Năm Tân Phúc-Âm-hoá đời sống Giáo xứ và Cộng
đoàn
– Gợi ý mục vụ –
Đề tài 7. Tân
Phúc-Âm-hoá Giáo xứ: Canh tân đời sống và con người linh mục
“Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm
người rốt hết, và phục vụ mọi người” (Mc 9,35)
Dẫn vào
Là cộng đoàn hiệp thông trong Lòng Thương Xót của Chúa,
giáo xứ và các cộng đoàn nhỏ hội thánh kết hợp thường xuyên với Chúa Kitô như
cành nho gắn liền với cây nho, cách cụ thể và hữu hình, nhờ hiệp thông với vị mục
tử đứng đầu cộng đoàn hội thánh địa phương. Là kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, người
linh mục cần đón nhận lòng thương xót thần linh trước hết cho bản thân mình, và
qua thừa tác vụ, cho dân Chúa, và cho mọi người. Thật vậy, công cuộc Tân
Phúc-Âm-hóa trước tiên phải được tiến hành khởi đi từ hàng linh mục (x. Đại hội Dân Chúa 2010). Nếu như ngày nay nhiều Kitô hữu
đi lạc hướng và sai lầm, thì đó là vì nhiều thừa tác viên của Chúa đã chối bỏ
nhiệm vụ hướng dẫn luân lý cho đàn chiên của Đức Kitô, và vì họ im lặng
hoặc tệ hơn họ rao giảng không xác tín và sai lầm nên các tín hữu bị lạc hướng,
và trở nên càng mỏng dòn trước những tấn công của nền “văn hóa” thế tục hóa,
lương tâm bị ô nhiễm và bất an hơn.
Để có thể trở thành môn đệ đích thực và mục tử như lòng
Chúa mong ước, người linh mục phải là con người của cầu nguyện, lấy Thánh Thể
làm nền tảng và trung tâm điểm của đời sống, có trái tim được nắn đúc nên giống
Thánh Tâm Chúa Giêsu, sống độc thân khiết tịnh, vâng phục, là khí cụ và là Tiền
hô của Lòng Thương Xót; là thừa tác viên của Bí tích Hòa giải; là người hướng dẫn
luân lý cho cộng đoàn; phục vụ công cuộc Tân
Phúc-Âm-hóa...
1. Là con người của cầu nguyện
“Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ
ngơi đôi chút.” (Mc 6,31)
Thời gian người thừa tác viên lánh riêng xa dân chúng (những
kẻ vẫn mong đợi nghe lời Chúa và những dấu chỉ cụ thể của tình yêu Chúa) không
phải là rời bỏ sứ vụ. Nhưng chính là để cho sứ vụ. Thời gian của thinh lặng và
nghỉ ngơi, thời gian ở một mình với Chúa trong cầu nguyện, kết hợp người môn đệ
với nguồn mạch của sứ vụ, với Đấng đã gọi mình làm tông đồ và sai mình đi. Lánh
riêng ra một nơi, tạm xa các hoạt động của sứ vụ để nghỉ ngơi và cầu nguyện, thật
ra nói lên điều này: sứ vụ không phải là của tôi, nhưng thực ra là của Chúa. Thời
gian ở riêng với Chúa như thế, thời gian của cầu nguyện hằng ngày, hồi tâm hằng
tháng, tĩnh tâm hằng năm, không làm giảm bớt hiệu quả công việc của sứ vụ, trái
lại rất cần yếu để hoàn thành sứ vụ cách đầy đủ, vâng phục theo Đấng đã gọi và
sai đi.
2. Thánh Thể là nền tảng và tâm điểm của đời sống linh mục
Người linh mục, con người cầu nguyện, luôn trở nên ý thức
hơn toàn thể cuộc sống linh mục của mình là để phục vụ cho Mầu nhiệm đức tin (Mysterium fidei), Mầu nhiệm Nhập
thể Cứu chuộc, vốn được kinh nghiệm trực tiếp trong Bí tích Thánh Thể. Hiến tế
Thánh Thể là biểu hiện trọn vẹn nhất đức ái mục tử của Chúa Giêsu Kitô. Nhờ ân
sủng bí tích Truyền Chức Thánh, Linh mục nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô
trong đức ái mục tử; tâm hồn của linh mục được ghi dấu mãi mãi bởi thực thi đức
ái mục tử của Đức Kitô, nhằm lợi ích cho mọi người. “Đời sống thiêng liêng của linh mục được ghi khắc, khuôn
đúc, đặc trưng bởi thái độ hành vi của chính Đức Kitô, là Đầu và Mục tử của Hội
Thánh, vốn bao gồm trong đức ái mục tử”.[1] Chính bởi hy lễ Thánh Thể vì ơn cứu độ của thế giới mà
Linh mục thực hiện cách trọn vẹn và hoàn hảo nhất tác vụ thượng tế của Đức
Kitô, vốn là điều ngài được gọi và bởi đó mà ngài được thánh hiến. Thánh Giáo
hoàng Gioan Phaolô II khi tham chiếu đặc biệt đến sự biểu lộ cao cả nhất của chức
tư tế, đã nhắc nhớ đến lời của vị Giám mục đang phong chức khi ngài đặt lễ vật
dâng tiến cho Thánh lễ trong bàn tay của vị tân Linh mục, ngài nói: “Con hãy đón nhận những lễ vật của
dân thánh làm hiến lễ Thánh Thể. Hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con cử
hành, làm cho đời con nên giống mầu nhiệm thánh giá Chúa Kitô”.[2]
Bởi thế, nguyên lý nội tâm,
nhân đức làm sinh động và hướng dẫn đời sống thiêng liêng người linh mục, như kẻ
nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là đầu và mục tử, là đức ái mục tử. Thế
nên, linh mục cần:
3. Có một trái tim giống Thánh Tâm Chúa Giêsu
Việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu trong truyền thống xuất
phát từ sự tôn sùng Thánh Thể, và làm gia tăng
lòng mến đối với Thánh Thể. Chúa Kitô đã yêu và yêu “cho đến cùng” (Ga 13,1), chết trên thập giá vì chúng ta,
để cho trái tim Người bị đâm thâu, ban tặng chúng ta một dấu vô song của tình
yêu Người cho Hội Thánh. Thánh Thể là tặng phẩm vĩ đại nhất Thánh Tâm Chúa dành
cho chúng ta. Chúng ta kinh nghiệm trực tiếp tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu
hiện diện nơi các linh mục nhất là khi các ngài dâng Thánh lễ.
4. Độc thân khiết tịnh: hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô
Tham dự vào thừa tác vụ linh mục của Đức Kitô Thượng Tế
trong tình yêu mục tử được diễn tả cách rất thích đáng và thuyết phục qua hiến
lễ của người linh mục dâng lên Thiên Chúa, vì tình yêu đối với Người và Dân của
Người, dâng trọn vẹn con người và đời sống, tất cả tình cảm và những khuynh hướng
tính dục của mình. Khi các linh mục thực sự vui sống đời hiến dâng như thế, các
tín hữu không thể không nhận thấy trong tình yêu độc thân ấy một phản chiếu
tình yêu trung thành và bền vững của Đức Kitô dành cho họ. Tình cảm tự nhiên lẽ
ra vốn dành cho người bạn đời và con cái trong cuộc hôn nhân, người linh mục
cùng với Chúa Kitô dâng cho Thiên Chúa Cha, hầu có thể được biến chuyển thành
tình yêu mến dành cho tất cả dân Người. Không thể sống đời độc thân vì Nước Trời
mà không có sự trợ giúp bởi ơn Chúa.
5. Vâng phục: thực thi ý muốn Đấng sai tôi đi
“Người nào
vâng phục thì tùng phục Thiên Chúa, vâng theo thánh ý của Ngài được diễn tả qua
ý của các bề trên mình. Người ấy đón nhận người đại diện Chúa nơi một con người
thụ tạo”.[3] Hành vi tự do mà người tiến chức hứa vâng
phục Giám mục và những đấng kế vị ngài phải được làm mới lại mỗi ngày trong cầu
nguyện: “Nhưng xin đừng theo ý con, một xin
vâng ý Cha”. Chúng ta
dĩ nhiên vâng phục chính Chúa Kitô trên hết, rồi cũng vâng lời Đức Giáo hoàng
và Đức Giám mục giáo phận. Qua vâng phục, linh mục biểu
lộ sự kính trọng và yêu mến Đức Kitô, từ đó cứu lấy và thăng tiến sự hiệp nhất
trong Giáo hội giữa các thừa tác viên tông đồ.
Vâng phục như thế không phải là chối bỏ tự do của con người,
đúng hơn, đó là thực thi sự tự do cách trọn vẹn nhất, vì nó giúp cho người linh
mục suy nghĩ, nói năng, và hành động chỉ vì Thiên Chúa mà thôi; tự do phục vụ
Chúa và tha nhân, và sau cùng, tự do đối với lòng tư dục của mình.
Đức Trinh nữ Maria là Mẹ của các linh mục. Là anh em của
Đức Kitô theo một danh nghĩa trổi vượt nhất, các linh mục cũng được hưởng tình
mẫu tử mà chính Đức Kitô đã vui hưởng, tình thương tuôn chảy từ Trái Tim Vô Nhiễm
của Đức Maria Mẹ Người, được thụ thai không mang một vết tì tích nào của tội lỗi
để hoàn toàn thuộc về Người suốt quãng đời trần thế.
Câu hỏi thảo luận
1. Tôi nên
làm gì để giúp các linh mục sống đúng căn tính linh mục của mình?
2. Tôi có
nghĩ rằng Phúc-Âm-hóa các linh mục phải đồng thời với Phúc-Âm-hóa các thành phần
khác của Dân Chúa không? Tại sao?
3. Theo anh
chị, Phúc-Âm-hóa bắt đầu
từ hàng linh mục, nhưng cụ thể bắt đầu từ đâu?
––––––––––––––––––––––––––
[1] Thánh GH
Gioan Phaolô II, Pastores Dabo
Vobis, s.21.
[2] De
Orinatione Episcopi, Presbyterorum e Diaconorum, “De Ordinatione
Presbyterorum”.
[3] Thánh GH
Gioan Phaolô II, Tiếp kiến
chung, 7.12.1994.
Lm Luy Nguyễn
Anh Tuấn