Các Giáo Xứ: Lịch Sử Và Thần
Học
(daminhvn.net) 09/03/2015
Nhập đề
Để tiếp tục kế hoạch mục vụ của năm 2014 dành cho việc “Phúc âm
hoá đời sống gia đình”, Hội đồng giám mục Việt Nam đã chọn cho năm 2015 đề tài “Tân phúc-âm-hóa
đời sống các giáo xứ và các cộng đoàn sống đời thánh hiến”. Giáo xứ được giới thiệu như một “gia đình
rộng lớn hơn”: ”giáo xứ là gia đình của những
người con cái Thiên Chúa, trong đó tất cả là anh chị em với nhau. Gia đình giáo
xứ cần được Phúc-Âm-hóa, nghĩa là thấm đẫm tinh thần Phúc Âm và làm chiếu tỏa
ánh sáng Phúc Âm ra chung quanh, đến với muôn dân”.
Thời sự thần học muốn đóng góp vào kế hoạch này qua việc
nghiên cứu hai điểm “thời sự” và “thần học” của giáo xứ. Bài này gồm có ba phần.
1/ Trong phần đầu, chúng ta sẽ ôn lại sự tiến triển của giáo xứ trải qua lịch sử,
với những vấn đề giáo luật và mục vụ kèm theo. 2/ Trong phần thứ hai, chúng ta
sẽ tìm hiểu những quan niệm thần học về giáo xứ dựa theo các văn kiện của Giáo
hội. 3/ Từ đó, chúng ta sẽ rút ra vài hệ luận.
Trước khi đi vào vấn đề, chúng tôi muốn đưa ra vài nhận xét về từ ngữ.
1/ Ở Việt nam, trước đây, xứ là tiếng gọi ở ngoài Bắc (và đi theo cha xứ, hay chánh xứ); trong
Nam gọi là họ hay họ đạo (và đi theo cha sở, hay chánh sở, bổn sở). Với cuộc di cư năm
1954, người Bắc mang cái “xứ” vào trong Nam, và biến cái “họ” thành một chi
nhánh của “xứ” (họ lẻ). Tại nhiều giáo phận, một cộng đoàn được thiết lập
thành “giáo họ” trước khi tiến tới “giáo xứ”[1].
Dù sao thì cả hai danh từxứ (gợi
lên ý tưởng “xứ sở quê hương”) và họ (gợi lên ý tưởng “họ hàng thân thuộc”)
đều muốn nói lên một sự ràng buộc với gia đình họ hàng thân tộc; nói tắt, nó
nói lên một cộng đồng. Một nhận xét nữa: trước đây Xứ và Họ được
gắn với “đạo” (xứ đạo, họ đạo) để phân biệt với những xứ hoặc họ theo nghĩa
xã-hội-học; một cách tương tự “giáo xứ” cũng muốn nêu bật rằng cái “xứ” này thuộc
về “Giáo hội” chứ không hiểu thuần túy theo nghĩa nhân văn.
2/ Trong tiếng Latinh, paroecia (từ đó phiên âm ra tiếng Pháp là paroisse và tiếng Anh là parish) bắt nguồn từ paroikia gốc Hy-lạp. Trong nguyên ngữ, paroiken có nghĩa là “sống gần” (gồm bởi para vàoikein),
và tính từ paroikos có nghĩa “láng giềng”. Vì thế paroikia được gồm bởi những người “sống gần
nhau”. Đó là nói theo nghĩa thông thường. Trong bản dịch LXX paroikein có nghĩa là “sống tha hương”, nghĩa là
tại nơi mà mình không có hộ khẩu. Cựu ước cũng như Tân ước áp dụng paroikia cho cộng đoàn tín hữu, được coi như
là những người ngoại kiều (Ep 2,19), tạm trú (1Pr 2,11), lữ hành (Dt
11,13), giống như dân Israel xưa kia sống lưu vong bên Ai cập (Cv 7,6.29;
13,27).
Vào lúc đầu, danh xưng paroikia áp dụng cho toàn thể Dân Thiên Chúa lữ
hành trên đời, tức là đồng nghĩa với Hội thánh ekklesia. Với sự phát triển của các
giáo đoàn, từ thế kỷ II, nó được áp dụng cho một cộng đồng tín hữu tại một địa
phương được ủy thác cho một giám mục. Nói cách khác, trong những thế kỷ đầu
tiên, paroikia tương đương với “giáo phận”. Sang thời
Trung cổ, khi vùng phụ trách của giám mục được gọi là dioecesis (nên biết là trong tổ chức hành chánh
Đế quốc Roma, dioecesis là một “trấn” bao gồm nhiều provincia ”tỉnh”), thì paroikia mới ám chỉ đơn vị do linh mục phụ
trách; cha xứ được gọi là parochus[2].
Sau khi đã xác định từ ngữ, chúng ta đi vào thực chất. Trước hết,
chúng ta ôn lại những nét tiến triển của thực thể “giáo xứ” cùng với những vấn
đề của nó. Sau đó, chúng ta sẽ tìm hiểu sự tiến triển của thần học về giáo xứ.
I. Lịch sử giáo xứ
Việc tìm hiểu lịch sử của giáo xứ mang theo nhiều câu hỏi: từ
lúc nào các giáo xứ được thành hình? Từ lúc nào Giáo hội được chia làm các giáo
phận và giáo phận được chia làm giáo xứ? Bên cạnh những câu hỏi thuộc khía cạnh
hành chánh, còn thêm những câu chuyện thuộc khía cạnh pháp luật và mục vụ: ai
chịu trách nhiệm về việc chăm sóc các giáo xứ? bổn phận và quyền lợi của vị ấy
ra sao? Chúng ta sẽ thấy rằng từ thời Trung cổ, phần lớn những can thiệp của
các công đồng đều chú trọng đến trọng trách của “cha xứ”; sau Vaticanô II, người
ta mới để ý đến “giáo xứ”. Chúng tôi xin tạm chia thành bốn giai đoạn như
sau:1/ những thế kỷ đầu, 2/ thời Trung cổ, 3/ công đồng Trento, 4/ Vaticanô II.
A. Những thế kỷ đầu: từ ekklesia đến
paroikia
Lịch sử của các giáo xứ tiến triển qua nhiều chặng. Như vừa nói,
trong những thế kỷ đầu tiên, paroikiaám
chỉ giáo phận (đơn vị dưới quyền điều khiển của Giám mục), rồi sau đó mới được
dùng cho giáo xứ. Một nhận xét thú vị là trong Tân ước, không có sự phân biệt từ
ngữ giữa những đơn vị khác nhau trong tổ chức Giáo hội.
1.Thật vậy, danh từ ekklesia đôi khi ám chỉ toàn thể tất cả
các môn đệ của Đức Kitô (như vậy chỉ có một ekklesia,
thí dụ Mt 16,18; Ep 5,23), đôi khi ám chỉ một cộng đồng Kitô hữu, sống tại một
miền rộng lớn thí dụ như Galatia (1Cr 16,1) hoặc Maceđonia (2Cr 8,1), hoặc cộng
đồng tín hữu tại một thành phố, như là Giêrusalem (Cv 5,11), Antiôkia (Cv
14,27), và thánh Phaolô quen nói đến ”Hội thánh của Chúa tại Corintô hay
tại Têxalonica, vv); thậm chí ekklesia còn được áp dụng cho một nhóm người họp
nhau cầu nguyện tại tư gia (Rm 16,5; 1Cr 16,19; Cl 4,15; Plm 2)[3].
Những cộng đoàn với tầm mức lớn nhỏ khác nhau đều được gọi là ekklesia (do đó danh từ này có thể dùng ở số nhiều). Dần dần ý tưởngekklesia cũng bao hàm cái nhà mà cộng đoàn tụ họp
để cầu nguyện (domus ecclesiae), mà ta dịch là “nhà thờ” hoặc “thánh đường”[4].
Như vậy, danh từ ekklesia hàm ngụ hai ý tưởng: cộng đoàn, và nhà
cầu nguyện.
2. Danh từ paroikia thì tiến triển theo một hướng khác.
Vào lúc đầu, nó không ám chỉ một cộng đoàn hoặc một nơi thờ tự cho bằng cộng
đoàn đức tin sống trên đời này như là những “khách lữ hành” (“tha hương”): “Tôi
là Phêrô, tông đồ của Đức Giêsu Kitô, kính gửi những người được Thiên Chúa kén
chọn, những khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ Pontô, Galat, vv” (1Pr
1,1). Ý nghĩa của Tân ước vẫn còn được duy trì vào thế kỷ II, chẳng hạn như
thánh Clêmentê (k. năm 100) viết rằng: “Hội thánh Chúa tha hương tại Rôma gửi
cho Hội thánh Chúa tha hương tại Corintô”. Vài năm sau đó, thánh Polycarpô cũng
viết cho “Hội thánh Chúa đang tha hương tại Philippi”. Xem ra hồi đó paroikia ám chỉ cộng đoàn các tín hữu sống
giữa người ngoại đạo, trong tình trạng phân tán giữa các ngoại kiều. Sự tiến
triển từ ý nghĩa “thần học” (những kẻ tha hương lữ hành) sang ý nghĩa “hành
chánh” có lẽ chịu ảnh hưởng của cơ cấu tổ chức trong Đế quốc Rôma: lãnh thổ Đế
quốc được phân chia thành nhiều đơn vị; Kitô giáo cũng hoạ theo cách tổ chức ấy.
3. Trong những thế kỷ đầu tiên, đơn vị căn bản trong tổ chức
Giáo hội là cộng đoàn dưới sự lãnh đạo của giám mục. Các giám mục thường cư ngụ
các thành phố, và chủ sự các buổi cử hành phụng vụ.
Bộ mặt Giáo hội bắt đầu đổi thay từ thế kỷ IV, với việc thiết lập
các cộng đoàn ở thôn quê. Việc cai quản các cộng đoàn này thay đổi tuỳ địa
phương. Bên Đông phương, vào lúc đầu, giám mục cũng đảm nhận việc cai quản các
cộng đoàn miền thôn quê, nhưng công đồng Calxêđônia (451) đã truyền thiết lập một
cơ quan quản trị riêng. Bên Tây phương, tiến trình này chậm chạp hơn. Từ thế kỷ
IV đến thế kỷ VI, nhiều nhà thờ được xây cất ở thôn quê, hoặc tại các làng mạc
hay tại các đồn điền, với một linh mục được cử đến để cử hành các bí tích hoặc
cư trú thường xuyên. Các địa điểm này được gọi bằng những danh xưng khác nhau: ecclesia rusticana, ecclesia parochitana hay paroecia.
Như vậy, trải qua nhiều thế kỷ, các từ ngữ không được xác định
rõ rệt: ecclesia có thể ám chỉ toàn thể Hội thánh, hoặc
một giáo hội địa phương (tạm gọi là giáo đoàn) dưới sự lãnh đạo của giám mục,
hay bất cứ nơi nào dùng vào việc thờ tự (tạm gọi là nhà thờ). Đang khi đó, paroecia dần dần mang một nghĩa chuyên
môn hơn, ám chỉ một cộng đoàn dưới sự lãnh đạo của giám mục, rồi sau đó ám chỉ
một cộng đoàn do một linh mục phụ trách. Sự tiến triển này diễn ra vào thời
Trung cổ.
B. Thời Trung Cổ: sự phân chia giáo
phận thành giáo xứ
Ở đây chúng ta chỉ bàn đến sự tiến triển trong các Giáo hội bên
Tây. Sự phân chia lãnh thổ từ giáo phận sang giáo xứ có thể mô tả sơ lược như
sau.
Vào những thế kỷ đầu, các linh mục sống chung với giám mục tại
các nhà thờ chánh toà[5]. Với sự gia tăng các tín hữu, các nhà thờ
được cất lên. Vài linh mục được cử hành đến dâng thánh lễ tại các nhà thờ ấy,
nhưng sau đó lại trở về toà giám mục. Dần dần, có những linh mục được bổ nhiệm
về cư trú thường trực các thánh đường ấy. Một thí dụ được thấy tại giáo phận
Rôma, với sự thành lập các thánh đường với các tituli, với các linh mục cố định[6].
Tình trạng này cũng xảy ra khi giáo phận mở rộng về thôn quê.
Các thánh đường được cất lên. Một linh mục được cử về đây, mà họ sinh sống nhờ
sự đóng góp của giáo dân. Hệ thống “bổng lộc” được thành hình từ đây. Linh mục “bổn
sở” đôi khi cũng phụ trách các nhà thờ được xây cất ở những xóm nhỏ hơn, hoặc ở
đồn điền của các lãnh chúa; nhưng tại các nhà thờ này các linh mục chỉ đến dâng
Thánh lễ, còn các bí tích khác (rửa tội, hôn phối) vẫn được cử hành tại nhà thờ
của “chánh sở”.
Sang thời Trung cổ, người ta chứng kiến một sự “hỗn độn” trong
cách tổ chức Giáo hội. Giám mục đã mất quyền kiểm soát trên các nhà thờ trong
lãnh thổ của mình. Thực vậy, đừng kể những vùng đất mới được các đan sĩ đến
truyền giáo (như vậy, trực thuộc các đan viện), còn có các nhà thờ do các lãnh
chúa lập ra trên đồn điền của họ (và ngoài tầm kiểm soát của các giám mục), kể
cả các cha sở ở thôn quê cũng phần nào cũng trở thành tự trị bởi vì dựa trên bổng
lộc chứ không lệ thuộc các giám mục. Các công đồng vào thời Trung cổ tìm cách
xác định rõ ràng ranh giới giữa các giáo xứ, cũng như thẩm quyền của giám mục đối
với các giáo xứ.
Ngoài khía cạnh tổ chức giáo luật, một mối bận tâm không ít của
các Giáo hoàng và các công đồng vào thời này là tác phong và trình độ học vấn của
các linh mục tại các giáo xứ. Nhiều linh mục chỉ được đào tạo để biết cách cử
hành bí tích (với nguy cơ trở thành những “thầy cúng”) nhưng thiếu hiểu biết về
giáo lý. Đời sống luân lý của các ngài cũng không lấy gì làm gương mẫu. Chính
trong bối cảnh ấy mà những Dòng kinh-sĩ kỷ-luật ra đời (canonici
regulares: các giáo sĩ sống chung tuân theo một bản luật). Việc giảng
dạy đạo lý cũng được hỗ trợ nhờ các dòng Đa Minh và Phan sinh.
C. Công đồng Trentô
Trong kế hoạch cải tổ đời sống Giáo hội, công đồng Trentô
(sessio XIV, Decretum de reformatione) đã đưa ra những biện pháp liên quan đến
các giáo xứ.
- Trước tiên, công đồng bắt buộc phải chia giáo phận thành các
giáo xứ, với lãnh thổ được phân định rõ ràng. Việc bổ nhiệm các cha xứ thuộc thẩm
quyền của giám mục, đồng thời buộc các giám mục phải đào tạo linh mục tại các
chủng viện. Giáo xứ trở thành một đơn vị hành chánh của giáo phận, được ủy thác
cho cha sở, dưới quyền chỉ đạo của giám mục. Giám mục có nghĩa vụ kinh lý các
giáo xứ.
- Công đồng cũng ấn định những quyền lợi và nghĩa vụ của các cha
sở, trong đó một nghĩa vụ quan trọng là luật trú sở (residentia)[7],
để tránh tình trạng những người chỉ lãnh nhận chức vụ (để có bổng lộc) nhưng lại
không quan tâm đến bổn phậm coi sóc các linh hồn.
- Mối ràng buộc chính yếu của các giáo dân với giáo xứ là các bí
tích. Các tín hữu lãnh các bí tích tại giáo xứ, có bổn phận tham dự thánh lễ
các ngày chúa nhật và lễ buộc. Duy chỉ các cha xứ mới có thẩm quyền chứng hôn
thành hiệu bí tích hôn nhân (Decretum Tametsi)
Những quy định của công đồng Trentô được thu nhận vào bộ giáo luật
1917. Giáo xứ được coi như một đơn vị hành chánh của giáo phận, cần có ranh giới
rõ rệt, với một nhà thờ riêng biệt, với một số tín hữu được đặt dưới sự quản trị
của một linh mục làm cha xứ[8]. Như vậy là có ba yếu tố pháp lý cấu thành
giáo xứ, đó là: 1) Lãnh thổ; 2) Nhà thờ; 3) Số tín hữu. Dù sao, bộ giáo luật
dành nhiều khoản cho cha xứ hơn là cho giáo xứ. Cha xứ được ủy thác việc coi
sóc các linh hồn (cura animarum), cách riêng qua việc giảng
dạy và ban bí tích.
Dù sao, không thể bỏ qua một sự kiện là lịch sử Giáo hội đã thay
đổi rất nhiều từ công đồng Trentô đến thế kỷ XX. Giáo hội mở đến những biên
cương mới, ra ngoài lãnh thổ châu Âu: không thể tổ chức các “giáo xứ” ở vùng đất
rộng lớn này như tại các quốc gia công giáo[9].
Ngay tại châu Âu, tình hình sống đạo cũng thay đổi. Tại thôn
quê, nhà thờ giáo xứ là trung tâm sinh hoạt của làng, còn đời sống ở các thành
thị thì khác: các “trung tâm” hành chánh, thương mại, văn hóa, giải trí, dễ thu
hút dân chúng hơn là giáo xứ!
Ngay từ những thập niên 30 của thế kỷ XX, đã có những tiếng nói
đòi xét lại quan niệm và cấu trúc của giáo xứ, sao cho phù hợp với hoàn cảnh xã
hội hiện nay. Xét về xã hội học, cần phải để ý đến những khung cảnh khác nhau của
giáo xứ: thôn quê hay thành thị, người định cư hay người di dân. Xét về thần học,
cần nêu bật khía cạnh cộng đoàn, phụng vụ, truyền giáo, hơn là khía cạnh pháp
lý của giáo xứ.
D. Công đồng Vaticanô II
Công đồng đã đề cập đến giáo xứ rải rác trong nhiều văn kiện: hiến
chế về phụng vụ (số 42), hiến chế về Hội thánh (số 26), sắc lệnh về nhiệm vụ mục
vụ của các giám mục (số 30-32), sắc lệnh về tông đồ giáo dân (số 10) sắc lệnh về
truyền giáo (số 37). Không văn kiện nào dành ra một chương dành để trình bày
các giáo xứ một cách toàn diện. Đó là công việc của thần học sau công đồng, như
sẽ thấy dưới đây.
Dù sao, cần đọc những đoạn vừa trưng trong một bối cảnh thần học
rộng lớn hơn, đặc biệt là về Giáo-hội-học. Công đồng Vaticanô II đã phát triển
một hình ảnh mới về Giáo hội: a) Giáo hội không phải là một cơ chế pháp luật gồm
bởi hàng giáo phẩm (chóp đỉnh là Giáo hoàng), nhưng Giáo hội là Dân Thiên Chúa,
trong đó các tín hữu đều có trách nhiệm đối với việc loan báo Tin mừng; b) Giáo
hội được thể hiện cụ thể tại một cộng đoàn địa phương cử hành Thánh lễ, dưới sự
chủ tọa của Giám mục. Giáo hội phổ quát là sự thông hiệp giữa các cộng đoàn địa
phương.
Đạo lý của công đồng Vaticanô II được tiếp nhận vào bộ giáo luật
được ban hành năm 1983. Giáo xứ được đề cập trong các điều 515- 552. Tuy phần lớn
những điều khoản này bàn về cha xứ hơn là giáo xứ, nhưng điểm mới mẻ là nhấn mạnh
đến khía cạnh cộng đoàn hơn là khía cạnh lãnh thổ, cũng như thiết lập những cơ
quan để các giáo dân có cơ hội tham gia vào việc điều hành giáo xứ.
Trong số những văn kiện quan trọng của Toà thánh liên quan đến
giáo xứ, thiết tưởng cần nhắc đếnSách Giáo lý của Hội thánh Công giáo (số 2179), Tông huấn hậu thượng hội đồng Christifideles laici(số 26-27), Kim chỉ nam về tác vụ mục vụ của các giám mục,
(số 211-217).
Thiết tưởng không nên bỏ qua vài vấn đề được gợi lên chung quanh
tổ chức các giáo xứ. Một đàng, do tình trạng thiếu linh mục tại các nước Âu Mỹ,
nhiều giám mục phải sắp xếp ranh giới các giáo xứ, hoặc tìm những giải pháp mới
cho việc quản trị các cộng đoàn. Đàng khác, các tín hữu cảm thấy “cộng đoàn” của
mình không còn là giáo xứ nữa, mà là các hội đoàn và cách riêng các “cộng đoàn
cơ bản” (basic communities). Ngoài ra, cũng không nên bỏ qua hiện
tượng là số các tín hữu tham gia Thánh lễ các ngày chúa nhật giảm sút mau lẹ;
việc xa lánh nhà thờ cũng thường mang theo sự hờ hững với tôn giáo. Từ đó, các
kế hoạch “tái loan báo Tin mừng” (re-evangelizatio) hoặc “loan báo Tin mừng
cách mới mẻ” (nova evangelizatio) được đề ra.
II. Thần học về giáo xứ
Có thể nói được rằng thần học về giáo xứ mới ra đời từ công đồng
Vaticanô II. Trước đó, giáo xứ chỉ là một đơn vị hành chánh của giáo phận được
giao cho cha xứ chăm sóc. Sau công đồng, thần học về giáo xứ được thành hình nhấn
mạnh đến chiều kích cộng đoàn làm thể hiện Giáo hội tại địa phương, cũng như những
sứ mạng của Giáo hội. Chúng ta sẽ tìm hiểu thần học về giáo xứ: 1/ qua
các bản văn của huấn quyền; 2/ từ những suy tư của các nhà thần học.
A. Các bản văn của Huấn quyền
Chúng tôi muốn chú ý cách riêng đến vài bản văn của công đồng
Vaticanô II và của bộ giáo luật 1983.
1/ Dựa theo các bản văn của công đồng
Vaticanô II
Chúng ta có thể ghi nhận hai yếu tố sau đây của giáo xứ: a) cộng
đoàn Giáo hội địa phương; b) truyền giáo.
a) Cộng đoàn Giáo hội
Công đồng muốn nêu bật rằng Giáo hội là cộng đoàn Dân Thiên
Chúa, chứ không chỉ là một tổ chức pháp lý do hàng giáo phẩm lãnh đạo. Một cách
tương tự như vậy, Giáo xứ được quan niệm trước hết như là một cộng đoàn các tín
hữu (communitas fidelium) nơi mà Giáo Hội được thể hiện tại một địa
phương.
Ý tưởng về giáo xứ “làm-hiện-diện-Hội-thánh-tại-một-nơi” được
công đồng Vaticanô II đặc biệt nói tới hai lần: trong Hiến chế về Phụng vụ số
42 và Hiến chế về Hội thánh số 28.
- Hiến chế
về Phụng vụ số 42: “Vì
không thể đích thân hiện diện mọi nơi mọi lúc trong toàn thể đoàn chiên thuộc Hội
thánh của các ngài, nên phải thiết lập các cộng đồng tín hữu, trong đó nổi bật
hơn cả là các giáo xứ được thiết lập tại từng nơi và đặt dưới sự điều khiển của
một mục tử thay mặt cho Giám mục, một cách nào đó làm hiện diện Hội thánh hữu
hình được thiết lập khắp hoàn vũ” (quodammodo reprasesentant Ecclesiam visibilem per
orbem terrarum constitutam).
- Hiến chế
về Hội thánh số 28b: “Trong
mỗi cộng đồng tín hữu địa phương, các linh mục ra như làm cho Giám mục hiện diện...
Dưới quyền của Giám mục, họ thánh hóa và cai quản phần của đoàn chiên của Chúa
được giao cho mình, làm cho Hội thánh phổ quát nên hữu hình tại địa sở của
mình, và đóng góp rất lớn vào việc xây dựng toàn thân mình Đức Kitô”.
Giáo xứ làm cho Hội thánh trở thành hiện hữu một cách cụ thể tại
một nơi. Hội thánh không phải là một ý niệm trừu tượng, nhưng hiện thực nơi cộng
đoàn quay quần với nhau để nghe Lời Chúa và cử hành Thánh lễ, dưới sự chủ toạ của
một linh mục, thay mặt cho Giám mục, kế vị các thánh tông đồ. Ta có thể tạm coi
đây là “khía cạnh huyền nhiệm” của giáo xứ.
b) Truyền giáo
Khía cạnh thứ hai muốn nói lên tính cách sinh động, mang một sứ
mạng. Giáo xứ được quan niệm như là một chủ thể làm chứng cho đức Kitô
trước mặt thế giới. Điều này được nhắc tới trong Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân (số 10b, 18a, 30c), Sắc lệnh về hoạt động Truyền giáo (số 15b, 37a), Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các giám mục (số 30c). Chúng tôi chỉ xin trưng dẫn
đoạn số 10 của văn kiện về Tông đồ giáo dân.
Giáo xứ trình bày một kinh nghiệm quý báu về việc tông đồ cộng đồng,
xét vì nó quy tụ những dị biệt nhân tố và lồng ghép chúng vào tính cách phổ cập
của Hội thánh. Trong các giáo xứ, các giáo dân nên phát triển thói quen làm việc
chặt chẽ cùng với các linh mục, đưa ra cho cộng đồng Hội thánh những vấn đề
riêng tư, những vấn đề của thế giới, những câu hỏi liên can tới phần rỗi nhân
loại, để cùng cứu xét, thảo luận và giải quyết chung. Tùy theo khả năng của
mình, các giáo dân hãy cộng tác với những dự án tông đồ và truyền giáo của họ đạo
của mình.
Những điều vừa rồi được Đức Gioan Phaolô II lặp lại trong tông
huấn “Người tín hữu giáo dân” (Christifideles laici, 30/12/1988) số
27. Giáo xứ làm thể hiện Hội thánh tại một địa phương, không những vì biểu lộ
tính cách thông hiệp khi cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, nhưng còn qua các sinh
hoạt cộng đồng nhằm đem Hội thánh vào cuộc sống thực tại của nghề nghiệp, môi
trường xã hội. Đó là chiều kích truyền giáo của giáo xứ.
2/ Bộ Giáo luật 1983
Bộ giáo luật cho ta một khái niệm về giáo xứ xét như một định chế
trong Giáo hội. Điều 515§1 định nghĩa giáo xứ như sau:
Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu, được
thiết lập cách bền vững ở trong Giáo hội địa phương, và việc săn sóc mục vụ được
ủy thác cho Cha Sở làm chủ chăn riêng, dưới quyền của Giám mục giáo phận.
Ta có thể vạch ra bốn yếu tố.
a) Giáo xứ là một “cộng đồng các tín hữu” (certa
communitas fidelium). Bộ luật cũ đặt yếu tố “lãnh thổ” như là căn bản
của giáo xứ; nhưng bộ luật hiện hành lấy yếu tố “cộng đồng” làm căn bản, không
những nhằm nhấn mạnh rằng con người quan trọng hơn lãnh thổ, nhưng nhất là muốn
nói tới việc những con người ấy hợp lực để chung nhau hoạt động, dưới sự điều
khiển của một chủ chăn.
b) Cộng đoàn ấy được thiết lập cách bền vững (stabiliter).
Tự nó, tiếng “cộng đoàn tín hữu” có thể áp dụng vào một hội đoàn, một phong
trào, thậm chí một buổi hội họp (chẳng hạn “cộng đoàn phụng vụ”). Nhà lập pháp
muốn thêm từ ngữ “bền vững” để muốn nói rằng cộng đồng giáo xứ không phải nay họp
mai tan, hoặc có thể quy tụ tùy theo ý muốn cá nhân. Giáo xứ có tính cách bền vững
theo pháp lý, xét rằng nó được thành lập do một nghị định của giám mục, với những
hậu quả pháp lý của nó.
c) “ở trong Giáo hội địa phương”: nằm nêu bật mối liên hệ giữa
giáo xứ với giáo phận. Giáo xứ không phải là Giáo hội địa phương, nhưng chỉ là
thành phần của nó.
d) “việc săn sóc mục vụ được ủy thác cho Cha Sở làm chủ chăn
riêng, dưới quyền của Giám mục giáo phận”. Giáo xứ là một cộng đồng gồm bởi các
thành phần khác nhau của Dân Chúa (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân), nhưng được giao
cho một linh mục làm chủ chăn nhằm cho thấy rằng căn bản của đời sống cộng đồng
giáo xứ là tác vụ Lời Chúa và Mình Chúa. Linh mục làm nhịp cầu nối kết giữa cộng
đồng giáo xứ với giáo phận dưới sự lãnh đạo của giám mục.
Điều 515§1 chưa cung cấp tất cả khái niệm thần học về giáo xứ;
nhưng từ đó cũng mang theo nhiều thay đổi về thể chế.
(i) Yếu tố quan trọng trong giáo xứ là cộng đồng, chứ không phải là lãnh thổ.
Vì thế, có thể thiết lập những giáo xứ “tòng nhân” chứ không tòng thổ (đ. 518).
Có lẽ người Việt Nam thường nghĩ đến giáo xứ dựa theo tiêu chuẩn ngôn ngữ (thí
dụ: giáo xứ Việt kiều ở bên Hoa kỳ, Úc), nhưng còn những tiêu chuẩn khác nữa
(thí dụ: giáo xứ đại học dành cho các sinh viên). Trong bộ luật cũ, mỗi giáo xứ
buộc phải có nhà thờ riêng; bộ luật hiện hành không đòi hỏi điều đó.
(ii) Thành phần cốt yếu của giáo xứ là các giáo dân. Họ là những nhân sự chủ động.
Bộ giáo luật dự trù sự tham dự của các giáo dân vào việc quản trị giáo xứ qua
các hội đồng mục vụ (điều 536), một thực thể khá quen thuộc
ở Việt Nam nhưng chưa được nói đến ở trong bộ luật cũ 1917, và hội đồng quản trị tài sản (điều 537), đó là chưa kể các
đoàn thể, hội đoàn, các hoạt động huấn giáo.
(iii) Cũng nên biết hai thể chế mới được đặt ra liên quan đến cha xứ và cha phó.
- Cha xứ. Có ba
dạng cha xứ: (a) một cha xứ
cho một giáo xứ; (b) một đội cha xứ cho một giáo xứ; (c) một đội cha xứ cho nhiều
giáo xứ. Tiếc rằng ở Việt Nam, chúng ta chưa mang ra thực hành hình thức “đội”
cha xứ (équipe, team).
- Cha phó. Có hai
dạng cha phó (điều 545§2):
(a) một cha phó cho một xứ để lo cho toàn thể giáo xứ, hoặc một phần giáo xứ,
hoặc một nhóm người cụ thể; (b) một cha phó cho nhiều xứ, đặc trách một hai vài
công tác nào đó (chẳng hạn mục vụ giới trẻ). Hình như ở Việt Nam chưa có cha
phó liên xứ.
B. Những khuôn mặt thần học khác nhau
của giáo xứ
Trên đây là những nét chính mô tả bản chất của giáo xứ dựa theo
các văn kịên của Huấn quyền. Trên thực tế, giáo xứ có thể mang nhiều khuôn mặt
khác nhau tuỳ theo những điểm nhấn khác nhau. Chúng tôi xin phân chia các điểm
nhấn ấy dựa trên hai khía cạnh vừa nêu: một bên là khía cạnh cộng đoàn, một bên
là sứ vụ (truyền giáo).
1/ Giáo xứ là một cộng đoàn
Nhiều nhà xã hội học (chẳng hạn Ferdinand Torries, Max Weber)
phân biệt giữa “xã hội” (society) và “cộng đồng” (community).
“Xã hội” là một tổ chức dựa trên thiên nhiên hoặc dựa theo pháp luật (chẳng hạn
như quốc gia), trong đó các phần tử là những con số vô danh; “cộng đồng” là một
đơn vị trong đó các phần tử quen biết nhau, ý thức mình là thành phần của một tổng
thể, tích cực tham gia vào sinh hoạt chung.
Khi nói đến cộng đồng, có lẽ các nhà thần học không hiểu theo
nghĩa ấy; người ta muốn chú ý đến tầm nguyên tiếng latinh: communitas gồm bởi communis (chung) và unitas (đoàn kết, hợp nhất). Áp dụng vào Giáo
hội, người ta muốn nêu bật sự “đồng tâm nhất trí” giữa các tín hữu nhờ mối dây
của niềm tin, hy vọng, yêu mến, chứ không phải chỉ là một cơ cấu pháp lý.
Như chúng ta đã biết, hiến chế Lumen
gentium đã sử dụng nhiều
hình ảnh Kinh thánh để nêu bật khía cạnh này, chẳng hạn như: Dân của Thiên
Chúa, thân thể Đức Kitô, gia đình. Hơn nữa, bên cạnh “Giáo hội duy nhất và phổ
quát”, công đồng còn khai triển ý tưởng “Giáo hội địa phương” (ecclesia
localis), nghĩa là cộng đồng giáo hội được thể hiện tại một nơi (locus)
cụ thể. Trong các văn kiện công đồng thuật ngữ “Giáo hội địa phương” được hiểu
cho Giáo hội tại một giáo phận (CD 11), một giáo xứ (LG ), và đặc biệt là một cộng
đoàn cử hành phụng vụ (SC 41; LG 26)[10].
Khi sử dụng thuật ngữ “cộng đoàn” trong định nghĩa về giáo
xứ, có lẽ bộ giáo luật muốn lưu ý các cha sở hãy quan tâm đến việc xây dựng “cộng
đoàn” hơn là xây dựng cơ sở (kể cả nhà thờ). Hơn nữa, thần học còn muốn
nêu bật nhiều khía cạnh khác gói ghém đàng sau từ “cộng đoàn”[11].
a)Trước tiên, cộng đoàn này được quy tụ bởi Lời Chúa và Mình
Thánh Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa cộng đoàn “Giáo hội” với các cộng đoàn
xã hội khác (các hội nghị, đại hội, cuộc mít tinh). Hiểu như thế, cộng đoàn biểu
lộ căn tính của mình hơn cả khi cử hành Thánh Thể. Điều này giả thiết sự hiện
diện của một linh mục chủ sự.
b)Thứ đến, tuy cộng đoàn Thánh Thể biểu lộ Giáo hội Chúa Kitô,
nhưng chưa phải là tất cả Giáo hội. Cộng đoàn Thánh Thể (của giáo xứ) cần phải
mở rộng ra các cộng đoàn khác, họp thành “cộng đoàn giáo phận” (giáo xứ là “tế
bào” của giáo phận, theo Sắc lệnh về tông đồ giáo dân, số 10), và qua giám mục,
mở rộng đến hiệp thông với các giáo phận trên hoàn cầu. Nói khác đi, giáo xứ là
một “cộng đoàn Giáo hội”, nhưng chưa hoàn toàn là Giáo hội địa phương (cần có
giám mục), và chưa hoàn toàn là Giáo hội Chúa Kitô (cần hiệp thông với tập đoàn
các giám mục nữa). Nên lưu ý là khi nói đến mối tương quan giữa giáo hội địa
phương với Giáo hội phổ quát, công đồng gọi cộng đoàn địa phương làportio (chưa không phải là pars) của toàn thể Giáo hội: portio muốn nói lên rằng Giáo hội địa
phương có tất cả những yếu tố cấu tạo nên Giáo hội (Lời Chúa, Thánh Thể, Thánh
Linh, giám mục), còn pars có thể chỉ là một phần, chứ
chưa đủ hết[12]. Đối lại, Giáo hội phổ quát được thành
hình bởi và trong các
giáo hội địa phương[13].
c) Như vậy cộng đoàn giáo xứ cần phải mở rộng đến sự thông hiệp
với cộng đoàn giáo phận và Giáo hội hoàn vũ. Đồng thời, giáo xứ cũng cần ý thức
rằng cộng đoàn của mình cũng là một sự hiệp thông của các cộng đoàn khác hiện hữu
ở trong lòng của mình, để trở thành “cộng đoàn các cộng đoàn”, như đức thánh
cha Phanxicô đã viết trong tông huấn Evangelii
gaudium. Ta có thể hình dung nhiều cấp độ hiệp thông ở trong cộng
đoàn giáo xứ:
- hiệp thông giữa các cộng đoàn cơ bản;
- hiệp thông giữa các hiệp hội, đoàn thể trong giáo xứ[14];
- giáo xứ cũng là “gia đình của các gia đình”[15]. Điều này không chỉ muốn diễn tả giáo xứ
như một gia đình (gia đình của con cái Chúa), mà còn muốn nêu bật mối liên hệ
chặt chẽ giữa gia đình và giáo xứ: (i) giáo xứ cần quan tâm đến các gia đình là
những “tế bào” của giáo xứ qua những công tác đào tạo; đồng thời giáo xứ
học hỏi nơi các gia đình cách thức thể hiện tình hiệp thông, biết việc quan tâm
đến các thành viên với tình liên đới; (ii) gia đình là một “giáo hội tại gia”:
nơi loan báo Tin mừng, giáo dục đức tin và cầu nguyện, sống tình yêu thương.
Tuy nhiên, gia đình không khép kín trên chính mình, nhưng mở rộng đến các gia
đình khác.
2/ Sứ mạng của giáo xứ
Chúng ta có thể tìm hiểu của giáo xứ qua việc liệt kê các yếu tố
cấu thành nên giáo xứ: cộng đoàn tín hữu, Lời Chúa, Thánh Thể, tác viên thánh.
Chúng ta cũng thể tìm hiểu giáo xứ qua việc phân tích những nhiệm vụ cần thực
hiện: những điều này tạo nên sứ vụ của giáo xứ[16].
Các yếu tố thường được tóm lại trong năm điểm sau đây: martyria, leiturgia, koinonia,
diakonia, missio[17].
a) martyria:
làm chứng tá. Giáo xứ là một cộng đồng lắng nghe Lời Chúa và làm chứng tá cho đức
tin bằng lời giảng và bằng đời sống. Nhiệm vụ loan báo Tin mừng, huấn giáo
b) leiturgia:
cử hành phụng vụ. Giáo xứ là một cộng đồng được triệu tập để ca tụng những kỳ
công của Thiên Chúa, đặc biệt qua việc cử hành Thánh lễ là nguồn mạch và chóp đỉnh
của cuộc sống và hành động. Ngoài phụng vụ bí tích, giáo xứ còn cổ động việc cầu
nguyện dưới nhiều hình thức khác nhau (các việc đạo đức bình dân).
c) koinonia:
hiệp thông. Giáo xứ là một cộng đồng hiệp thông: hiệp thông giữa những cá nhân
trong giáo xứ, hiệp thông giữa những hội đoàn, những tầng lớp xã hội. Sự hiệp
thông của giáo xứ còn mở rộng ra sự hiệp thông với giáo phận và Giáo hội phổ
quát
d) diakonia:
phục vụ. Giáo xứ là một cộng đồng phục vụ, mở rộng đến việc đáp ứng những nhu cầu
tinh thần và vật chất của các phần tử cũng như của những người láng giềng, đặc
biệt là người nghèo.
e) missio:
truyền giáo. Giáo xứ chia sẻ sứ mạng đem Tin mừng cho những người chưa biết
Chúa, hoặc những người đã lìa bỏ nhà thờ.
III. Vài hệ luận về mục vụ
Những nét mô tả trên đây chỉ mô tả khái quát bản chất và sứ vụ của
các giáo xứ. Trên thực tế, giáo xứ có thể mang nhiều hình thức khác nhau, nhìn
dưới góc độ xã-hội-học và dưới góc độ thần học mục vụ.
A. Nhìn dưới góc độ xã hội học
Ta có thể hình dung nhiều cách phân loại các giáo xứ:
1/ Xét theo lãnh thổ: giáo xứ “rộng” (có thể trải rộng hằng chục
cây số vuông), hoặc “hẹp” (một phường của thành phố);
2/ Xét theo số dân cư: “đông” hay “ít” tín hữu. Nên lưu ý là tại
các thành phố lớn bên Italia, có khi số giáo dân ở một khu phố chung cư (hơn 10
ngàn người) còn đông hơn số giáo dân của cả một giáo phận tại nhiều quốc gia. Hẳn
nhiên, tại một giáo xứ quá đông hay quá rộng, cha sở không thể nào biết tất cả
các thành viên; đó là lý do của sự ra đời các “cộng đoàn cơ bản”.
3/ Xét theo tỉ lệ giáo dân: từ những xứ “toàn tòng” cho đến những
xứ mà người “giáo” sống trà trộn với người “lương”.
4/ Xét theo địa lý, đừng kể địa hình (đồng bằng, miền núi, duyên
hải), ngày nay người ta lưu ý đến địa lý nhân văn: các xứ ở thành phố (hoặc đô
thị), các xứ nông thôn, các xứ ven ô. Nói chung, cư dân thành thị có trình độ
văn hóa cao hơn là người thôn quê. Mặt khác, các xứ ở thành thị gồm nhiều thành
phần “tứ chiếng” do hiện tượng di dân.
Dù sao, bộ mặt của các giáo xứ đã thay đổi khá nhiều trong những
năm gần đây, do ảnh hưởng của các biến chuyển xã hội có ảnh hưởng không nhỏ tới
đời sống đạo, chẳng hạn:
- Hiện tượng tục hóa. Từ “tục hóa” (secularization)
có thể hiểu theo nhiều nghĩa[18]. Theo một nghĩa chung chung hơn cả,
chúng ta tạm hiểu tục hóa theo nghĩa là tôn giáo không còn ảnh hưởng gì đến lối
suy tư và hành động nữa. Thí dụ: nhiều đôi hôn nhân công giáo cũng ly dị giống
như bao nhiêu hôn nhân khác; các tín hữu công giáo cũng chửi thề, trộm cắp,
gian lận giống như những người không có đức tin. Có lẽ họ vẫn đi lễ, nhưng đức
tin không ảnh hưởng gì đến cuộc sống.
- Hiện tượng di dân. Hiện tượng di dân sẽ đặt ra nhiều vấn đề
cho giáo xứ nơi đi và nơi đến. Đối với nơi đi, giáo xứ chỉ còn ông già bà cả và
các thiếu nhi. Đối với nơi đến, người di dân không cảm thấy đây là nhà của
mình, không được quan tâm săn sóc.
- Hiện tượng đô thị hóa[19]. Người thành thị có trình độ học thức
cao hơn ở thôn quê, vì thế họ không dễ dàng vâng theo lệnh của Giáo hội. Nếp sống
thành thị tự do hơn, với nhiều trào lưu văn hóa khác nhau. Tính cách cộng đồng
lỏng lẻo hơn ở thôn quê, bởi vì người ta ít quen biết nhau. Trong điều kiện như
vậy, thử hỏi: làm thế nào chủ chăn biết đoàn chiên của mình?
- Hiện tượng “hậu hiện đại” (post-modernity). Thuật ngữ này khá hàm
hồ cũng tựa như “toàn cầu hóa”. Nhờ những phương tiện truyền thông, con người
ngày nay biết được thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, và có thể bắt liên lạc với
những người sống cách xa vạn dậm. Nhưng điều trớ trêu là những người hay “chat”
trên mạng lại khó nói chuyện với những người sống bên cạnh mình. Dù sao, nền
văn minh hiện đại đề cao cảm nghiệm chủ quan, và coi nhẹ các định chế, các chân
lý khách quan bền vững.
B. Dưới góc độ thần học mục vụ
Do những biến đổi xã hội vừa kể, bộ mặt của giáo xứ đã thay đổi
nhiều. Đồng thời, thần học về giáo xứ cũng đã thay đổi như chúng ta đã thấy khi
đối chiếu giữa hai bộ giáo luật 1917 và 1983. Trước đây, giáo xứ được quan niệm
như một đơn vị hành chánh của giáo phận; ngày nay, giáo xứ được quan niệm như một
cộng đồng đức tin và truyền giáo. Tiếc rằng nhiều linh mục và giáo dân chưa nhận
thức được sự thay đổi ấy.
Để làm sáng tỏ vấn đề, ta hãy đối chiếu mô hình của giáo xứ
cổ điển với mô hình sau công đồng.
1/ Mô hình cổ điển
- mũi nhọn mục vụ: chú trọng đến các việc đạo đức, các cuộc rước
kiệu; giáo lý nhắm vào thiếu nhi để chuẩn bị lãnh các bí tích;
- tác nhân: cha xứ quán xuyến;
- hợp tác: không có hội đoàn, không có hội đồng mục vụ;
- hoạt động xã hội: không có (chỉ có những công tác từ thiện bác
ái).
2/ Mô hình của công đồng
- mũi nhọn mục vụ: loan báo Tin mừng qua việc đào tạo giáo lý
cho người lớn cũng như thiếu nhi; giúp cộng đồng tham gia phụng vụ cách ý thức
nhờ những lớp học Kinh thánh;
- tác nhân: cha xứ được sự hỗ trợ của giáo dân trong việc điều
hành;
- hợp tác: giáo xứ gồm nhiều hội đoàn thể, tạo nên “cộng đoàn của
các cộng đoàn”;
- hoạt động xã hội: ngoài những công tác bác ái từ thiện, còn
quan tâm đến những vấn đề xã hội (ma túy, người già neo đơn), thăng tiến nếp sống
(di dân, thất nghiệp, vv).
Mô hình thứ hai đòi hỏi một sự thay đổi não trạng, cách riêng từ
phía cha xứ:
- Một mình cha xứ không làm nên giáo xứ. Giáo xứ gồm bởi tất cả
các tín hữu. Nhiệm vụ chính của cha xứ không phải chỉ lo xây nhà thờ cho bằng
xây dựng cộng đồng.
- Việc xây dựng cộng đồng đòi hỏi một năng khiếu mới: cha xứ cần
có tài lãnh đạo để huy động các “lực lượng” trong giáo xứ. Trước đây, nhiều khi
cha xứ coi mình như một ông xã trưởng, một viên chức hành chánh, chỉ lo các thủ
tục như là giảng dạy, ban hành bí tích. Bây giờ cha xứ cùng làm việc với các
thành phần khác của Dân Chúa (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân) để chu toàn sứ vụ. Để
chu toàn các chức vụ của giáo xứ đã kể trên đây, cần thiết lập các “ban” (hoặc:
nhóm, ngành): đặc trách phụng vụ (chuẩn bị thánh lễ, trao Mình Thánh, ca đoàn);
đặc trách huấn giáo; đặc trách bác xã hội; các nhóm thiện nguyện phục vụ, vv.
- Dù sao, cộng đồng giáo xứ không chỉ an tâm với những “con
chiên ngoan đạo”, nhưng còn phải để ý đến những người chưa người chưa biết Chúa
hoặc những người đã lìa bỏ nhà Cha.
Kết luận
Tại nhiều quốc gia bên châu Âu, trước đây giáo xứ gắn liền với nếp
sống của dân cư: ngôi nhà thờ của giáo xứ ví được như đình làng của nước ta;
khác một điều là nhân dân có lẽ một năm chỉ tập họp nhau ở đình không đến mươi
lần, còn các tín hữu đến nhà thờ tối thiểu mỗi tuần một lần vào ngày chúa nhật.
Hình ảnh trung tâm của giáo xứ dần dần biến đi tại các đô thị. Không lạ gì mà
có người lên tiếng đòi xét lại vai trò của giáo xứ, thậm chí đòi dẹp bỏ nó, và
thay thế bằng những hình thức khác mang tính cộng đoàn thân mật hơn (chẳng hạn
các cộng đoàn cơ bản).
Tông huấn Niềm vui
Tin mừng của Đức
thánh cha Phanxicô, phản ánh ý kiến của Thượng hội đồng giám mục họp năm 2010 về
việc Loan báo Tin mừng cách mới mẻ, vẫn ghi nhận sự cần thiết của giáo xứ (số
28), xét như “sự hiện diện của Hội thánh tại một địa phương nhất định, một môi
trường để nghe Lời Chúa, để tăng trưởng trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại,
rao giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và mừng lễ”, hoặc xét như là “cộng đoàn
của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường,
và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo”. Dĩ nhiên, cũng như các cơ cấu
khác của giáo hội, giáo xứ cần phải canh tân để đến gần đời sống với người dân
hơn.
Khi đem áp dụng những suy tư nói trên vào Giáo hội Việt Nam, ắt
hẳn nhiều điều cần được thích nghi. Đất nước chúng ta mới đón nhận Tin mừng
chưa đầy 5 thế kỷ, và Kitô giáo chưa đi vào văn hóa dân gian như ở bên châu Âu
hay châu Mỹ (hoặc nước Philippin). Thực ra, đó đây không thiếu những địa phương
“toàn tòng công giáo”, và ranh giới giáo xứ cũng trùng với ranh giới của một xã
thôn[20].
Dù sao, sinh hoạt của giáo xứ không chỉ giới hạn vào việc phụng tự, nhưng còn
kèm theo nhiều công tác xã hội và văn hóa giáo dục nữa[21]. Mặt khác, khi so sánh với các tôn giáo
khác (chẳng hạn như Phật giáo), chúng ta nhận thấy chỉ có đạo Công giáo mới được
tổ chức cộng đoàn giáo xứ, và các tín đồ tụ họp nhau thường xuyên (ít là hằng
tuần vào chủ nhật để thờ phượng Chúa và gặp gỡ nhau). Ngoài xã hội, có lẽ không
có nơi nào quy tụ nhân dân thường xuyên như vậy (người dân chỉ lên trụ sở của Uỷ
ban nhân dân khi có việc cần giải quyết). Giáo xứ cũng là nơi giáo dục thanh
thiếu niên, không chỉ qua các bài giảng Lễ mà còn qua các lớp giáo lý. Các giáo
dân cũng tham gia vào sinh hoạt cộng đoàn bằng nhiều cách thức. Hội đồng giáo xứ
(mang nhiều danh xưng khác nhau: ban hành giáo, ban chức việc, hội đồng quý chức,
hội đồng mục vụ) chẳng còn xa lạ gì đối với các giáo hữu Việt Nam[22],
thậm chí nhiều giáo xứ vẫn tiếp tục sinh hoạt trong khoảng thời gian dài thiếu
vắng linh mục.
Thiết tưởng đó là những điểm son đáng được quý trọng và duy trì,
đang khi cố gắng tìm những đường hướng mới để đẩy mạnh công cuộc loan báo Tin mừng
cách mới mẻ[23],
đặc biệt là quan tâm đến những biến chuyển xã hội vào thời hôm nay, như vừa nêu
trên (tục hóa, di dân, đô thị hóa, hậu hiện đại).
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
[1] Giáo
phận Sàigòn được chia thành: giáo hạt / giáo xứ / giáo họ. Giáo phận Vĩnh Long
được chia thành: hạt / họ đạo.
[2] Trong
tiếng Latinh, paroecia là giáo xứ, parochus là cha xứ. Tiếng Pháp, giáo xứ là paroisse, còn cha xứ là curé (gốc
tiếng Latinh cura
animarum );
trong tiếng Anh, giáo xứ là parish, cha xứ là parish priest bên Anh, và pastor bên Hoa kỳ.
[3] Ekklesia
kat'oikon: “Hội thánh tại gia”, hoặc “Hội thánh họp nhau ở nhà của
... (Prisca và Aquila, Philemon)”.
[4] Nguồn
gốc của các domus
ecclesiae không
đồng nhất. Từ thế kỷ II, vài tín hữu đã dâng cúng nhà của mình làm nơi phụng tự
cho cộng đoàn. Từ giữa thế kỷ III, người ta bắt đầu xây những nhà làm nơi thờ
phượng, và ngôi nhà thờ cổ kính nhất được khai quật ở Dura-Europos bên
Euphrates (khoảng năm 250). Vào thời hoàng đế Đioclêtianô (năm 303), con số các
ngôi nhà thờ đã khá nhiều đến nỗi ông đã ra lệnh triệt hạ, mở màn cho một đợt
bách hại.
[5] Không
ít giám mục đã muốn thiết lập nếp sống đan tu tại các toà giám mục, chẳng hạn
như thánh Ambrosiô tại Milanô, thánh Martinô ở Tours, thánh Augustinô ở Hippo.
[6] Vết
tích còn tồn tại nơi định chế các “hồng y linh mục”: mỗi vị nhận được một titulus (tước hiệu) của một thánh đường
tại Rôma.
[7] Luật
này cũng ràng buộc các giám mục và các bề trên dòng.
[8] CIC
(1917) can. 216, § I: “Territorium
cuiuslibet diocesis dividatur in distinctas partes territoriales; unicuique
autem parti sua peculiaris ecclesia cum populo determinato est assignanda,
suusque peculiaris rector, tamquam proprius eiusdem pastor, est praeficiendus
pro necessaria animarum cura”.
[9] Tại
các miền truyền giáo, thay vì dioecesis là vicariatus
apostolicus; thay vì paroecia là quasi-paroecia.
(CIC 1917, can.216, §3).
[10] Trong
các văn kiện sau Vaticanô II, các “cộng đoàn cơ bản” (basic ecclesial
communities) cũng được được gọi là “Giáo hội địa phương” (Evangelii
nuntiandi 58, Redemptoris Missio 51, Ecclesia
in Asia25)
[11] Tông
huấn Christifideles laici,
số 26: “Giáo xứ không phải là một cơ cấu, một địa hạt, hay một ngôi nhà, nó là “một
gia đình của Chúa, một cộng đoàn huynh đệ chỉ có một linh hồn”, là “mái
gia đình, đầy tình huynh đệ và mở rộng đón tiếp mọi người”, là “cộng đoàn các tín hữu”. Tóm lại,
Giáo xứ được đặt nền tảng trên một thực tại thần học, vì đó là một cộng đoàn
Thánh thể. Nghĩa là một cộng đoàn có tư cách cử hành Bí Tích Thánh Thể, nguồn gốc
cấu tạo nên cộng đoàn và đem lại cho cộng đoàn sức sống và giầy liên kết bí
tích thông hiệp với toàn thể Giáo Hội. Nói rằng cộng đoàn có tư cách cử hành Bí
Tích Thánh Thể là vì Giáo xứ là một cộng đồng đức tin và là một cộng đoàn có cơ
cấu, nghĩa là được tạo nên bởi các vị thừa hành có chức thánh và các Kitô hữu
khác dưới quyền trách nhiêm của một Cha sở vừa đại diện cho Giám Mục Giáo phận
vừa là mối dây của hàng giáo phẩm liên kết Giáo xứ với toàn Giáo Hội địa phương”.
[12] Một
ly nước cũng đầy đủ chất nước như một chai nước hay một bể nước (đó là portio). Cái đầu là một phần (pars)
của thân thể, nhưng có đủ những yếu tố cấu tạo nên thân thể.
[13] ”Episcopi
autem singuli visibile principium et fundamentum sunt unitatis in suis
Ecclesiis particularibus, ad imaginem Ecclesiae universalis formans, in quibus et ex quibus una et unica Ecclesia catholica
existit” (LG 23a).
[14] Nếu trong địa bàn của giáo xứ có những
thánh đường của các dòng hay của các hội đoàn, thì các tín hữu có thể tham dự
phụng vụ tại đây, thay vì đến thánh đường giáo xứ. Không thiếu căng thẳng đã xảy
ra giữa các giáo xứ và các dòng tu.
[15] ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng thánh lễ cung hiến thánh đường giáo xứ
thánh Corbinianô, Rôma ngày 20-3-2011.
[16] Ở đây chúng ta nói đến các nhiệm vụ của giáo xứ. Xưa nay, người ta thường
nói đến các nhiệm vụ của cha xứ,
xoay quanh ba chức vụ: giảng dạy, thánh hoá, cai quản. Chẳng hạn như: Bộ giáo
luật (điều 528-529); Thư luân lưu của Bộ giáo sĩ (19-3-1999): The Priest and the Third Christian
Millennium: Teacher of the Word, Minister of the Sacraments and Leader of
the Community.
[17] Trong thông điệp Deus caritas est (số 25), ĐGH Bênêđictô XVI đã liệt kể các yếu tố
thuộc sứ mạng của Giáo hội là: loan báo Tin mừng (kerygma-martyria),
cử hành bí tích (leiturgia), phục vụ bác ái (diakonia)
Những nét tương tự cũng đọc thấy trong thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam về
chương trình mục vụ cho năm 2015, mô tả những nét chính làm nên căn cước của
giáo xứ, dựa theo sách Tông đồ công vụ (2,42): a) siêng năng tham dự lễ bẻ bánh
và cầu nguyện không ngừng; b) chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy; c) luôn
luôn hiệp thông với nhau.
[18] X. Phan Tấn Thành, “Hiện tượng tục
hóa. Quan điểm xã hội học và thần học”, Thời sự
thần học số 65, tháng
8/2014, trang 151-178.
[19] Xem bài Mục vụ đô thị đăng trong số này.
[20] X. Nguyễn Đức Lộc, “Cơ cấu tổ chức cộng
đồng theo giáo xứ của người Việt Công giáo di cư 1954 tại Nam Bộ (Nghiên cứu
trường hợp Hố Nai, Đồng Nai, và Cái Sắn ở Cần thơ)”, Tạp chí phát triển KH & CN tập 13, số X12, 2010, trang 5-20,
http://www.vnulib.edu.vn:8000/dspace/bitstream/123456789/3643/3/sedev10X2-01.pdf
[21] Nguyễn Hồng Dương, Tổ chức xứ, họ đạo công giáo ở Việt Nam. Lịch sử -
hiện tại và những vấn đề được đặt ra, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
2011.
[22] X. Mai Đức Vinh, Hội đồng quý chức, Giáo xứ Việt Nam
Paris 2011, có đăng trên internet:
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module3&v=detail&ib=64
[23] Nên ghi nhận là giáo xứ chưa phải là “tế
bào” nhỏ nhất của giáo phận. Giáo xứ còn có thể phân chia thành giáo họ, giáo
khu, họ nhánh, xóm, vv, (hoặc nếu xếp theo tiến trình thành hình: giáo điểm,
giáo họ, giáo xứ). Tại Việt Nam chưa có các “cộng đoàn cơ bản” (basic
ecclesial communities) như tại Philippin và một số quốc gia châu Á.
(Xc. X Plenary Assembly [Xuan
Loc- Hochiminh City 2012] Final Document: FABC at forty years: responding to
the challenges of Asia, n.10). Về kinh nghiệm của các cộng đoàn
này, xem: Catholic Bishops Conference of the Philippines, Episcopal Committee
on Basic Ecclesial Communities (CBCP-BEC), tại địa chỉ: http://cbcpbec.com/