
thiết có một ý thức cảm thán, và chính bởi đó mà nó có thể làm cho các xung
năng có tính nhân văn.» (Amoris Laetitia, 151)
Ý nghĩa của tình yêu
Một khi đã khát khao con người của nhau, đôi bạn dần lớn lên trong tình
yêu. Người này cảm thấy một nhu cầu tự nhiên nảy sinh muốn đem lại hạnh phúc
cho người kia. Thế nhưng, thói ích kỉ vẫn luôn chực rình chờ, nó thường khiến mỗi
người mệt mỏi không còn cố gắng “quên mình” để yêu tha nhân kia. Tình yêu đích
thật thì khác với thứ tình yêu hời hợt hay giả hiệu ở chỗ nó có đặc tính của sự
hiến trao bản thân: anh yêu em khi anh cảm thấy hạnh phúc vì làm em hạnh phúc,
khi anh có thể nghĩ được là đã trao cho em đời sống của anh, hơn là nghĩ nhận lấy
được gì từ cuộc sống của em.
«Trong
bài ca đức mến của Thánh Phaolô, chúng ta gặp thấy một số nét của tình yêu đích
thật:
“Đức mến
thì nhẫn nhục, hiền hậu,
Không
ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
Không
làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
Không
nóng giận, không nuôi hận thù,
Không mừng
khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến
tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”
(1 Cr 13,4-7)» (Amoris Laetitia, 90).
Một bước sau cùng nữa của tình yêu tăng trưởng, đó là tình yêu thật thì
hướng tới một dự phóng chung. Mỗi người, trong suy nghĩ của mình, hết sức chăm
chút, ân cần, ra sức, hoàn toàn dấn mình cho việc chọn lựa người bạn đời, trợ
tá của nhau, trên hành trình thực hiện viên mãn cuộc sống của mỗi người.
Hơn nữa, tình yêu tuôn tràn trong con tim của hai người nam và nữ thì cởi
mở ra với Đấng siêu việt. Cuộc sống của mỗi thụ tạo thì hướng đến Thiên Chúa và
mỗi kinh nghiệm, kể cả tình yêu, cũng phải được sống như nó đến từ Thiên Chúa
và phải được nghĩ như là một sự chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Con người vượt
qua được nỗi đơn độc nhờ Thiên Chúa, vì Ngài đã thổi vào trái tim con người Thần
Khí của Ngài, chính khả năng yêu thương của Ngài. Bởi thế, cả người nam lẫn người
nữ đều không thể nói với người bạn đời của mình một cách tuyệt đối rằng: «em là
tất cả cuộc sống của anh», hay «anh là tất cả cuộc sống của em», và ngược lại.
Bởi lẽ họ được tạo dựng cho nhau, và đồng thời cả hai thuộc về Thiên Chúa. Thật
vậy, mỗi người đều mang một khát vọng trong mình về vô biên, mà không một con
người thụ tạo nào có thể làm thỏa mãn được. Kinh nghiệm hôn nhân phải dành chỗ
cho Thiên Chúa Đấng Vô Biên ấy, Ngài muốn đi vào trong cuộc sống của đôi vợ chồng,
để “cung cách yêu thương của Thiên Chúa trở thành thước đo của tình yêu nhân loại”[14] nơi họ, để dẫn họ đến bến bờ cuộc
sống viên mãn.
Hành trình xây dựng đôi lứa
Tình yêu được sống trong một trạng thái thăng bằng nhưng thường xuyên bấp
bênh, được xây đắp ngày này qua ngày khác, và cần được theo đuổi, vun trồng, bảo
vệ, dự phòng. Không bao giờ được nghĩ là mình đã đạt tới đích. Tình yêu phải được
học hỏi như những điều tốt đẹp trong cuộc sống khiến ta phải học: học yêu. Đức
Giêsu minh họa điều này rất hay trong ví dụ hạt lúa phải chết đi nó mới làm trổ
sinh nhiều bông hạt, và chính Người đã thực hiện như thế làm cho người ta thấy
được trên thập giá, Người đã chọn lựa sống vì yêu, và thế nào là tình yêu đích
thật. Việc khó nhất chính là cam kết dấn thân cả đời mình sống vì người khác,
trong tư thế như từ bỏ chính mình, bỏ cách nghĩ của mình, bỏ những thói quen của
mình, từ bỏ những sở thích, thú riêng tư…
Trợ giúp đôi bạn
Thường đôi bạn hay nhìn xung quanh mình và cảm thấy cô đơn. Nếu có các cặp bạn hữu nào đó để cùng vui sống những giờ phút thư giãn chứ không để bàn những chuyện nghiêm túc, như ngày cuối tuần chẳng hạn, thì rất có ích. Có khi, cũng không hiếm trường hợp, một đôi bạn cảm thấy mình cần gặp gỡ trao đổi với những người khác về những vấn đề hay những khó khăn làm cuộc sống mình bất ổn hay cay đắng. Ngày nay, có nhiều Nhóm các gia đình thân hữu (các cặp đính hôn, vợ chồng trẻ, các gia đình) đang phổ biến, vì tình thân hữu và bằng hữu giúp nhau vượt qua những khó khăn của cuộc sống, và của đôi bạn. Đức Giáo hoàng mời gọi:
«Các cộng đoàn Kitô hữu hãy nhận biết rằng việc đồng hành với những người đính hôn trong hành trình tình yêu của họ là một việc thiện ích cho chính họ. […] Đối với cộng đoàn Kitô hữu, những người kết hôn là một nguồn tài
nguyên quí giá vì, trong khi chân thành dấn thân lớn lên trong tình yêu và tự hiến cho nhau, họ có thể góp phần đổi mới chính tấm áo dệt nên toàn bộ thân thể Hội thánh. […] Điều quan trọng là “con đường khai tâm” vào Bí tích Hôn nhân khả dĩ cung cấp cho họ những yếu tố cần thiết để có thể lãnh nhận bí tích ấy với
những điều kiện tốt nhất và khởi đầu cuộc sống gia đình một cách vững chắc» (Amoris Laetitia,
207).
«Cũng nên tìm những phương thế để chuẩn bị từ xa khả dĩ giúp cho
tình yêu của họ trưởng thành bằng một sự đồng hành gần gũi và chứng từ phong
phú. Thường thì rất hữu ích nếu qui tụ được các nhóm bạn đang thời kì đính hôn
và đề ra những buổi nói chuyện chuyên đề dựa trên một vài chủ đề khác nhau mà
người trẻ quan tâm […]» (Amoris Laetitia,
208).
. Chúng ta phản ứng tức thời
như thế nào khi nghe trình bày điều đó?
. Người ta có thể thực hiện
những chọn lựa nào để gìn giữ phẩm giá của tình yêu trong thời gian đính hôn và
trong cuộc sống đôi lứa?
. Anh chị có những dự phóng
nào để mỗi ngày lớn lên trong tình yêu ? Cần có những chọn lựa ưu tiên nào cho
mục đích đó?
. Có mối liên hệ nào giữa
tình yêu và tình dục? Đâu là những cản trở chính theo anh chị sẽ có thể gặp phải
khi sống tình dục trong viễn ảnh này?
Gặp gỡ II:
Giúp các bạn trẻ ý thức về bản
chất của sự lựa chọn hôn nhân xuất phát từ việc họ yêu nhau và đảm nhận một
Giao ước nghiêm túc.
Lời dẫn:
Trong Cựu ước Chúa đã kí kết một Giao ước với dân Ngài. Đó là một
Hôn ước, nghĩa là Giao ước tình yêu phu thê.
Chính Ngài đồng hành với anh chị trong thời gian đính hôn này để
tình yêu của anh chị lớn lên đến mức chín muồi và đi đến quyết định kết hôn với
nhau, để anh chị ý thức và dạn dĩ nói lên lời “ưng thuận” kết hôn và cử hành
hôn phối. Và để rồi qua hôn ước của anh chị Thiên Chúa tiếp tục thực thi Giao ước
của Ngài trong lịch sử.
Lời Chúa: trích trong sách
tiên tri Hôsê
ĐỨC CHÚA phán:
«Này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm
tình. Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân, như ngày nó đi lên từ Ai-cập.
Vào ngày đó – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – ngươi sẽ gọi Ta:
"Mình ơi", chứ không còn gọi "Ông chủ ơi" nữa. Ta sẽ lập với
ngươi một hôn ước vĩnh cửu, Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và
chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín
thành,
và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA. Vào ngày đó, Ta sẽ đáp lại, – sấm ngôn của ĐỨC
CHÚA –
Ta sẽ đáp lại trời, và trời sẽ đáp lại đất» (Hs 2,16.17b-18.21-23).
Lời nguyện của đôi bạn:
«Xin đặt em như chiếc ấn trên trái tim anh, như chiếc ấn trên
cánh tay anh.
Phải, tình yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm
phủ.
Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, một ngọn lửa thần thiêng!» (Dc 8,6).
Linh mục:
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì với quyền năng vô song Chúa
đã dựng nên người nam và người nữ theo hình ảnh và giống như Ngài, và trao ban
họ cho nhau như người bạn đường bất khả phân li, để họ không còn là hai mà chỉ
là một. Như thế, Chúa đã dạy rằng phân li điều Thiên Chúa đã kết hợp nên một
không hề là điều chính đáng. Xin cho những người con cái này của Chúa biết khám
phá và thực hiện cách trung tín kế hoạch yêu thương và cứu độ của Ngài. Amen.
- Tại sao một người con trai và một người con gái quyết định kết
hôn ?
- Hai người kết hôn với nhau qua kí kết một khế ước, điều đó có
ý nghĩa gì ?
- Thiên Chúa có liên quan gì trong chọn lựa kết hôn của anh/chị
?
Khi nói “chúng ta yêu nhau” là ta ý thức mình không chỉ tự yêu mình hay yêu một cái gì đó đáng yêu và làm ta thỏa lòng, nhưng là yêu một con người có thể đáp trả lại tình yêu của ta với một tình yêu cũng mãnh liệt như thế. Đó là một tình yêu tương hỗ, cho và nhận. Tình yêu của chúng ta là một kiểu tình bạn với ý nghĩa đặc biệt. Là một tình bạn giữa hai người “tự hiến” cho nhau, và có những đặc tính: trọn vẹn, duy nhất và độc hữu (không chấp nhận những bạn tình khác); ổn định và bền vững (một chọn lựa mãi mãi); phong nhiêu (mở ra với sự sống và gắn liền với tính dục hướng tới sinh sản không trước và không ngoài hôn nhân).
Một tình yêu vô cầu
Tình yêu là
chân thực khi được hiến dâng không nhằm đến những mục đích thứ yếu. Sự vô cầu
thuộc bản chất của tình yêu còn thể hiện qua chịu đựng tự nguyện những nỗi đau
đớn, buồn khổ, bệnh tật, và cả trong cô đơn nữa. Ở đâu sự sống được hiến dâng
không mong đền đáp, ở đó tình yêu hiển lộ tất cả sự thật và sự vĩ đại của nó.
Yêu thương ai là nhắm tới hạnh phúc, những điều tốt đẹp, ích lợi của người đó!
Đối nghịch với tình yêu vô cầu là thái độ ích kỉ, chỉ nhìn tha nhân như người
trao hiến cho mình điều gì, hoặc tệ hơn, đối xử với tha nhân chỉ như là cơ hội
đem lại cho mình cảm giác thỏa mãn.
«Trong thông điệp Niềm vui của tình yêu, Đức giáo hoàng Phanxicô dành phần lớn của chương bốn để suy tư về tình yêu trong hôn nhân, dựa vào Bài ca Đức Ái (1Cr 13). Theo đó, gia đình là nơi mỗi chúng ta cảm nghiệm, học tập và vun đắp tình yêu chân thật.
Đó là tình yêu kiên nhẫn,
biết đón nhận người khác như họ là;
tình yêu
phục vụ,
không chỉ bằng cảm tính hay lời nói nhưng bằng hành động cụ thể;
tình yêu
không ghen tị, nhưng trân trọng thành quả của người khác;
tình yêu
không khoe khoang tự phụ, không coi mình hơn người khác;
tình yêu
dịu dàng,
không cứng cỏi;
tình yêu
quảng đại,
cho đi mà không tính toán;
tình yêu
tha thứ,
biết tìm hiểu người khác để thông cảm và tha thứ hơn là soi mói;
tình yêu vui với niềm vui của người khác, chứ không vui vì sự thất
bại của họ;
tình yêu
dung thứ,
giữ gìn miệng lưỡi, tránh xét đoán và nói xấu;
tình yêu
tin tưởng tất cả nên không tìm cách thống trị nhưng tôn trọng người khác;
tình yêu
hi vọng tất cả vì Thiên Chúa có thể vẽ đường thẳng bằng những nét cong;
tình yêu chịu đựng tất cả với thái độ tích cực» (HĐGMVN, Thư gửi
các Gia đình Công giáo, 8).
Một tình yêu cho đến cùng
Chúa Giêsu dạy và chỉ cho thấy không ai có tình yêu lớn hơn kẻ đã hiến
mạng sống mình vì bạn hữu: đây là phần khó chấp nhận nhất của tình yêu. Quả thật,
ta quá gắn bó với mình, với cách nghĩ, những thói quen, cảm quan, sở thích của
mình, … đến nỗi khó có thể từ bỏ mình được. Thế nhưng, hai người sẽ không trở
thành một cặp đôi hoàn hảo cho tới khi nào cả hai biết chấp nhận chết đi cho
cái gì đó nơi bản thân mình. Để làm được điều đó cần tạo một khoảng “chân
không” nào đó trong con người của ta, bởi lẽ chừng nào “cái tôi” còn đầy ắp thì
không có chỗ cho tha nhân trong ta! Hẳn là ta không bị buộc phải từ chối các
giá trị hay những gì tốt đẹp giúp cho đời sống đôi lứa được thêm phong phú. Nếu
người ta thấy rằng đòi hỏi ấy rốt cuộc tước đi nơi cá nhân hay đôi bạn một cái
gì đó có thể giúp họ được phong phú thêm, thì khi ấy người ta phải trao đổi với
nhau để cùng nhận biết cái gì là tốt hơn và cái gì là ích lợi hơn cho cả hai
cùng thăng tiến. Chết đi cho chính mình và sống với và cho người khác là một chọn
lựa quan trọng, đó là “biết nhân nhượng” cho dù có e sợ mình bị tha nhân lợi dụng.
Tình yêu phu thê và hôn nhân
«Trinh khiết và hôn nhân, là và phải là những cách thế khác nhau để yêu thương, vì con người không thể sống mà không có tình yêu» (Amoris Laetitia 161).
Cội rễ và sức mạnh để quyết định
kết hôn nằm ở nơi tình yêu phu thê, tức là một tình yêu dành cho nhau và vô cầu,
cho đến tận cùng. Kết hôn là mạnh dạn bước qua bậc thềm của một tình yêu phu
thê như thế. Tình yêu ấy có thể được sống theo hai cách thức cơ bản: bậc độc thân
khiết tịnh và bậc hôn nhân. Cả hai bậc sống này là những thể hiện cụ thể khác
nhau của một sự thật sâu xa hơn của con người: con người là hữu thể được tạo dựng
“theo hình ảnh của Thiên Chúa”. Cả hai chọn lựa này (những ơn ban khác nhau và
bổ túc cho nhau) hội tụ lại cùng diễn tả một mầu nhiệm hôn phối duy nhất, vừa
phong nhiêu vừa mang ơn cứu độ, của Đức Kitô và Hội thánh. Là những cách thức
biểu lộ và sống mầu nhiệm duy nhất của Giao ước của Thiên Chúa với Dân Người.
Theo nghĩa đó, hôn nhân và trinh khiết không đối nghịch nhau.
Để sống chọn
lựa tình yêu phu thê ấy như là một tình yêu hôn nhân, hai người bạn đính hôn cần
phải quyết định trong sự tự do hướng tới một chọn lựa dứt khoát. Chọn lựa ấy
cũng là một chọn lựa công khai bởi vì hai người là hai giới tính khác biệt và
vì thế, bởi bản tính tự nhiên, hướng tới tương quan, tức bình diện xã hội. Từ
đó, ta có thể và phải nói rằng đôi bạn kinh nghiệm sức mạnh kết hợp của chính
tình yêu khi, với tự do, họ quyết định kết hôn với nhau trong khế ước hôn nhân:
một khế ước bao hàm một sự chuẩn bị dài lâu và đặt cơ sở trên sự tự do và tôn
trọng lẫn nhau. Một điều quan trọng là hai người đính hôn phải tránh những hành
vi gọi là “quan hệ trước hôn nhân”, mà một cách nào đó, chúng đã khiến hai người
dấn sâu vào một mức độ thân mật đến nỗi không còn có thể thoái lui được nữa, điều
vốn là một đặc tính của thời đính hôn!
Hôn nhân là một khế ước và là
giao ước
Giáo luật mới không còn định nghĩa hôn nhân như là một “giao kèo” (hay “hợp đồng”) nữa, mà gọi đó là một “khế ước” hôn phối. Cách nói này giúp chúng ta vượt qua được quan niệm hôn nhân như một “hợp đồng” vốn nặng tính luật pháp hành chánh, và diễn tả theo ngôn ngữ Kitô giáo, liên hệ đến hình ảnh của Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người. Như thế chúng ta khám phá được căn tính đích thật của hôn nhân, đó là tình yêu phu thê, một tình yêu rất nhân bản, và lôi kéo mỗi người vào trong “toàn thể thống nhất” hồn và xác. Ở cội nguồn của mọi cuộc hôn nhân đều có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính Ngài là tác giả đã ghi khắc vào con tim mỗi người khả năng và trách nhiệm của tình yêu và hiệp thông. Khế ước hôn nhân trở thành một bản sao và một sự tham dự vào Giao ước thần linh: nội dung của khế ước này là tình yêu phu thê. Người nam và người nữ, khi ấy, không còn trao đổi với nhau các quyền lợi trên những thiện ích kinh tế, cũng không còn trao đổi nhau các “quyền trên thân xác” nữa; nhưng trao đổi với nhau “quyền” trên toàn thể con người của nhau như một ngôi vị, tức trên toàn thể các chiều kích cả về thể lí, lẫn tình cảm và tinh thần. Bởi thế, tình yêu này phải có các thuộc tính độc hữu (một nam một nữ), bất khả phân li và mở ra với sự sống phong nhiêu. Tình yêu này có tính độc hữu vì con người tự hiến ấy là một thụ tạo giới hạn và được mời gọi trao hiến toàn thể con người mình: người ấy có thể yêu cách trọn vẹn chỉ một người và thực hiện mình cách viên mãn chính khi mở ra tự hiến hoàn toàn cho người bạn đời. Tình yêu phu thê có tính bất khả phân li vì con người sống trong thời gian và không thể tự hiến hoàn toàn nếu không biết hiến trao chính mình cho người bạn đời trong suốt cuộc đời mình. Tình yêu phu thê phải mở ra với sự sống phong nhiêu vì con người còn đặc trưng bởi giới tính (là nam hay là nữ) và bởi sinh dục, và nhờ đó qua một gặp gỡ tính dục họ thực hiện chính mình và sẵn sàng đón nhận những sự sống mới.
Hôn nhân là một chọn lựa
dứt khoát
Lời tuyên bố «ưng thuận» kết hôn hai người gửi trao cho nhau trong cử hành lễ cưới là nền tảng của khế ước hôn nhân. Đó là một hành vi thể hiện (hay hiện thể hóa) tình yêu phu thê. Ước nguyện đẹp nhất dành cho đôi vợ chồng là được thấy mỗi ngày tình yêu của họ tăng trưởng. Nhưng nếu như tình yêu ấy không còn tăng trưởng nữa, thì hôn nhân cũng ngưng lại: “sức khỏe”, sự “thịnh vượng” của hôn nhân sụt giảm. Quả thật, sức khỏe của tình yêu phu thê trước hết không phải là tình trạng kết quả thể lí, sức hấp dẫn tình dục, hay những tình cảm chan chứa…, nhưng là một hành vi của ý chí tự do, là một hành động thiêng liêng, mà hoàn cảnh bên ngoài không thể cung ứng được. Chọn lựa tự do không thể từ chối tình yêu một khi đã hứa còn vì lí do cấu trúc hôn nhân không chỉ phụ thuộc vào những người liên hệ, mà nối kết với thiện ích của chính các đôi bạn, vì nó gắn liền với ý muốn của Thiên Chúa, muốn hôn nhân là duy nhất và bất khả phân li. Kinh nghiệm những khó khăn trong tình yêu đòi hỏi ta phải tự mình nỗ lực với sự trợ giúp của ân sủng của Chúa làm sống động lại tình yêu một khi nó suy yếu hay xem ra như chết đi.
Tình yêu và sự tha thứ
Trong cuộc sống hằng ngày khi một người khám phá mình yêu quí một ai đó, thì người ấy dấn thân cho tương lai. Nhưng trong con người mang dấu ấn tội lỗi như chúng ta, luôn luôn chực sẵn cám dỗ muốn khép kín mình lại và ta cũng kinh nghiệm tình yêu đòi hỏi một sự dấn thân: nó có thể đem lại niềm vui thỏa mà cũng có thể cho kinh nghiệm thương đau. Điều quan trọng là làm thế nào vượt qua được sự tính toán so đo trên những gì mình hiến dâng và những gì nhận lãnh, dựa theo mẫu gương của Chúa yêu thương vô điều kiện và chứng tỏ chúng ta có khả năng làm được như thế. “Kết hôn trong Chúa” có nghĩa là chúng ta có thể yêu cả khi bị mất mát mà không đánh mất chính mình. Làm cho tình yêu Thiên Chúa sống động trở lại có nghĩa là chúng ta phải luôn tha thứ. Không thể tha thứ và không thể làm cái “mãi mãi” được tái sinh liên tục, tình yêu sẽ không thể tồn tại.
«Điều này giả thiết chính chúng ta đã có kinh nghiệm
được Thiên Chúa tha thứ, được công chính hóa cách vô điều kiện bởi ân sủng của
Ngài chứ không bởi công trạng của chúng ta. Chúng ta đã đạt đến kinh nghiệm của
một tình yêu đi bước trước mọi việc làm của mình, một tình yêu luôn luôn mang đến
cho ta những cơ hội mới, một tình yêu thúc đẩy và khích lệ» (Amoris
Laetitia 108).
. Chúng ta phản ứng tức thời
như thế nào khi nghe trình bày những điều đó?
. Anh chị nghĩ gì về một tình
yêu của hai người dành cho nhau, vô điều kiện và đi đến mức hiến dâng tất cả
cho nhau ?
. Đâu là những khác biệt về
cuộc sống của một đôi vợ chồng so với các kiểu sống kết hợp khác, như sống
chung hoặc kết hợp trong thực tế?
. Các quan hệ trước hôn nhân,
dưới ánh sáng của những gì chúng ta vừa nói, có ý nghĩa gì không?
. Theo anh chị những khó khăn
nào có thể gặp hằng ngày trong cuộc sống hôn nhân duy nhất, trung tín, bất khả
phân li và mở ra với sự sống phong nhiêu?
Gặp gỡ III:
“Người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ
thành một xương một thịt” (Mt 19,5;
X. St 2,24).
Giúp các bạn trẻ ý thức rằng
người Kitô hữu chọn kết hôn trong Hội thánh giả định họ phải có đức tin, tin Đức
Kitô và tin Hội thánh. Làm sao để đôi bạn đính hôn có thể đón nghe tại cội rễ
tình yêu của họ tiếng gọi tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa nơi bản thân Đức Giêsu
Kitô, Đấng đã mạc khải trọn vẹn và dứt khoát tình yêu của Người. Học tự đặt
mình trong dự phóng của Nước Chúa và họ sẽ nhận ra hành trình hôn nhân tương
lai của mình trong viễn ảnh này.
Lời dẫn:
Lời rao giảng của Chúa Giêsu như một “lời chất vấn tự do” chính tự
do của người nghe. Người đòi hỏi ta phải “tự quyết định” chọn hay không chọn
Người là ý nghĩa của sự tự do của chúng ta. Vậy nên, quyết định luân lí cơ bản
không gì khác hơn là một chọn lựa “đức tin”: tin Đức Giêsu, tin vào lời của Người,
vốn là “trao tặng” mà cũng “đòi hỏi”, là “ơn ban” mà cũng đồng thời là “nhiệm vụ”,
lời ấy mỗi người chúng ta đều âm thầm khát mong. Trước lời loan báo Nước Chúa,
con người chỉ còn một việc là tin, và tìm thấy ở đó “lẽ sống” của mình.
Lời Chúa: trích Tin Mừng theo
thánh Máthêu
«Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có
người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì
mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.
Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua
viên ngọc ấy» (Mt 13, 44-46).
Linh mục:
Lạy Chúa,
Chúa đã chuẩn bị mọi sự tốt lành cho những ai yêu mến Chúa. Xin
thương tuôn tràn tình yêu ngọt dịu của Chúa vào lòng chúng con, để khi yêu mến
Chúa trong mọi sự và trên hết mọi sự, chúng con gặt hái được những điều Chúa đã
hứa ban, vượt quá mọi mong đợi. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
- Tại sao anh chị kết hôn trong Hội thánh?
- Anh chị tin có liên hệ gì giữa tình yêu của những người đính
hôn và tình yêu của Thiên Chúa được thông truyền cho chúng ta trong Đức Giêsu
Kitô?
- Đức tin là gì? Khi nào chúng ta có thể nói một người nào đó là
kẻ đã tin (tín hữu)? Đức tin là một chuyện riêng tư ư? Nếu thế, tại sao người
ta phải đi nhà thờ, đi lễ ngày Chúa nhật?
- Phải chăng tin vào sự sống lại là trung tâm điểm của Kitô
giáo? Có mối quan hệ nào giữa đức tin Kitô giáo với các trào lưu khác và các
“giáo phái” khác không? Có thể dung hòa việc một người vừa theo các tổ chức đó
vừa theo Kitô giáo hay không?
«Người ta không thể hiểu trọn vẹn mầu nhiệm gia đình Kitô giáo nếu
không nhìn trong ánh sáng tình yêu vô hạn của Chúa Cha, được biểu lộ nơi Đức
Kitô, Đấng đã tự hiến mình cho đến cùng và vẫn sống giữa chúng ta» (Amoris Laetitia, 59).
Trong thỉnh cầu của đôi bạn đính hôn xin được kết hôn trong Giáo hội, thường theo cách nào đó, có biểu lộ ước muốn được tiếp tục sống truyền thống của gia đình và hòa hợp với tập tục của cộng đồng xã hội nơi mình đang sống, để tránh không làm cha mẹ, ông bà hay bà con dòng họ thất vọng. Và rồi, nhiều người đính hôn có ý tổ chức hôn lễ thật trang trọng qua một cử hành nghi lễ tôn giáo, đánh dấu bước chuyển tiếp quyết định của cuộc đời mình. Kết hôn trong Giáo hội có thể còn diễn tả sự đồng thuận với một ước vọng của người bạn đời tương lai. Trước câu hỏi tại sao bạn muốn kết hôn trong Hội thánh, nhiều người đính hôn trả lời bằng cách nại tới đức tin: “tôi kết hôn trong Hội thánh vì tôi tin”. Không ai nghi ngờ câu trả lời chân thành đó. Nhưng nhìn sâu vào những lời khẳng định ấy, ta thường có cảm tưởng điều những người trẻ này muốn nói về “đức tin” còn khá mơ hồ và chung chung: “Tôi tin kính một Đấng cao cả hơn chúng ta và tôi muốn nhân dịp lễ này Người sẽ chúc lành cho hôn ước của chúng tôi”. “Tôi tin, nhưng theo kiểu của tôi. Tôi không thường đi Nhà thờ; nhưng bây giờ làm đám cưới, tôi nghĩ phải tiến hành một nghi lễ trước mặt Chúa là điều chính đáng thôi”.
Vậy, điều quan trọng là ta thử
đi sâu vào một số khía cạnh của chọn lựa đức tin này.
Người tín hữu kết hôn
Tình yêu mà
hai người khám phá trong tâm tư mình thật nhiệm mầu, lớn lên từng ngày trong
khung cảnh của một cộng đoàn Kitô hữu (giáo xứ, giáo họ, cộng đoàn nhỏ, …) nơi
họ thuộc về nhờ bí tích Rửa tội. Bởi thế, đôi bạn đính hôn xin cộng đoàn giúp đỡ
để tìm hiểu và biết cách diễn tả ý nghĩa Kitô giáo tình yêu của họ, cũng như ý
nghĩa của việc họ chọn lựa kết hôn trong Hội thánh. Nhưng sẽ là không nhất quán
và thiếu chỉn chu nếu như cộng đoàn nhiệt liệt đón nhận thỉnh cầu của đôi bạn
xin kết hôn trong Hội thánh mà lại không tạo cơ hội cho họ được gặp gỡ Chúa
Giêsu Kitô, Đấng đã kêu gọi họ mặc lấy một lối sống mới và dứt khoát.
Cội rễ tôn giáo của tình yêu
Tình yêu con người vẫn luôn là một mầu nhiệm. Người ta muốn tìm một sự
độc lập của riêng mình nhưng đồng thời lại không thể ở đơn độc một mình. Ta kết
hợp với tha nhân đồng thời tìm kiếm cái gì đó không có ở nơi ta. Mọi tình yêu
phàm nhân đều luôn đòi hỏi một cái gì đó hơn nữa, hướng đến một cái gì đó vô
biên, da diết đến nỗi, quả thực là, nếu thiếu mối quan hệ này thì ta luôn cảm
thấy và cho như là bị phụ bạc và bất công. Những biểu lộ của tình yêu phàm nhân
về những khát vọng này khi ấy sẽ không bao giờ đầy đủ và để lại trong tâm hồn
ta một dư âm của sự không thỏa mãn, một nỗi bất an khôn nguôi. Cuộc sống hôn
nhân, trong viễn ảnh này, trở thành cuộc truy tìm không ngừng một quan hệ tròn
đầy hơn, một diễn tả trọn vẹn hơn chính căn tính của mình sống và hiến dâng cho
người bạn đời. Có thể nghĩ rằng chính yếu tố này, vốn có mặt trong lịch sử của
mỗi người, là dấu chỉ của sự hiện diện một Đấng Khác và cho thấy một nguồn mạch
khác của khát vọng yêu đương của con người mà ta cần tìm kiếm ở ngoài biên giới
thời gian và không gian của lịch sử loài người chúng ta. Tình yêu trao hiến và
nhận lãnh có thể dẫn ta đến chỗ khám phá hoàn cảnh thụ tạo của mình, nhận biết
mình còn được nối kết với các nguồn suối khác ngoài sự sống sinh vật này. Như
thế, tình yêu phàm nhân có thể là một tiếng gọi mầu nhiệm hướng đến đấng siêu
việt, đi vào tương quan với Thiên Chúa. Bởi thế, mọi tình yêu phàm nhân luôn có
một khía cạnh tôn giáo và mở ra quan hệ với Thiên Chúa: vì tình yêu đó dẫn con
người đến trên những dấu tích thần linh hiện ra từ khung cảnh cuộc sống quen
thuộc hằng ngày. Đàng khác, mạc khải Kitô giáo đáp ứng yêu sách về siêu việt
trong tình yêu bằng cách dẫn lối cho ta đến trước mầu nhiệm một vị Thiên Chúa
tìm kiếm và yêu thương thụ tạo của mình vô hạn, một Thiên Chúa luôn tỏ lòng
thương xót và chia sẻ với con người. Nếu mỗi đôi bạn đọc lại lịch sử của chính
cuộc hạnh ngộ của mình, của mối tình hòa hợp được thắp lên vào lúc không ngờ và
lớn lên chín dần đến mức hai người quyết định kết hôn với nhau để tạo lập một
gia đình, họ sẽ khám phá ra một chuỗi dài những ngày tháng thường cũng đơn sơ
và có vẻ bình thường. Thế nhưng, chính những bước đi “nhỏ bé” ấy tỏ lộ một dự
phóng, một kế hoạch, một ý định đã có trước hai con người yêu nhau ấy và sắp xếp
để họ đi tới bước quyết định kết hôn. Mạc khải Kitô giáo nói rằng kế hoạch và ý
định ấy, dành cho hai người và mời gọi họ thực hiện, được Chúa Cha nghĩ và sáng
tạo trong Đức Kitô, họ như những người con yêu dấu của Ngài. Thiên Chúa đợi chờ
chúng ta đáp trả trong tình yêu và tìm kiếm Ngài không ngừng. Trong tình yêu
phu thê của hai người, như thế, có ghi khắc một vết tích không thể xóa nhòa, là
nỗi nhớ sâu xa về Thiên Chúa.
Tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa
Việc khám phá ra tình yêu tràn ngập con tim của hai người cuốn hút nhau đến nỗi cùng nhau đi trọn cuộc đời khởi động một cuộc kiếm tìm dung nhan Thiên Chúa mầu nhiệm. Mọi khám phá lớn luôn là hoa quả của một cuộc tìm kiếm say mê và bền bĩ. Điều đó đặc biệt đúng đối với những ai tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa họ gặp trên nẻo đường tình yêu dành cho nhau: con người không thể không khát vọng Thiên Chúa. Không thụ tạo nào là không cần Đấng Tạo Hóa, nhưng trong thế giới chỉ có con người có cảm nhận khát vọng này và biết cảm nhận nó. Cả khi người ta chối bỏ Thiên Chúa, người ta cũng không thể chối bỏ nỗi khát khao về Vô biên luôn có ở trong ta. Những người yêu nhau đó khát khao chọn lựa kết hôn của họ là mới khúc dạo đầu của một cuộc sống viên mãn, vượt trên mọi giới hạn. Tự sâu thẳm họ tìm kiếm ơn cứu độ như bao người khác trước họ: «Xin Ngài đừng ẩn mặt !» (Tv 27,9). Đôi bạn đính hôn, đôi vợ chồng tương lai bấy giờ hướng thẳng về chính nguồn mạch sự sống: Thiên Chúa. Thật ra, họ không đi tìm một chân lí bất kì nào, nhưng là tìm kiếm một Ai đó ban cho họ khả năng nhận ra được ý nghĩa sâu xa của một tình yêu dâng hiến cho nhau suốt cuộc đời.
Lớn lên trong niềm tin vào Đức
Giêsu Kitô
Đối với những người đính hôn, cuộc kiếm tìm sự thật của tình yêu của họ, trong kiên nhẫn và thiết tha, diễn ra trong sự Quan phòng trong bối cảnh của một cộng đoàn loan báo, làm chứng và bảo vệ sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô. Ngài là Đấng đã mạc khải cho con người đang tìm kiếm dung nhan đích thật của Thiên Chúa. Cộng đoàn Hội thánh quảng đại loan báo và thông truyền hồng ân phục sinh tràn đầy của Đức Giêsu Kitô mình đã lãnh nhận, cho cả những người được kêu gọi sống và biểu lộ tình yêu viên mãn của họ. Gặp gỡ chính Đức Giêsu Kitô, lắng nghe Phúc-âm của Người tất cả hợp làm một với cuộc tìm kiếm sự thật họ đang theo đuổi. Đôi bạn trẻ đã nhận thấy nơi thâm sâu tình yêu của họ có một sức mạnh thôi thúc họ hướng tới cái gì đó còn lớn lao hơn và cuối cùng. Bởi thế họ quay hướng về Chúa Giêsu. Đang khi quay bước về với Chúa Giêsu họ nhận ra Người đã có đó tự bao giờ trên những dấu vết của họ và đã đồng hành với họ ngay từ khi tình yêu của họ khởi sinh. Đọc lại chuyện tình yêu của họ trong ánh sáng này, đôi bạn đính hôn nhận ra một ơn gọi mầu nhiệm sống tình yêu của họ cách viên mãn như Đức Giêsu Kitô đã yêu. Đức Giêsu hấp dẫn họ chính vì Người biểu lộ sự chân thành tới mức trả giá cao nhất cho sự thật mà Người loan báo. Những người đính hôn tìm kiếm một ai đó, trong khi nói về cuộc sống của mình người ấy trao ban ý nghĩa cho cuộc sống lứa đôi của họ, và trong khi diễn giải những chọn lựa của mình người định hướng cho những chọn lựa của họ. Gặp được Đức Kitô các dự án và hoa quả của việc tìm kiếm của con người không bị phế bỏ, nhưng được phân định và đảm nhận vào trong một khung cảnh rộng lớn hơn, hướng chúng đến sự viên mãn mà con người khao khát. Thông ban cho chúng ta Thánh Thần là chính Tình Yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu còn đi xa hơn giáo huấn thuần đạo lí Người ban cho ta khả năng yêu thương như chính Thiên Chúa yêu thương. Đây chính là ơn cứu độ cho mỗi người chúng ta, cho đôi bạn và cho gia đình, vì chỉ các quan hệ yêu thương mới có thể làm cho thế giới này trở thành một môi trường sống.
Làm chứng về Đức Kitô
Đấng Phu Quân trong Hội thánh Hiền thê
«Tin mừng gia đình là một niềm vui “đầy ắp tâm hồn và cả cuộc sống của họ”, vì trong Đức Kitô, chúng ta được “giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô độc» (Amoris Laetitia 200; cf. Evagelii Gaudium, 1).
Chúng ta cảm thấy cuộc sống
mình như chưa được giải thoát, cuộc kiếm tìm của mình chưa được thỏa mãn, nếu
ta chưa thay đổi các mối quan hệ với tha nhân. Chỉ một cá nhân mình ổn thôi thì
chưa đủ, phải ổn cả trong các tương quan với người khác. Kinh nghiệm đức tin
luôn lớn lên và chín muồi ở trong một cộng đoàn, nó dẫn ta vào trong cuộc sống
của cộng đoàn đã được đổi mới các tương quan. Trong khi tìm kiếm tình huynh đệ
ta sẽ có được kinh nghiệm tình huynh đệ trong gặp gỡ với Chúa Giêsu. Chính Chúa
Giêsu từ từ dẫn lối cho ta đến hiệp thông với anh em mình là các môn đệ khác của
Chúa Giêsu, dù khác nhau về xuất xứ và tính tình, và hơn nữa còn đến hiệp thông
với Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. Ta khám phá ra rằng mối hiệp thông với
Chúa chính là nền tảng cho việc sống tình huynh đệ. Tình huynh đệ này được triển
nở trong Hội thánh. Trong Hội thánh mỗi người kết hợp với Chúa Kitô, gặp gỡ Người
và sống lại kinh nghiệm hiệp thông với
Thiên Chúa và với anh em. Đây là giải đáp cho câu hỏi cuộc sống viên mãn của những
người chuẩn bị bước vào hôn nhân, vốn là một hiệp thông sâu xa của sự sống và
tình yêu.
Kitô hữu kết hôn
Ta thấy xuất hiện ở đây ý
nghĩa và giá trị thực sự Kitô giáo của hôn nhân. Đó là một biến cố được đưa vào
trong sáng kiến của Thiên Chúa, Đấng đã nhập thể làm người để hiện diện trong lịch
sử của mỗi người. Khế ước giữa người nam và người nữ, hiểu ở trong tất cả sự thật
được khám phá dưới ánh sáng đức tin Kitô giáo, biểu lộ giá trị thánh thiêng, sự
phong phú thần linh của nó. Hôn nhân trở thành một hành động của Thiên Chúa, nhập
thể trong tình yêu của đôi bạn đã quyết định nên vợ nên chồng trọn vẹn và dứt
khoát, và mang lấy chiều kích vượt trên những giới hạn loài người. Từ đó mà nó
trở thành một bí tích.
. Phản ứng tức thời của chúng
ta như thế nào trước điều được nghe?
. Tin nghĩa là gì (đối với một
cá nhân, như một đôi vợ chồng, như một một gia đình)? và tại sao?
. Đâu là những khó khăn chính
cho dự phóng chúng ta đã phác họa về cuộc sống đôi lứa?
. Một đôi bạn có thể sống chiều
kích cộng đoàn trong Hội thánh như thế nào?
. Anh chị thử tìm xem đâu là
những ý nghĩa khác nhau của các hạn từ sau đây: tham dự, dấn thân, sẵn sàng phục
vụ, chứng tá?
Gặp gỡ IV:
Đi sâu vào ý nghĩa của việc cử
hành hôn phối qua việc học biết quí trọng các yếu tố khác nhau đặc trưng của
hôn ước. Hôn nhân được nhìn nhận như là một trong những cơ thời của ơn cứu độ
và ân sủng Chúa ban cho những người cầu xin Người đến hiện diện với họ.
Lời dẫn:
Đức Giêsu hoàn thành lịch sử của Giao ước giữa Thiên Chúa và con
người. Người hiến thân trọn vẹn vì yêu thương và cứu độ nhân loại, qua việc kết
hợp với nhân loại như hiền thê của Người. Người là Đấng Phu Quân của Hội thánh.
Trong Đức Giêsu anh chị có thể khám phá và sống sự thật sâu xa nhất của hôn
nhân: hôn nhân của các tín hữu (của các người đã rửa tội) là hình ảnh thực và sống
động của Giao ước mới và vĩnh cửu kí kết trong máu Đức Kitô. Tình yêu phu thê của
các đôi bạn Kitô hữu, bởi hành động của Chúa Thánh Thần, trở thành nơi Chúa Phục
sinh hiện diện, là dấu chỉ hữu hiệu và hằng ngày của tình yêu Người đối với
chúng ta.
Lời Chúa: trích Thư của thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêsô
« Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được
Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương
chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên
Chúa tựa hương thơm ngào ngạt. Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn
nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của
vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội
Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ
cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương
vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy,
Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt
Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất
cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải
yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai
ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác
mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận
trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn
ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.
Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh. Vậy mỗi
người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng» (Ep 5,1-2.21-33).
Linh mục: Khi học biết và
chiêm ngắm sự cao cả kì diệu của bí tích hôn phối, chúng ta hãy dâng lên Chúa lời
ca tụng và tạ ơn. Xin mọi người cùng lặp lại:
-
Lạy Chúa, tạ ơn Chúa thật là chính đáng và phải đạo.
Cđ.: Lạy Chúa, tạ ơn Chúa thật là chính đáng và
phải đạo.
Người
nam: Chúa
đã thiết lập với dân Chúa một Giao ước mới để trong Đức Kitô, Người đã Chết để
cứu rỗi chúng ta và Phục sinh trong vinh quang, nhân loại trở nên được dự phần
vào đời sống bất tử của Ngài và đồng thừa hưởng vinh quang trên trời.
Cđ.: Lạy Chúa, tạ ơn Chúa thật là chính đáng và
phải đạo.
Người nữ: Trong Giao ước giữa
người nam và người nữ Chúa đã ban cho chúng con hình ảnh sống động của tình yêu
Đức Kitô dành cho Hội thánh, và trong bí tích hôn phối xin hãy tỏ cho chúng con
thấy tình yêu nhiệm mầu khôn dò của Ngài.
Cđ.: Lạy Chúa, tạ ơn Chúa thật là chính đáng và
phải đạo.
- Thế nào là các bí tích?
- Chúng ta biết nghi lễ hôn phối Kitô giáo có những ý nghĩa gì?
- Hai người tín hữu quyết định kết hôn với nhau trước mặt Chúa,
việc đó có khác biệt gì so với những người khác kết hôn theo các ‘nghi lễ’
khác?
Con đường đã đi qua cho thấy
trong quyết định kết hôn người Kitô hữu không vô tâm vô tình nhưng đánh dấu trước
hết chặng đường đính hôn và quyết định sau cùng của họ. Bởi thế hai người Kitô
hữu đính hôn không chỉ đơn thuần “kết hôn” với nhau, nhưng còn có ý hướng và
xin được “kết hôn trong Hội thánh”, nghĩa là chia sẻ đức tin của Hội thánh.
Bí tích hôn phối: dấu chỉ hữu
hiệu của tình yêu Đức Kitô
«Hôn nhân Kitô giáo, phản ánh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh của Người, được thực hiện một cách trọn vẹn trong sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, họ hiến thân cho nhau trong một tình yêu độc hữu và sự trung thành trong tự do, họ thuộc về nhau cho đến chết và mở ra cho việc truyền sinh, họ được thánh hiến bởi bí tích trao ban ân sủng để xây dựng một Hội thánh tại gia và men của sự sống mới cho xã hội» (Amoris Laetitia 292; HĐGMVN, Thư gửi các Gia đình công giáo, 1).
Khi dùng chữ “Bí tích” người
ta muốn nói ngay đến một nghi lễ cử hành bởi Hội thánh và trong Hội thánh. Sâu
xa hơn, với từ ngữ ấy chúng ta muốn nói rằng, qua hành động cử hành nghi thức đặc
thù này (dù là Rửa tội hay Thêm sức, Hòa giải hay Thánh Thể, Xức dầu bệnh nhân
hay Hôn phối hoặc Truyền Chức thánh) chính Chúa Giêsu hành động, Người ban ơn cứu
độ cho con người bằng cách hiện tại hóa mầu nhiệm Vượt Qua cho chúng ta tại đây
và hôm nay. Bằng cách đó, Người cho ta có thể dự phần vào Thập giá và Phục sinh
của Người. Trong những thế kỉ đầu của đời sống Hội thánh, hôn phối đã được cử
hành không có nghi lễ đặc thù riêng, mà chủ yếu theo tập tục của xã hội trong
đó đôi bạn Kitô hữu đang sống. Nhưng kể từ đó, trước mỗi dịp kết hôn, các Kitô
hữu đã ý thức mình sống trong một thực tại “thánh thiêng”: người ta biết đó là
hai người tín hữu kết hôn “trong Chúa”. Lời ưng thuận kết hôn mà hai người Kitô
hữu tuyên bố “được biến hình” từ bên trong nhờ phép Rửa tội họ đã lãnh nhận.
Đôi tân hôn Kitô hữu biết rằng họ kết hợp nên một trong Đức Kitô. Từ ý thức này
Hội thánh đi đến chỗ nhìn nhận giá trị của hôn nhân như là một bí tích. Thánh
Phaolô trong Thư gửi tín hữu Êphêsô (5,22-30) đã xét đến kinh nghiệm vợ chồng cụ
thể này và nhấn mạnh rằng: quan hệ giữa vợ và chồng là một quan hệ “trong Chúa”; vợ phải “tùng phục” chồng như Hội
thánh tùng phục Đức Kitô; chồng phải yêu thương vợ mình như Đức Kitô yêu thương
Hội thánh. Khi ấy, mầu nhiệm phải được hiểu như là hành động cứu độ của Thiên
Chúa, Đấng đã sai Con của Người đến mạc khải cho ta dung mạo Thiên Chúa là Cha
của Người, cũng như là hành động của Đức Giêsu Kitô. Như thế hôn nhân là bí
tích và trong bí tích đó Chúa Thánh Thần Đấng được tuôn tràn ban cho đôi bạn một
quả tim mới và làm cho người nam và người nữ có khả năng yêu mến như Chúa Kitô
đã yêu mến chúng ta. Tình yêu vợ chồng, vì thế, phải hướng đến mức viên mãn của
nó như đã được tiền định tự bên trong: tình bác ái phu thê. Đoạn thư của thánh
Phaolô gửi tín hữu Êphêsô còn nhấn mạnh một điểm cốt yếu khác nữa về nội dung của
bí tích hôn phối. Nó xuất phát từ chính tình yêu vợ chồng cụ thể diễn tả trong
đời sống đôi bạn và gia đình. Chính thực tại đặc thù của đôi bạn tín hữu đã rửa
tội (toàn thể con người, nam cũng như nữ, với xác thân của người nam và người nữ
họ trao đổi yêu thương và hiến dâng cho nhau cách trọn vẹn, duy nhất, bất khả
phân li và phong nhiêu) được biến đổi thành “bí tích”. Trung tâm điểm của cử
hành hôn phối là lời tuyên bố ưng thuận đôi tân hôn trao cho nhau . Thực tế có
một nguy cơ là lời tuyên hứa ưng thuận giữa một người nam và một người nữ diễn
ra khá thường ấy có thể hơi bị xem nhẹ. Trong khi, thực ra chúng ta đang đối diện
với một phép lạ, đó là một người tự nguyện hiến chính mình cho một người khác,
dám trao phó con tim mình, cuộc sống mình, số phận mình cho người ấy, phó thác
cho mầu nhiệm của một nhân vị khác.
Hôn phối một “bí tích thường
xuyên”
«Bí tích Hôn Phối không chỉ là thời điểm cử hành hôn lễ nhưng là thực tại tác động toàn bộ đời sống hôn nhân» (HĐGMVN, Thư Chung 2016).
Nói hôn nhân là một bí tích
có nghĩa là nhìn nhận rằng qua hành động của đôi hôn phối nói lên sự ưng thuận
chính Đức Kitô hoạt động: Người mạc khải và thực hiện cái gì đó thuộc tình yêu
của Người cho Hội thánh và cho con người. Hẳn là Đức Kitô sẽ hiện diện cả trong
những hoàn cảnh khác thường nhật hơn của đời sống; nhưng công bố sự ưng thuận vẫn
là một hành động biệt loại, không ở trên cùng một bình diện với tất cả các hành
động khác của tình yêu đôi bạn trao cho nhau về sau. Hôn phối có thể được xếp
vào loại “bí tích thường xuyên”: suốt cuộc sống hôn nhân của họ, trong những
hoàn cảnh nhất định, đôi bạn có thể tái hiện lại bí tích hôn phối qua việc tạo
ra những hiệu quả của ân sủng và ý nghĩa sâu xa ấy vốn đã được thực hiện trong
thời điểm cử hành lễ cưới. Điều đó xảy ra trong mọi hành động đặc thù của tình
yêu giữa đôi vợ chồng – kể cả hành động kết hợp tính dục vợ chồng – để trải
nghiệm trong sự tự do và ý thức, một cách chân thật, như những hành động đích
thật của tình yêu.
Hôn nhân, Thánh Thể và bước
theo Chúa Kitô
Thế nên, nói hôn nhân là “bí tích” điều đó có nghĩa là khẳng định rằng chính hôn nhân là một âm vang vọng của lời “xin vâng” của tình yêu được loan báo và sống trên Thập giá của Đức Kitô. Chính vì thế, hôn nhân được mời gọi họa lại theo khuôn mẫu tình yêu của Giêsu và tái hiện lại những gì diễn ra nơi tình yêu thập giá ấy trong ngày hôm nay. Qui chiếu bí tích hôn phối đến tình yêu của Chúa Kitô trên Thập giá còn gợi sự liên hệ chặt chẽ giữa Hôn nhân và Thánh Thể: Mình Thánh trao ban, Máu Giao ước đổ ra của Chúa Kitô trở thành cơ sở, nguyên mẫu và sức mạnh cho đời sống bác ái của mỗi Kitô hữu, của các đôi bạn và gia đình Kitô hữu. Chính trong hi tế này đôi bạn Kitô hữu tìm thấy nguồn mạch không ngừng tuôn trào và định dạng cho Giao ước phu thê của mình.
«Đức Giêsu gõ cửa các gia đình chia sẻ với họ bữa tiệc Thánh Thể
(cf. Kh 3,20). Ở đó, vợ chồng luôn
luôn có thể kí kết lại giao ước Vượt Qua vốn là giao ước đã kết hợp họ và phản ảnh
Giao ước mà Thiên Chúa đã kí kết với nhân loại trên thập giá (FC 57). Thánh Thể là bí tích của Giao Ước
Mới, trong đó công trình cứu chuộc của Đức Kitô được thực hiện (cf. Lc 22,20). Như thế mối liên kết sâu xa
giữa đời sống hôn nhân và Thánh Thể càng trở nên càng rõ nét hơn[15].
Lương thực Thánh Thể là sức mạnh và động lực cần thiết cho đôi vợ chồng để sống
hôn ước mỗi ngày như một “Hội thánh tại gia”» (Amoris Laetitia 318).
Khi ấy, người ta có thể kết
luận rằng đối với hai bạn đính hôn Kitô hữu, kết hôn trong Hội thánh nhằm mục
đích cuối cùng là gia tăng tình yêu Chúa Giêsu Kitô hơn, bằng cách sống như Người,
hay bước theo ơn gọi nên thánh của mình.
Bí tích hôn phối xây dựng Hội
thánh
Sự hiện diện của linh mục chứng hôn cho đôi bạn kết hôn trong Hội thánh diễn tả sự kiện hôn phối liên hệ đến toàn thể Hội thánh. Thể thức công khai và hình thức Hội thánh của lễ Hôn phối không chỉ là một thủ tục bên ngoài. Nó hàm chứa một sự nhìn nhận và bảo vệ cho quyết định này và nói lên rằng cộng đoàn Kitô hữu cảm thấy mình đồng trách nhiệm hoàn thành cuộc hôn nhân này. Hơn nữa, tình yêu của đôi vợ chồng góp phần hiệu quả để xây dựng Hội thánh. Đôi vợ chồng góp phần trước hết qua việc đón nhận và giáo dục con cái mà Chúa sẽ ban cho họ và còn qua gương mẫu sống đức tin, sống tinh thần hiếu khách và cởi mở đón nhận tha nhân khi trở nên những tế bào sống động của Giáo hội.
Hôn nhân và “những thực tại
cánh chung”
Hôn nhân Kitô giáo loan báo, tiên trưng và báo trước niềm vui và sự viên mãn của thời cánh chung. Nhưng hôn nhân không phải là một giá trị tối hậu, và như thế, người ta không thể phóng chiếu trên hôn nhân những mong đợi và những kì vọng quá đáng. Không người nào có thể ban cho người bạn đời kia “thiên đàng tại thế”. Hạnh phúc hai người có được trong tình yêu của họ chỉ là một hình ảnh bất toàn và còn khiếm khuyết của niềm hạnh phúc sau cùng mà chỉ một mình Chúa mới có thể ban cho.
«Quả thật, trên thực tế không gia đình nào là hoàn hảo và được
kiện toàn một lần dứt khoát; nhưng đòi hỏi một sự phát triển tiệm tiến khả năng
yêu thương của mình. Có một tiếng gọi không dứt, phát xuất từ sự hiệp thông
viên mãn của Thiên Chúa Ba Ngôi, từ sự kết hợp kì diệu giữa Đức Kitô và Hội
thánh của Người, từ cộng đoàn kiều diễm là Gia đình Nadarét, và từ tình huynh đệ
vô tì tích giữa các thánh trên thiên quốc. Tuy nhiên, việc chiêm ngắm sự viên
mãn mà chúng ta chưa đạt tới cũng giúp chúng ta biết tương đối hóa trong khi
nhìn lại cuộc hành trình lịch sử mà chúng ta đang thực hiện trong tư cách là
gia đình, để rồi chúng ta không còn đòi hỏi các mối tương quan liên vị của
chúng ta phải hoàn hảo, phải tinh tuyền trong ý hướng, và phải nhất quán – điều
mà chúng ta chỉ có thể gặp thấy trong Nước Trời mai sau» (Amoris Laetitia 325)
. Phản ứng tức thời của chúng
ta như thế nào trước điều được nghe?
. Suy nghĩ về chi tiết một
vài lời nói, cử chỉ trong nghi thức hôn phối (những câu hỏi của người chứng hôn
trước lời ưng thuận, chính lời công bố sự ưng thuận, sự kiện trao nhẫn cho
nhau) anh chị có thể cùng rút ra được một vài ý nghĩa trọng yếu nào?
. Đâu là những hệ quả từ những
điểm nhấn quan trọng trên đây có thể đem lại cho cuộc sống hằng ngày?
Gặp gỡ V:
Mỗi người tín hữu, theo bậc sống
của mình, được mời gọi nên thánh qua việc dành chỗ cho Chúa Thánh Thần hoạt động.
Mục đích của buổi gặp gỡ này để giúp các cặp đính hôn biết dự phóng một cuộc sống
hôn nhân và gia đình tương lai, dấn thân cho sự tăng trưởng đời sống thiêng
liêng và cố gắng làm cho cuộc sống hằng ngày tăng trưởng không ngừng theo thánh
ý Chúa.
Lời dẫn:
Hôn nhân là một ơn gọi đặc biệt của Kitô giáo, nghĩa là một tiếng
gọi kêu mời đi theo Chúa Giêsu mọi ngày trong cuộc sống chúng ta. Điều đó có
nghĩa là toàn bộ cuộc sống hôn nhân và gia đình, trong mỗi khi hạnh phúc cũng
như lúc gặp khó khăn, được thiết lập như một lối đường để đạt đến sự thánh thiện,
tức là để nên thánh. Trong bí tích hôn phối, Chúa sẽ ban cho anh chị Thần Khí của
Người và trợ giúp anh chị bằng những ơn huệ Người ban để anh chị tôn vinh “hình
ảnh của Thiên Chúa” trong con người anh chị, để tác tạo anh chị thành những người
nam và người nữ sống hiệp thông đích thực. Con đường nên thánh sẽ đòi hỏi anh
chị phải chiến đấu quyết liệt để chống lại tội lỗi, để tránh xa mọi thứ ích kỉ
và chia rẽ, và đáp lại Thiên Chúa tình yêu và hợp nhất. Chỉ như thế, trong sự
hòa hợp trọn vẹn với chính mình, với người bạn đời và với những người khác, anh
chị mới có thể “dâng hiến thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp
lòng Thiên Chúa” như thánh Phaolô nói trong Thư gửi tín hữu Rôma (12,1). Toàn
thể cuộc sống đôi lứa của anh chị sẽ được Thánh Thần Chúa phủ bóng và mọi phần
của con người, mọi lúc của cuộc sống anh chị sẽ là lời ca tụng vinh quang Cha
trên trời.
Lời Chúa: trích trong Thư của
thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêsô
«Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn
ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành
vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình
thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho
ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân
sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu
Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng
rất phong phú của Người. Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất
cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý
này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời
gian tới hồi viên mãn là qui tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ
lãnh là Đức Kitô. Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo
quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp
riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hi vọng
vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người» (Ep 1,3-12).
Linh
mục:
Lạy Cha chí thánh, xin nhậm lời cầu nguyện của những con cái Cha
đây, là những người con đang chuẩn bị cuộc sống hôn nhân của họ như một lối đường
để nên thánh theo Thần Khí Chúa. Chúng con cầu nguyện cùng Cha bằng những lời lẽ
của lời chúc lành mà linh mục sẽ khẩn cầu ban xuống trên đôi bạn ngày tân hôn.
Những
người nữ:
Lạy Cha, chúng con cầu xin cho những người bạn là hôn phu tương
lai của chúng con đây, để một khi nên mạnh mẽ nhờ chúc lành của Cha, các anh sẽ
hoàn tất cách trung tín và can đảm sứ vụ làm chồng và làm cha của các anh.
Những
người nam:
Lạy Cha, chúng con cầu xin cho những người bạn là hôn thê tương
lai của chúng con đây, để một khi được ân sủng Cha nâng đỡ, các chị em sẽ noi
theo những phụ nữ thánh thiện mà Sách Thánh ca tụng như những người vợ và người
mẹ gương mẫu.
Tất cả
các anh chị đính hôn:
Lạy Cha, xin cho chúng con biết yêu thương nhau bằng chính tình
yêu mà Chúa Kitô đã yêu thương Hội thánh của Người.
Linh
mục:
Lạy Cha, các con cái của Cha đây xin dâng lời hân hoan ngợi khen
Cha, nguyện tìm Cha trong đau thương; vui hưởng tình bằng hữu của Cha trong khổ
nhọc và lời ủi an của Cha trong những khi túng cực; xin cho họ nguyện cầu cùng
Cha trong Đại hội các thánh, để họ trở thành những chứng nhân cho Tin Mừng của
Cha và đạt đến hạnh phúc trong Nước Cha. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
- Các thánh là ai? Sự thánh thiện liên quan thế nào tới hôn
nhân?
- Khi nhìn vào đời sống hằng ngày, đâu là những nỗi lo sợ chính
yếu nhất cho cuộc sống hôn nhân tương lai?
- Chúng ta có xem những suy tư đề nghị cho chúng ta trong những
gặp gỡ này là chuyện lí thuyết không?
Hôn nhân và ơn gọi nên thánh
«Chúa Kitô Con Thiên Chúa, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, được ca tụng là “Đấng Thánh duy nhất”, đã yêu quí Hội thánh như hiền thê mình và đã hiến thân để thánh hóa Hội thánh. Người kết hợp với Hội thánh như Thân mình Người và ban cho dư đầy ơn Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa. Vì thế tất cả mọi người trong Hội thánh (…) đều được kêu gọi nên thánh» (Lumen gentium 39).
«Hôn nhân Kitô giáo,
phản ánh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh của Người, (…) được thánh hiến bởi bí tích trao ban ân sủng để xây dựng một Hội thánh tại gia và men của sự sống mới cho xã hội» (Amoris Laetitia 292).
Tông huấn Familiaris Consortio khẳng định rằng việc
nên thánh riêng của các đôi vợ chồng Kitô hữu “được xác định bởi bí tích đôi bạn
đã cử hành và được thể hiện cụ thể trong thực tế riêng của cuộc sống hôn nhân
và gia đình” (56). Bí tích mà các Kitô hữu lãnh nhận trong hôn nhân dẫn đưa họ
vào một cuộc sống chung, được bao bọc bởi một tình yêu đằm thắm rạng ngời tình
yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Bởi thế, tình yêu của các đôi vợ chồng là “thánh thiện”,
nếu nó mang lấy những đặc tính trọn vẹn và tận tình mà Chúa Giêsu nói: «Như Thầy
đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau» (Ga 15,12).
Ơn gọi nên thánh phổ quát
Sự thánh thiện, trước khi là hoa trái của quyết định có ý thức của cá nhân hoặc của đôi bạn tín hữu, là một ơn huệ do Chúa trao ban trong Giáo hội cho chúng ta qua bí tích Rửa tội, và chúng ta được kêu gọi hết sức làm phát triển nó đến mức viên mãn. Chúng ta có Đức Kitô là người mẫu ưu việt cho việc phát triển sự thánh thiện viên mãn này: sự sống của Người được trao phó vào vòng tay trìu mến của Chúa Cha vì anh em Người. Tình yêu này được biểu lộ và triển nở trong các điều kiện cụ thể của cuộc sống và tìm thấy trong Hội thánh những con đường “thông thường” của nó: phụng vụ, lắng nghe Lời Chúa, bác ái. Đời sống phu thê và hôn nhân chính là một trong những con đường người ta có thể dùng để đáp lại ơn gọi nên thánh theo những đặc tính của hôn nhân như hợp nhất, trung thành, bất khả phân li và phong nhiêu.
Người nam và người nữ vươn tới
sự thánh thiện
Đời sống Kitô hữu không phải là một “đời sống đan tu” cũng không phải là cốt đi tìm “những thời gian thinh lặng và cầu nguyện”: nhưng đó là một “lối sống” trong Thần Khí gắn kết mọi chiều kích của cuộc sống. Theo nghĩa đó Hội thánh đã định vị đời hôn nhân như là một biểu đạt đặc trưng và đặc thù của sự thánh thiện. Điều đó có nghĩa là ân điển hiệp thông mà bí tích trao ban không tuôn đổ ráo hết trong ngày cử hành hôn phối mà kéo dài hiệu quả của nó ra trong suốt những ngày đời hôn nhân của đôi bạn.
Gìn giữ sự thánh thiện của đời
sống đôi lứa
Đôi bạn thực hiện ơn gọi nên thánh của mình xuyên qua các thực tại tiêu biểu của đời sống hôn nhân và gia đình. Như thế, đối với các người vợ và người chồng, sự thánh thiện không nằm ở nơi đâu khác mà, nằm ngay trong chính cuộc sống hôn nhân, và qua đời sống vợ chồng, nằm trong tình trạng, phẩm giá và các bổn phận bao hàm trong đó. Đời sống phu thê lan tỏa ra bởi Chúa Thánh Thần, và với các ơn huệ của Ngài các ý nghĩa và chọn lựa của cuộc sống đôi lứa trở thành biểu trưng. Chẳng hạn như: nếu tình yêu của họ dành cho nhau được hướng dẫn bởi ơn hiểu biết thì họ sẽ không chỉ dừng lại ở vẻ bên ngoài con người của nhau mà còn cố tìm đọc hiểu các nhu cầu của người kia tương thích với sự thật; nếu để tình yêu đối với con cái được hướng dẫn bởi ơn sức mạnh, thì tình yêu sẽ có khả năng giúp đỡ con cái chiến đấu chống lại sự ác, vì thế họ không tránh né những hi sinh cần thiết hầu có được sự thiện.
Sự thánh thiện của hôn nhân
và hành trình tiệm tiến
Nên thánh không đơn giản chỉ là một trạng thái “tiềm ẩn” nhưng phải được cụ thể hóa ra thành một hành trình tâm linh trong đó đôi vợ chồng tự nguyện chọn lựa, suy nghĩ, và thực hiện dần dần theo thời gian. Ơn gọi nên thánh được thực hiện qua một sự phân định về hành trình tâm linh cần phải hoàn tất trong tư cách của vợ chồng và tư cách của cha mẹ. Những chọn lựa của họ từ nay phải thể hiện định hướng của toàn bộ cuộc sống gia đình. Như thế, điều quan trọng là phải sống mỗi chiều kích của cuộc sống theo hướng “tâm linh” và bởi đó, hành trình của đôi bạn đính hôn đã phải đánh dấu bởi một sự quan tâm chăm chú vào đời sống thiêng liêng.
Cần có một linh đạo hôn nhân
đích thật và sâu sắc
Có thể gợi ra đây một vài yếu tố cốt lõi và các lãnh vực sống linh đạo hôn nhân:
- Đó là một lối sống đời hôn
nhân và gia đình nhằm mục đích luôn tiến đến sát gần hơn tình yêu của Chúa
Kitô. Đối với các đôi vợ chồng, lối sống ấy thể hiện qua việc sống tình hiệp
thông, cầu nguyện và tham dự phụng vụ. Việc nên thánh cá nhân và trong hôn nhân
không nghịch, mà trái lại còn làm thăng hoa đời sống nhân bản và đức tin của cá
nhân và của đôi bạn.
«Linh đạo tình yêu gia đình được cấu thành từ hàng ngàn cử chỉ
thực tế và cụ thể. Trong tình hiệp thông được xây dựng từ bao nhiêu là hi sinh
và gặp gỡ, Thiên Chúa có chỗ ngự trị của Ngài. Sự dâng hiến cho nhau đó kết hợp
“những giá trị nhân văn và thần linh”, vì nó là sự tròn đầy của tình yêu Thiên
Chúa» (Amoris laetitia 315).
«Nếu gia đình luôn qui hướng về Đức Kitô, Người sẽ hiệp nhất và
soi sáng toàn thể đời sống của gia đình. Những khổ đau và những vấn đề của gia
đình trải nghiệm trong sự thông hiệp với Thập Giá của Chúa, và được Người ôm lấy
sẽ giúp gia đình chịu đựng được những thời khắc tồi tệ. Trong những ngày giờ
cay đắng của gia đình, việc kết hợp với Đức Giêsu bị bỏ rơi có thể giúp tránh
được sự đổ vỡ. Các gia đình dần dần, đạt đến sự thánh thiện của mình qua đời sống
hôn nhân, bằng ân sủng của Thánh Thần và bằng việc tham dự vào mầu nhiệm thập
giá Đức Kitô, nhờ đó những khó khăn và đau khổ chuyển hóa thành một hiến lễ
tình yêu» (Amoris laetitia 317).
- Linh đạo phát sinh từ bí
tích hôn nhân đảm nhận cả thực tại thể xác của người nam và người nữ và quan hệ
yêu đương của họ, để cho thấy con đường chủ đạo thực hiện viên mãn. Tính dục của
đôi bạn đề cao các chiều kích hiến dâng, vô cầu, đón nhận sự sống có trách nhiệm.
Đó là một linh đạo sống tính dục nhân bản và nhân vị toàn vẹn. Từ bản tính của tình
yêu phu thê, ta thấy linh đạo hôn nhân là :
«linh đạo của tình yêu tự
do và độc hữu» (Amoris laetitia 319).
- Thần Khí được tuôn ban
trong bí tích đưa đôi bạn vào trong Hội thánh với tư cách như một đôi vợ chồng
Kitô hữu và biến họ thành một biểu hiện mầu nhiệm hiệp thông, điều mà toàn thể
gia đình phàm nhân được kêu gọi hướng tới. Cả điều này cũng cần được thực hiện
theo cách thế không có “cạnh tranh” giữa đời sống gia đình và tham dự vào các
sinh hoạt Giáo hội. Vấn đề là làm sao hòa hợp về thời gian và nguồn lực nhưng
nhất thiết phải tránh thái độ khép kín làm “tàn tạ” gia đình theo cái nhìn
thiêng liêng.
Các nguồn lực và phương tiện
để nâng đỡ và nuôi dưỡng linh đạo hôn nhân
Tham dự các bí tích, cầu nguyện và tạ ơn, chứng tá cho một đời sống thánh thiện, với những hi sinh và việc bác ái là những trọng điểm của linh đạo Kitô giáo và đòi hỏi phải được đôi bạn sống một cách trọn vẹn, theo nhịp riêng của đời sống gia đình. Đặc biệt, ngày càng thấy rõ ràng hơn cần thiết phải xác minh thường xuyên hành trình đức tin của đôi bạn và gia đình, ngay cả phải nhờ đến bí tích Hòa giải, gặp gỡ và đối thoại với một vị linh hướng, đối thoại giữa hai vợ chồng. Trong hướng đi đó, người ta ngày càng nhận thấy các nhóm gia đình qui tụ thành cộng đoàn rất quan trọng. Họ nâng đỡ nhau, không để cho một đôi bạn nào lẻ loi cô đơn chịu đựng trước các hoàn cảnh khó khăn, hoặc trước nhiệm vụ gay go sống niềm tin của mình trong thế giới.
. Phản ứng tức thời của chúng
ta như thế nào trước điều được nghe?
. Anh chị có cảm thấy sợ hãi,
e thẹn và khó khăn khi phải nói ra những điều riêng tư thuộc đời sống nội tâm
và thiêng liêng không? Đâu là những khó khăn chính và tại sao?
. Đâu là những hoàn cảnh có
thể giúp củng cố và làm tăng trưởng linh đạo này trong cộng đoàn của chúng ta?
. Phải chăng giáo dục đời sống
thiêng liêng cũng là một trong những mục tiêu chính yếu của việc giáo dục con
cái? Chúng ta có thể gặp phải những vấn đề nào?
Gặp gỡ VI:
Cùng nhau suy nghĩ về chuyện
kết hôn, đó là sự kiện ta phải xây dựng dần dà theo thời gian đồng thời học
nhìn hôn phối như là một bước khởi đầu của kế hoạch sống. Chúng ta thấy nhiệm vụ
luân lí này được thiết lập dựa trên nền tảng của chọn lựa hôn nhân là một lựa
chọn trọn vẹn, bất khả phân li và duy nhất của và đôi bạn thiết yếu phải tin tưởng
dự phóng này.
Lời dẫn:
Ơn ta nhận được trong bí tích hôn phối đòi hỏi phải được sống và
làm cho mới mỗi ngày: đó là lời hứa đôi tân hôn trao cho nhau khi tuyên bố ưng
thuận kết hôn.
Nhiệm vụ luân lí của anh chị sẽ được thực hiện trong một hành
trình dài để dần dần trở nên “một xương một thịt” trong khi biết tôn trọng sự
khác biệt nhau, để cùng nhau xây dựng một cuộc sống chung nuôi dưỡng bởi một
tình yêu trọn vẹn, trung tín, bất khả phân li và phong nhiêu (sẵn sàng đón nhận
và nuôi dạy con cái).
Trong cuộc hành trình này anh chị không đơn độc: trong cuộc sống
và trong nhà của anh chị sẽ có Thánh Thần Chúa hiện diện và hoạt động.
Lời Chúa: trong Tin Mừng theo
thánh Marcô
«Đức Giêsu bỏ nơi đó, đi tới miền Giuđê và vùng bên kia sông
Giođan. Đông đảo dân chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại
dạy dỗ họ. Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: "Thưa Thầy,
chồng có được phép rẫy vợ không? " Họ hỏi thế là để thử Người. Người đáp:
"Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? " Họ trả lời: "Ông
Môsê đã cho phép viết giấy li dị mà rẫy vợ." Đức Giêsu nói với họ:
"Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho
các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người
có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả
hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một
xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân
li." Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy. Người nói:
"Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ
chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình." » (Mc 10,1-12).
Linh
mục:
Trong khi cùng nhau cầu nguyện bằng thánh vịnh 127, chúng ta hãy
bày tỏ niềm xác tín rằng sự bình an của Chúa sẽ cư ngụ trong gia đình trung tín
với Người, vì Người làm cho gia đình tràn ngập hạnh phúc. Chúng ta chia ra làm
hai bè luân phiên các chị rồi các anh xướng đáp.
Những
người nữ:
Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ CHÚA, ăn ở theo đường lối của Người.
Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều
may.
Những
người nam:
Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái;
và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn.
Những
người nữ:
Đó chính là phúc lộc CHÚA dành cho kẻ kính sợ Người. Xin CHÚA từ
Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc! Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy
Giêrusalem phồn thịnh,
Những
người nam:
được sống lâu bên đàn con cháu. Nguyện chúc Israel vui hưởng
thái bình!
Tất cả:
Vinh
danh Chúa Cha và Chúa Con, cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
Tự muôn
đời và chính hiện nay, luôn mãi đến thiên thu vạn đại. Amen.
- Luật luân lí là
gì? Hạn chế các ước muốn và khát khao của con người, cá nhân cũng như đôi bạn,
có chính đáng không?
- Anh chị hiểu như
thế nào khẳng định sau đây: “Hôn phối không phải là điểm đến nhưng là điểm khởi
đầu” ? Tại sao, và theo nghĩa nào, với những chọn lựa nào?
- Diễn ngữ tin mừng
liên hệ tới hôn nhân sau đây có ý nghĩa gì: “Cả hai sẽ trở nên một xương một thịt”
?
Đề tài của
lần gặp gỡ này là thái độ và hành vi luân
lí Kitô giáo của đôi bạn.
Hôn nhân không
chỉ gói trọn trong một nghi lễ cử hành, nhưng là một “bậc sống”, tức là một tình trạng của cuộc sống, được trải dài
trong thời gian và đòi hỏi phải được làm mới lại mỗi ngày trong khi đối mặt với
một chuỗi những điều cụ thể phải quyết định. Nói đến “thái độ và hành vi luân
lí” khiến nhiều người trong chúng ta cảm thấy không ít bối rối hay khó khăn. Quả thật, một cách tự nhiên, người ta thường
nhìn vấn đề này như một tổng thể các luật lệ và qui tắc được áp đặt bởi lề luật
từ bên ngoài: luật lệ và qui tắc được cảm nhận như một gánh nặng phải mang, như
một sự giới hạn tự do riêng của mỗi người. Trong bối cảnh văn hóa thời đại hôm
nay với đặc trưng chủ nghĩa tương đối về đạo đức khá phổ biến, cảm thức ấy còn
thấy rõ ràng hơn.
Ý nghĩa
của luân lí Kitô giáo
Không nên lẫn lộn tính luân lí với chủ nghĩa duy luân lí hay chủ nghĩa duy pháp lí (hiểu như là chỉ giữ luật bề ngoài, hay thái độ sống nệ luật). Phải nhìn luân lí như là một dấn thân của tự do và lương tâm của ta tìm kiếm và thực thi sự thiện đích thật, khi ta nhận ra chính chân lí. Lề luật và các qui tắc, theo nghĩa này, là để diễn giải như một ơn huệ của Thiên Chúa nhằm giúp chúng ta gặt nắm được sự thật về mình dễ dàng hơn, để làm sao cho chúng ta trong tự do có thể gắn kết được với Ngài. Điều này đúng cho cá nhân và cũng đúng cho đời hôn nhân. Đặc tính nền tảng của luân lí Kitô giáo là: trong luân lí ấy ơn Chúa đi trước đòi hỏi sống theo lề luật và qui tắc, và ơn này, khi khơi dậy trong ta sự đáp trả và chất vấn tự do của mình, trở thành tiếng kêu gọi ta đảm nhận một lối sống nào đó. Qua khế ước hôn phối, tức là bằng tình yêu phu thê, người kết hôn tham dự vào chính tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội thánh Người: đó là ơn ban của Thần Khí làm cho hai vợ chồng có khả năng sống theo những tính năng của chính tình yêu này. Từ ơn huệ này phát sinh ra bổn phận phải sống theo sự thật của tình yêu vợ chồng và phù hợp với căn tính của người đã kết hôn: người được kêu gọi thể hiện trong lịch sử mầu nhiệm tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội thánh. Sống cuộc hôn nhân của mình, bởi thế, không hệ tại nơi việc thích nghi theo một lề luật bên ngoài, cho bằng là thực hiện những gì là chính hôn nhân.
«Tuy nhiên sẽ không
tốt nếu chúng ta lẫn lộn các bình diện khác nhau: không được đặt lên hai con
người đầy giới hạn cái gánh nặng to lớn của việc phải thể hiện lại cách hoàn hảo
mối kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh, vì hôn nhân – xét như một dấu chỉ – là
“một tiến trình năng động dần dần tiến tới hội nhập ngày một hơn các ơn huệ của
Thiên Chúa” (FC 9).» (Amoris laetitia 122).
Thái độ
hành động luân lí của các đôi vợ chồng
Hôn nhân, trong khi kết hợp vợ chồng nên một, đòi hỏi hai người mỗi ngày không ngừng trở nên “một xương một thịt”. Nói cách khác, điều quan trọng là vợ chồng sống đời hôn nhân của mình làm sao để thực hiện tốt các đặc tính của tình yêu phu thê, một tình yêu hoàn toàn nhân bản và trọn vẹn và nhìn nhận tình yêu phu thê «là một tình yêu trọn vẹn gồm thâu mọi nhân tố thuộc ngôi vị - cả về thể xác và bản năng, sức mạnh của cảm xúc và tình yêu, khát vọng của tâm linh và ý chí -; tình yêu ấy nhằm đến một sự hợp nhất sâu xa giữa các ngôi vị, một sự hợp nhất ngoài sự kết hợp nên một trong thân xác, còn nên một trong tâm hồn và trong linh hồn» (Familiaris consortio, 13). Được kêu gọi nên một không hề có nghĩa là loại trừ những khác biệt, nhưng đúng hơn là nhìn nhận, tôn trọng, thăng tiến và quí trọng tính cá biệt của nhau, đem hòa nhập nó vào mạch chảy của tình yêu và hiệp thông sâu xa. Những tính chất không thể chối bỏ của hôn nhân dựa trên nền tảng sự hiệp nhất vợ chồng, khi ấy, là trung thành (với kế hoạch yêu thương tự hiến), bất khả phân li (li dị là một sự xúc phạm nghiêm trọng đến phẩm giá của hôn nhân, đến ơn ta lãnh nhận), phong nhiêu (mở ra với sự sống), khiết tịnh vợ chồng (tình yêu không so đó tính toán ích kỉ).
«Sau tình yêu kết hợp
chúng ta với Thiên Chúa, tình yêu phu phụ là “tình bạn cao cả nhất”.[16] Đó là một sự kết hợp bao hàm mọi đặc tính của một tình bạn tốt đẹp: quan
tâm tới thiện ích của người kia, tính hỗ tương, sự thân mật, sự dịu dàng, tính ổn
định và sự tương đồng bằng hữu cần được thiết lập từ một đời sống chung. Nhưng
Hôn nhân còn thêm vào đó tính đơn nhất bất khả phân li được diễn tả trong dự
phóng ổn định cùng chia sẻ và xây dựng toàn bộ cuộc sống. Chúng ta hãy chân
thành và nhìn nhận những dấu chỉ của thực tại: Ai đã yêu nhau thì không dự định
duy trì mối quan hệ đó của mình chỉ trong một thời hạn, ai sống mãnh liệt niềm
vui của kết hôn thì không nghĩ tới một kết hợp tạm thời; những người đồng hành
cuộc cử hành mối kết hợp tràn ngập tình yêu dù có mong manh này, cũng hi vọng
nó sẽ đứng vững qua thử thách của thời gian; con cái không chỉ muốn cha mẹ
chúng yêu nhau, mà còn trung thành và mãi mãi gắn bó với nhau» (Amoris laetitia 123).
Những nồng
nàn và chông chênh
Thuở ban đầu hôn nhân thường rất giàu các nguồn lực và vì thế đây là thời gian cần được quí trọng. Những nồng nhiệt thuở ban đầu cuộc sống lứa đôi, niềm vui nhìn thấy người này được tạo dựng để cho người kia, sự thanh bình của một đời sống vợ chồng thân mật và quân bình, niềm vui trong việc thực hiện những dự phóng và ước mơ được ấp ủ từ lâu, mở ra với những viễn ảnh mới cho sự tăng trưởng đức tin… Nhưng cũng không thiếu những khó khăn tương ứng. Sự hòa hợp với nhau đòi hỏi cả một quá trình dài lâu, khám phá cũng có phần bất ngờ những mặt tiêu cực hoặc “vấn đề” của nhau, không thể chịu đựng nhau, cám dỗ khép kín mình trong cõi riêng tư… Những khó khăn ấy có thể phát sinh từ chỗ người này hay người kia không có khả năng hòa hợp các khác biệt, hoặc nổi lên thường xuyên những ghen tương lạnh nồng, để rồi bắt đầu hay giận hờn, im lặng, nghi ngờ rồi một ngày bùng nổ tranh luận, cải vã. Trong bối cảnh đó, các anh chị cần học biết sống “có đôi” và “thành đôi”, mọi sự cần được quyết định chung bởi cả hai người hay có tham khảo sự đồng thuận của người kia.
“Đức Chúa là chứng
nhân giữa ngươi và người đàn bà ngươi đã cưới trong tuổi thanh xuân. […] Ngươi
đừng phản bội người đàn bà ngươi đã cưới trong tuổi xuân xanh. Quả thật Ta ghét
việc rẫy vợ” (Ml 2,14-16).
Những ân
cần và thái độ sống cần vun xới
Một tình yêu đem đến ích lợi khi biến thái với những nét sau đây mà thánh Phaolô trong Thư gửi tín hữu Côlossê (3,12t.) đã gợi ra: dịu hiền, có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa (không xét đoán gay gắt), nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau. Để được như thế, ta phải quay về với nguồn dinh dưỡng: lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện trong gia đình. Hai vợ chồng cần có nói chuyện, đối thoại với nhau, đối diện cùng bàn bạc với nhau về các chương trình sống của mình và những chọn lựa họ dự định làm, tìm chia sẻ tâm sự trên mỗi biến cố cuộc sống, giúp đỡ nhau cả về cầu nguyện và tăng trưởng đức tin. Đôi bạn sẽ cần sống những thời gian bình yên và dành riêng cho nhau, cũng như để học biết ý nghĩa và kinh nghiệm sâu sắc của sự thân mật trong tình dục vợ chồng, theo lôgich của sự trao hiến toàn thân không dè xẻn và chống lại mọi hình thức chiếm hữu ích kỉ biến người kia thành một thứ đồ vật cho ta hưởng dùng. Đôi bạn cũng nên vun trồng một mối quan hệ ân cần tiếp nhận và trao hiến ưu tiên dùng các phương thế điều hòa sinh sản tự nhiên, vốn là những kĩ thuật hợp pháp và đáng tin cậy nhưng nhất là, chúng có thể khơi dậy và phát triển một tương quan thanh bình và hòa điệu trong yêu thương và phục vụ sự sống.
Hành
trình tiệm tiến
«Tình yêu mà không tăng trưởng là một tình yêu đang lâm nguy. Và chúng ta chỉ có thể lớn lên khi chúng ta đáp lại ân sủng của Thiên Chúa xuyên qua các hành động yêu thương không ngừng, những hành động từ ái trở nên ngày càng thường xuyên hơn, nồng nhiệt, quảng đại, dịu dàng và vui tươi hơn. Người chồng và người vợ “kinh nghiệm ý nghĩa về sự hợp nhất của mình và theo đuổi nó ngày một trọn vẹn hơn” (Gaudium et spes 48). Ơn ban của tình yêu Thiên Chúa tuôn tràn trên đôi bạn cũng là một lời mời gọi không ngừng phát triển quà tặng của ân sủng này» (Amoris laetitia 134).
Cần nhìn
tất cả mọi sự ấy như một hành trình tiệm
tiến đôi bạn phải đi qua cách kiên trì và quyết liệt, không như những kẻ
ráng giữ mình trung tín cho bằng là, họ không ngừng trở nên trung tín mỗi ngày
một hơn. Vượt trên những xung lực thuộc bản năng và tình cảm tự nhiên, đôi bạn
cần sống mối quan hệ với trách nhiệm, trung thành với những bổn phận của mình,
và tinh thần hi sinh. Cuộc sống sẽ không thiếu những lúc căng thẳng, nhưng luôn
có thể vượt qua được. Cần vun xới sự đối thoại giữa hai vợ chồng và đưa vào gia
đình tinh thần các mối phúc thật: khiêm nhu, hiền lành, biết thương cảm, thái độ
công bằng đối với những khác biệt của nhau, ước muốn hòa bình. Trên hành trình
này có Chúa Thánh Thần hiện diện và hoạt động, Ngài được ban cho ngày ta thành
hôn và lại được thông ban mỗi ngày, Ngài giúp ta sống trong sự thật tình yêu
phu thê bởi Ngài cho sinh hạ và lớn lên trong các vợ chồng chính Chúa Giêsu.
. Phản ứng
tức thời của chúng ta như thế nào trước điều được nghe?
. Đâu là
những trở ngại chính yếu anh chị có thể dự kiến trước liên quan đến chuyện “họ
không còn là hai nhưng trở nên một xương một thịt”?
. Tại
sao cầu nguyện là rất quan trọng trong hành trình tăng trưởng này?
. Dành
chỗ cho sự đối thoại vợ chồng và trao đổi với nhau trong cuộc sống hằng ngày của
hôn nhân và gia đình, có nghĩa là gì?
. Có cần
đến sự giúp đỡ hay không trong những trường hợp đôi bạn có khó khăn về quan hệ
(đối thoại hay tương giao về mặt tình cảm, tình dục)? Sẽ nhờ ai giúp đỡ?
Gặp gỡ
VII:
Hiểu giá
trị của việc truyền sinh có trách nhiệm và quảng đại, cởi mở trước chương trình
của Thiên Chúa. Từ đó, đôi bạn biết quí trọng giá trị con cái và coi trọng các
phương pháp điều hòa sinh sản mà Hội thánh Công giáo đề nghị.
Lời dẫn:
Tình yêu phu thê được
mời gọi trở nên phong nhiêu, nghĩa là làm sự sống sinh sôi nảy nở dồi dào, qua
nhiều cách thức, đặc biệt là truyền sinh cho con cái. Thật vậy, khi cử hành lễ
hôn phối, anh chị sẽ xác nhận, với một tình yêu đầy trách nhiệm và quảng đại, sẵn
sàng đón nhận con cái mà Chúa muốn trao ban cho anh chị và giáo dục chúng theo
đức tin Kitô giáo.
Vậy, anh chị hãy đón
nhận phúc lành của Thiên Chúa Đấng Tạo Thành và là Cha, và hãy trở nên là những
người cộng tác với Thiên Chúa bằng việc hạ sinh những con người mang trong mình
hình ảnh và là họa ảnh thần linh.
Lời
Chúa: trích trong sách Sáng thế
«Thiên Chúa sáng tạo
con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên
Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho
họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất,
và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò
trên mặt đất.”
Con người ăn ở với
Evà, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Cain. Bà nói: “Nhờ ĐỨC CHÚA, tôi đã được một
người.”» (St 1,27-28. 4,1).
Linh mục:
Lạy Thiên Chúa toàn
năng hằng hữu,
Chúa đã ban cho cộng
đoàn hôn ước này luật tình yêu dịu ngọt và dây liên kết bất khả phân li bình
an, để các đôi vợ chồng qua kết hợp khiết tịnh và phong nhiêu họ làm sinh sôi nảy
nở những người con cái Chúa.
Tất cả:
Này con cái là hồng ân của CHÚA, con mình sinh hạ là phần thưởng
Chúa ban. Bầy con sinh hạ thời son trẻ tựa nắm tên người dũng sĩ cầm tay (Tv 127, 3-4).
Linh
mục:
Chúa đã hoạch định chương trình kì diệu của Chúa để các tạo vật
bé bỏng sinh ra làm vui thỏa gia đình phàm nhân, và để chúng được tái sinh
trong Chúa Kitô xây dựng nên Hội thánh Chúa.
Tất cả:
Này con cái là hồng ân của CHÚA, con mình sinh hạ là phần thưởng
Chúa ban. Bầy con sinh hạ thời son trẻ tựa nắm tên người dũng sĩ cầm tay.
-
Tại sao Hội thánh tiếp tục khẳng định lại sự tất yếu của việc
truyền sinh? Những điều Hội thánh dạy về việc này có lỗi thời không?
-
Khoái cảm và việc sinh sản có tương quan thế nào trong đời sống
tình cảm và tình dục của đôi bạn?
-
Chúng ta có ý kiến như thế nào về các phương pháp tự nhiên?
Tình yêu phu thê và sự phong
nhiêu
Trước những chọn lựa về sinh sản chúng ta thường thấy có hai thái độ đối nghịch: hoặc sợ sinh con vì những khó khăn thực tế khác nhau (như đình hoãn sinh con đầu lòng vì phải lo “giải quyết cho ổn thỏa những việc khác trước đã”; qua những hành động ngừa thai hoặc phá thai…, tất cả cho thấy một cái nhìn hời hợt, ích kỉ và sai lầm về sự sống), hoặc khao khát có con bằng mọi giá (bởi một viễn ảnh mới ngày nay được mở ra nhờ khoa học và kĩ thuật). Ẩn bên dưới thái độ đó thường là cái nhìn xem sinh sản như một sự kiện kĩ thuật: sinh sản giống như việc ta tạo ra một sản phẩm mới.
Trong cả hai trường hợp người
ta có khuynh hướng tách biệt tình yêu ra khỏi sinh sản, tách biệt khía cạnh kết
hợp yêu thương ra khỏi việc truyền sinh. Những vấn đề về truyền sinh được giản
lược lại chỉ còn là: “làm sao để tránh có con?” “làm thế nào để có thể kiểm
soát được việc sinh sản?”. Để hiểu chúng ta cần quay lại tìm hiểu một vài khía
cạnh của mối tương quan phải có giữa tình yêu vợ chồng và sự phong nhiêu. Trong
viễn tượng Kitô giáo phong nhiêu là đặc tính cốt yếu của tình yêu phu thê. Con
cái không phải chỉ là một tình yêu trương nở ra bên ngoài, nhưng là hoa trái của
tình yêu này, bởi lẽ khuynh hướng sinh hạ sự sống mới thuộc về bản tính của mối
quan hệ nam-nữ. Một tình yêu phu thê mà không khát khao “được nhập thân” ở
trong đứa con mình sinh hạ thì tình yêu đó không chân thực. Như thế, con cái
chính là ngân hàng chứng thực cho tình yêu vợ chồng. “Bi kịch” của hiếm muộn
không xóa bỏ giá trị của tình yêu vợ chồng bởi lẽ phong nhiêu không chỉ hệ tại ở
khả năng sinh sản về mặt sinh học, nhưng nhất là bởi khả năng trao ban sự sống
và vì thế còn bởi việc nhận con nuôi hay nhận ủy thác nuôi dưỡng một sinh linh
chào đời.
Ý nghĩa của sự sinh thành con
người
«Mỗi sự sống mới cho phép chúng ta khám phá chiều kích vô vị lợi
nhất của tình yêu, một tình yêu khiến chúng ta không baog giờ hết thán phục […]
Đứa con mới sinh, tặng phẩm Chúa trao phó cho người cha và
người mẹ, được đón tiếp
ngay từ lúc khởi đầu, được tiếp tục bảo vệ trong suốt hành trình
cuộc sống trần thế và hướng tới định mệnh cuối cùng là niềm vui sự sống đời
đời. Bằng cái nhìn thanh thản hướng đến sự hoàn tất chung cuộc của một nhân vị,
cha mẹ sẽ ý thức hơn về tặng phẩm sự sống quí giá được giao phó cho họ: quả thật,
Thiên Chúa nhượng ban cho họ việc đặt tên con, tên mà Ngài sẽ gọi từng đứa con
của Ngài mãi mãi» (Amoris laetitia
166)
Sinh con
không chỉ là một sự kiện thuần túy sinh học. Sinh hạ là một cuộc đầu tư, thẩm
thấu, đảm nhận lấy và biến đổi toàn thể con người của ta. Kinh nghiệm này đồng
thời vừa có tính sinh học, vừa thuộc tình cảm, và thiêng liêng và do đó nó hội
nhập toàn thể con người của ta liên lụy vào đó. Nó nảy sinh từ tình yêu, lớn
lên và biểu lộ ra trong tình yêu. Bởi thế, đứa con có thể được sinh hạ một cách
thực sự phù hợp với nhân tính chỉ “bởi tình yêu” và “trong tình yêu” qua hành
vi vợ chồng. Vì là một hành vi nhân linh sâu xa gắn kết với toàn thể con người,
gồm cả về mặt tôn giáo, nên việc sinh một con người là cộng tác với tình yêu
Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng và là Cha. Chọn lựa này đưa ta vào công trình sáng tạo
của Thiên Chúa và như thế đôi vợ chồng trở nên là thừa tác viên và người phục vụ
trong hân hoan chương trình của Thiên Chúa.
Cũng trong viễn tượng đó việc
sinh hạ con người là một hành vi của tự do và tin tưởng vào sự sống và việc đón
nhận con cái vô điều kiện là cách thức trao ban và tìm lại được sự sống. Sinh hạ
là bắt đầu và cũng là bước vào mối quan hệ với một sự tự do mới: con cái không
phải là tài sản của cha mẹ nhưng chúng được trao ban cho cha mẹ. Theo nghĩa đó,
sinh hạ là đón nhận một tặng phẩm, vì đứa con là một thực thể còn lớn lao hơn sự
trao hiến của hai vợ chồng.
Con cái là ơn huệ của Chúa ban và
hành vi giáo dục đầu tiên là có thể nhận ra con mình là ơn huệ của Thiên Chúa
khơi dậy tự do của cha mẹ đón nhận nó. Theo truyền thống của Thánh kinh con cái
đồng thời vừa là một ơn huệ, vừa một lời hứa, vừa là một nhiệm vụ.
Sinh sản
có trách nhiệm
Có trách nhiệm trước hết có nghĩa là “sẵn sàng vô điều kiện đón nhận con cái” như ơn huệ của Chúa ban và là hoa quả của chúc lành của Người. Sinh sản có trách nhiệm, khi ấy, trước hết là có một “dạ con thường trực sẵn sàng tiếp đón sự sống”.
«Một đứa trẻ tượng
hình trong dạ mẹ là thuộc kế hoạch muôn đời của Thiên Chúa Cha và tình yêu vĩnh
cửu của Ngài: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi;
trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hiến ngươi” (Gr 1,5). Mỗi đứa trẻ tự muôn đời đã có một chỗ ở trong trái tim
Thiên Chúa, và vào chính lúc nó được thụ thai là lúc giấc mơ vĩnh cửu của Đấng
Tạo Hóa trở thành hiện thực» (Amoris
laetitia 168).
Điều đó
không có nghĩa là bạn cần phải sinh nhiều con nhưng là trước mỗi quyết định có
con bạn đã phải sẵn sàng đón nhận con cái và ý thức ơn kêu gọi cộng tác với
Thiên Chúa. Trong viễn tượng ấy không có việc gọi là “mang thai ngoài ý muốn”
hoặc là “có những đứa con do lầm lỡ” nhưng là những đứa con được Chúa kêu gọi
vào cuộc sống. Như thế, nói “kế hoạch hóa sinh sản” có nghĩa là bước vào chương
trình của Thiên Chúa Đấng vốn là thẩm phán của “bí mật sự sống”: mỗi đứa trẻ
chào đời được phó thác cho lương tâm của mẹ cha, chứ không cho ý muốn tùy tiện
của họ hay những tính toán ích kỉ. Như thế, làm cha mẹ là cố gắng để có những
quyết định phù hợp đúng lúc, tìm kiếm chân thành những gì tình yêu Chúa đang
mong đợi ở họ.
Chính để
thành người cộng sự xứng đáng của Thiên Chúa vợ chồng cần phải biết rõ các cách
thức có thể thụ thai. Họ phải có khả năng tự chủ kiểm soát được bản năng và dục
vọng vốn giúp việc truyền sinh, học biết trân trọng những chọn lựa phù hợp nhất
dựa trên cơ sở thiện ích của chính mình và con cái mình, những đứa con đã sinh
ra lẫn những đứa con dự kiến sẽ sinh ra, dựa trên hoàn cảnh sống phù hợp về thời
gian và điều kiện vật chất và tinh thần của đôi bạn. Sinh sản có trách nhiệm,
trước khi là khả năng hạn chế sinh con, đó là thái độ sống quảng đại rộng mở với
sự sống, giữ mình tự do không sống trong sợ hãi, ích kỉ, hoài nghi, thất vọng…
Chính trong viễn tượng này mà đôi bạn cần phải suy nghĩ đã đến lúc, nếu không
vì lí do nào rõ rệt và nghiêm trọng, có thêm một đứa con ngoài đứa duy nhất đã
có.
Các
phương pháp tự nhiên và những phương tiện chống thụ thai
Các “phương thế” giúp thực hiện sinh sản có trách nhiệm không được bao gồm, vì những lí do phi pháp hệ trọng, những biện pháp chống thụ thai cũng như phá thai. Cách riêng phá thai được xem là một tội ác!
«Giá trị của sự sống
một con người cao cả biết bao, và quyền được sống của một trẻ thơ vô tội lớn
lên trong cung lòng người mẹ là bất khả nhượng, đến nỗi không ai có thể viện đến
quyền trên thân thể mình để biện minh cho quyết định chấm dứt sự sống ấy» (Amoris laetitia 83).
Về mặt
luân lí mà nói, việc nhờ tới các phương pháp tự nhiên hơn là các phương tiện chống
thụ thai là một chuyện khác hẳn. Thật vậy, nói rằng xét cho cùng kết quả của cả
hai phương pháp là như nhau thì không đúng, vì nói thế cũng giống như khẳng định
“mục đích biện minh cho phương tiện” vậy, trong khi chúng ta biết rằng thực tế
không phải như vậy. Quả thật, các phương pháp tự nhiên đã được Giáo hội chỉ định
như phương thế sử dụng ưu tiên bởi cả một chuỗi các lí do liên hệ đến phẩm chất
tương quan giữa vợ chồng. Bởi vì chúng khuyến khích các đôi vợ chồng sống hòa hợp
với nhau. Chúng ta có thể nói tóm lược như sau: sử dụng các phương pháp chống
thụ thai phá vỡ mối tương quan giữa ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa truyền sinh của
tình yêu phu thê (thực ra nó loại trừ mọi ý nghĩa truyền sinh và khép kín lại
trước mầu nhiệm sự sống); còn các phương pháp tự nhiên cổ cõ cả hai vợ chồng đồng
trách nhiệm, vốn là điều hết sưc quyết định (tránh dồn mọi gánh nặng trách nhiệm
quản lí sinh sản lên chỉ một người); các phương pháp tự nhiên giúp ta biết bản
thân và biết người bạn đời hơn (điều cơ bản để có được sự hòa điệu vợ chồng);
các phương pháp tự nhiên không đưa ra những phản ứng nghịch và bao hàm các hiệu
ứng phụ đi kèm như các phương pháp ngừa thai (ngược lại còn thêm điều kiện thuận
lợi giúp phát triển trọn vẹn hơn cách biểu lộ tình yêu ngay cả khi bị chối từ);
các phương pháp tự nhiên giúp thực thi nhiệm vụ làm cha làm mẹ có trách nhiệm.
Giáo hội cũng ý thức những nỗi
khó khăn còn đó của đề nghị này, và theo hướng đó có thể chấp nhận tiến bước dần
trong kiên nhẫn đến lí tưởng, cả khi cần thiết phải nhờ đến sự giúp đỡ của những
người có khả năng chuyên môn.
Sinh sản có trợ giúp của y
khoa
Trước vấn đề này chúng ta cần phải nhớ các tiêu chuẩn phân tích như sau:
-
Nếu sinh sản đòi hỏi một sự dấn thân của toàn thể con người của đôi bạn, thì rõ ràng sinh sản nhờ sự trợ
giúp của y khoa là một sự thu hẹp khách quan cứu cánh đích thật và thể thức kết
hợp phu thê.
-
Chọn lựa này gặp nguy cơ giản lược việc sinh hạ con người thành
ra như sản xuất một sản phẩm, một sự vật.
-
Sinh con bằng mọi giá là chối bỏ giá trị của con cái như một
nhân vị: tôi phải có con bằng bất cứ giá nào, làm như thế là tôi đã thỏa mãn một
yêu sách của tôi và biến con cái thành một sự vật.
-
Sinh sản có trợ giúp của y khoa không mở ra một khả năng nào cho
niềm tín thác vào Thiên Chúa và chối bỏ một trong những chiều kích quan trọng của
hôn nhân, đó là: người ta chuyển đổi từ là “những thừa tác viên” thành “chủ
nhân ông” của chương trình của Thiên Chúa.
Như thế ta cần phải nói rằng
mỗi đôi vợ chồng tín hữu được kêu gọi từ chối mọi hình thức sinh sản tách biệt
người mẹ và người cha và tách li hành vi tính dục khỏi sinh sản.
. Phản ứng tức thời của chúng
ta như thế nào trước điều được nghe?
. Con cái có phải là kẻ làm hạn
chế lại tự do của đôi bạn không? Tại sao lại có ai đó khẳng định rằng sinh con
ngày nay là một hành động vô trách nhiệm?
. Sinh con là một hành động
riêng tư hay nó một giá trị nào khác nữa? Nó liên hệ ra sao với việc tìm kiếm
thánh ý Chúa và với hoàn cảnh và những đòi hỏi của cộng đoàn Hội thánh và cộng
đồng dân sự?
. Anh chị có thấy những ích lợi và vấn đề gì
trong việc người ta sử dụng phương pháp tự nhiên ?
. Anh chị đánh giá như thế nào những cơ hội sử
dụng các kĩ thuật thụ tinh nhờ sự trợ giúp của y khoa?
Gặp gỡ VIII:
Giúp đôi bạn nhận ra tầm quan
trọng của gia đình. Gia đình là nơi chốn của yêu thương, gia đình hiện diện
tích cực trong cộng đoàn Hội thánh Kitô. Giúp đôi bạn nảy nở một niềm tin tưởng
đối với cộng đoàn hội thánh hướng dẫn họ và đồng hành dọc dài suốt hành trình
hôn nhân của mình.
Lời dẫn:
Gia đình Kitô hữu, được khai sinh với bí tích Hôn phối, gắn kết
thâm sâu với Hội thánh, với đời sống và sứ mạng của Hội thánh. Bởi thế, gia
đình cũng được gọi là “Hội thánh tại gia”. Gia đình là một cộng đoàn Kitô hữu sống
tại gia, trong đó Chúa Phục sinh hiện diện như người bạn đường.
Các anh chị đang chuẩn bị xây dựng cho mình một gia đình Kitô hữu
nơi đó chúng ta giúp nhau lớn lên trong đức tin và đức cậy, trong đối thoại và
hiệp thông với Chúa, trong bác ái huynh đệ và phục vụ lẫn nhau.
Lời Chúa: trong sách Công vụ
các Tông đồ
«Sau đó, ông Phaolô rời Athêna đi Côrintô. Tại đây, ông gặp một
người Do-thái tên là Aquila, quê ở Pontô, vừa mới từ Italia đến, cùng với vợ là
Priskila, vì hoàng đế Clauđiô đã ra lệnh cho mọi người Do-thái phải rời Rôma.
Ông Phaolô đến thăm hai ông bà, và vì cùng nghề, nên ông ở lại nhà họ và cùng
làm việc: họ làm nghề dệt lều. Mỗi ngày sabat, ông thảo luận tại hội đường, cố
thuyết phục cả người Do-thái lẫn người Hi-lạp. Ông Phaolô còn ở lại Côrintô khá
lâu, rồi từ giã các anh em và vượt biển sang miền Syria, cùng với bà Priskila
và ông Aquila. Khi đến Êphêsô, ông Phaolô từ biệt hai người kia. Phần ông, ông
vào hội đường và thảo luận với người Do-thái.
Có một người Do-thái tên là Apôlô, quê ở Alêxanđria, đã đến
Êphêsô; ông là người có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh. Ông đã được học
Đạo Chúa; với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên tiếng giảng dạy chính xác những
điều liên quan đến Đức Giêsu, tuy rằng ông chỉ biết có phép rửa của ông Gioan.
Ông bắt đầu mạnh dạn rao giảng trong hội đường. Sau khi nghe ông nói, bà
Priskila và ông Aquila mời ông về nhà trình bày Đạo của Thiên Chúa cho ông
chính xác hơn. » (Cv
18,1-4.18a.19.24-26).
Linh
mục:
Lạy Thánh Gia Nadaret,
Cộng đoàn yêu thương của Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, và thánh
Giuse,
Là gia đình mẫu và lí tưởng của mọi gia đình Kitô hữu,
Chúng con xin phó dâng cho Thánh Gia các gia đình sẽ khai sinh
ra từ hôn phối của những người con cái này của Người.
Tất cả:
Xin hãy làm cho gia đình chúng con trở thành một “Hội thánh tại
gia”, một cộng đoàn sống đức tin, đức cậy, và đức mến, để phục vụ Thiên Chúa và
toàn thể nhân loại.
Xin cho chúng con tìm thấy được nguồn dưỡng nuôi trong cầu nguyện
chung và lắng nghe Lời Chúa, khám phá một nguồn mạch ân sủng và thánh thiện
trong cử hành các bí tích. Như thế, gia đình chúng con có thể cộng tác vào việc
xây dựng Hội thánh và tham dự vào sứ vụ cứu độ của Hội thánh trong thế giới.
-
Khi nào và tại sao sự kết hợp giữa hai người được xác định là một
gia đình? Nền văn hóa hiện nay có chấp nhận định nghĩa này không?
-
Đâu là những mối tương quan chính yếu mà gia đình được kêu gọi bảo
vệ và phát triển?
-
Diễn ngữ “Gia đình là một Hội thánh tại gia” có thể mang những ý
nghĩa nào?
Gia đình ngày nay và gia đình
trong ý định của Thiên Chúa
Nói về gia đình ngày nay có nghĩa là nói về một điều gì đó mà những đường nét phân định ranh giới rất mờ nhạt hay thậm chí nghi nghĩa (hàm hồ). Ở những cấp độ khác nhau, người ta luôn có xu hướng không nói nhiều về “gia đình” cho bằng là nói về “các gia đình”. Nói thế là ám chỉ không những về những hình thái khác nhau mà thực tại gia đình có thể đang mang, mà còn ám chỉ các ý tưởng và quan niệm khác nhau về gia đình. Trong bối cảnh đó, ta cần phải tái khám phá gia đình là gì theo ý định của Thiên Chúa, điều này đã được biểu lộ ra ngay từ thuở tạo dựng ban đầu. Khi ấy chúng ta có thể mô tả gia đình như là «cộng đồng các ngôi vị, tạo lập bởi một người nam và một người nữ kết hợp trong hôn nhân và các con cái của họ, một cộng đoàn bền vững và được xã hội nhìn nhận, gắn chặt với nhau bởi những mối liên kết luân lí, tôn giáo và pháp lí trong sự kính trọng, yêu thương, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau. Gắn kết với hạt nhân gia đình có thể có các thành viên khác, thường là những người bà con thân thuộc với lai lịch khá khác biệt». Do bản tính này, dù đang thể hiện dưới bất cứ hình thái lịch sử nào, mỗi gia đình phải được nhìn như là «một cộng đồng thân mật của sự sống và tình yêu» (Gaudium et spes 48; Amoris laetitia 80). Căn tính chính xác này của gia đình còn xác định sứ vụ và nhiệm vụ trong lịch sử của gia đình. Một sứ vụ được xác định bởi tình yêu nhằm giữ gìn, biểu lộ và thông truyền tình yêu qua việc hình thành nên một cộng đồng đích thật gồm những con người, những nhân vị, để phục vụ sự sống, tham dự vào sự phát triển xã hội (FC 17).
Gia đình Kitô hữu: một Hội
thánh tại gia
Tất cả những điều nói trên đây dành cho mọi gia đình cũng như cho mọi
gia đình Kitô giáo. Nhưng đối với gia đình Kitô hữu, ta còn phải nhấn mạnh đến
sứ vụ do bản chất của nó và không thể loại bỏ, đó là: tham
dự vào đời sống và sứ mạng của Hội thánh
(ibid.).
«Trong gia đình, ‘vốn có thể gọi là Hội thánh tại gia’ (Lumen
Gentium, 11), ta được dần trưởng thành kinh nghiệm trong Hội thánh
về mối hiệp thông giữa các ngôi vị, nơi đó, nhờ ân sủng, phản ánh chính mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi. “Ở đó, người ta học được sự kiên nhẫn và niềm vui của lao động,
tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí tha thứ nhiều lần, và
nhất là việc phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và sự hiến dâng cuộc đời
mình’ (GLHTCG, 1657)”» (Amoris laetitia 86).
Nếu đối chiếu giữa Hội thánh và Gia đình, người ta không khó nhận ra hình ảnh tương tự và mối
liên kết thông dự giữa hai bên. Một điều đã rất có ý nghĩa là hình ảnh gia đình
là một trong những hình ảnh gợi mở nhất để diễn đạt phẩm chất của Hội thánh:
“gia đình của Thiên Chúa”. Kế đến, hình ảnh Hội thánh như là Thân Mình Đức Kitô
gợi lên ý tưởng các gia đình, như đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã nhấn mạnh, là
“những tế bào của Hội thánh”. Cần nhắc lại là cả hai có nguồn gốc từ một bí
tích: thật vậy, cũng như Hội thánh xuất thân từ bí tích Rửa tội, cũng thế gia
đình Kitô hữu khai sinh từ bí tích hôn phối. Hơn nữa, Hội thánh cũng như gia
đình đều là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Hội thánh là hình ảnh của Ba Ngôi
xét như là «dân được qui tụ trong sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần». Gia đình Kitô hữu là hình ảnh của Ba Ngôi vì nơi đó người ta gặp
được một sự hiệp nhất thâm sâu, cởi mở ra với sự sống phong nhiêu, một tình yêu
vốn có ở trong Ba Ngôi. Lại nữa, cũng như trong Hội thánh có thừa tác vụ dưới
nhiều hình thức, cũng thế trong gia đình có một “thừa tác vụ hôn nhân và gia
đình” được trao ban bởi bí tích hôn phối vì thiện ích của hai vợ chồng cho nhau
và, khi gia đình cởi mở đón nhận con cái, vì thiện ích và giáo dục đức tin cho
con cái.
«Hội thánh là Gia đình của các gia đình, thường xuyên được làm
phong phú bởi đời sống của tất cả các Hội thánh tại gia. Bởi thế, nhờ Bí tích
Hôn Phối, mỗi gia đình thực sự trở thành một thiện ích cho Hội thánh. Trong viễn
ảnh này, việc xem xét mối tương tác giữa gia đình và Hội thánh chắc chắn sẽ là
một ơn ban quí giá cho Hội thánh ngày nay: Hội thánh là một phúc lành cho gia
đình, và gia đình là một phúc lành cho Hội thánh. Việc gìn giữ hồng ân Bí tích
của Chúa không chỉ liên hệ đến các gia đình riêng lẻ, nhưng còn đến chính cộng
đoàn Kitô hữu» (Amoris laetitia 87).
Bởi thế, khi suy tư về cuộc sống gia đình của mình đôi bạn cần phải xác
tín mỗi ngày một hơn rằng, ngay cả khi đã kết hôn, họ cần phải tiếp tục sống và
tham dự vào đời sống của Hội thánh và sẵn sàng đón nhận những lời đề nghị mà cộng
đoàn hội thánh sẽ gợi mời đôi bạn và gia đình để họ được lớn lên và sống sung
mãn. Hơn nữa, gia đình còn tham dự vào sự sinh sôi nảy nở của Hội thánh. Cách
tương tự, gia đình tự biểu lộ mình như “cộng đoàn được cứu độ” bởi tình yêu của
Chúa Kitô Đấng tự hiến cho cộng đoàn, và như “cộng đoàn cứu độ”, vì được kêu gọi
loan báo và thông truyền cho anh em chính tình yêu này của Chúa và được ban cho
khả năng hoàn tất nhiệm vụ này.
Gia đình tham dự vào đời sống
và sứ vụ của Hội thánh
Đặc tính bẩm sinh là “Hội thánh tại gia” này của gia đình làm cho gia đình Kitô hữu lặn ngập trong cuộc sống của Hội thánh: gia đình tham dự cách cụ thể vào đời sống và sứ vụ của Hội thánh. Có thể nói: gia đình cư xử và hành động giống như cách Hội thánh cư xử và hành động. Và vì Hội thánh là cộng đoàn tin và loan báo Tin mừng, hiệp thông với Thiên Chúa và phục vụ con người, nên gia đình Kitô hữu cũng phải như thế, tất cả mọi người, cha mẹ lẫn con cái, đều dấn thân. Đó cũng là thành phần của dự phóng mà các anh chị cần phải suy nghĩ và quyết định trong khi chuẩn bị cử hành bí tích hôn phối (cf. FC 49-64).
Trước hết, gia đình Kitô hữu
được kêu gọi trở thành là một cộng đoàn
tin và loan báo Tin mừng. Để được như thế, đôi bạn và gia đình cần phải được
giáo dục đức tin không ngừng nhờ nghe và đọc Lời Chúa, học giáo lí, được chỉ dẫn
sống đức tin, giúp đỡ lẫn nhau đọc ý nghĩa và các biến cố của cuộc sống dưới
ánh sáng Tin mừng… Thứ đến, cần quan tâm đến chính sứ vụ loan báo Tin mừng,
ngoài nhiệm vụ giáo dục đức tin cho con cái không những bằng lời nói mà còn bằng
gương sáng đời sống cụ thể qua những chọn lựa và việc làm hằng ngày. Sau cùng, gia
đình biết mình còn phải biểu lộ ra bên ngoài, đặc biệt sẵn sàng phục vụ như các
cặp hôn phối trong Hội thánh để giúp đào tạo các đôi vợ chồng trẻ, các đôi đính
hôn, các bạn trẻ thanh thiếu niên, như thế là đồng thời họ cũng thực thi “thừa
tác vụ” được trao ban bởi bí tích hôn phối phục vụ toàn thể Hội thánh. Vì thế,
người ta có thể khẳng định rằng gia đình Kitô hữu loan báo Tin mừng bằng chính
cuộc sống của họ.
Ngoài ra, gia đình Kitô hữu
cũng được mời gọi đối thoại với Thiên
Chúa nhờ một đời sống bí tích sâu xa và trung thành, kéo dài ra trong gia
đình bằng giờ kinh nguyện chung. Gia đình Kitô hữu dâng lên Chúa một phụng tự
thiêng liêng qua kinh nguyện chung và hi lễ là chính sự qui hợp cùng nhau. “Gia
đình hiệp nhau cầu nguyện thì hiệp nhất bên nhau” (Families that pray together
stay together) (Amoris laetitia 227).
Trong gia đình nên có một góc không gian nơi đó ta để bàn thờ, tượng ảnh Chúa,
Mẹ Maria để cả nhà cầu nguyện chung. Những ngày nghỉ lễ, những ngày giỗ chạp, Tết
nhất là dịp thích hợp để cả gia đình cùng cầu nguyện chung. Cùng tham dự thánh
lễ Chúa nhật theo gia đình là điều tuyệt vời.
«Kinh nguyện gia đình có nội dung độc đáo là chính cuộc sống gia
đình. Qua những hoàn cảnh khác nhau, cuộc sống này được diễn giải như một tiếng
gọi từ Thiên Chúa và được gia đình sống như lời đáp trả của con cái: những vui
mừng và sầu muộn, hi vọng và thất vọng, ngày sinh và ngày kỉ niệm sinh nhật, kỉ
niệm ngày cưới của cha mẹ, những chuyến đi xa và trở về, những chọn lựa quan trọng
và quyết liệt, sự ra đi mãi mãi của những người thân yêu … đều là những dấu hiệu
về sự hiện diện ưu ái của Thiên Chúa trong cuộc sống gia đình; những biến cố ấy
cũng phải trở thành những lúc thuận tiện cho lời tạ ơn, khẩn nguyện, tin tưởng
phó thác của gia đình trong bàn tay Cha chung trên trời» (FC 59).
Cha mẹ phải đồng hành với con
cái trong hành trình khai tâm Kitô giáo. Ngoài ra, thật tốt cho họ và cho Hội
thánh nếu các thành viên có thể tham gia các hội đoàn, các cộng đoàn nhỏ, các
phong trào linh đạo hôn nhân gia đình.
Thứ đến, gia đình Kitô hữu được
kêu gọi phục vụ con người trong tinh thần
bác ái. Những chứng từ yêu thương như thế là chứng từ và là lời loan báo
Tin mừng Tình yêu của Thiên Chúa. Biểu lộ một tình yêu bác ái như thế, cụ thể
có thể là đón tiếp các cụ cao niên và giúp đỡ các gia đình khó khăn, phục vụ những
người nghèo bị bỏ rơi, bị nạn. Thế nhưng trước hết, chúng ta phải thực thi bác
ái như thế, theo cung cách riêng của đời sống hôn nhân gia đình, đối với người
thân cận là những thành viên trong gia đình: bác ái giữa vợ chồng với nhau, sống
trung tín với nhau trong hôn nhân, quảng đại chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ,
giáo dục con cái.
«Như vậy gia đình Kitô hữu được luật mới của Thánh Thần sinh động,
hướng dẫn và được mời gọi sống “thừa tác vụ” vì tình yêu đối với Thiên Chúa và
tha nhân trong sự hiệp thông mật thiết với Hội Thánh là dân vương đế. […] trong
khi phụng sự Đức Kitô nơi tha nhân, họ có thể khiêm nhường và kiên nhẫn dẫn đưa
anh em mình đến với Đức Vua, Đấng mà ta phụng sự Người cũng lại là cùng thống
trị với Người» (FC 63).
. Phản ứng tức thời của chúng
ta như thế nào trước điều được nghe?
. Thế nào là hiện diện và
tham dự tích cực vào đời sống của Hội thánh của các đôi bạn chọn kết hôn trong
Hội thánh Kitô?
. Trong những chọn lựa cho dự
phóng tương lai đời sống hôn nhân của anh chị, anh chị có dự định khả năng quay
về gặp gỡ với các đôi vợ chồng trẻ khác cùng hoàn cảnh để chia sẻ, học hỏi,
giúp đỡ lẫn nhau không?
. Một đôi vợ chồng tín hữu có thể có những cách
thức sống chứng từ đặc biệt nào (như giáo dục con cái theo một định hướng nào
đó, một cung cách phục vụ, một sự hòa hợp giữa lời nói và việc làm, sự can đảm…)?
. Cầu nguyện và “Hội thánh tại gia” có liên
quan gì với nhau không?
Gặp gỡ IX:
“Tôi muốn có một Giáo hội bị bầm dập, thương tích và vấy bẩn vì ở
ngoài đường, còn hơn một Giáo hội bệnh hoạn kín cổng và an nhàn bám víu vào sự
an tòan riêng của mình” (Evangelii
Gaudium 49).
Giúp đôi bạn hiểu việc lựa chọn
hôn nhân có một giá trị xã hội và đồng thời học biết quí trọng mối quan hệ xây
dựng với các định chế và tổ chức xã hội hầu mở ra sống liên đới với mọi người.
Lời dẫn:
Gia đình, được khai sinh với hôn nhân, là “hạt nhân tự nhiên và
cơ bản của xã hội con người”. Bởi thế, xã hội và nhà nước phải bảo vệ gia đình
và tạo ra những điều kiện để gia đình có thể phát triển trọn vẹn và hoàn tất
các nhiệm vụ của mình.
Đàng khác cũng vì thế, cả anh chị nữa, trong khi cố vượt qua một
cái nhìn hạn hẹp xem gia đình chỉ là thế giới “riêng tư”, anh chị phải khám phá
lại vai trò và nhiệm vụ xã hội của gia đình. Quả thật, ngay cả gia đình của anh
chị cũng sẽ có thể và phải đóng góp cho sự phát triển xã hội, không chỉ bằng
cách sống yêu thương cụ thể, cởi mở với sự sống và giáo dục con cái trong nhà,
mà còn qua thực hành cởi mở tiếp đón khách lạ và sống liên đới, và cùng với các
gia đình khác, gia đình anh chị hãy góp phần chủ động để có một chính sách về
gia đình tốt hơn.
Lời Chúa: trong Tin mừng theo
thánh Matthêu
«“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các
thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân
thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau,
như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn
dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng:
"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho
các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn;
Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần
truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù,
các ngươi đến hỏi han.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy
Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao
giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao
giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu? " Đức
Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho
chính Ta vậy."» (Mt 25,31-40).
Tất cả:
Lạy Chúa, xin cho gia đình chúng con trở nên hiếu khách và biết
tiếp rước mọi người, để loan báo cho thế giới về tình phụ tử của Thiên Chúa,
tình mẫu tử của Hội thánh. Xin cho chúng con biết mở lòng ra với những người
nghèo khổ nhất để họ cảm nghiệm được tình thương của Ngài. Xin cho chúng con biết
lưu tâm đến các đôi vợ chồng đang gặp khó khăn. Cho chúng con dấn thân làm thay
đổi hoàn cảnh xã hội bất cập qua việc làm phục vụ cho công lí và bác ái. Amen.
-
Theo anh chị nghĩ, gia đình và xã hội có mối tương quan như thế
nào?
-
Cho rằng hôn nhân là chuyện riêng tư và nghĩ rằng xã hội chỉ như
là một thứ sở dịch vụ cung ứng an sinh, có đúng hay không?
-
Anh chị có biết những hậu quả dân sự của cuộc hôn nhân mà anh chị
đang chuẩn bị cử hành hay không ?
Hoàn cảnh hiện nay
Trong nền văn minh kĩ nghệ hiện nay dường như người ta không còn thấy tỏ hiện bao nhiêu ý thức về vai trò xã hội của gia đình nữa. Đàng khác, tình trạng bất ổn phổ biến với bao hình thái bệnh hoạn của các gia đình lại quay lại tác động lên xã hội. Bởi thế, đôi bạn đính hôn nghĩ về gia đình tương lai của mình thường dễ nhìn gia đình như một thực tại đóng kín và thờ ơ với mọi nhiệm vụ xã hội. Hậu quả là họ rất ít ý thức về trách nhiệm xã hội vốn cũng là đặc trưng của nhiều gia đình Kitô hữu. Đồng thời, khi nghĩ đến gia đình tương lai của mình, một số người dễ nghĩ đến nó với một thái độ tự vệ trước xã hội và các guồng máy xã hội hiện nay.
«Ngày nay chủ nghĩa cá nhân đôi
khi dẫn ta
đến lối sống khép kín trong sự an toàn của một tổ ấm bé nhỏ và cảm
thấy tha nhân như một phiền toái nguy hiểm.
Thế nhưng, sự cô lập này không đem lại niềm an bình và hạnh phúc, mà khép kín
con tim của gia đình và làm cho gia đình mất đi tầm nhìn rộng lớn của cuộc sống»
(Amoris laetitia 187).
Hôn nhân
trong xã hội
Khi hai người kết hôn một thực tại mới được sinh ra: hai người không còn là hai nữa nhưng đã trở thành một xương một thịt (cf. St 2,24). Trên bình diện xã hội, thực tại mới này có một cấu hình chính xác của nó: đó là các “đôi vợ chồng”, các “cặp phối ngẫu”. Khi kết hôn dân sự, trước khi kí giấy hôn thú, đôi bạn sắp cưới cũng thường được người chủ lễ nhắc nhở về đặc tính xã hội này của chọn lựa của họ (cf. điều 1-5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nước CHXHCN VN). Chiều kích xã hội này của đôi hôn phối liên hệ đến toàn thể gia đình sinh ra từ cuộc hôn nhân. Thật vậy, gia đình có những mối dây liên kết sống động và hữu cơ với xã hội, bởi lẽ cũng chính hành động tạo dựng của Thiên Chúa, Đấng vốn «đã thiết lập hôn nhân như là khởi nguyên và nền tảng của xã hội loài người», đã đóng ấn trong mỗi gia đình «sứ mạng làm tế bào đầu tiên và sống động của xã hội» (FC 42) . Quả thật, gia đình sinh hạ các thành viên mới; hình thành nên nhân cách của chúng; chuyển giao các giá trị cốt yếu của cộng đồng xã hội dân sự, như là phẩm giá của nhân vị, sự tin tưởng lẫn nhau, sử dụng tự do đúng đắn, đối thoại, tình liên đới, vâng phục quyền bính. Chính bởi là nền móng xã hội đó, mà gia đình có một nhiệm vụ xã hội tự bản sắc là độc đáo, không thể thay thế và bất khả chuyển nhượng. Như thế,
«Vì bản chất và ơn gọi
của nó, thay vì đóng khung trên chính mình, gia đình rộng mở đến những gia đình
khác và mở ra với xã hội, và chu toàn vai trò xã hội của mình» (FC 42).
Gia đình
Kitô hữu trong xã hội
Ngoài ra, đối với gia đình Kitô hữu, còn có những lí do khác để lí giải và đòi hỏi gia đình phải dấn thân vào xã hội và cho xã hội. Lí do thứ nhất là, bí tích hôn phối, khi đảm nhận trọn vẹn thực tại nhân linh là tình yêu phu thê, làm cho các bậc vợ chồng và cha mẹ Kitô hữu có khả năng và thúc đẩy họ sống ơn gọi Kitô hữu giáo dân ở giữa đời của họ, và như thế thúc đẩy họ «tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách dấn thân vào các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa» (Lumen gentium 31). Từ tính cách trần thế đặc thù của ơn gọi Kitô hữu giáo dân đó, gia đình thấy phải đảm nhận nhiệm vụ xã hội và chính trị như một khía cạnh không thể bỏ qua của ơn gọi Kitô hữu giáo dân của mình. Một lí do khác là, gia đình Kitô hữu với tư cách là «Hội thánh tại gia» hay là «Hội thánh thu nhỏ», được kêu gọi, như “Hội thánh lớn”, phục vụ xã hội để giúp xã hội thể hiện chính mình như là nền văn minh tình thương.
Nội dung
đặc biệt và những cách thức cơ bản của nhiệm vụ xã hội của gia đình
Người ta có thể tập hợp nhiệm vụ xã hội của gia đình lại quanh ba lãnh vực hay mức độ sau đây: phạm vi bao quanh chính đời sống gia đình; sống tình liên đới; can thiệp trong lãnh vực chính trị xã hội.
Điều đầu
tiên qua đó gia đình đóng góp phần mình cho xã hội và cho sự phát triển xã hội
là tình thương, được sống dưới nhãn
hiệu “cho không biếu không” nghĩa là một tình yêu thương vô cầu! Tình thương ấy
được học sống từ trong gia đình, thể hiện cụ thể qua lối sống biết «nhẫn nhục, nhân hậu, không ghen tương,
không vênh vang, không tự đắc, không khiếm nhã, quảng đại, không nóng giận,
không nuôi hận thù, dung thứ, biết vui với người khác, tha thứ tất cả, tin tưởng
tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả» (1Cr 13,4-7; cf. Amoris
laetitia 90-119). Đây là một tiềm lực rất to lớn của gia đình, vừa như là một
lời tố giác xã hội muốn xây dựng chủ yếu (nếu không muốn nói là duy chỉ) dựa
trên tương quan nhắm đến hiệu năng và thực dụng, vừa như một lực thúc đẩy nhân
bản hóa và nhân vị hóa chính xã hội.
Điều đặc
biệt thứ hai gia đình phục vụ cho xã hội là:
sinh hạ những công dân mới. Sinh sản và giáo dục con cái, vốn là hoa quả và
là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng, là điều kiện thiết yếu và nhân tố đệ nhất của
sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nhưng có điều còn sâu xa hơn thế nữa, việc
sinh sản của con người là một cuộc sinh hạ con người, một hành vi nhân bản đích
thật bởi lẽ đó là một hành động “trao hiến sự sống”. Nói cách khác, gia đình phục
vụ xã hội qua việc truyền sinh, theo nghĩa là thông truyền thực tại nhân vị sâu
xa chứ không chỉ thuần túy là một sự kiện sinh học. Đây quả thực là một hành động
dâng hiến, vốn là hoa quả và dấu chỉ của tình yêu liên vị (giữa người với người)
và trọn vẹn của hai vợ chồng. Cũng nên quan tâm đến những khía cạnh khác của
chiều kích xã hội của việc truyền sinh, chẳng hạn như giá trị xã hội nội tại của
(đạo lí của Hội thánh về) việc làm cha
làm mẹ có trách nhiệm. Đây là một giá trị đã có mặt sẵn rồi từ trong nội
dung của việc sinh sản có trách nhiệm. Thật vậy, sinh sản có trách nhiệm không
hề được hiểu chỉ theo một chiều, theo nghĩa kiểm soát việc “sinh đẻ” (tức là chỉ
nhằm hạn chế sinh sản), nhưng theo hai chiều, nghĩa là còn cởi mở đón nhận quảng
đại sự sống mới. Và với quyết định này, đôi bạn còn phải biết đến các nghĩa vụ
đối với xã hội. Còn về các phương thế
để thực hiện việc truyền sinh có trách nhiệm, quan điểm của Hội thánh (vốn từ
chối quyết liệt và coi phá thai, triệt sản, chống thụ thai là những hành vi bất
hợp pháp nghiêm trọng) có một ý nghĩa xã hội rất lớn. Hội thánh chối bỏ mọi não
trạng chống lại sự sống vì rốt cuộc đó không gì khác hơn là một cuộc tự sát tiềm
ẩn của xã hội. Nếu nhìn vào con người chủ thể chịu trách nhiệm truyền sinh, ta
sẽ thấy rằng Hội thánh muốn cứu lấy một lối đường đúng đắn cho các mối quan hệ
trong xã hội qua việc bảo vệ quyền của đôi vợ chồng tự quyết định về số con
sinh ra, chống lại mọi can thiệp phi lí.
«Mỗi đứa trẻ có quyền
được hưởng tình yêu của một người mẹ và một người cha, cả hai tình yêu này đều
cần thiết cho trẻ để được trưởng thành toàn diện và hài hòa. Như các Giám mục
Úc châu đã khẳng định, cả hai “đóng góp, mỗi người một cách khác nhau, cho sự
tăng trưởng của trẻ. Tôn trọng phẩm giá của một đứa trẻ có nghĩa là khẳng định
nhu cầu và quyền tự nhiên của nó là có một người mẹ và một người cha”[17].
Vấn đề không chỉ là tình yêu của người cha và của người mẹ xét cách riêng rẽ,
mà còn là tình yêu của họ dành cho nhau, vốn được coi như nguồn mạch của chính
sự hiện hữu, như tổ ấm tiếp nhận và như nền tảng của gia đình» (Amoris laetitia 172).
Một điều
đặc biệt thứ ba của chiều kích xã hội của gia đình liên hệ đến giáo dục. Mọi nền giáo dục, quả thực, bởi
bản tính của nó, đều có mục đích hàng đầu là làm tăng trưởng tự do và trách nhiệm.
Đó là những tiền đề thiết yếu để con người có thể đảm nhận các nhiệm vụ của
mình trong xã hội. Hơn nữa, giáo dục có nghĩa là thông truyền một số các giá trị
cơ bản như tự do thực sự trước các sức mạnh của cải vật chất, sự kính trọng tha
nhân, nhạy cảm với công lí, thái độ tiếp đón chân thành, tinh thần đối thoại, sẵn
sàng phục vụ quảng đại vô vị lợi, sự liên đới sâu xa với người nghèo khổ… Chỉ
những giá trị này mới có thể làm tăng trưởng những con người đích thực, công
chính tạo nên kho tàng quí giá nhất và là bảo đảm đích thật nhất cho mọi xã hội.
Kế đến,
việc gia đình phục vụ cho xã hội còn vượt quá những công trình nội bộ gia đình
và thực thi qua những liên đới cụ thể. Những sự liên đới này diễn đạt qua những
cách thức và nhiều hình thức phục vụ khác nhau của gia đình cho các gia đình
khác, bắt đầu từ những gì trong đời thường nhất và bình thường nhất hằng ngày, ở
những việc làm nhỏ bé và khiêm tốn hằng ngày «đặc biệt ưu tiên cho người nghèo,
trẻ em mồ côi, những người khuyết tật, những người bệnh hoạn, người già yếu, những
người đang sầu buồn đau khổ, những người đang sống trong hoài nghi, trong cô
đơn hay bị bỏ rơi và những người nghiện ngập hoặc không có gia đình».
Một lãnh vực cuối cùng trong
đó gia đình được mời gọi thực thi trách nhiệm là dấn thân trực tiếp vào các việc
xã hội và chính trị. Giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô II nói rõ:
«Vai trò xã hội của gia đình còn được mời gọi diễn tả dưới hình
thức, can thiệp chính trị: chính các gia đình là những kẻ đầu tiên phải làm sao
để các luật lệ và cơ chế của nhà nước không những đừng làm tổn thương các quyền
lợi và bổn phận của gia đình, nhưng còn nâng đỡ và bảo vệ chúng một cách tích cực.
Về điểm này, gia đình cần có một ý thức càng lúc càng mạnh mẽ rằng, mình là những
người đi đầu của điều gọi là “chính sách gia đình”, và mình phải lãnh lấy trách
nhiệm biến đổi xã hội; nếu không chính gia đình sẽ là nạn nhân đầu tiên của những
điều xấu vì đã thụ động và lãnh đạm đứng nhìn» (FC 44).
Cũng cần nhắc đến tầm quan trọng
của các hiệp hội hay phong trào gia đình trong vai trò xã hội của gia đình:
«Vai trò của những hiệp hội này là làm dấy lên nơi các tín hữu một
ý thức bén nhạy về sự liên đới, là tạo điều kiện thuận lợi cho một nếp sống được
gợi hứng do Tin Mừng và do đức tin của Hội Thánh, là đào tạo cho lương tâm của
mọi người biết theo giá trị Kitô giáo chứ không theo các tiêu chuẩn của ý kiến
đám đông, là khuyến khích các công cuộc bác ái đang hướng về việc giúp đỡ lẫn
nhau hay hướng về người khác với một tinh thần cởi mở có sức làm cho các gia
đình Kitô hữu trở thành thật sự là nguồn sáng đích thực và là men lành mạnh cho
các gia đình khác» (FC 72).
. Phản ứng tức thời của chúng
ta như thế nào trước điều được nghe?
. Đâu là những đóng góp cụ thể
và hữu hiệu mà một gia đình có thể mang lại trong lãnh vực xã hội và chính trị?
. Chỗ nào trong đời sống gia
đình có thể góp phần sống tình liên đới với người khác?
. Anh chị có ý kiến gì về việc
nhận con nuôi hay nhận ủy thác nuôi con trẻ?
PHỤ LỤC
“Tình yêu luôn mang đến sự sống”
(AL 165). Gia đình đông con là một niềm
vui cho Hội thánh. Trong đó tình yêu thể hiện sự quảng đại phong nhiêu của
mình” (AL 167). Thế nhưng không được
quên lời cảnh báo tốt lành của Thánh Gioan Phaolô II khi ngài giải thích việc
làm cha làm mẹ có trách nhiệm không phải là “sinh sản không giới hạn hay thiếu
ý thức về ý nghĩa của việc nuôi dạy con cái”. Vì thế việc kiểm soát số con vừa
với khả năng Chúa ban cho đôi vợ chồng để làm cha làm mẹ có trách nhiệm là điều
chính đáng. Để đôi bạn có thể vừa sống tình yêu quảng đại và phong nhiêu, vừa
đáp ứng tinh thần trách nhiệm, Hội thánh giới thiệu cho các đôi bạn Phương Pháp
Kế hoạch hóa tự nhiên (Natural Family Planning) (viết tắt KHHTN). Lưu ý đầu
tiên là Phương pháp KHHTN không gọi là “phương pháp ngừa thai nhân tạo”. KHHTN
không phải là nhằm “kiểm soát sinh sản”. Người ta hay nói, do hiểu lầm hoặc
thành kiến, Hội thánh Công giáo chống lại việc kiểm soát sinh sản bằng phương
pháp nhân tạo. Hội thánh không chống các biện pháp nhân tạo vì chúng nhân tạo, nhưng chống thái độ và ý hướng
ngừa thai. Ngừa thai là một chọn lựa
dùng bất kì phương cách nào để ngăn chặn việc mang thai có thể có do hành vi
giao hợp vốn thuộc quan hệ phu thê. Nói cách khác, các đôi bạn “ngừa thai” là
người đã chọn đi vào thực hành giao hợp vợ chồng và thấy trước hành vi ấy có thể
làm đậu thai và vì thế cố ý loại bỏ
khả năng đậu thai này. Điều này có thể được làm bằng nhiều dụng cụ nhân tạo
khác nhau hay dùng hoóc-môn, hoặc bằng triệt sản, hoặc bằng giao hợp nửa chừng
(coitus interruptus). Hội thánh chống
các phương pháp nhân tạo vì chúng “chống thụ thai” ngay trong bản chất phương
pháp, chứ không vì chúng nhân tạo. Hội thánh chấp nhận và cổ võ phương pháp
KHHTN (khi có lí do chính đáng không mang thai) không bởi vì nó “tự nhiên” đối
nghịch vói “nhân tạo”, nhưng vì nó dù sao cũng không chống thụ thai xét tự thân hành vi khách quan. Đôi bạn thực
hành phương pháp KHHTN không bao giờ chọn ngăn chặn sự thụ thai tiềm ẩn trong
hành vi vợ chồng. KHHTN không phải là “ngừa thai” tự nhiên. Vì nó không hề là
chống thụ thai.
Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu
một phương pháp KHHTN ngày nay được Hội Thánh quan tâm, cổ võ tích cực, đó là
phương pháp Rụng trứng Billings (B.O.M.).
Phương pháp Billings là một
trong những phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên (NFP), dựa trên cảm giác và
quan sát chất nhờn từ cổ tử cung tiết ra, để đạt 3 mục đích: (1) thụ thai,
(2) trì hoãn thụ thai, (3) theo dõi sức khỏe sinh sản.
Lịch sử phương pháp:
Trăn trở vì hiệu quả thấp của
các phương pháp tự nhiên gồm Ogino Knauss và đo thân nhiệt căn bản…, Cha
Maurice Catarinic, một cha xứ ở Melbourne, nước Úc, đã nhờ Ông Bà bác sĩ
Billings tìm kiếm một phương pháp hiệu quả cao hơn, giúp các gia đình yên tâm sống
đúng theo giáo huấn của Giáo Hội.
Năm 1953, Ông Bà cùng các nhà
khoa học bắt đầu nghiên cứu trên khoảng 300 phụ nữ, yêu cầu họ để ý cảm giác
nơi âm hộ trong một chu kỳ sinh dục và ghi lại trên biểu đồ. Những hiểu biết về
phương pháp Billings dần được khám phá và truyền giảng.
Đến năm 1978, phương pháp được
Tổ chức Y tế thế giới WHO công nhận sau 01 năm nghiên cứu trên 5 Quốc gia, với
nhiều loại phụ nữ và ở những lứa tuổi khác nhau. Hiệu quả ban đầu là 97% (WHO
1978), đã tăng lên đến 98,5% - 99.7% (Ấn Độ 1996, Trung Quốc 1997)
Đến nay, phương pháp vẫn được
các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, đặc biệt trong lĩnh vực hiếm
muộn. Phương cách truyền giảng được cập nhật thường xuyên sao cho dễ hiểu, dễ
áp dụng nhất đối với từng đối tượng học viên.
Vì sao cần giảng dạy phương pháp?
Vì Phương pháp Billings hoàn
toàn tự nhiên, phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, đã được các Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI, Gioan Phaolô II, Benedict XVI chuẩn nhận. Đặc biệt, vào
ngày 1/6/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban Phép lành Tòa Thánh mãi mãi cho
Cha Linh hướng và những ai được tổ chức Billings phục vụ.
Vì phương pháp không có tác
dụng phụ và có nhiều lợi ích:
(1)
Giúp người phụ nữ tự tin, hiểu biết về cơ thể, tôn trọng bản thân,
biết quí trọng giữ gìn khả năng sinh sản của mình.
(2)
Giúp thăng tiến tình yêu vợ chồng qua đối thoại, quan tâm tinh tế,
đồng thuận giữ tiết độ định kì, chung trách nhiệm, sáng tạo, thăng hoa trong
tình yêu.
(3)
Hợp tác với những qui luật Thiên Chúa đã đặt để trong
người phụ nữ để đón nhận con cái như Quà tặng của Ngài.
(4)
90% phụ nữ cảm giác được chất nhờn đặc trưng của
mình, kể cả người khiếm thị, mù chữ.... Dễ sử dụng cho mọi chu kỳ, cả
đều và không đều, ở những giai đoạn và tình huống khác nhau trong đời sống
sinh sản của người nữ như dậy thì, cho con bú, tiền mãn kinh, stress, sau
ngưng thuốc ngừa thai, tập luyện quá căng thẳng….
(5)
Nếu người phụ nữ quan tâm theo dõi chất nhờn,
ghi biểu đồ đều đặn, vợ chồng áp dụng nghiêm túc luật Billings, tỷ lệ thành
công trong việc trì hoãn thụ thai lên đến 99.7%. Tỷ lệ thất bại là 1% - 25% do
truyền giảng không rõ ràng hay người học hiểu sai, do tình huống sinh học, do vợ
chồng không dứt khoát giữa muốn và chưa muốn có thai. Vì vậy, học viên
cần được đồng hành cho đến khi thành thạo B.O.M.
(6)
Để hỗ trợ các đôi hiếm muộn, B.O.M
cung cấp thông tin chính xác về chất nhờn, ngày dễ thụ thai nhất, gợi ý và đưa
ra chỉ dẫn tìm kiếm một số nguyên nhân gây hiếm muộn. Một nghiên cứu ở Trung Quốc
cho kết quả 1032 trên 3268 phụ nữ hiếm muộn chưa rõ nguyên nhân đã thụ thai sau
2-5 chu kỳ. Nghiên cứu ở Úc trên 384 phụ nữ, 75% đã có thai trong 5 tháng; Cố gắng
hướng dẫn B.O.M cho 65 phụ nữ từ 38-46 tuổi, đã giúp 49% người có thai.
(7)
B.O.M còn giúp theo dõi sức khỏe sinh sản: Bằng
cách ghi biều đồ mỗi tối, người phụ nữ sẽ phát hiện sớm các dạng bất thường, bệnh
lí…, nhờ vậy được khám và điều trị kịp thời.
Nội dung giảng dạy phương pháp cho
cả hai vợ chồng trong 6 tiết gồm:
(1)Giáo
huấn của Giáo Hội về Sinh sản có trách nhiệm, ý nghĩa và cách giữ
tiết độ định kỳ trong đời sống vợ chồng.
(2)Học
biết như thế nào là một chu kì sinh dục nữ có khả năng thụ thai trọn
vẹn
(3)Cách
quan sát và theo dõi chất nhờn, ghi
biểu đồ mỗi ngày
(4)Nhận định mẫu không thụ thai của chính mình
để biết thời điểm bắt đầu có khả năng thụ thai
(5)Nhận định ngày Đỉnh, là
ngày 85% phụ nữ có rụng trứng
(6)Thực
hành làm biểu đồ mẫu và phân tích biểu đồ
(7)Áp dụng luật Billings để
đạt mục đích, thực hành trên biểu đồ mẫu
(8)Tóm
tắt bài giảng bằng cách làm bài kiểm tra và đưa ra đáp án.
MỤC LỤC
CHUẨN
BỊ CHO NGƯỜI TRẺ BƯỚC VÀO ĐỜI SỐNG HÔN
NHÂN Trang 1
Chuẩn
bị hôn nhân theo Th. AMORIS LAETITIA
Tr. 8
Gặp gỡ I: CHÚNG TA YÊU NHAU Tr.17
Gặp gỡ II: CHÚNG MÌNH KẾT HÔN NHÉ Tr. 28
Gặp gỡ
III: KẾT HÔN NHƯ NHỮNG KITÔ HỮU Tr. 39
Gặp gỡ
IV: VỚI BÍ TÍCH HÔN PHỐI
Tr.49
Gặp gỡ
V: ĐƯỢC KÊU GỌI NÊN THÁNH
Tr. 60
Gặp gỡ
VI: CHÚNG TA SẼ NÊN MỘT XƯƠNG MỘT THỊT
Tr.71
Gặp gỡ
VII: CHÚNG MÌNH SẼ SINH CON
Tr. 83
PHỤ LỤC: GIỚI THIỆU P. P
BILLINGS Tr. 116
[1] Phanxicô, tông huấn Niềm vui Tình yêu (Amoris Laetitia), 206.
[2] Ibid. 207.
[3]
HĐGMVN, Thư Chung 2016 s. 5.
[4] Phanxicô, Niềm vui của Tình yêu, cit., 208.
[5] Inhaxiô Loyola,
Linh Thao, Chú thích 2.
[6] Ibid., Chú
thích 5.
[7] Gioan Phaolô
II, Huấn Gíao Thư Tư (HG) (27.6.1984), 4: Insegnamenti VII/1 (1984),
1941.
[8] HG (21.10.2015): L’Osservatore
Romano, 22.10.2015, tr. 12.
[9] HĐGM Kênya,
Sứ Điệp Mùa Chay (18.02.2015).
[10] Cf. Piô
XI, Thđ. Casti Connubii (31.12.1930): AAS
22 (1930), 583.
[11] Gioan Phaolô II,
HG (4.7.1984), 3, 6: Insegnamenti VII/2 (1984), tr. 9, 10.
[12] Gioan Phaolô II, Thần học về Thân xác XLVIII, 1, bản dịch Việt ngữ, NXB Tôn giáo 2016, 352.
[13] Gioan Phaolô
II, Thần học … cit., 125.
[14] Bênêđictô
XVI, Deus caritas
est, 11. Cf. Phanxicô,
Amoris … cit., 70.
[15] Chúng ta cũng
không được quên rằng giao ước của Thiên Chúa với dân Ngài được diễn tả như một sự
đính hôn (Cf. Ed 16,8. 60; Is 62,5; Hs 2,21-22), và giao ước mới cũng được trình bày như một hôn ước
(Cf. Kh 19,7; 21,2; Ep 5,25).
[16] Tôma Aquinô, Summa contra Gentiles, III,
123; Cf. Aristotele, Etica Nic., 8, 12 (ed. Bywater,
Oxford 1984, 174).
[17] HĐGM Úc Châu,
Thư mục vụ Don’t Mess with Marriage (24.11.2015), 11.