TÂN PHÚC ÂM HÓA VỚI
KITÔ HỮU THỜI ĐẠI HÔM NAY
Lm. Giuse Đỗ văn Thụy
1. Tân Phúc Âm Hóa với Kitô hữu thời đại hôm nay.
1.1. Tân Phúc Âm Hóa
(New Evangelization).
Thuật ngữ này được Đức
Gioan Phaolô II sử dụng lần đầu tiên trong chuyến công du tại Balan mà không có
sự nhấn mạnh ý tưởng chuyên biệt nào về vai trò của nó trong tương lai; nhưng
sau đó nó đã được sử dụng lại và mặc lấy một sinh khí mới trong Huấn Quyền của
ngài cho các Giáo Hội tại Châu Mỹ La Tinh. Ngài dùng thuật ngữ này để đánh thức
và khơi dậy lại những cố gắng canh tân trong công cuộc mới về truyền giáo và
rao giảng Tin Mừng tại châu lục này:
“Việc kỷ niệm một thiên
niên kỷ rao giảng Tin Mừng tại đây hôm nay sẽ có đầy đủ ý nghĩa nếu anh em giám
mục, cùng với các linh mục và giáo dân, chọn nó làm lời cam kết của mình; không
phải một lời cam kết về một cuộc tái Phúc Âm Hóa, mà là một cuộc Phúc Âm Hóa
Mới: mới về nhiệt huyết, phương pháp và cách biểu hiện”
Cho nên “Tân Phúc Âm
Hóa” không phải là làm lại một cái gì đã làm không đầy đủ hay không đạt được
mục đích, như thể hoạt động mới này là một sự phê phán mặc nhiên về thất bại
của cuộc Phúc Âm Hóa thứ nhất.
Tân Phúc Âm Hóa cũng
không phải là lại tiếp tục cuộc Phúc Âm Hóa thứ nhất, hay đơn giản là lập lại
quá khứ.
Trái lại, đây là một sự
dũng cảm mở ra những con đường mới để đáp lại những hoàn cảnh và điều kiện thay
đổi mà Hội Thánh đang đối diện trong việc thực thi ơn gọi loan báo và sống Tin
Mừng hôm nay.
Từ nay, thuật ngữ này
được dùng để chỉ về những nỗ lực canh tân của Hội Thánh để đáp ứng những thách
thức mà xã hội và các nền văn hóa hôm nay, qua các thay đổi quan trọng của
chúng, đang đặt ra cho đức tin Kitô giáo, cho việc loan báo và làm chứng cho
đức tin ấy. (Lineamenta 5).
1.2. Những Kitô hữu
thời đại hôm nay: lý tưởng và thực tế
Chúng ta đã biết phần
nào về tinh thần của các Kitô hữu nguyên thủy, dẫu rằng lý tưởng không bao giờ
được thực hiện trọn vẹn tại trần thế này, và Thánh Thần thì không tác động theo
một khuôn khổ nhất định. Cần phải ý thức như thế mới nhận ra chân tính của
người Kitô hữu. Tuy nhiên, một cách thực tế, chúng ta cũng phải thẩm định xem
các Kitô hữu mà chúng ta gặp ngày hôm nay sống đạo ở mức độ nào sau hai mươi
thế kỷ Phúc Âm Hóa.
Trong cuộc hành hương
trở về nguồn, chúng ta đã tìm được mẫu người Kitô hữu nguyên thủy, là người đã
hoán cải, đã đón nhận Đức Giêsu trong mầu nhiệm sâu xa và thân mật của Ngài, đã
rộng tiếp Thánh Thần. Người ta cảm thấy thật ngỡ ngàng trước sự tương phản quá
rõ ràng giữa người Kitô hữu được thánh Phêrô định nghĩa vào ngày sau biến cố
Hiện Xuống và người Kitô hữu mà chúng ta thấy trước mắt, tức người Kitô hữu
chúng ta hôm nay. Tương lai Giáo Hội chính là những thành viên mai đây của
mình. Công cuộc canh tân cộng đoàn trong Giáo Hội trước tiên tùy thuộc vào các
thành phần cấu tạo nên cộng đoàn này như những viên đá của tòa nhà, tức những
Kitô hữu hôm nay.
Vậy chúng ta hãy phân
tích hiện trạng một cách khách quan hết sức có thể. Ngày nay, khi nói một Kitô
hữu là chúng ta nói về ai và về điều gì?[1] 2. Việc giữ đạo hôm nay, một phương
trình cần xét lại.
Trong nhiều thế kỷ được
gọi là chịu ảnh hưởng Kitô Giáo, cách chung người ta cho rằng Kitô hữu trước
tiên phải là một người “hành đạo”, nghĩa là một người có đi lễ các ngày Chúa
Nhật và năng lãnh nhận các bí tích. Không có ai nghi ngờ gì cả về phương trình
này: ai hành đạo thì có đức tin, ai có đức tin thì hành đạo. Đức tin được xét
theo dấu chỉ thấy được là việc hành đạo.
Nhưng những cuộc điều
tra xã hội học và những cuộc thăm dò cho thấy một thực tế rõ ràng là phải đặt
lại vấn đề về giả định ấy trong công việc mục vụ của chúng ta. Ngọn gió của
trào lưu tục hóa đã lay động cây cối. Những cành cây xem ra sống động sum xê
giờ đã bị gẫy lìa. Khắp nơi việc thực hành các nghi thức tôn giáo đã xuống dốc,
nhất là nơi giới trẻ. Chúng ta không chỉ đứng trước hiện tượng số lượng mà cả
vấn đề chất lượng nữa. Vậy trong Kitô giáo, phẩm chất và chân tính Kitô hữu khi
được sống đích thực là gì ?
Một cuộc thăm dò những người Công Giáo Pháp cho thấy một sự kiện báo động:
• 95% muốn có nhà thờ, nhưng phần lớn lại chẳng hề bước chân tới.
• 88% đòi cho con họ
chịu phép rửa, nhưng hơn một nửa không biết Đức Giêsu.
• 2/3 không tin Đức
Giêsu đã phục sinh.
Những sự kiện này cho thấy cách sống sượng một tình trạng có thật. Vị Giám Mục
Pháp cho tôi biết những dữ kiện trên, đã tiếp tục phân tích:
“Một ngày nào đó ta sẽ quyết định rút ra những hệ quả hợp lý từ những nghiên
cứu này; nếu không thì ta sẽ lại tiếp tục ban bí tích cho những kẻ không có đức
tin, và tiếp tục cử hành thánh lễ hôn phối hay an táng cho những người đến tham
dự mà trong lòng bực bội hay chế diễu (tôi nói đến thánh lễ, đỉnh cao của đức
tin chứ không nói đến phụng vụ Lời Chúa mà nếu được thực hiện tốt có thể là một
phương thế truyền đạt giáo lý). “Sancta Sanctis” (điều thánh thiện phải dành cho
những người thánh). Các sự việc của Thiên Chúa phải dành cho những ai có đức
tin. Bí tích phải dành cho kẻ nào tin và thực sự lên đường.
“Phải can đảm dẹp đi
những ảo tưởng. Chúng ta đã thực hiện công đồng Vaticanô II trong niềm tin rằng
các Kitô hữu tự bản chất được kêu gọi làm người truyền giáo. Nhưng đáng lẽ phải
giúp cho họ tin đã. Công cuộc canh tân mà công đồng Vaticanô II mong đợi bị trì
trệ, những người sống đạo bị tan đàn, những kẻ bài bác vai trò ngôn sứ ngày
càng nhiều lên, những Kitô hữu muốn được trấn an thì chủ trương quay về quá
khứ… Sở dĩ tất cả điều ấy xảy ra là vì người ta đã ngây thơ tin rằng ai cũng
đều chấp nhận và sống sứ điệp Kitô giáo nền tảng (tức là lời chứng kinh nghiệm
đức tin: tôi tin vào Đức Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế). Nhưng
thực ra chỉ có một số người chấp nhận và sống mà thôi” [Mgr G.Huyghe, Eglise
d’Arras, số 2, 1973]
Nếu so sánh hình ảnh
người Kitô hữu nguyên thủy với hình ảnh của rất nhiều người Kitô hữu hữu danh
hơn là hữu thực ngày nay, ta sẽ thấy ngay sự tương phản đập ngay vào mắt, và
phải đặt ngay vấn đề triệt để cho mọi cuộc canh tân trong Giáo Hội. Công đồng
Vaticanô II là một Công Đồng mang tính cách mục vụ, nghĩa la một Công Đồng mong
ước là cho Hội Thánh thích ứng với những yêu cầu thời đại, cả bên trong lẫn bên
ngoài. Giả thiết mà Công Đồng dùng làm khởi điểm là Giáo Hội bao gồm những Kitô
hữu đích thực hay ít ra đang cố gắng trở nên như vậy. Nhưng những dữ kiện nêu
trên buộc chúng ta phải xem lại giả thiết ấy. Phải đặt lại vấn đề một lần nữa:
khi nói về người Kitô hữu là chúng ta nói cái gì và nói về ai?
Câu chất vấn ấy làm ta
khó chịu: một cách tổng quát, Kitô hữu hôm nay có thực sự là những tín hữu có
một đức tin thiết thân, dấn thân và đúng thực không?
Chúng ta có phận vụ
phải xem xét lại các cấu trúc của Giáo Hội trên nhiều bình diện khác nhau, phải
làm việc này và việc này phải lâu lắm mới hoàn tất. Nhưng hôm nay, ngay cả nền
tảng đức tin cũng bị đặt thành vấn đề. Chúng ta vốn biết rằng Giáo Hội chỉ có ý
nghĩa là nhờ Đức Kitô. Đức Kitô chỉ có ý nghĩa nếu Ngài là Con duy nhất của
Thiên Chúa. Và Thiên Chúa chỉ có nghĩa nếu Ngài là Thiên Chúa có ngôi vị và
sống động. Than ôi, tất cả những điều ấy đều bị lung lay, bị đặt lại vấn đề.
Nơi nhiều người, đức
tin đã bị sói mòn tận căn. Họ cần phải tái khám phá lại ngay nơi trọng tâm của
sứ điệp Kitô giáo.
Chúng ta đã quá chú
trọng việc “cử hành bí tích”, mà không chú trọng đủ vấn đề “sống và loan truyền
Tin Mừng”. Sự thiếu sót này bùng nổ ở tầm mức lục địa, khắp nơi ai cũng thấy
người Kitô hữu không sống phù hợp với đức tin của họ.
Trước tình trạng khẩn
cấp này, những tranh cãi nội bộ của chúng ta, dù thiên hữu hay thiên tả, không
mang lại một cái gì sáng sủa hơn. Chúng ta cần phải tìm lại những đặc tính của
người Kitô hữu. Sứ mạng của chúng ta không phải là phê phán cá nhân ai, mà là
can trường bảo toàn lý tưởng Kitô giáo. Chúng ta phải trình bày Tin Mừng đúng
với bản chất của Tin Mừng, là cho thế gian biết Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh
Thần, cùng những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi những kẻ tự nhận mang danh Ngài
trước mặt thiên hạ.
Chúng ta phải mời gọi
các Kitô hữu ngày nay càng ý thức sống động hơn về đức tin của họ, gắn bó với
Thiên Chúa ngày càng khắn khít hơn. Phải giúp một số Kitô hữu chuyển từ thứ
Kitô giáo ít nhiều mang tính xã hội sang thứ Kitô giáo trọn nghĩa. Thứ Kitô
giáo được cha mẹ truyền lại chủ yếu do sinh sản và giáo dục cũng phải trở thành
thứ Kitô giáo chính mình lựa chọn, dựa trên quyết định của bản thân và việc
nhận thức rõ ràng lý do chọn lựa như thế. Tertulianô đã nói lên điều ấy:
“Fiunt, non nascuntur christiani”, nghĩa là không phải mình sinh ra là Kitô
hữu, mà mình trở thành Kitô hữu.[2] 3. Hướng đến một kiểu mẫu Kitô hữu mới.
Vậy mấu chốt của vấn đề
là có biết bao nhiêu Kitô hữu hữu danh vô thực, làm thế nào để biến họ thành
Kitô hữu đích thực? Làm sao để Phúc Âm Hóa một thế giới vốn đã chịu ảnh hưởng
Kitô giáo từ lâu? Cần phải làm sao để Kitô giáo mà người ta đã tự do lựa chọn
được phát triển, trong đó người Kitô hữu phải:
- Trở về với Đức Kitô
với tất cả quyết định sáng suốt của mình.
- Chính mình thừa nhận
những bí tích đã đưa mình vào Kitô giáo là Phép Rửa, Thêm Sức, Thánh Thể.
- Biết cởi mở trong đức
tin để đón nhận Thánh Thần và các ơn huệ của Ngài, hầu đáp ứng với định mệnh
siêu nhiên mà Thiên Chúa dành cho mình.
Đó là vấn đề trọng tâm
của mọi công tác mục vụ và là điểm tương phản rõ rệt giữa Kitô hữu hữu danh vô
thực và Kitô hữu đích thực. Chúng ta phải xem xét vấn đề này. Người ta không
trách các Kitô hữu vì họ là Kitô hữu, mà vì họ không sống đúng như người Kitô
hữu.
Một Giáo Hội chỉ lo
thực thi chuyên cần các bí tích thì chưa đủ, mà trước tiên phải biết tuyên xưng
đạo của mình. Chúng ta phải công bố Đức Giêsu Kitô trong thế giới hôm nay, làm
chứng cho niềm tin của chúng ta vào Ngài.
Đức Giêsu từng nói:
“Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận
người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”(Mt 10,32). Chúng ta cần những
Kitô hữu tin vào Đức Giêsu, Con duy nhất của Chúa Cha, và công bố đức tin của
họ vào sự sống lại và vào tác động của Chúa Thánh Thần. Đồng thời thực thi niềm
tin này vào trong mọi chiều kích của cuộc sống họ.
Tóm lại, người ta đòi
hỏi một Giáo Hội gồm những người tự nguyện, những người thể hiện mạnh mẽ sự tự
do của con cái Thiên Chúa. Các bổn phận Kitô hữu không phải giống như những
lệnh truyền độc đoán áp đặt từ bên ngoài, nếu không thi hành thì mắc tội trọng,
mà giống như những đòi buộc từ thâm tâm, những mệnh lệnh phát sinh từ bản chất
đức tin.
Giáo Hội ấy, Giáo Hội
của ngày mai, sẽ càng ngày càng trở thành một Giáo Hội gồm các Kitô hữu sống
tâm tư lưu đày giữa xã hội chung quanh, như hình ảnh cha Karl Rhaner từng tiên
đoán. Giáo Hội ấy đang ngày càng thành hình rõ rệt hơn.[3] 4. Những câu hỏi và
những lời chất vấn cho một Kitô hữu đích thực hôm nay.
Điều ấy đòi buộc chúng
ta phải xem xét rạch ròi lương tâm của mình. Nếu tôi tự xét mình, tôi phải đặt
ra cho tôi câu hỏi:
- Tôi có thực sự hoán cải, nghĩa là tôi có chấp nhận cuộc sống với tâm hồn trở
về với Thiên Chúa, tức Metanoia không? Hoán cải không chỉ là diệt trừ tội lỗi,
dĩ nhiên ưu tiên là thế, nhưng ngày ngày còn phải từ bỏ lối suy nghĩ, quan
điểm, thái độ rụt rè, và những tiêu chuẩn thường tình của mình.
- Tôi có thực sự chấp
nhận Đức Kitô “là đường, là sự thật và là sự sống” của tôi không? Và lời nói lạ
lùng của Phaolô, tôi có thể nói như ngài :”không còn phải là tôi sống, mà là
Đức Kitô sống trong tôi không (Gl 2,20)?
- Tôi có dám quả quyết
rằng tôi thật sự tin như thế cho dẫu phải chấp nhận hệ quả của niềm tin ấy
không?
- Tôi có thực sự chấp
nhận để Đức Kitô “Kitô hóa”, để Thánh Thần “thần hóa” tôi một cách trọn vẹn
không ? Tôi có tin Thánh Thần và các đoàn sủng của Ngài hiện nay cũng có thực
như thế kỷ đầu tiên không?
- Khi tôi thụ phong,
Đức Giám Mục chủ phong đã ủy thác cho tôi sứ mạng làm mục tử “trong sức mạnh
của các điềm thiêng dấu lạ”. Tôi có tin rằng Đức Giêsu đòi hỏi tôi phải phó
thác cho Thánh Thần Ngài tới mức đó không?
Người Kitô hữu của ngày
mai chỉ có thể đương đầu với tương lai nếu được chúng ta truyền lại một thứ
Kitô giáo hùng mạnh, đầy sức sống, dựa trên quyền năng của Thánh Thần, được
bóng Ngài che phủ và có khả năng thực hiện “những điềm thiêng dấu lạ”. Những
điều ấy chứng tỏ chúng ta luôn luôn sống trong niềm phấn khởi của biến cố Hiện
Xuống.
Chúng ta phải đọc lại
Tin Mừng về cảnh tượng ở Nagiarét : Đức Giêsu áp dụng cho chính Ngài lời Isaia
về việc Thánh Thần ngự xuống trên Ngài trước khi Ngài đem Tin Mừng đến với muôn
dân (Lc 4,18). Phải nghe lại mệnh lệnh Đức Giêsu truyền cho các Tông Đồ trước
khi sai họ đi chinh phục thế gian: “Vậy anh em hãy ở lại trong thành cho đến
khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”(Lc 24,49).
Phải chậm rãi đọc từng
trang quyển giáo lý đầu tiên bằng hình ảnh này, đó là sách Tông Đồ Công Vụ.
Chúng ta thấy trong trong sách ấy hình ảnh Phêrô đang nói với đám đông. Ông
trầm tĩnh quả quyết lời tuyên sấm của ngôn sứ Giôen, đã được ứng nghiệm trước
mắt họ, khi ông loan báo: “Thiên Chúa phán: Ta sẽ đổ Thánh Thần Ta trên hết
thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ. Ta cũng sẽ đổ
Thánh Thần Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta. Ta sẽ cho xuất hiện những điềm
thiêng trên trời cao “ (Cv 2,17-18). Phêrô nhắc lại cho họ về Đức Giêsu
Nagiarét” “Đức Giêsu Nagiarét là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em.
Và để chứng thực sứ mạng của Người, Thiên Chúa đã cho người làm những phép mầu,
điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó”(Cv 2,22). Thời ấy
Kitô giáo được sống như một chứng nghiệm.
Dưới ánh sáng các đoạn
văn được linh ứng trên, chúng ta phải làm sáng tỏ khái niệm Kitô hữu “chuẩn
mực”. Phải dẹp đi nỗi sợ hãi trước những gì thuộc về Thánh Thần mà chúng ta có
khuynh hướng cho là “quá đáng”. Phải thay đổi cách dùng từ ngữ của chúng ta,
đừng gọi sợ hãi là thận trọng, cũng đừng cho thái độ ngập ngừng trước những gì
vượt quá sức chúng ta là khôn ngoan. Có làm được như thế, chúng ta mới có thể
xác định rõ chân tính của mình, có thể tuyên dương chân tính Kitô hữu “bằng
hành động và trong sự thật”, và truyền trao chân tính đó lại nguyên vẹn cho các
Kitô hữu ngày mai, tiếp nối chúng ta.[4]
(còn tiếp)
Lm. Giuse Đỗ văn Thụy
HỘI THỪA SAI VIỆT
________________________________________
[1] Hồng Y LJ Suenens, Thánh Thần, hơi thở sống động của Giáo Hội, p.145-146
[2] Hồng Y LJ Suenens, Thánh Thần, hơi thở sống động của Giáo Hội, p.147-149
[3] Hồng Y LJ Suenens, Thánh Thần, hơi thở sống động của Giáo Hội, p.150-151
[4] Hồng Y LJ Suenens, Thánh Thần, hơi thở sống động của Giáo Hội, p.160-162