Mùa
thu 1965, bắt đầu năm học lớp Đệ Nhị của Tiểu Chủng viện Qui Nhơn, tôi được
nghe đọc và giải thích Thông cáo của các Giám mục về việc Tôn kính Ông bà Tổ
tiên. Đó cũng là thời điểm tôi bắt đầu tò mò ghi chép và chắp nối những thông
tin về dòng tộc của mình. Hai câu chuyện cứ đan dệt với nhau trong hồn tôi và
cùng phát triển cho đến năm 1990, thì bắt đầu trào tuôn thành một dòng chảy.
Chúa Quan phòng đã thương ban cho tôi một cảm nghiệm và khám phá mục vụ lý thú:
Câu chuyện thờ cúng tổ tiên không chỉ có chiều kích về với cội nguồn mà còn là
chuyện gặp gỡ anh em cùng dòng họ.
Kỷ
niệm 50 năm áp dụng huấn thị của Tòa thánh về việc Tôn kính Ông bà Tổ tiên, có
nhiều khía cạnh để nói: đức tin, phụng tự, văn hóa, vv… Riêng bài này xin đề cập
tới khía cạnh loan báo Tin mừng. Đã qua rồi những thế kỷ trong đó việc Tôn kính
Ông bà Tổ tiên là một trở ngại, đã đến lúc đây lại là cánh cửa mở ra đầy hy vọng.
Người
chưa có đức tin Kitô giáo thì bảo tôi được Tổ tiên phù hộ, người có đức tin thì
bảo tôi được ơn Chúa Quan phòng. Chiều 11-9-1990, 15 năm sau ngày thụ phong
linh mục, tôi về Hà Tĩnh thắp hương ra mắt Tổ tiên tại từ đường dòng họ chúng
tôi ở Hà Hoàng, do những anh chị em ngoài Công giáo quản lý. Chiều hôm sau, tôi
trở lại từ đường cùng với khoảng ba mươi người Công giáo từ giáo xứ quê nhà của
tôi, có người trong dòng họ, có người ngoài, và cùng cử hành thánh lễ tại đó với
sự hiện diện của khoảng bốn mươi người ngoài Công giáo cùng dòng họ. Hôm trước
là sự tìm về của một giọt máu, hôm sau là sự trở về của một nhánh họ, sau hơn
hai trăm năm xa cách. Hôm sau nữa tôi lên đường ra Bắc, với ước mơ tìm viếng
ngôi mộ vị thủy tổ hồi thế kỷ IX tại Hải Dương. Lạ thay, nhờ những giúp đỡ bất
ngờ, tôi đã tìm được rất nhanh: một người vừa nghe biết tôi đi tìm mộ đã chỉ
cách đến đó nhanh nhất, một người vừa nghe biết tôi mong tìm đọc gia phả đã cho
tôi địa chỉ người quản lý gia phả, với tên đường và số nhà chính xác…
Khi
tôi dâng lễ tại từ đường, có thể một số người còn tự hỏi tôi thật lòng hay chỉ
đóng kịch bên ngoài. Đến lúc nhận được những tấm ảnh tôi gửi về, chụp toàn cảnh
ngôi mộ tổ, kèm với bản đồ đường đi tới đó và đường tới nhà người quản lý gia
phả, ai nấy đều bảo rằng tôi là một người có hiếu với Tổ tiên và có lòng với họ
hàng, dòng tộc. Tin loan nhanh khắp các nhánh họ Võ tỉnh Hà Tĩnh, và cả bên
ngoài ranh giới tỉnh ấy. Người ta vui không phải vì một kẻ đi hoang trở về, cũng
không phải một người đi học phương xa đem lại cho quê nhà những điều mới lạ,
nhưng vui vì có thêm một người cùng chen vai gánh vác việc chung, với những
sáng kiến bất ngờ đầy ý nghĩa…
Đã
hơn hai trăm năm, những người Công giáo ở phía bên này đường cái quan, còn những
người khác đức tin ở phía bên kia, cách nhau một quãng đồng, không qua không lại.
Bỗng dưng sau thánh lễ hôm ấy, những con người tưởng chừng đã xa lạ lại trở nên
gần gũi. Cuộc sống thay đổi, mấy năm sau, cụ tộc trưởng bảo tôi: “Từ đó, dòng họ
nhà ta đâm chồi nẩy lộc, như bí như bầu!”.
Không
chỉ là việc thắp nhang nhưng còn là cội nguồn và dòng họ
Hai
mươi lăm năm sau việc áp dụng huấn thị Plane
compertum est (từ 1965-1990), người Công giáo chỉ mới bận tâm một điều là
dư luận “theo Đạo là bỏ Ông bỏ Bà”, không chịu cúng giỗ Ông Bà… Thật ra còn những
điều khác nữa:
+
Việc thắp nhang gắn với từ đường và ngày giỗ
+
Từ đường và ngày giỗ gắn với gia phả và dòng họ
+
Bỏ cúng giỗ không chỉ là bỏ Ông Bà mà còn là xa anh em dòng họ.
Mười
lăm năm sau chiến tranh, việc đi lại khắp các miền đất nước trở thành dễ dàng.
Người ta thăm viếng nhau, tìm kiếm tung tích những người thất lạc và tìm kiếm họ
hàng, nối bản thân, gia đình và gia tộc mình với gốc tổ. Người ta photocopy những
thông tin tìm được và chia sẻ với nhau. Tôi nhận được hàng chục bản sao gia phả
những nhánh họ cùng phát tích từ Hà Hoàng, những nhánh từ các huyện khác nhau của
Hà Tĩnh, những nhánh ở Nghệ An, cả những nhánh đã di cư vào Lâm Đồng và Đồng
Nai…
Năm
1996 đến dự một buổi hội thảo tại Hà Nội bàn về họ Võ gốc Hà Hoàng, tôi được biết
người ta đã hình thành nhiều ban liên lạc họ Võ. Mấy năm sau các ban liên lạc
này liên kết với nhau thành Hội đồng Dòng họ Vũ-Võ Việt
Cùng lúc, trước tình cảnh việc học sa sút, nhiều gia tộc đã
tổ chức việc khuyến học cho con em; nhiều từ đường được tôn tạo hoặc xây mới;
nhiều tác phẩm nghiên cứu riêng về từng dòng họ được ấn hành. Những sự kiện từ
dưới lên đã cộng hưởng với các ban liên lạc hoặc Hội đồng Dòng họ từ trên xuống,
tạo nên một luồng văn hóa lôi cuốn cả sự chú ý của tổ chức UNESCO.
Vào Google và gõ: "gia phả - dòng họ - nguồn cội",
chỉ trong 6 trang, ta đã đọc thấy 18 trang web riêng của các dòng họ:
trinhtoc.com,hovuvovietnam.com,donghoninh.wordpress.com,nguyendac.com,hophamlangnhuong.com,hodinhvietnam.com,hothaicamlo.info,hodangbinhnghi.com,hodovietnam.vn,hohoanghuynhvietnam.vn,hopham.org,mactoc.com,hokhuatvietnam.org,hothan.org,danggia.org,hotvietnam.org,dangtocvietnam.com,trandang.net
Mỗi người có thể gõ tìm "nguồn gốc họ X" và dễ
dàng tìm được thông tin của dòng họ mình, cả những họ ít gặp như họ Trình, họ Lữ,
họ Lại, họ Thân, họ Kiều...
Gõ "ban liên lạc dòng họ X" hoặc "đại hội
dòng họ X", ta còn có thể khám phá ra rằng việc liên kết các họ tộc không
dừng lại trên các phương tiện thông tin mà còn đi vào hoạt động thực tế khá rầm
rộ.
Người
ta không khép lại riêng với dòng họ mình. Trên bước đường lý thú này, tôi còn
nhận được sự đồng cảm của những người khác dòng họ. Cả người họ Nguyễn, họ Mạc,
họ Văn đã đến thăm tận phòng tôi và tôi cũng đến đáp lễ tận nhà họ… chỉ để trao
đổi kinh nghiệm về việc kiếm tìm và trao đổi những thông tin mới…
Một
trong các bản sao gia phả tôi nhận được, ghi rằng người em vị tổ đời thứ tư của
Võ tộc Hà Hoàng không vô tự nhưng con cháu hiện ở tại làng Chánh Trạch, huyện
Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Do đó, khi quay về sống tại Qui Nhơn, tôi đã rảo khắp
các huyện xã Bình Định để kiếm tìm chứng từ trên giấy trắng mực đen, và cuối
cùng đã tìm thấy.
Phong trào liên kết dòng họ phát triển hết sức nhanh. Trên
mạng, mỗi dòng họ không phải chỉ có một website… Đọc thử một số thông tin, ta sẽ
thấy chỉ dăm tháng sau đại hội dòng họ cấp tỉnh một nơi nào đó, các đại hội cấp
thành phố, huyện và thị xã đã nối đuôi theo.
Số
nhà thờ dòng họ tân tạo ngày càng nhiều (“nhà thờ” là một kiến trúc biệt lập,
dành riêng cho việc thờ phụng, phân biệt với “từ đường” là gian thờ trong nhà vị
trưởng tộc, thường có tính cách hạn hẹp trong vòng ba hay bốn đời). Trên địa
bàn tỉnh Bình Định, từ đầu năm đến giữa tháng 10-2013, chỉ riêng dòng họ Võ đã
có thêm ba nhà thờ mới, hai do bà con góp sức chung công, một do những người
khá giả trong gia tộc… Cùng lúc, có những nhóm đồng tộc nghèo và ít người,
không sao làm nổi nhà thờ riêng. Có lẽ chính cái nghèo ấy đang biến họ thành đối
tượng của lòng thương xót Chúa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước
Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Chính Thiên Chúa là Cha nhân ái đang dành
cho họ một mái nhà chung, nhà thờ hay từ đường trăm họ, nơi Ngài quy tụ dân
nghèo của Ngài.
Phong trào có một ưu điểm là vượt trên ranh giới địa
phương, không phân biệt lương giáo. Nếu người Công giáo biết quan tâm nhập cuộc
thì đây là cơ hội rất tốt để hòa đồng với bà con cùng dòng họ.
Phong trào này thúc đẩy người ta tìm dựng lại gia phả, lập
lại từ đường, tổ chức lại các ngày giỗ chung (ở miền Trung gọi là "tế hiệp").
Một số bà con ở thôn quê cảm thấy an tâm vì giờ đây đã có một chỗ dựa, đã được
thuộc về một tổ chức sinh hoạt văn hóa, vừa mang tính huyết tộc, vừa mang tính
tâm linh. Cũng có thể vì thế họ thấy không cần phải có một tôn giáo... Đây cũng
là điểm đáng cho các giới chức Công giáo suy nghĩ khi theo đuổi ước mơ chia sẻ
Tin mừng với đồng bào.
Trào
lưu văn hóa tâm linh này còn song đôi với sự bùng phát những tin tưởng về phong
thủy, dễ khiến người lương thêm khép lòng lại với Tin mừng. Ngược lại, nó cũng
ôm theo cả những mâu thuẫn, khiến người ta lúng túng. Nếu người Công giáo biết
dấn thân nhập cuộc kịp thời thì đây lại có thể thành một cơ hội mới của Tin mừng,
cơ hội đem lại ánh sáng cho những mảng kiếm tìm còn tăm tối, cơ hội để giúp mọi
người nhận ra chỉ có một Thiên Chúa là Cha Chung, là Nguồn Cội đích thật duy nhất.
Nếu nhập cuộc, ta sẽ thành đồng hội đồng thuyền; nếu không, một lần nữa, ta lại
thành kẻ bên lề, xa lạ…
Ta
vẫn bảo nhau: Loan báo Tin mừng là đến với anh em và đưa anh em về với Chúa. Đức
Thánh Cha Phanxicô còn bảo rằng: Giáo hội ngày nay phải “đi ra”. Tại Việt
Sau tết Quý Tỵ 2013 tại giáo xứ Song Mỹ thuộc giáo phận Nha
Trang, một số bạn trẻ họ Võ đã có sáng kiến xin cha sở một thánh lễ cầu nguyện
cho những người cùng họ còn sống và đã qua đời. Với bức tâm thư trang trọng gửi
đến mọi gia đình họ Võ trong giáo xứ, đã có trên 100 người đến dự lễ. Sau thánh
lễ hơn 50 người đã ở lại gặp nhau tại hội trường giáo xứ. Họ chia sẻ tâm tình
thật chan hòa rồi thảo luận sôi nổi và đi đến bốn quyết định: Thứ nhất, đề cử
ra một ban liên lạc họ Võ Công giáo của giáo xứ; thứ hai, mỗi lần có người họ
Võ trên địa bàn giáo xứ qua đời, sẽ tặng một vòng hoa phúng điếu ghi dòng chữ:
"Ban Liên lạc họ Võ Công giáo giáo xứ Song Mỹ thành kính phân ưu"; thứ
ba: anh chị em đồng tộc Công giáo sẽ nhắc nhau sống tốt hơn để khỏi phụ lòng bà
con đồng tộc ngoài Công giáo; Thứ tư: Từ đây về sau, mỗi năm tới ngày này, đều
xin lễ như thế và mỗi gia đình họ Võ Công giáo sẽ mời một gia đình họ Võ người
lương đến dự thánh lễ. Có thể lắm người được mời sẽ không đến nhưng nhiều người
khác sẽ đến. Họ sẽ hiểu thế nào là gia đình con cái Chúa, sẽ hiểu cách người
Công giáo tôn kính và cầu nguyện cho ông bà tổ tiên. Tết Giáp Ngọ 2014, kinh
nghiệm đã rõ hơn. Thư mời được gửi đến tất cả các gia đình đồng tộc, không phân
biệt lương giáo. Nội dung mời: Tham gia buổi giao lưu sinh hoạt đồng tộc. Chú
thích cuối thư mời: “Chúng tôi xin đính kèm chương trình thánh lễ cầu nguyện
cho bà con đồng tộc tại nhà thờ giáo xứ. Quý vị nào muốn tham dự, xin vui lòng
cho biết trước để chúng tôi tiện bề tiếp đón”.
Kinh nghiệm khá giản dị, thiết tưởng bất cứ nhóm đồng tộc
nào tại mỗi giáo xứ, dù đông người hay ít người, cũng đều có thể làm được. Sau
bao năm ly loạn, khi hòa bình lập lại, đa số người mình, lương cũng như giáo,
hiện không còn gia phả, không còn từ đường, lắm khi không còn nhớ ngày giỗ của
dòng họ mình. Thế nhưng khi ta nhận biết Thiên Chúa là Cha, Ngài đã cho lại
chúng ta tất cả và còn hơn thế nhiều. Không còn gia phả, nhưng chúng ta biết rõ
mình là anh em con một Cha trên trời. Không còn từ đường nhưng chúng ta lại có
chung một nhà Chúa là từ đường của muôn dân, bởi lẽ hai chữ từ đường
trong tiếng Hán dịch sang tiếng Việt không gì khác hơn là nhà thờ. Có thể không còn
nhớ ngày giỗ của dòng họ nhưng chúng ta có ngày lễ của những vị thánh tử đạo
cùng dòng họ.
Từ kinh nghiệm trên đây, ta có thể nghĩ đến ngày truyền thống
từng dòng họ tại các giáo xứ. Tại bất cứ giáo xứ nào, hằng năm mỗi dòng họ đều
nên có một ngày sinh hoạt, tốt nhất là vào ngày lễ một vị thánh trong dòng họ.
Có 69 vị thuộc 17 dòng họ: Bùi (2), Đặng (1), Đinh (3), Đỗ (3), Đoàn (3), Hà
(2), Hồ (1), Hoàng/Huỳnh (1), Lê (7), Nguyễn (24), Phạm (5), Phan (3), Tạ (1),
Tống (1), Trần (4), Trương (2), Vũ/Võ (6). Lại cũng có 29 vị không rõ dòng họ.
Hẳn Chúa Quan phòng muốn dành ra một số vị thánh không rõ dòng họ để bất cứ
dòng họ nào cũng có thể nhận làm của mình.
Nên mời tất cả các gia đình đồng tộc trên địa bàn giáo xứ,
cùng con dâu, con rể và cả bà con đồng tộc ngoài Công giáo cùng tham gia. Nội
dung chính là thánh lễ và giờ gặp gỡ trước hoặc sau thánh lễ.
Thử hình dung xem, mỗi năm trong mái ấm từ đường của trăm họ
tại giáo xứ liên tiếp có ngày giỗ Công giáo của họ Lê, họ Nguyễn, họ Phạm, họ
Phan, họ Trần, vv… Sẽ ấm cúng biết bao khi cả bà con đồng tộc người lương cùng
đến dự. Rồi tới ngày tế hiệp của họ, họ lại mời các đồng tộc Công giáo và cả vị
thủ từ của từ đường muôn dân là cha xứ đến dự. Dòng họ là con đường thật hồn
nhiên để ta đến với anh em và đưa anh em đến với Chúa. Ta có những cơ hội tốt
nhất để giải thích cho bà con lương dân hiểu giáo lý của Hội Thánh Công giáo về
Đạo Hiếu và việc thờ cúng Tổ tiên để giúp họ nhận biết và thờ phượng Cội Nguồn
muôn đời muôn thuở là Cha trên trời.
Từ năm này sang năm khác, sự giao lưu gặp gỡ lương giáo sẽ
ngày càng thêm dày và thêm thân tình. Chắc hẳn sau năm, bảy năm, không ít người
sẽ nhờ đó mà nhận được ơn đức tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu.
Ngày truyền thống từng dòng tộc tại mỗi giáo xứ sẽ tạo cơ hội
để tập thể đồng tộc Công giáo tìm hiểu lòng tin và mối chân tình của tập thể đồng
tộc ngoài Công giáo đối với Tổ tiên, và cũng là cơ hội để chia sẻ lòng tin với
họ. Những cố gắng cá nhân dễ rơi vào mỏi mệt, nhưng khi biến thành ý chí tập thể,
sẽ trở nên bền bỉ lâu dài. Giữa một xã hội nhiều sức ép, việc từng người tiếp
nhận đức tin lắm ngại ngùng, nhưng khi được những người thân cùng chia sẻ, đức
tin sẽ đầy sức mạnh.
Con đường dòng họ mở ra một viễn tượng không biên giới cho
việc loan Tin mừng. Tuy nhiên, ta sẽ không thể đáp ứng nổi, do đó cần biết tự
giới hạn địa bàn của mình: trong một Giáo phận hay một Tỉnh.
Năm 2009, cụ Võ Huề ghé thăm tôi. Cụ là hậu duệ của tiền hiền
Võ Lực, mộ hiện ở nghĩa trang giáo xứ Phú Hữu, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.
Tôi chia sẻ với cụ về sinh hoạt liên kết họ Võ hiện nay ở khắp trong nước và hải
ngoại. Cụ thấy ngay đó là một nỗ lực rất tích cực có thể góp phần giáo dục hữu
hiệu cho lớp trẻ. Do đó, cụ đã năng nổ liên lạc và vận động để có được cuộc họp
mặt một số bà con Công giáo họ Võ vào dịp sinh nhật Tổ Võ Hồn, ngày mùng 8 tết
Canh Dần, 2010.
Cuộc họp mặt đã đề cử ra một ban liên lạc họ Võ Công giáo tỉnh
Bình Định, chuẩn bị cho những cuộc họp mặt về sau. Thế rồi chúng tôi đã có ngày
Võ Tộc Công Giáo Bình Định lần thứ hai, vào mùng 8 tết Tân Mão, 2011 và lần thứ
ba vào mùng 8 tết Nhâm Thìn, 2012. Cả hai lần đều được Đức Giám mục chủ sự
thánh lễ đồng tế.
Năm 2013, chúng tôi hành hương kính viếng 4 từ đường Võ tộc
thuộc 2 huyện An Nhơn và Tây Sơn, viếng mộ tiền hiền họ Võ tại nghĩa trang giáo
xứ Phú Hữu và cử hành thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ này. Có khoảng 300 người, cả
lương lẫn giáo cùng tham dự. Trong năm 2013, người ta tổ chức xây dựng Hội đồng
Dòng họ Vũ-Võ cấp tỉnh, các huyện, thị và thành phố đều khắp tỉnh Bình Định. Vững
tâm do thấy đã có một linh mục đồng tộc dấn thân vào chuyện dòng họ, anh chị em
Võ tộc Công giáo tại một số nơi đã tích cực tham gia vào cơ cấu dòng họ tại địa
phương.
Năm 2014, thay vì sinh hoạt chung, chúng tôi đề nghị tổ chức
xin lễ tại từng Giáo xứ và đã có thánh lễ cầu nguyện cho bà con đồng tộc họ Võ
tại 12 giáo xứ của Giáo phận Qui Nhơn vào cùng ngày mùng 8 tết.
Do sự quen biết ngày càng rộng rãi, chúng tôi đã được mời
tham dự các đại hội tại các huyện cũng như ngày giỗ tại các từ đường. Chúng tôi
đã trao tặng rộng rãi quyển sách có giới thiệu 6 vị thánh họ Võ, DVD “Tâm ca mùa báo hiếu” (10 bài hát “cầu cho
cha mẹ” của nhạc sĩ Phanxicô, với hình ảnh phụ họa về cách thể hiện Đạo Hiếu của
người Công giáo). Sắp tới đây, món quà được chọn để tặng là quyển “Đạo Yêu
thương” của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm. Điều đáng nói là chúng tôi đã loan
Tin mừng cách hồn nhiên giản dị, như khi mình vừa được lành bệnh nan y và lớn
tiếng mách cho mọi người biết toa thuốc quý; và còn đáng nói hơn nữa, anh chị
em lương dân đã đón nhận những món quà đức tin ấy cách trân trọng.
Thông cáo 1965 kết thúc: “Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi
và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mỗi khi có
dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cho cả người ngoài Công giáo. Các vị phụ
trách Công giáo Tiến hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho
các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện”.
Nói chung, các cha đều có trình bày trên tòa giảng, cả
trong những dịp tang lễ và hôn lễ, trong các lớp dự bị hôn nhân. Cũng có những
người muốn thúc đẩy cho việc tái hội nhập vào văn hóa dân tộc tiến nhanh, thế
nhưng hình như chưa mấy ai hưởng ứng. Phải nói rằng, sau 50 năm, nếu để khai
báo thành quả, hầu như chúng ta chưa làm được gì mấy. Lắm người bảo việc áp dụng
huấn thị “Plane compertum est” cách nửa vời càng dễ gây phản tác dụng vì dễ khiến
người lương nghĩ rằng người Công giáo không thật lòng trong việc này.
Sau những năm tích cực nhập cuộc, tôi nghĩ sự trì trệ có phần
là do thiếu tài liệu hướng dẫn cụ thể. Cho tới nay chưa có tài liệu hướng dẫn
thực hành chính thức nào đi xa hơn những nguyên tắc trong hai bản thông cáo
1965 và 1974. Nhiều giáo dân muốn áp dụng nhưng có lẽ chỉ biết cách mơ hồ,
không rõ phải làm gì trong thực tế.
Đi tìm hiểu cách thực hành của anh chị em lương dân, tôi sớm
nhận ra rằng các truyền thống đạo hiếu được duy trì và phổ cập đồng bộ trong
dân chúng có lẽ là do sự góp phần rất lớn của một quyển sách mỏng tên là “Thọ
Mai gia lễ”. Cũng có một vài quyển gia lễ khác nhưng có lẽ quyển Thọ Mai thịnh
hành nhất và có ảnh hưởng rộng nhất. Nay nếu muốn cho việc áp dụng thông cáo của
Hội Đồng Giám Mục đi sâu vào tận các gia đình, cũng cần có một quyển “Gia lễ
Công giáo” với những chỉ dẫn cặn kẽ về những dịp đặc biệt trong gia đình”, với
những hướng dẫn về cúng lễ gia tiên, dọn tất niên, tưởng nhớ gia tiên dịp tết
nguyên đán, lễ giao thừa, lễ minh niên, lễ bổn mạng một người trong gia đình,
giáp năm ngày rửa tội, thôi nôi hoặc sinh nhật, nghi thức lễ cưới ở gia đình,
giáp năm ngày cưới, lễ giỗ và làm phép nhà; về việc chăm sóc bệnh nhân và cầu
nguyện cho người hấp hối; rồi về việc viếng thi hài, canh thức cầu nguyện tại
tang gia, nhập quan, động quan và di quan, trước khi hạ huyệt, nghi thức hoả
táng và nghi thức tiếp nhận di cốt về gia đình…
Lắm người, không những ngoài Công giáo mà cả không ít tín hữu
Công giáo hiểu quan điểm mới của Giáo hội Công giáo cách quá đơn giản, tưởng rằng
qua việc cho phép tái lập bàn thờ gia tiên, cúng giỗ và nhang đèn,... Giáo hội
cũng chấp nhận luôn cả những tiểu tiết của dị đoan mê tín. Đây là một điểm hết
sức quan trọng cần xác định ngay từ đầu để tránh ngộ nhận.
Quan điểm mới của Giáo hội Công giáo,
được khẳng định vào năm 1964-1965, dựa trên bước tiến tích cực về phong hóa,
"những tin tưởng sai lạc kia cũng không còn phải là chuyện chung của quảng
đại quần chúng", tuy nhiên sang đầu thế kỷ 21, diễn biến thực tế lại rất
đáng lo ngại, người tín hữu Công giáo cần biết nhận định và chọn lựa sáng suốt.
Ngày nay dường như sự phục hưng tinh thần gia tộc, với việc
xây dựng từ đường, tôn tạo mồ mả cha ông đi đôi với sự phát triển những tin tưởng
về phong thủy. Ngoài việc xem phương hướng, coi ngày giờ, người ta còn dùng những
đồ vật trấn phong thủy như la kinh, la bàn, đá phong thủy đồ thị, đồng tiền cổ
của các đời vua, xương thú vật, cẩm thạch, đá thạch anh, bùa chú, châu sa, thần
sa… Các cửa hàng phong thủy lớn nhỏ mọc lên nhan nhản ở các thành phố, với những
món hàng giá lên đến vài chục triệu đồng, cũng có những món hàng cao cấp lên đến
tiền tỉ. Nhưng phần lớn các món hàng phổ thông được bán với giá vài trăm ngàn đồng
tới vài chục triệu đồng là bán chạy nhất và nhiều người ưa chuộng hơn cả. Trước
đây việc phát huy Tây học, cuộc vận động của Tự Lực Văn Đoàn và các tác giả
cùng thời cũng như ảnh hưởng Kitô giáo qua môi trường giáo dục đã đẩy lùi các
tin tưởng và thực hành phong thủy, nhưng vài chục năm trở lại đây người ta lại
đua nhau chạy theo phong thủy, mong nhờ đó mà mình và con cháu làm ăn phát đạt.
Nhiều người nhìn phong thủy như một khoa học đang cần được nghiên cứu kỹ, tuy
nhiên với quảng đại quần chúng, những tin tưởng phong thủy chỉ là chuyện “có thờ
có thiêng, có kiêng có lành”, tức là tin mà không biết tại sao, và một sự tin tưởng
như thế thì không thể đi đôi với đức tin vào tình thương của Thiên Chúa.
Mở Google, gõ "mê tín", ta gặp hằng ngàn bài lên
tiếng về một tệ nạn mới của xã hội: cầu cơ, xin keo, xin xăm, coi ngày giờ, xem
hướng, đốt vàng mã, ông địa, thần tài... Người ta dựng nên cả những văn phòng,
những trung tâm nghiên cứu khoa học về cõi âm, để hiện đại hóa và hợp pháp hóa
việc buôn thần bán thánh. Có cả những bậc trí thức không vững lập trường, hoặc
vì ham lợi, ham danh, đua đòi hoặc vì ham vui đã chạy theo những sự mê tín đáng
tiếc. Truyền thông đại chúng đã có nhiều đợt lên tiếng vạch trần những chuyện vớ
vẩn ấy. Những người nhờ một nhà ngoại cảm tìm mộ rồi kiểm tra chéo bằng một nhà
ngoại cảm khác đều gặp kết quả trớ trêu dở khóc dở cười. Những anh chị em ngoài
Kitô giáo giữ vững lương tri đều nhất quyết không tìm thông tin về quá khứ từ bất
cứ hình thức đồng cốt nào, vì họ thấy trước sẽ lâm vào tình trạng khó xử: tin cũng
không được mà chẳng tin cũng không được.
Do thiếu ánh sáng mặc khải, người ta không biết rằng kẻ thù
của loài người là ma quỷ luôn xúi giục mọi người mê theo của cải vật chất. Ma
quỷ đầy ghen tương, nó đã đánh mất hạnh phúc đời đời nên quyết không để cho con
người hưởng được hạnh phúc ấy. Mọi hoạt động của nó đều nhằm lôi kéo con người
lìa xa nguồn cội là Thiên Chúa và đánh mất hạnh phúc đích thật trong Ngài. Nó
quá rõ không gì có thể mê hoặc lòng người cho bằng lợi (x. Mt 6.19-21.25-34;
19,23-26) và danh (x. Lc 14,7-11; Ga 5,44). Bài học quanh ta sờ sờ trước mắt,
biết bao người vì chút tư lợi và hư danh mà bán rẻ lương tâm, quên mất quyền lợi
của quốc gia dân tộc, biết bao kẻ giàu lên một chút là cậy của khinh người, coi
thường cả trời đất, biết bao gia đình tan rã vì tiền bạc, biết bao tổ chức tốt
lành bỗng chốc một sáng một chiều lòng người ly tán chỉ vì tiền bạc của cải...
Bất cứ ai bận tâm đến tiền đồ dân tộc đều âu lo trước sự
tan rã tinh thần đạo lý đã bùng phát và ngày càng lan nhanh lan rộng. Một trong
những lý do sâu xa khiến người ta hối thúc nhau dựng lại tình gia tộc là mong
nhờ đó mà cứu vãn tình thế, dựa vào Tổ tiên và dòng họ để phục hồi ý thức luân
lý (lương tâm) cho con cháu. Sự cổ võ con em sống xứng danh dòng họ cũng có phần
kết quả nhưng không nhiều, không giành giật nổi với ảnh hưởng của những phim ảnh
xấu và những mẫu sống tiêu cực trong xã hội. Trên thực tế, các hoạt động về
dòng họ dù có phát triển rầm rộ cũng chỉ cuốn hút những người ở tuổi về hưu. Những
người nhiệt tình thuộc lứa tuổi 30-45 thường rất hiếm hoi, dù có tham gia tuổi
bày vẫn dành ưu tiên thời giờ cho việc kinh doanh hơn là cho dòng họ.
Người Kitô hữu cần thấy rõ điều ấy để mạnh dạn nói với mọi
người rằng đáp số hữu hiệu cho bài toán suy đồi đạo lý không nằm ở đạo hiếu trần
gian nhưng ở lòng hiếu thảo với Cha Cả trên trời.
Để chữa lành bệnh dịch bạo lực và gian dối đang lan tràn hiện
nay, cần phải giúp mọi người nhận ra mình là con cái của Thiên Chúa Tạo Hóa Tối
Cao và là anh em của mọi người.
Ở một xã hội nào đó, người dân có thể tự giác đến độ bỏ rác
vào túi áo đợi cho vào giỏ rác, thay vì ném xuống đường, hoặc đến độ dù đường vắng
ngắt vẫn không vượt đèn đỏ. Còn ở một xã hội đã quá quen với sự ích kỷ và giả dối,
ta có thể lấy gì để phục hồi tinh thần tự nguyện hơn là dạy cho người ta biết đến
tình thương của vị Cha Chung đầy nhân ái, Đấng thấu suốt cõi lòng và ân thưởng
cả những điều quảng đại bé nhỏ nhất (x. Mt 10,41-42). Ích chung đòi phải quên lợi
riêng, cho nên ai cũng ngại. Nhờ nhận biết mình là con Thiên Chúa, người tín hữu
sẽ quả cảm sống tinh thần quảng đại vì ích chung, bắt đầu từ chính mình. Chính
tinh thần quên mình vì ích chung sẽ giúp ta dám sống công bằng và chân thật, là
những giá trị đang trở nên hiếm hoi giữa một xã hội đang quay cuồng chạy theo vật
chất.
Muốn xây dựng một thế hệ hào hùng, thượng võ và quả cảm
quên mình vì đồng loại, trước hết cần dạy cho họ biết hiếu thảo với Cha Cả trên
trời, Đấng đang liên lỉ ngỏ lời với con cái mình cách thầm lặng nơi lương tâm họ.
Việc giáo dục này chúng ta có thể thực hiện được bằng cách chính chúng ta cố gắng
thêm một chút để sống trọn lý tưởng hiệp thông của Tin mừng và chia sẻ với các
tín hữu mới lý tưởng chính chúng ta đang sống. Đây là thách đố đặt ra cho cộng
đồng tín hữu Công giáo trong việc dạy giáo lý cho bạn trẻ Kitô hữu cũng như cho
các tín hữu mới.
Dạy giáo lý không chỉ là truyền đạt những hiểu biết về
Thiên Chúa và chương trình tình thương của Ngài, nhưng là dẫn vào một nếp sống
mới, dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần, tức là sống theo linh đạo của người
làm con Thiên Chúa. Nói một cách giản dị, đó là sống theo Kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha giúp người tín hữu thoát ra khỏi chính mình.
Những ý nguyện nơi phần thứ nhất của kinh này dạy ta đặt mục đích đời mình nơi
Thiên Chúa chứ không phải nơi tiền bạc. Ý nguyện của phần thứ hai nhắc ta sống
phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Chính trên những cơ sở ấy
mà ta có thể sống yêu thương, hiệp thông, tha thứ và quên mình vì ích chung (x.
Mt 6,25-34).
Xin được tóm tắt ở đây một vài trăn trở đã trình bày trong
loạt bài “Năm mươi năm thờ cúng Tổ tiên”.
1. CẦN THÊM NHỮNG LỜI NGUYỆN MỚI CHO LỄ
GIỖ
Năm 2012, một vị thừa sai bị Văn Thân sát hại năm 1885 được
đưa hài cốt từ một nơi hoang phế về sân nhà thờ. Thánh lễ đồng tế trang trọng với
các bài “Lễ Giỗ” và cha xứ thản nhiên đọc lời nguyện cầu cho linh hồn vị thừa
sai sớm được lên chốn nghỉ ngơi. Ta không thể trách vị cha xứ trẻ. Bản văn phụng
vụ chỉ có một hướng duy nhất là cầu hồn nên ông đành đọc lời nguyện cầu hồn cho
vị tử đạo chết cách nay đã hơn một thế kỷ! Giỗ 30 năm, 50 năm hay 100 năm, nếu
ta chỉ có những lời nguyện nhấn mạnh việc cầu xin ơn giải thoát cho những người
đã chết, liệu người ngoài Công giáo sẽ nghĩ gì về đức trông cậy của ta và về
lòng thương xót của Thiên Chúa?
Một người thân vừa nằm xuống, đang chờ Đấng Thẩm Phán hoàn
tất cuộc thanh tẩy nhưng con cháu ở trần gian đã cảm thấy ấm lòng khi nghĩ đến
sự che chở phù hộ của người ấy. Ta vừa cầu xin Chúa thanh tẩy người thân yêu vừa
xin người thân yêu chuyển cầu trước nhan Chúa. Hai điều ấy không hề mâu thuẫn.
Người ra đi đã thuộc về vĩnh cửu, còn người đang ở lại thuộc về thời gian, ta
không thể lấy suy luận duy lý mà cắt nghĩa.
Thiết nghĩ ngay cả trường hợp giỗ một năm hay cả giỗ 100
ngày đi nữa, lễ giỗ không chỉ có một ý nghĩa duy nhất là cầu cho người quá cố sớm
được giải thoát. Ước mong sao Ủy Ban Phụng Tự có thể biên soạn và xin Tòa thánh
phê chuẩn một số lời nguyện lễ Giỗ không theo hướng cầu hồn nhưng mang ý nghĩa
tưởng nhớ, tiếc thương, hiệp thông giữa người sống với người chết cũng như giữa
những người còn sống trên đời.
2. NHỮNG LỜI CA CẦU CHO NGƯỜI ĐÃ KHUẤT HỢP
VỚI PHỤNG VỤ HƠN
Khái niệm “ngục tối” không hề xuất hiện suốt 230 trang quyển
“Nghi Lễ An Táng và Thánh Lễ Cầu Hồn”. Khái niệm vực sâu được nhắc tới một lần,
trong Tv 129/130. Thế nhưng cũng như trong Kinh Chiều lễ Giáng sinh, thánh vịnh này được dùng làm đáp ca để hát lên niềm hy vọng
của người đang chìm đắm được cứu thoát: “Bởi Chúa luôn từ ái một niềm – ơn cứu
chuộc nơi Ngài chan chứa!” Tựa như trong bài “Trong gian truân tôi đã kêu cầu
và Chúa đã đáp lời tôi”. Bài “Từ vực sâu u tối” và những bài tương tự không có
gì sai tín lý nhưng có lẽ không đúng tinh thần phụng vụ lễ an táng.
Ước mong sao các nhạc sĩ sẽ tìm thấy nơi những từ ngữ có tần
số xuất hiện cao trong quyển nghi thức vừa nói để chọn chủ đề viết lên những
bài ca tràn đầy hy vọng. Chẳng hạn, Sống (125 lần), Hằng sống (23), Chết (145),
Tin (98), Sống lại (62) + trỗi dậy và Phục Sinh (29), Phúc (71), Cứu (68), Hưởng
(45), Vinh quang (42), vv…
3. TÌNH CHA TRONG KINH NGUYỆN THÁNH THỂ
Nơi các “Kinh tạ ơn” trong bản dịch Sách Lễ Rôma 1992 có
hai điểm khác hẳn bản dịch các “Kinh nguyện Thánh Thể” trước đó:
- Khi thưa với Ngôi Cha, mọi chữ "Domine" đều được
chuyển thành "Cha" thay vì dịch sát chữ là "Chúa".
- Ở lời nguyện cầu
cho kẻ chết của các Kinh nguyện Thánh Thể 1, 2 và 3 đều có thêm mệnh đề:
"Đặc biệt xin Cha nhớ đến các bậc Tổ tiên và thân bằng quyến thuộc chúng
con đã lìa cõi thế".
Đó là hai đóng góp của linh mục đoàn Giáo phận Kontum được Ủy
Ban Phụng Tự trực thuộc HĐGMVN lúc ấy tiếp nhận, những đóng góp nhằm tạo thuận
lợi cho anh chị em lương dân nhận ra tình Cha của Thiên Chúa. Nay trong bản dịch
“Nghi Thức Thánh Lễ” (NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2005) đóng góp thứ hai vẫn còn được
duy trì, còn đóng góp thứ nhất bị quên mất. Thiết tưởng đây là một đóng góp hết
sức ý nghĩa, có tác dụng lớn trong việc loan báo Tin mừng và xây dựng lòng đạo cho Dân Chúa, cần được phục hồi.
4. CHẠY ĐUA VỀ LÒNG THÀNH KÍNH
Tham dự các buổi cúng giỗ, ta chứng kiến một cảnh trái ngược:
Đang khi những người hành lễ rất thành kính thì những người khác ở xung quanh vẫn
ngồi hút thuốc nói chuyện bình thường. Ta cứ thản nhiên nói chuyện, nhưng một
khi đã tiến vào hành lễ (niệm hương) thì điều mọi người chờ đợi nơi chúng ta là
sự thành kính. Đi xa hơn, khi đến nhà thờ Công giáo, người ta cũng chờ đợi nhìn
thấy nơi những người hành lễ một sự thành kính ít là ngang bằng với sự thành
kính của họ trước bàn thờ Tổ tiên.
5. TRẢ LẠI CHÚA NHẬT CỦA TIẾNG GỌI ĐỜI ĐỜI
Những lý do đưa đến việc ban hành huấn thị Ex quo singulari năm 1742 rất nghiêm
túc, không dừng lại nơi chuyện thắp nhang hay không thắp nhang nhưng chạm đến
những sự thật về cánh chung học và cứu chuộc học. Trong lịch phụng vụ của Giáo
hội Công giáo, mỗi năm 365 ngày có riêng một ngày để nói về sự cùng tận của lịch
sử nhân loại. Cả ba năm A, B và C Lời Chúa của Chúa Nhật 33 Thường niên luôn tập
trung vào chủ đề ngày cánh chung.
Thế nhưng từ 26 năm qua, Chúa Nhật 33 Thường niên năm nào cũng
phải nhường chỗ Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Giáo dân Việt Nam không còn được
nghe giảng về cánh chung, đang khi văn minh vật chất ra rả 24/24 giờ dạy họ bám
lấy hạnh phúc đời này như sẽ chẳng bao giờ phải chết. Không còn được nghe nói về cánh chung, sự mất mát trong đời sống
tâm hồn của tín hữu thật khó lường được! Oái oăm làm sao, chính việc cử hành đức
tin của tiền nhân lại khiến đức tin của con cháu bị bốc hơi!
Nhiều gia đình và giáo xứ Việt Nam đặt bức ảnh các Thánh Tử
vì Đạo Việt Nam trên bàn thờ Tổ tiên, cùng một bàn thờ vừa tưởng niệm các bậc Tổ
tiên theo huyết thống vừa tưởng niệm các tiền nhân trong đức tin. Đó là một
sáng kiến tốt có thể dẫn đến việc hóa giải chuyện xưa và nay. Thế nhưng do việc
cử hành trọng thể vào ngày Chúa nhật, lễ mừng các Thánh Tử vì đạo không thể nào
rơi một ngày nhất định để mà nhớ. Ngay cả trường hợp ngày 24-11 nhằm vào Chúa
Nhật, việc mừng trọng thể các Thánh Tử vì đạo Việt Nam vẫn bị dịch lên Chúa nhật
trước đó. Không được cử hành vào một ngày cố định, lễ mừng này sẽ không bao giờ
trở thành một lễ trọng mang tính quần chúng được.
Cần lưu ý, người Việt không bao giờ thay đổi ngày giỗ. Ai gặp
trở ngại thì khỏi phải về dự, việc cử hành sẽ không vì bất cứ lý do gì mà xê dịch,
dù chỉ một nhúm người bằng nắm tay vẫn nhất định củ hành đúng ngày. Tại các tỉnh
miền Trung, bất cứ chùa Bà, chùa Ông hay chùa Hang nào, bất cứ lăng Cô, miếu Cậu
nào cũng đều có ngày lễ truyền thống tự phát rất rình rang, nhờ một điều là họ
cử hành vào một ngày cố định, không bao giờ thay đổi. Người ta không đợi nghỉ lễ
Chúa nhật mới cử hành. Đã là một lễ truyền thống thì bất cứ nhằm ngày nào trong
tuần nó vẫn giữ tầm quan trọng không điều gì giành lấn được, dù có ai đến dự
hay không nó vẫn cứ tiến hành, ai có lòng quan tâm đến thì phải nhớ lấy ngày ấy
mà trẩy hội. Thiết tưởng chúng ta cũng thế, sự kiện chuyển sang Chúa nhật tự nó
không phải là một tôn vinh nhưng là một sự hạ giá các Thánh Tử vì đạo. Nó cho
thấy ngày lễ của các ngài không bằng một lễ cưới, không đủ sức để khiến người
dân nghỉ việc mà trẩy hội. Nếu muốn bà con người lương cũng biết đến lễ hội các
Thánh Tử vì đạo, ta cần cử hành cố định vào 24-11. Nếu 24-11 nhằm Chúa nhật, ta
sẽ cử hành vào ngày Thứ Bảy, 23-11.
***
Sau cùng, khi đã có được cơ hội gặp gỡ thân tình, ta đừng tiếc với
anh chị em mình một lời chia sẻ, một món quà ý nghĩa. Một ngày kia ta sẽ được
nghe Chúa nói: “Khi Ta đói khát Tin mừng, con đã cho Ta một DVD, một quyển sách
nói về ơn cứu rỗi”. Vâng, lẽ nào ta lại muốn rồi sẽ phải nghe Chúa hỏi: “Tại
sao con đã tiếc với Ta một cuộc gọi, một tin nhắn, một bản nhạc chờ mang tín hiệu
đức tin?”
Dĩ nhiên việc gieo trồng không kém phần vất vả nhưng rồi mùa gặt đến,
giọng hân hoan, mặt rạng rỡ, ta sẽ ôm những bó lúa trĩu nặng trên tay mà trở về
trong tiếng hát tạ ơn vì những bà con cùng dòng họ với mình và cả nhiều anh chị
em khác đã trở nên con cái của Cha Cả trên trời. Cúi xin Cha Chí Thánh chúc
lành cho những ước mơ đang lớn dậy trong lòng mỗi chúng ta.
Lm. Trăng Thập Tự Võ Tá
Khánh
(Giáo phận Qui Nhơn)