SỨ MẠNG CỦA THÁNH GIUSE
TRONG
CUỘC ĐỜI CHÚA KITÔ VÀ HỘI THÁNH
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
(catechesis.net
09&14-3-2016) Thần Học
NHẬP ĐỀ
Có nhiều cách thức trình bày chân dung của Thánh Giuse,
cũng tương tự như có nhiều cách thức trình bày Đức Maria. Những cuốn sách soạn
để suy gẫm trong tháng ba dương lịch thường đề cao các nhân đức và phép lạ của
thánh cả. Không thiếu tác phẩm được biên soạn dưới hình thức tiểu thuyết nhằm
dựng lại cuộc đời gian truân của dưỡng phụ Đức Giêsu. Về phía thần học, người
ta chú trọng đến tương quan giữa Thánh Giuse với Đức Mẹ (hôn
nhân và khiết tịnh) hoặc
so sánh đặc ân (Vô Nhiễm Nguyên Tội, Hồn Xác Lên
Trời).[1]
Công Đồng Vatican II đã mở ra một hướng đi mới trong thần
học về Đức Maria. Một đàng, thần học cần dựa trên các dữ kiện của mặc khải (Kinh
Thánh và Thánh Truyền), chứ không thả hồn theo các giả thuyết; đàng
khác, cần hướng đến vai trò của Đức Maria trong mầu nhiệm của Đức Kitô và của
Hội Thánh. Chương VIII của Hiến chế tín lý về Hội Thánh đã được soạn theo chiều
hướng đó. Từ sau Công Đồng, khoa Thánh-mẫu-học đã tiến triển rất nhiều, cách
riêng do sự thúc đẩy của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tiếc rằng, những sách
viết về Thánh Giuse theo phương pháp thần học vừa nói vẫn còn ít. Trong bài
viết này, chúng tôi ước mong bổ túc phần nào sự thiếu sót đó, bằng cách trình
bày vai trò của Thánh Giuse trong mầu nhiệm của Đức Kitô và của Hội Thánh, dựa
theo Tông huấn Redemptoris Custos của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (ban
hành ngày 15/8/1989). Hướng đi này giả thiết hai điều:
1/. Cần chú ý đến các dữ kiện của mặc khải, chứ không
phải là các ngụy thư hay các mặc khải tư;
2/. Cần nêu bật vai trò của Thánh Giuse trong chương
trình cứu độ: ơn gọi của Người là phục vụ Chúa Cứu Thế, và vì thế trở nên mẫu
gương cho Hội Thánh trải qua mọi thời đại tiếp tục sứ mạng thông truyền hồng ân
cứu độ.
Bài viết gồm ba chương:
- Chương Một: Thánh Giuse trong Kinh
Thánh
Chúng ta sẽ tìm hiểu vai trò của Thánh Giuse dựa theo các
sách Tin Mừng, đặc biệt là trong các đoạn văn? Tin Mừng thơ ấu “của
Thánh Matthew và Luca”. Những đoạn văn này không chỉ liên quan đến
Thánh Giuse mà thôi, nhưng còn liên quan đến Đức Maria nữa. Nói cách khác, việc
tìm hiểu Thánh Giuse cũng giúp chúng ta hiểu biết hơn về Đức Maria, cũng như sự
hợp tác của cả hai vị trong sứ mạng phục vụ Chúa Cứu Thế.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên phân tích vài đoạn văn của
Cựu Ước mà Hội Thánh tiên khởi và các Giáo phụ quen trưng dẫn để làm sáng tỏ
vai trò của Thánh Giuse.
- Chương Hai: Thánh Giuse trong Truyền thống Hội Thánh
Tân Ước để lại cho chúng ta hình ảnh của Thánh Giuse như
một con người thầm lặng: Người không nói một lời nào. Thánh Giuse vẫn tiếp tục
giữ thinh lặng trong lịch sử Hội Thánh: đang khi phụng vụ đã phát triển lòng
tôn kính các thánh tông đồ và tử đạo ngay từ những thế kỷ đầu tiên, thì mãi đến
thế kỷ XVII lễ Thánh Giuse mới được cử hành trong toàn thể Giáo Hội. Lãnh vực
thần học được phát triển sớm hơn, bởi vì Thánh Giuse đã được đề cập ngay từ
thời các Giáo phụ và kinh viện, đặc biệt là Thánh Thomas Aquinas.
Từ cuối thế kỷ XIX, Thánh Giuse thường được nhắc đến
trong các văn kiện Huấn quyền, được đánh dấu bằng Thông
điệp Quamquam Pluries của
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII(15/8/1889). Tông
huấn Redemptoris Custos của
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II(15/8/1989) muốn kỷ niệm biến cố đó, đồng thời
cũng mở ra một hướng đi mới cho thần học về Thánh Giuse.
- Chương Ba: Suy tư thần học
Dựa theo chiều hướng của văn kiện vừa nói, chúng tôi sẽ
bàn về hai điểm:
1/ Vai trò của Thánh Giuse trong cuộc đời của Đức Giêsu,
như là kẻ giữ gìn Đấng Cứu Thế: Người là chứng nhân cho mầu nhiệm nhập thể và
cho căn cước của Đức Giêsu. Điều này sẽ được chứng tỏ khi tìm hiểu tương quan
của Thánh Giuse với Đức Giêsu và với Mẹ Maria.
2/ Vai trò của Thánh Giuse trong đời sống của Hội Thánh.
Thánh Giuse đã phục vụ Đức Giêsu là đầu của Hội Thánh, và trở nên mẫu gương cho
Hội Thánh trong việc phục vụ chương trình cứu độ. Tông
huấn Redemptoris Custos đề
cao vài nhân đức nổi bật nơi Thánh Giuse: đức tin; trung thành với bổn phận;
thinh lặng chiêm niệm.
Sau những suy tư thần học, chúng tôi dành mục cuối cùng
để tìm hiểu những hình thức phụng vụ và đạo đức dân gian dành để tôn kính Thánh
Nhân.
***
CHƯƠNG MỘT
THÁNH GIUSE TRONG KINH THÁNH
Khi trình bày một nhân vật nào, người ta thường bắt đầu
với một đoạn nói về tiểu sử, thân thế, sự nghiệp. Chúng ta biết gì về tiểu sử
Thánh Giuse?
Xin trả lời là các nguồn sử liệu về Thánh Giuse rất hiếm.
Thật ra, điều này không có gì lạ, bởi vì vào thế kỷ thứ nhất của Kitô giáo các
nguồn sử liệu không được phong phú. Ngay cả khi muốn viết cuộc đời Đức Giêsu,
các sử gia cũng thấy lúng túng khi muốn thu thập dữ liệu liên quan đến giai
đoạn ẩn dật của Người, bởi vì các sách Tân Ước không cung cấp nhiều chi tiết.
Sự khó khăn này càng gia tăng khi bước sang cuộc đời của các môn đệ của Chúa.
Riêng đối với
Thánh Giuse, những tài liệu lịch sử chắc chắn là các sách Tin Mừng, đặc biệt là
những chương đầu của Tin Mừng Thánh Matthew và Thánh Luca. Dù sao, khi so sánh
với những tài liệu về Đức Maria, chúng ta nhận thấy rằng Đức Maria còn hiện
diện trong giai đoạn hoạt động công khai của Đức Giêsu, và thậm chí sau khi
Chúa Phục sinh và Lên trời; còn Thánh Giuse thì không được nhắc tới nữa sau khi
tìm lại Đức Giêsu trong đền thờ lúc lên 12 tuổi.
Để bù đắp vào những lỗ hổng đó, trong các thế kỷ đầu tiên
của Kitô giáo, nhiều “Tin Mừng ngụy thư” ra đời, nhằm mô tả chi tiết về cuộc
đời thơ ấu của Đức Giêsu, hoặc về gốc tích và việc tạ thế của Đức Mẹ và Thánh
Giuse. Trước đây, các tài liệu này được sử dụng khá nhiều trong các bài giảng
hoặc lưu truyền dân gian. Nhưng ngày nay, giá trị của chúng đã bị xét lại từ
hai khía cạnh: lịch sử và thần học.
- Xét về khía cạnh lịch sử, các tài liệu đó phát sinh do
óc tưởng tượng hơn là dựa theo dữ kiện khách quan.
- Xét về khía cạnh thần học, các tài liệu ấy ra đời do
một quan niệm thiếu sót về chủ đích của các sách Tin Mừng. Thật vậy, các sách
Tin Mừng không có ý định viết một tiểu sử về cuộc đời Đức Giêsu cho bằng “loan
báo Tin Mừng”, nghĩa là công bố cho nhân loại biết hồng ân cứu độ
mà Thiên Chúa ban qua lời giảng, hành động và cuộc tử nạn của Đức Giêsu. Vì thế
nếu ai muốn truy tầm nơi các sách Tin Mừng những tài liệu để viết tiểu sử Đức
Giêsu thì sẽ thất vọng; tuy nhiên, nếu ai muốn tìm hiểu sứ điệp cứu độ thì sẽ
thấy đủ chất liệu.
Chúng ta cũng có thể nhận xét cách tương tự về Thánh
Giuse. Tân Ước không cung cấp các chi tiết về tiểu sử của Người (ngày
và nơi sinh; ngày và nơi qua đời); tuy nhiên, những đoạn văn Tin
Mừng đã phác họa vai trò của Người trong việc hoàn tất chương trình cứu độ mà
Thiên Chúa muốn thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô.
Trong chương này, chúng ta sẽ điểm qua những bản văn Tân
Ước nói đến Thánh Giuse, đặc biệt nơi Tin Mừng của Thánh Matthew và Thánh Luca,
và cố gắng khám phá ý nghĩa thần học của chúng. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ khảo
sát những đoạn văn Cựu Ước đã được Hội Thánh tiên khởi áp dụng cho sứ mạng của
Thánh Giuse.[2]
***
MỤC I. TIN MỪNG THÁNH MATTHEW
I. NHẬN
XÉT TỔNG QUÁT
Trong bốn sách Tin Mừng, Thánh Matthew nói nhiều hơn hết
về Thánh Giuse: trong hai chương đầu, Thánh Giuse giữ vị trí then chốt, và phần
nào họa lại vai trò của tổ phụ Giuse trong Cựu Ước. Ngoài ra, Đức Giêsu được
gọi là “con bác thợ mộc” ở Mt 13,55.
Thánh Luca cũng nhắc đến Thánh Giuse trong hai chương
đầu, tuy nhấn mạnh nhiều hơn đến Đức Maria. Dù sao, Thánh Luca bổ túc thêm cho
Thánh Matthew nhiều chi tiết để hiểu rõ hơn vai trò của Thánh Giuse trong mầu
nhiệm Nhập thể và Giáng sinh của Đức Giêsu. Thánh Giuse còn được nhắc đến hai
lần nữa trong Tin Mừng Luca vào lúc khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giêsu (Lc
3,23 và 4,22).
Thánh Giuse được nói đến hai lần trong Tin Mừng Thánh
Gioan (1,45; 6,42), nhưng hoàn toàn vắng bóng trong
Tin Mừng Thánh Marco.[3]
Trước hết, chúng ta bắt đầu khảo sát Tin Mừng Thánh
Matthew, đặc biệt là hai chương đầu tiên, quen được đặt tên là “Tin
Mừng thời niên thiếu” (hoặc “Tin Mừng thơ ấu”); tuy rằng, thuật ngữ
này không được chính xác lắm.
Thật vậy, chủ đích của hai chương đầu của Tin Mừng Thánh
Matthew (48 câu) và Luca (132
câu) không hẳn là
thuật lại gia thế của Đức Giêsu và tuổi thơ ấu của Người (giai
đoạn ẩn dật trước khi hoạt động công khai). Ngoài việc kể lại sự
thụ thai trinh khiết trong cung lòng Đức Maria và sự giáng sinh tại Bethlehem,
hai thánh sử không nói gì thêm về những sinh hoạt thời thơ ấu của Đức Giêsu (đừng
kể việc thánh gia lánh nạn sang Ai Cập và việc ở lại trong đền thờ lúc lên 12
tuổi). Thử hỏi các thánh sử có chủ đích gì? Tại sao phải thêm hai
chương này, trong khi Thánh Marco và Thánh Gioan bắt đầu Tin Mừng với cuộc đời
công khai của Đức Giêsu? Các học giả đã đưa ra nhiều ý kiến, có thể thu vào hai
quan điểm.
- 1/. Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là một thể văn
đương thời giới thiệu các vĩ nhân với những điềm lạ xuất hiện trước khi chào
đời, tựa như Abraham, Moses, Isaac, Samuel. Khuynh hướng này còn tăng hơn nữa
nơi các “Tin Mừng ngụy thư”. Tuy
nhiên, chủ ý của người viết không chỉ là đề cao thân thế của nhân vật anh hùng,
nhưng còn muốn chúc tụng Thiên Chúa đã đoái thương dân tộc ưu tuyển và đã phái
đến những vị cứu tinh.
- 2/. Quan điểm thứ hai cho rằng hai chương này là một
thứ nhập đề cho toàn thể cuốn Tin Mừng. Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô được hoàn
tất với mầu nhiệm Vượt qua nhưng đã được phác họa ngay từ khi Người ra đời. Nói
khác đi, Đức Kitô là Đấng cứu độ nhân loại ngay từ cuộc Nhập thể, tuy hồng ân
này đạt đến cao điểm nơi cuộc Tử nạn và Phục sinh.[4]
Nơi Thánh Matthew, cốt yếu Tin Mừng có thể tóm lại như thế này: Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa đến để cứu chuộc muôn dân, là Đấng Messia được hứa cho dân tộc
Israel. Thế nhưng Người đã bị dân tộc này khước từ (vua
Herode tìm cách thủ tiêu Người [5]; cũng như về sau này các nhà lãnh đạo
Do Thái sẽ lên án xử tử Người, Mt 27,1-2), đang khi đó Tin Mừng lại
được dân ngoại đón nhận (các nhà chiêm tinh ở đây, cũng tựa
như các dân tộc bên Đông bên Tây sẽ đến tham dự tiệc trong Nước Thiên Chúa, Mt
8,11; 28,19).
Thiết tưởng, hai quan điểm không trái nghịch nhau, bởi vì
cả hai đều nhấn mạnh rằng không nên đọc “Tin Mừng thơ ấu” như là đọc chuyện thần thoại, nhưng
cần phải khám phá ý nghĩa sâu xa của các trình thuật. Khuynh hướng thứ nhất cố
gắng tìm hiểu ý nghĩa qua việc khảo sát thể văn, đối chiếu với các tác phẩm văn
chương cổ điển. Khuynh hướng thứ hai chú trọng đến nội dung thần học, gắn liền
với toàn bộ Tin Mừng. Theo nhãn giới này, “Tin Mừng niên thiếu” cũng có những nét giống với tự ngôn
của Tin Mừng theo Thánh Gioan, nói về nguồn gốc của Đức Giêsu trước thời kỳ
hoạt động công khai, nguồn gốc bắt đầu từ khởi nguyên (Ga
1,1). Chúng tôi sẽ áp dụng đường hướng này khi tìm hiểu các bản
văn.
Xét về cấu trúc, hai chương đầu theo Tin Mừng Thánh
Matthew, đã có nhiều đề nghị phân đoạn:
- 1/. Một ý kiến cho rằng, toàn bộ sách Tin Mừng theo
Thánh Matthew được phân thành 5 quyển sách tương tự như bộ Ngũ thư của ông
Moses. Cụ thể là các lời giảng của Đức Giêsu được gom thành 5 bài giảng về Nước
Trời:
a/. Bài giảng trên núi công bố hiến chương Nước Trời, ở
các chương 5–7;
b/. Bài giảng về sứ vụ rao giảng Nước Trời, chương 10;
c/. Bài giảng về các dụ ngôn giải thích bản chất Nước
Trời, chương 23;
d/. Bài giảng về kỷ luật nội bộ Hội Thánh, mầm mống của
Nước Trời, chương 18;
e/. Bài giảng về sự thiết lập vĩnh viễn Nước Thiên Chúa
vào thời cánh chung, chương 24-25.
Hai chương đầu tiên xem ra đã gói ghém ý tưởng đó, với
việc trưng dẫn 5 câu Kinh Thánh để kết thúc 5 đoạn văn:
Nhập đề: Gia phả (1,1-17)
a/. Isaia 7,14: Ơn gọi của Giuse (1,18-25)
b/. Mikha 5,2: Vua Herode, các nhà chiêm tinh, Bethlehem
(2,1-12).
c/. Hoses 11,1: Trốn sang Ai Cập (2,13-15)
d/. Gieremia 31,15: Tàn sát các anh hài (2,16-18)
e/. Isaia 4,3 (Tl 13,5?): Từ Ai Cập trở về Nazareth
(2,19-23).
Dĩ nhiên, các học giả còn đưa ra nhiều giả thuyết khác về
cấu trúc của hai chương này, chẳng hạn:
- 2/. Dựa theo các giấc mơ của Thánh Giuse dẫn tới hành động
Trong Tân Ước, chỉ có Tin Mừng Matthew đề cập đến giấc mơ
như là một phương tiện mặc khải ý Chúa.[6]
Thánh sử ghi nhận 6 trường hợp được ghi nhận, trong đó 5 trường hợp nằm ở hai chương
đầu, và cách riêng 4 trường hợp được dành cho ông Giuse (lấy
bà Maria làm vợ; đưa thánh gia sang Ai Cập; trở về quê hương; định cư ở
Nazareth). Trường hợp thứ năm dành cho các nhà chiêm tinh (2,12).
Ba lần báo mộng cho ông Giuse được thuật lại theo một mô hình đồng nhất:
a/. Nhập đề: mô tả hoàn cảnh
b/. Công thức: “này kìa sứ thần Chúa,[7]
hiện đến báo mộng cho ông rằng”.
c/. Sứ điệp: thiên sứ trao cho ông một công tác “hãy
đem” (hãy mang).
d/. Tuân hành: ông Giuse tuân hành
e/. Trích dẫn Kinh Thánh: để ứng nghiệm lời Chúa về một
danh hiệu của Đức Giêsu: Emmanuel, Con (Thiên Chúa), người
Nazareth.
- 3/. Dựa theo bốn câu hỏi xoay quanh căn cước của Đức Giêsu
a/. Ai (Quis)? Đức Giêsu Kitô (Messia),
con vua David, con của cụ Abraham, sinh bởi một phụ nữ (1,1-17).
b/. Bằng cách nào (Quomodo)? Con Thiên Chúa
đã trở nên con vua David do ông Giuse thuộc dòng dõi David chấp nhận hài nhi
được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần (1,18-25).
c/. Ở đâu (Ubi)? Bethlehem, thành
phố David, nhưng được các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại đến bái yết (2,1-12).
d/. Từ đâu (Unde)? Từ Bethlehem của
người Do Thái, đi lánh nạn sang Ai Cập giống như ông Moses, về miền Galilee của
dân ngoại, định cư tại Nazareth.
- 4/. Dựa theo những cuộc di
chuyển địa lý: Bethlehem- Ai Cập – Nazareth
a/. Chương 1, diễn ra tại Bethlehem, thành phố vua David
b/. Chương 2, tường thuật việc di chuyển từ Bethlehem
sang vùng đất dân ngoại (Ai Cập), để rồi kết thúc
với việc hồi hương về Israel và định cư tại Nazareth.
Những cuộc di chuyển này không phải là do ngẫu nhiên,
nhưng nằm trong toàn bộ lịch sử cứu độ, “ngõ hầu lời ngôn sứ được nên trọn”:
Đức Giêsu sinh tại Bethlehem như là Messia lãnh tụ Israel dõng dõi vua David (2,6);
sang Ai Cập và ra khỏi đó như là con Thiên Chúa(2,15); về Nazareth, trở thành biệt hiệu “Giêsu
Nazareth” (2,23).
Sau phần giới thiệu tổng quát, bây giờ chúng ta hãy khảo
sát bản văn.
II. GIA
PHẢ ĐỨC GIÊSU KITÔ (1,1-17)
“Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua David, con
cháu tổ phụ Abraham” (Mt 1,1).
Tin Mừng Matthew mở đầu bằng một câu thoạt tiên xem ra
mang tính cách cung khai lý lịch, kê khai dòng tộc. Thực ra, dụng ý của tác giả
sâu xa hơn nhiều: đây không phải là lý lịch hành chánh cho bằng một lời tuyên
xưng đức tin: “Đức Giêsu vừa là con cháu của vua David(nghĩa là phần tử của dân Israel) vừa là con cháu tổ phụ Abraham (nghĩa
là phần tử của dân ngoại)”.
Thánh sử muốn chứng tỏ cho dân Do Thái biết rằng, Đức
Giêsu là Đấng Messia (Kitô) được hứa cho miêu duệ của David qua
gia phả của ông Giuse là con cháu David (chương Một), qua sinh
quán là Bethlehem, thành phố vua David (chương Hai). Đồng thời,
Đức Giêsu cũng mang ơn cứu độ cho dân ngoại, bởi vì Người là con cháu của tổ
phụ Abraham, kẻ đã nhận được lời hứa dành cho muôn dân: “Từ
Đông Phương, Tây Phương, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham,
Isaac và Jacob trong Nước Trời, còn con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ
tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc, nghiến răng” (Mt 8,11-12).
Trong chương Hai, thánh sử cho thấy rằng, các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại đi
tìm vua mới giáng sinh để bái thờ, còn các nhà lãnh đạo tại Jerusalem tỏ ra
lãnh đạm với Người, và còn đồng lõa với vua Herode để giết Người.
Vì thế, chúng ta đừng nên đọc gia phả của Đức Giêsu theo
cặp mắt của cơ quan an ninh muốn truy tầm cặn kẽ gốc tích của Người. Thánh sử
còn gói ghém nhiều dụng ý thần học trong đó nữa, đến nỗi có lúc phải gò ép các
dữ kiện: “Từ tổ phụ Abraham đến vua David là 14
đời; từ vua David đến thời lưu đày ở Babylon là 14 đời; và từ thời lưu đày ở
Babylon đến Đức Kitô cũng là 14 đời” (Mt 1,17). Con số 14 đời xem
ra giả tạo khi áp dụng cho những thời kỳ dài ngắn khác nhau: từ tổ phụ Abraham (khoảng
1850) đến vua David (khoảng
1000) thời gian là
850 năm, từ vua David đến thời lưu đày ở Babylon (năm
598) là 400 năm, và từ
thời lưu đày đến Đức Kitô là 600 năm. Làm sao những khoảng thời gian chênh lệch
như vậy mà gồm 14 đời ngang nhau được? Để đếm trọn số 14, Matthew buộc lòng gạt
bỏ nhiều tên, và dĩ nhiên việc lựa chọn những ai đáng loại không phải là không
có lý do, thí dụ: vua Giơhôgiakim con của vua Giôsigia (2V
36 tt) vào thời lưu
đày Babylon, (lẽ ra phải nhắc đến ở câu 11).[8]
Vấn đề chính yếu ở đây không phải là thống kê chính xác
con số các thế hệ. Xem ra trọng tâm xoay quanh nhà vua David: vua David là thừa
kế của lời hứa dành cho tổ phụ Abraham, và vua David được Thiên Chúa hứa sẽ
thiết lập một triều đại muôn đời (xc. 2Sm 7,12-16). Lời hứa
ấy vẫn tồn tại bất chấp cuộc lưu đày ở Babylon, và nay được thực hiện nơi Đức
Giêsu, là “Con Vua David” (Mt 9,27; 12,23;
15,22; 20,30.31; 21,9.15; 22,41-45). Đức Giêsu trở nên Con Vua
David qua móc xích của ông Giuse là con cháu David, như sẽ nói sau.
Do đó, theo các nhà chú giải, con số 14 mang tính cách
biểu tượng, vì tổng cộng số thứ tự của các phụ âm ghép thành tên David trong chữ Hippri: DWD (4+6+4).[9]
Tóm lại, Thánh Matthew không chỉ liệt kê các dòng dõi tổ
tiên của Đức Giêsu nhưng còn gói ghém một dụng ý khác nữa. Điều này có thể xác
minh qua một chi tiết khác. Bản gia phả bắt đầu bằng danh từ “Genesis”
(câu 1) có nghĩa là “sự
sinh ra” (“Generatio”, chứ không chỉ là sách gia phả, gốc tích);
danh từ này được lặp lại ở câu 18 (Iesu Christi autem generatio sic
erat). Xâu chuỗi các thế hệ được liên kết với nhau qua động từ “sinh
ra” (Generat): ông A sinh ông B; ông B sinh ông C,.v.v… từ câu 2
cho đến câu 16 (lặp lại 39 lần). Nhưng
đến cuối thì xâu chuỗi bị gián đoạn: thay vì tiếp tục “ông
Jacob sinh ông Giuse, ông Giuse sinh ông Giêsu”, Thánh Matthew lại
viết: “ông Jacob sinh ông Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ
Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (câu 16). Trước sự thắc mắc đương
nhiên của độc giả, thánh sử tìm cách giải thích: “sự
sinh ra Đức Giêsu Kitô là như thế này” (câu 18). Đến đây, ông Giuse
trở thành nhân vật hàng đầu: ông là con cháu vua David và truyền lại gia thế
này cho Đức Giêsu, mặc dù ông không phải là cha của Đức Giêsu theo phương diện
sinh lý.
III.
TRUYỀN TIN CHO THÁNH GIUSE (1,18-25)
Đoạn văn này thường được phân tích từ phía Đức Maria,
nhưng ít khi được nhìn từ phía ông Giuse. Dù sao, Thánh Luca nói đến thiên sứ Gabriel
truyền tin cho Đức Maria về việc sinh hạ Đức Giêsu; còn Thánh Matthew nói đến
việc thiên sứ truyền tin cho Thánh Giuse, không những để đánh tan một mối nghi
ngờ nhưng còn mặc khải sứ mạng của ông trong mầu nhiệm Nhập thể. Thực vậy, việc
truyền tin cho Thánh Giuse không chỉ nhằm giải thích nguồn gốc của sự kiện Đức
Maria có thai, nhưng còn mời gọi ông hãy tham gia vào việc hoàn tất chương
trình của Thiên Chúa, đó là Đấng Messia thuộc dòng vua David.
Trước khi đi vào
nội dung, chúng ta nên nhớ rằng sách Tin Mừng của Thánh Matthew được viết cho
dân Do Thái và sử dụng nhiều cách lập luận dựa theo nền văn hóa của họ. Người
đọc phải làm quen với não trạng của họ, xét về mặt tín ngưỡng (dựa
trên giao ước của Thiên Chúa với các tổ phụ), cũng như xét về phong
tục xã hội. Sự hiểu biết tục lệ người Do Thái cần thiết để hiểu nhiều vấn đề
liên quan đến hôn nhân giữa Thánh Giuse và Mẹ Maria.
Tại nhiều dân tộc, trước khi cử hành lễ thành hôn (lễ
cưới) thì có lễ đính
hôn (lễ hỏi). Giá trị pháp lý của việc đính hôn thay
đổi tùy nơi tùy thời. Ngày nay, việc đính hôn chỉ mang tính cách một lời hứa
danh dự, chứ không có giá trị ràng buộc như là việc thành hôn.[10] Tuy nhiên, trong xã hội Do Thái thời xưa,
việc đính hôn không những đặt ra nghĩa vụ ràng buộc đôi bên phải tiến tới việc
kết hôn, mà còn mang theo nghĩa vụ chung thủy với nhau nữa. Luật pháp coi hai
người đính hôn như là “vợ” và “chồng”.
Vì thế, sự ngoại tình được coi như tội phạm ngay từ lúc đính hôn, chứ không
phải từ lúc thành hôn (xc. Đnl 20,7; 22,23-25).
Đàng khác, trong thời gian đính hôn, luật pháp cũng dự trù hai thủ tục để ly
dị. Thủ tục thứ nhất mang tính cách công khai, khi người chồng tố cáo bà vợ
ngoại tình, và như vậy bà phải chịu những hình phạt dành cho tội ngoại tình (ném đá: xc. Ga 8,5). Thủ
tục thứ hai mang tính cách tư riêng: trước mặt hai nhân chứng, ông trao cho bà
một tờ tuyên bố từ hôn.
Chuyện xảy ra là: “bà Maria... đã đính hôn với ông
Giuse; nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do Chúa Thánh
Thần” (1,18). Thánh Matthew nói rằng, bà Maria chỉ mới đính hôn với
ông Giuse mà thôi. Nên lưu ý là không tài liệu lịch sử nào nói đến tuổi tác của
ông Giuse. Hình ảnh về ông Giuse đầu tóc bạc phơ là do ảnh hưởng của một ngụy
thư “Tin Mừng tiên khởi Thánh Jacobe” sẽ nói trong chương tới. Cũng không có
tài liệu nào cho biết hai người đã đính hôn với nhau từ hồi nào và chừng nào
tính chuyện về chung sống với nhau. Dù sao, thì ông đã là chồng của bà Maria
rồi (Mt 1,16.19) và bà là vợ (Mt
1,20). Bỗng nhiên, bà Maria đã mang thai. Theo lối hành văn của
Matthew (1,19), ông Giuse không
muốn làm to chuyện, và đi tới quyết định từ hôn theo thủ tục thứ hai nói trên
đây. Tuy nhiên, lý do gì thúc đẩy ông hành động như vậy? Đây là đề tài tranh
luận sôi nổi ngay từ thời các Giáo phụ.
A. Lý do ly dị
Nói chung, các ý kiến của các nhà chú giải được xếp thành
hai nhóm: một nhóm cho rằng ông Giuse không biết gì về nguồn gốc siêu nhiên của
việc bà Maria mang thai, vì thế ông đâm ra nghi ngờ; nhóm thứ hai chủ trương
rằng ông đã rõ đầu đuôi sự việc, nhưng không biết phải xử trí thế nào.
1/. Dựa theo nhóm ý kiến thứ nhất (chẳng
hạn các Giáo phụ: Giustino, Gioan Kim Khẩu, Ambrosio, Augustino, có lẽ chịu ảnh
hưởng của “Tin Mừng tiên khởi Thánh Jacobe”), ông Giuse đã nghi ngờ
về sự chung thủy của vợ mình, vì thế ông quyết định ly dị. Họ cũng nghĩ rằng,
Đức Maria giữ thái độ thinh lặng, hoặc vì dè dặt khiêm tốn, hoặc vì biết rằng
không thể nào thuyết phục được ông Giuse.
2/. Nhóm thứ hai (đại diện bởi thánh Hieronimo thời
Giáo phụ, thánh Benardo và Thánh Thomas Aquinas thời Trung cổ) cho rằng, Thánh Giuse đã biết nguyên
nhân khác thường của việc cưu mang của Đức Maria. Vào thời nay, ý kiến này được
củng cố nhờ sự nghiên cứu ngữ học: Thánh Matthew viết rằng: “trước
khi hai ông bà về chung sống với nhau, thì thấy bà có thai”, ở thể
văn không có chủ từ. Như vậy, có thể là tác giả chỉ trưng dẫn sự kiện, chứ
không khẳng định “ai đã thấy”? Hơn nữa, câu
văn không dứt ở chỗ “thấy bà có thai”, nhưng
còn tiếp tục “do Chúa Thánh Thần”. Phải
chăng, dụng ý của Matthew ở đây là muốn đề cao một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu
biết của bà Maria cũng như của ông Giuse?
Thánh sử không xác định bằng cách nào ông Giuse biết được
vợ mình có thai: tại vì sự kiện trờ trờ ra đó? Hay là do họ hàng bên vợ kháo
láo? Hoặc vì chính bà đã tâm sự với chồng về sự lúng túng của mình?
B. Ông Giuse là người công chính
“Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn
tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).
Tại sao ông Giuse được gọi là công chính?
1/. Những ai chủ trương ông đã nghi ngờ bà Maria ngoại
tình thì giải thích “công chính” theo nghĩa là tôn trọng luật pháp (công
minh chính trực). Nếu người vợ (dù chỉ mới đính hôn) phạm
tội ngoại tình, thì chồng buộc phải từ hôn (xc. Đnl 22, 23-27). Ông ta
có quyền lựa chọn một trong hai thủ tục như đã nói. Trường hợp này, ông Giuse
chọn thủ tục tư riêng, bởi vì không muốn làm mất thanh danh của vợ. Như vậy,
ông vừa tuân hành luật pháp, vừa tôn trọng sự công bằng với bà vợ (xét
vì ông chưa nắm vững các tình tiết của câu chuyện).
2/. Tuy nhiên, các nhà chú giải cận đại muốn đào sâu vấn
đề hơn nữa, nghĩa là tìm hiểu ý nghĩa của từ “công chính” (Dikaios) theo truyền thống Kinh Thánh. Hạn từ “công
chính” được sử dụng
nhiều lần trong Tin Mừng Matthew, áp dụng cho những người mong chờ Thiên Chúa
thực hiện những lời hứa (Mt 13,17; 23,29), hoặc
cho các môn đệ sẽ được gia nhập Nước Thiên Chúa (Mt
13,43.49; 25,37.46). Thực vậy, theo Kinh Thánh, người công chính là
kẻ đi theo đường lối của Chúa, như sách Khôn Ngoan đã liệt kê những gương mẫu ở
chương 10,4-20: Noe, Abraham, Lot, Jacob, Giuse. Thánh Vịnh ca ngợi người công
chính vì họ sẽ lãnh được đất hứa (Tv 37,29), họ sẽ tươi tốt
như cây dừa (Tv 92,12), họ sẽ được ánh
sáng Chúa chiếu dọi (Tv 112,4).
Trong bối cảnh này, ông Giuse được gọi là “công
chính” bởi vì ông
mong đợi Chúa thực hiện những lời hứa. Ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa
muốn để hoàn tất chương trình của Ngài. Dự tính muốn bỏ bà Maria cách kín đáo
không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự của bà thúc đẩy,
nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Ta có thể ví với thái độ của những người
đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lùi lại vì kính sợ, tựa như ông
Moses đã cởi dép khi tiến đến bụi gai cháy rực (St
3,5), tựa như ông Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực
thánh (Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng
kiến mẻ lưới lạ thường (Lc 5,8). Ông Giuse được
biết là bà Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh
Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của
mình. Vì thế ông toan tính rút lui.
Để củng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de
La Potterie nhận xét rằng, cần
phải xét lại các bản dịch cổ truyền.[11]
Thay vì “ông Giuse là người công chính không
muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông
Giuse là người công chính không muốn tiết lộ [mầu nhiệm], quyết định rời bỏ bà kín
đáo”. Động từ “Deigmatisai” (ít được sử dụng trong
tiếng Hy Lạp) tự nó
chỉ có nghĩa là “thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh
sáng” (theo sự giải thích của Eusebio Cesarea), và tùy theo mạch văn
mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu),“bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt).
Ông Giuse được bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông
không dám tiết lộ mầu nhiệm này.
C. Sứ điệp của thiên sứ
Thánh Matthew mô tả việc thiên sứ hiện ra với ông Giuse
dựa theo những khuôn mẫu trong Cựu Ước về việc ủy thác sứ mạng (chẳng
hạn Giđêon Tl 6,11-24), hoặc tiên báo về tương lai của đứa trẻ (chẳng
hạn Ismael trong St 16,11; Isaac trong St 17,19; Samson trong Tl 13,3-5.7).
- Trình thuật bắt đầu với việc gọi tên và danh hiệu mang
theo một ơn gọi: “Này Giuse là con cháu David” (1,20),
cũng tựa như trước đây: “Này Giđêon, người dũng sĩ” (Tl 6,12).
- “Đừng sợ”. Tân Ước thường
dùng những lời này mỗi lần thiên sứ hiện ra, chẳng hạn để loan báo sự sinh hạ
của ông Gioan Tiền Hô và Đức Giêsu (Lc 1,13.30), để ủy thác
cho các phụ nữ loan báo việc Chúa Phục sinh (Mt 28,5.10), để cổ động
tinh thần cho Thánh Phaolô(Cv
18,9). Một cách tương tự như vậy, thiên sứ sắp sửa tỏ lộ cho ông
Giuse một sứ mạng.
- Nội dung mặc khải: thiên sứ muốn nói gì với ông Giuse?
1/. Theo nhóm ý kiến thứ nhất, ông Giuse nghi ngờ về sự
chung thủy của vợ mình bởi vì ông không biết nguồn gốc của bào thai mà vợ mình
đang mang. Vì thế thiên sứ đến giải thích nguyên nhân ngõ hầu đánh tan sự ngộ
nhận. Như vậy, nội dung của mặc khải là: “đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì
người con bà cưu mang là do Chúa Thánh Thần”.
2/. Tuy nhiên, lối giải thích ấy một đàng dựa trên giả
thiết là ông Giuse nghi ngờ về vợ mình, đàng khác đã cắt ngang lời của thiên
sứ. Sứ điệp không chỉ nhằm giải thích nguồn gốc của sự cưu mang, nhưng còn mang
theo một sứ mạng về phía ông Giuse nữa: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt
tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”
(1,21). Có lẽ ông Giuse đã biết là bà Maria mang thai do quyền năng
Chúa Thánh Thần(chứ không
phải vì ngoại tình), nhưng ông không biết phải xử trí thế nào, vì
thế ông định tâm sẽ rút lui. Thiên sứ đến xác nhận rằng bà Maria mang thai do
Chúa Thánh Thần; đồng thời bảo ông Giuse đừng rút lui nhưng cứ đưa bà Maria về
với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng, đó là đặt tên cho con trẻ,
nghĩa là làm cha của con trẻ.
D. Vai trò của ông Giuse
Qua lời của thiên sứ, ta thấy nổi bật hai vai trò của ông
Giuse trong chương trình của Thiên Chúa: chồng của bà Maria và cha của Đức
Giêsu.
1/. Ông Giuse là chồng của bà Maria (1,16.19.20)
Hai người tiếp tục thủ tục hôn phối: từ chỗ đính hôn đến
chỗ kết hôn (Mt 1,24). Tuy nhiên, hai
người không ăn ở với nhau: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà
sinh một con trai” (1,25). Điều này không nhất thiết hàm ngụ rằng
sau khi sinh con, thì hai ông bà lại ăn ở với nhau! Tác giả chỉ muốn nói rằng
Đức Giêsu sinh ra không do sự giao hợp thường tình, có thế thôi. Cụm từ “cho
đến khi” không giả
thiết một sự thay đổi tình trạng sau đó; chẳng hạn như, khi Kinh Thánh viết
rằng, “bà Michal không có con cho đến khi chết” (2Sm 6,23),
hoặc Đức Giêsu hứa sẽ hiện diện với các môn đệ cho đến ngày tận thế (Mt
28,20). Không ai tưởng tượng được rằng bà Michal sẽ có con sau khi
chết, hoặc là Đức Giêsu chỉ hiện diện với các môn đệ cho đến ngày tận thế mà
thôi!
2/. Ông Giuse là cha của Đức Giêsu
Thiên hạ nhìn nhận Đức Giêsu là “con
ông Giuse” (Mt 13,55). Tuy Đức Giêsu được sinh ra không do sự giao
hợp vợ chồng, nhưng ông Giuse thực sự là cha của Người, bởi vì ông là chồng của
bà mẹ. Vai trò làm cha được biểu lộ qua việc “ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”
(1,25), cũng như những hành động sẽ nói tiếp theo. Ở đây, theo lời
của sứ thần, ông cần phải làm cha của hài nhi bởi vì ông là “con
cháu David”, nhờ vậy hài nhi Giêsu được nhận vào hàng miêu duệ vua
David (Mt 1,16-17).
Hơn nữa, việc đặt tên cho con trẻ là Giêsu không chỉ là
một hành vi hộ tịch (cha đặt tên cho con), mà
còn là một hành vi đức tin. Con trẻ sinh ra được xưng là “Giêsu”, “vì
chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,22).
“Tất cả sự việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa
kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con
trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là: Thiên Chúa ở cùng
chúng ta” (1,23). Đoạn văn này được trích từ ngôn sứ Isaia
7,14. Thường người ta chú ý đến ý tưởng “một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con
trai” và từ đó nảy ra
nhiều cuộc tranh luận, bởi vì nguyên bản Hippri không nói đến “trinh
nữ” (betulah) mà chỉ
là “thiếu nữ” (almah: một cô gái). Bản dịch Hy
Lạp chuyển nghĩa là “trinh nữ”.
Tuy nhiên, cũng có nhà chú giải nêu thắc mắc: đâu là điểm
nhấn của Matthew? Có phải là“trinh
nữ thụ thai”, hay tên con trẻ là “Emmanuel” - Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Có lý do
để nghiêng về vế thứ hai, bởi vì Tin Mừng Matthew kết thúc với lời tuyên xưng
rằng: “Này, Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt
28): Đức Giêsu đích thực là Emmanuel, bởi vì là Thiên Chúa đến ở
với nhân loại kể từ lúc nhập thể cho đến tận cùng lịch sử. Dù sao đi nữa, Thánh
Matthew không trích dẫn nguyên văn lời Isaia, nhưng đã thích nghi với thực tại
mà vị ngôn sứ sống trước đó 8 thế kỷ không thể nào mường tượng được. Có lẽ, ông
Isaia không thể tưởng tượng nổi một trinh nữ sinh con! Điều này chỉ có thể xảy
đến do sự can thiệp độc đáo của Thiên Chúa. Các Kitô hữu đã tin như vậy; rồi từ
niềm xác tín đó, họ đã đọc lại Cựu Ước và khám phá ra những sự chuẩn bị mà nay
trở nên trọn vẹn. Phương pháp này gặp thấy nhiều lần trong Tân Ước, đặc biệt
nơi Tin Mừng Matthew (41 lần). Như đã nói trên
đây, trong hai chương đầu, Matthew trưng dẫn 5 “lời” của Cựu Ước, nhưng không hoàn toàn lấy
nguyên văn: có lúc ông sửa đổi đôi chút (Mt 1,23 = Is 7,14), có lúc
ghép hai ba câu làm một (thí dụ: Mt 2,6 = Mk 5,1tt + 2 Sm 5,2.
Mt 2,22 = Tl 13,5.7+ Is 11,1).
Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở mục 4 (những
đoạn văn Cựu Ước nói về Thánh Giuse).
IV. CÁC
NHÀ CHIÊM TINH (2,1-12)
Thánh Matthew mở đầu sách Tin Mừng với việc khẳng định
căn cước của Đức Giêsu là “con cháu vua David và con cháu tổ phụ
Abraham”. Xem ra, chương Một được dành để chứng tỏ sự liên hệ của
Đức Giêsu với David (vua dân Do Thái), và
chương Hai được dành bàn đến mối liên hệ với ông Abraham (tổ
phụ của muôn dân).
Chương hai mở đầu với biến cố các nhà chiêm tinh từ bên
Đông Phương đến bái lạy “Vua dân Do Thái” vừa mới sinh (2,2).
Nên lưu ý, bản văn không nói đến “ba vua”: họ không phải là
vua, cũng không chỉ có ba; con số này được suy đoán từ ba lễ phẩm mang đến (vàng,
nhũ hương, mộc dược).[12]
Họ được gọi là “Magus”, một danh từ mang
nhiều ý nghĩa: các lãnh đạo tôn giáo (đạo sĩ), những hiền nhân
quân tử, các nhà thiên văn. Họ đến từ Đông Phương(xét theo địa lý của Palestina, nghĩa là có thể từ
Arabia, Syria, hoặc Babylonia). Họ đã nhận được một tín hiệu từ một
ngôi sao mọc lên: đã có nhiều bút mực chảy ra để xác định bản chất của ngôi sao
kỳ diệu này (sao chổi, chòm sao, hay chỉ là sao
tưởng tượng?).[13]
Những vấn đề này không quan trọng lắm đối với vấn đề đang bàn, bởi vì có lẽ
dụng ý của Matthew nằm ở chỗ khác, đó là so sánh thái độ của cấp lãnh đạo dân
Do Thái với các lãnh đạo của dân ngoại.
Như đã biết, người Do Thái đang mong chờ Đấng Messia đến
để tái lập vương triều David, giải thoát dân tộc khỏi ách nô lệ ngoại bang (xc.
Cv 1,6). Tuy nhiên, lúc ấy, tại Jerusalem, vương quyền nắm trong
tay triều đại Herode, dưới quyền kiểm soát của chính quyền Roma. Ông Herode coi
mình là “vua” chính thức (Mt
2,3), và không thể nào dung túng cho bất cứ ai đe dọa ngai báu của
mình. Tuy các giới lãnh đạo tôn giáo và kinh sư tại Jerusalem cũng biết đến các
sấm ngôn, nhưng họ đứng về phía vua Herode, cho nên họ không đếm xỉa gì đến
biến cố Chúa giáng sinh. Ngược lại, các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại thì lại
háo hức đi tìm kiếm Chúa để thờ lạy. Việc chính quyền Jerusalem khai trừ “vua
người Do Thái” mới ra
đời báo trước việc tẩy chay “Vua người Do Thái” mai sau, đưa đến việc đóng đinh Người
trên thập giá (Mt 27,37).
Trong câu chuyện này, Thánh Giuse đứng ở hậu trường. Tên của
ông không được nhắc đến, bởi khi ở câu 11, thánh sử viết: “Họ
vào nhà, thấy Hài nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người”.
Hiểu ngậm là Thánh Giuse cũng hiện diện lúc đó, bởi vì cụm từ “Hài
nhi và mẹ Người” được
dùng bốn lần trong chương Hai (câu 13.14.20.21) bên cạnh Thánh Giuse. Tuy nhiên, thiết
tưởng nên ghi nhận sự hiện diện của Thánh Giuse qua một lối hành văn khác, đó
là ở chương Một, ông định bỏ bà Maria cách “kín đáo” (1,19); còn bây
giờ vua Herode “kín đáo” tra vấn các nhà chiêm tinh (2,7).
Cả hai hành vi diễn ra cách kín đáo (bí mật), nhưng một bên là
vì muốn tìm hiểu ý Chúa, bên kia là trái ngược ý Chúa. Sự đối chọi này tăng
thêm ý nghĩa khi bước sang biến cố kế tiếp, khi âm mưu của vua Herode bị ông
Giuse phá vỡ do một mặc khải từ trời.
V. LÁNH
NẠN SANG AI CẬP (2,13-18)
Trong những đoạn tiếp của chương Hai, ông Giuse trở thành
nhân vật chính, với vai trò là bảo vệ “hài nhi và mẹ Người” (Mt 2,13.19.22).
Ông tỏ ra thực sự là “người công chính” mau mắn tuân hành ý Chúa. Trước đây,
ông vâng theo ý Chúa đón bà Maria về làm vợ; bây giờ ông vâng theo ý Chúa đưa
thánh gia sang nước Ai Cập, rồi từ Ai Cập trở về quê hương, và đến định cư tại
Nazareth.
Tại sao lánh nạn sang Ai Cập mà không sang nước khác? Đây
không chỉ là vấn đề an ninh bản thân nhưng còn nằm trong kế hoạch cứu độ, như
thánh sử Matthew giải thích câu Kinh Thánh: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập” (Hs
11,1). Ngôn sứ Hoses nói đến dân Israel được Thiên Chúa thương yêu
như đứa con và dẫn ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; nhưng Matthew áp dụng cho Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa: cũng như Moses không những cứu dân mình ra khỏi cảnh
nô lệ mà còn đưa vào đất Israel, Đức Giêsu - Thiên Chúa cứu độ - là ông Moses
mới, lãnh đạo đoàn dân được cứu thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa vào Nước
Trời (Mt 2,21). Đó là kế hoạch của Thiên Chúa, và
Thánh Giuse góp phần vào sự thực hiện chương trình này.
VI. TRỞ VỀ
NAZARETH (2,19-23)
Biến cố cuối cùng được Thánh Matthew nói trong chương Hai
là ông Giuse đưa thánh gia về quê hương Israel và định cư tại Nazareth:
“Sau khi vua Herode băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với
ông Giuse bên Ai Cập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài nhi và mẹ
Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết rồi”. Ông liền chỗi
dậy đưa Hài nhi và mẹ Người về đất Israel. Nhưng vì nghe biết Arkhêlao đã kế vị
vua cha là Herode, cai trị miền Judea, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi
được báo mộng, ông lui về miền Galilee, và đến ở tại một thành kia gọi là
Nazareth, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được
gọi là người Nazareth”.
Đoạn văn này hàm chứa hai lần thiên sứ báo mộng tương ứng
với hai hành động của ông Giuse: trước hết là trở về quê hương, kế đó là định
cư ở Nazareth.
Trước đây, ông Giuse đã đưa thánh gia từ Bethlehem lánh
nạn sang Ai Cập. Vì thế khi tính chuyện hồi hương thì đương nhiên là trở về quê
cũ ở miền Judea (miền Nam Palestin). Tuy
nhiên, ý Chúa lại định cách khác: ông Giuse sẽ về Nazareth, ở miền Galilee (miền
Bắc Palestin). Tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa.
Nên lưu ý, các nhà chú giải Kinh Thánh không tìm thấy
được một câu nào trong Cựu Ước nói là “Người sẽ được gọi là người Nazareth”:
- Vài học giả nghĩ rằng, “người
Nazareth” là một biến
thể của tính từ “Nazir”: kẻ được thánh
hiến, giống như ông Samson được thánh hiến ngay từ lòng mẹ (Tl
13,5; 16,17); hoặc“Neser”:
chồi lộc, được nói đến trong Is 11,1 (Đấng Messia thuộc chồi Jesse là thân
sinh của David).
- Ý kiến khác cho rằng, thánh sử Matthew không nghĩ tới
một câu văn cụ thể nào trong Kinh Thánh cho bằng toàn thể kế hoạch của Thiên
Chúa nói chung: Đức Giêsu sinh ra tại Bethlehem, thành phố của vua David, nhưng
sinh sống tại Nazareth, miền Galilee thuộc dân ngoại.
Dù sao, biệt hiệu của Người là “Giêsu
Nazareth” (Mt 21,11; 26,71; xc Cv 22,8; 24,5; 26,9). Đối với người
đương thời, Nazareth là một chốn vô danh tiểu tốt, và đôi khi còn bị khinh miệt
nữa (Mc 14,67). Vì thế họ không thể nào chấp nhận
Đấng Messia xuất thân từ Nazareth được (Ga 1,46; 7,41-42.52). Điều
trớ trêu là chính cư dân Nazareth cũng chẳng có thiện cảm với Đức Giêsu (Mt
13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14.22-29).
Ông Giuse lẳng lặng thi hành ý Chúa, tuy dù ông không am
tường tất cả mọi tình tiết. Từ chương Ba trở đi, Thánh Matthew chuyển sang giai
đoạn hoạt động công khai của Đức Giêsu. Đến đây vai trò của ông Giuse trở nên
lu mờ. Không ai biết được ông qua đời lúc nào. Tên ông còn được nhắc đến một
lần nữa ở chương 13, khi thiên hạ thắc mắc về Đức Giêsu:“Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm
được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc sao?”.
Qua đó, chúng ta
biết được Thánh Giuse làm nghề “thợ mộc”. Đoạn văn tương
tự ở Mc 6,3 cho biết là Đức Giêsu cũng làm thợ mộc, và như vậy là Người được
ông Giuse truyền nghề. Nên biết là, “thợ mộc” (Hy Lạp: Tektôn) đã được các Giáo phụ giải thích theo
nhiều nghĩa: thợ mộc, thợ rèn, thợ nề (faber lignarius, o ferrarius, o
morarius); tuy rằng, ý kiến thông thường cho rằng Thánh Giuse làm
thợ mộc, thậm chí Thánh Justino viết rằng:“Người
đẽo cày và ách cho thú vật” (Dial. 88: PG 6,888). Dù sao, vào thời
bấy giờ, “thợ mộc” không chỉ được xếp vào hạng “thủ
công”, mà nhiều người thuộc hạng “sĩ” cũng làm thợ mộc, chẳng hạn Rabbi
Shammai. Vì thế không lạ gì khi dân Israel bị phát lưu sang Babylon, các thợ mộc
cũng bị bắt cùng với hàng quý tộc (Gr 24,1).
Theo ngụy thư “Chuyện ly trần của ông Giuse thợ mộc”,
thánh nhân qua đời khi đã cao niên (111
tuổi) lúc Đức Giêsu
sắp lên 20 tuổi! Thánh Matthew không đả động gì đến cuộc ly trần của ông Giuse
có lẽ vì thấy nhiệm vụ của Người đã hoàn tất. Từ nay, Đức Giêsu sẽ bắt đầu mặc
khải Tin Mừng cứu độ, mà chủ thể là “Thiên Chúa là Cha trên trời”:
các độc giả hãy cần dồn chú ý vào người Cha đó (xc
Mt 23,9).
VII. KẾT
LUẬN
Trong hai chương đầu của Tin Mừng Thánh Matthew, ta thấy
Thánh Giuse giữ một vai trò quan trọng trong mầu nhiệm Nhập thể. Ông được Chúa
gọi tham gia vào việc Chúa Cứu Thế ra đời cũng như che chở Hài nhi trong thời
thơ ấu:
- Bằng cách đưa bà Maria về sống chung: ông trở thành
chồng của bà, và cha của Đức Giêsu, nhờ thế Người trở nên con cháu vua David;
- Bằng cách đặt tên cho Hài nhi là Giêsu, mặc khải chân
tướng của Người như là “Thiên Chúa cứu chữa”, “Thiên
Chúa ở với chúng ta” (Emmanuel).
- Bằng cách bảo vệ Đức Giêsu khỏi bị vua Herode ám sát
qua việc đưa thánh gia lánh nạn bên Ai Cập, rồi đưa về định cư tại Nazareth,
nhờ thế Đức Giêsu trở thành ông Moses mới và mang biệt hiệu “Giêsu
Nazareth”.
Tóm lại, ông Giuse đã đóng vai trò quan trọng trong việc “nặn
hình” Đức Giêsu theo chương
trình cứu chuộc. Tuy nhiên, ông đã thi hành sứ mạng trong tinh thần vâng phục
đức tin như một tôi trung của Thiên Chúa. Đối lại, vinh dự của ông ở chỗ làm “chồng
của bà Maria” (Mt 1,16.19), và nhất là Đức Giêsu được coi là “con
ông Giuse” (xc. Lc 4,22; Ga 6,42).
***
MỤC 2: TIN
MỪNG THÁNH LUCA
Không thiếu người đã ví Tin Mừng Matthew và Tin Mừng Luca
như là “Tin Mừng về Thánh Giuse” và “Tin Mừng về Đức Maria”.
Sự đối chiếu ấy dựa trên nhiều chi tiết, đặc biệt khi so sánh hai cảnh truyền
tin của thiên sứ nói ở chương đầu tiên. Tuy nhiên, chưa chắc đó là dụng ý của
hai thánh sử. Như đã thấy trong Mục 1 vừa rồi, có lẽ Thánh Matthew muốn trình
bày Đức Giêsu như là con cháu David, con cháu Abraham, Emmanuel; còn ông Giuse
chỉ là một chứng nhân cho chân lý ấy. Còn dụng ý của hai chương đầu Tin Mừng
Luca là gì? Một vài nhà chú giải cho rằng, trọng tâm nằm ở chỗ đối chiếu hai
nhân vật: Gioan tiền hô và Đức Giêsu, qua cảnh truyền tin (1,5-25
// 26-38) và sinh hạ (1,57-66
// 2,1-21), và liên kết với nhau qua cảnh Đức Maria đi thăm viếng
bà Elisabeth (1,39-56). Dù nói thế nào
đi nữa, chắc là Luca không hề muốn so sánh Đức Maria với Thánh Giuse. Ở đây,
chúng tôi chỉ giới hạn vào việc nghiên cứu vai trò của Thánh Giuse mà thôi.[14]
I. NHẬN
XÉT TỔNG QUÁT
Trong Tin Mừng Luca, Thánh Giuse không được nổi bật như
trong Tin Mừng Matthew.
A. Về văn bản
Sau đây là những đoạn văn có liên quan đến ông Giuse:
- Ở 1,27, trong cảnh truyền tin, Đức Maria được giới
thiệu như là “một trinh nữ đã đính hôn với một
người tên là Giuse”.
- Ở chương Hai, Thánh Giuse thường xuất hiện bên cạnh Đức
Maria, và đôi khi được gọi chung ở số nhiều là: “họ”, “hai
ông bà”.
- Sang chương Ba, khi bước vào cuộc đời công khai của Đức
Giêsu, ông Giuse được nhắc đến trong bản gia phả: “Đức
Giêsu được coi là con ông Giuse, [ông Giuse là] con ông Hêli, [ông Hêli là] con
ông Matthat,.v.v…” (Lc 3,23).
- Tại hội đường Nazareth, sau khi nghe bài giảng ra mắt,
người ta bàn tán với nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse
sao?” (Lc 4,22).
B. Những điểm tương đồng
Hai thánh sử đồng nhất ở vài điểm căn bản liên quan đến
đạo lý về việc cưu mang do quyền năng Thánh Thần:
- Ông Giuse thuộc dòng tộc David
- Ông Giuse đã đính hôn với bà Maria
- Bà Maria có thai trước khi hai người sống chung với
nhau
- Tên của Hài Nhi do thiên sứ chỉ định: Giêsu, Cứu thế (Mt
1,21 = Lc 2,11), Con Thiên Chúa(Mt
2,15 = Lc 1,35)
- Đức Giêsu sinh tại Bethlehem, dưới thời vua Herode (Mt
2,1 = Lc 1,5)
- Đức Giêsu trải qua thời thơ ấu ở Nazareth
C. Những điểm khác biệt
Có nhiều điểm khác biệt giữa hai thánh sử, đôi khi có thể
xem như bổ túc cho nhau, nhưng đôi khi xem ra tương phản nhau.
1/. Luca cung cấp vài dữ kiện bổ túc cho Matthew, chẳng
hạn như cuộc giáng sinh của Đức Giêsu tại Bethlehem và các mục đồng đến thờ
lạy, việc cắt bì, dâng con trong đền thờ, và việc Hài nhi thất lạc trong đền
thờ.
2/. Tuy nhiên, có vài chi tiết xem ra trái ngược với
Matthew và đã gây ra nhiều tranh luận, chẳng hạn như:
- Nguyên quán và sinh quán của Đức Giêsu
Theo Matthew, xem ra nguyên quán và sinh quán của Đức
Giêsu là Bethlehem, nơi mà ông Giuse đã có nhà ở (Mt
2,11); và thánh gia chỉ đến định cư ở Nazareth sau khi được thiên
sứ chỉ định khi từ Ai Cập trở về. Theo Luca, nguyên quán của Thánh Giuse và Đức
Maria là Nazareth; hai ông bà về Bethlehem để kiểm tra dân số, và không tìm
được chỗ trọ. Bà Maria sinh Đức Giêsu tại Bethlehem, và không rõ thánh gia trở
về Nazareth lúc nào. Đàng khác, Luca không đả động đến việc lánh nạn bên Ai
Cập.
- Liên lạc với đền thờ
Theo Luca, 40 ngày sau khi sinh con, Thánh Giuse và Đức
Mẹ đem Đức Giêsu lên đền thờ để tiến dâng cho Thiên Chúa. Điều này không được
Matthew nói tới. Trái lại, dân cư ở Jerusalem xôn xao khi thấy các nhà chiêm
tinh đến hỏi thăm tin tức về Vua Do Thái vừa mới ra đời, gây ra cảnh tàn sát các
hài nhi ở Bethlehem, buộc lòng thánh gia phải lánh nạn. Luca nói đến việc Đức
Giêsu khi lên 12 tuổi thì đi theo cha mẹ từ Nazareth lên đền thờ. Phải chăng
như vậy, thời gian lánh nạn ở Ai Cập không quá lâu dài?
Dĩ nhiên, các nhà chú giải Kinh Thánh đã đưa ra nhiều giả
thuyết để giải thích những sự khác biệt giữa hai thánh sử. Có lẽ hai vị đã thu
thập dữ liệu từ hai nguồn độc lập (Matthew từ phía ông Giuse, và Luca từ
phía Đức Maria). Họ đã không tìm cách trao đổi để kiểm chứng. Cả
hai bản văn đã được nhận vào quy điển Sách Thánh. Chúng ta cần chấp nhận tất cả
hai bản văn và tìm cách dung hợp các sự khác biệt trong tầm mức có thể.
II. VĂN
BẢN
Chúng ta sẽ bắt đầu khảo sát bản gia phả ở chương Ba, rồi
sau đó trở lại thứ tự các biến cố nói ở chương Một và chương Hai: truyền tin
cho Đức Maria, giáng sinh tại Bethlehem, cắt bì, dâng con trong đền thờ, lạc
con trong đền thờ.
A. Gia phả
Giữa hai bản gia phả theo Matthew và theo Luca, có nhiều
sự khác biệt không nhỏ và chắc hẳn không ngoài ý muốn của tác giả.
1/. Bối cảnh
- Tin Mừng Matthew mở đầu bằng gia phả của Đức Giêsu, “con
cháu vua David”, “con cháu tổ phụ Abraham” (1,1). Như đã thấy, xem ra điểm nhấn là Đức Giêsu là con
cháu vua David, là Đấng Messia được hứa cho các tổ phụ. Thứ tự đi từ trên xuống
dưới, từ Abraham đến ông Giuse.
- Ở Tin Mừng Luca, bản gia phả được thuật lại ở chương
Ba, vào lúc Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, sau khi lãnh phép rửa tại sông
Jordan: “Khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, Người
trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ tưởng người là con ông Giuse, con ông Hêli, con ông
Matthat,.v.v…” theo
thứ tự từ dưới lên trên, mãi đến tận ông Adam.
2/. Chiều dài
Đừng kể thứ tự từ trên xuống (Mt:
ông A sinh ông B), hoặc từ dưới lên (Lc:
ông A con ông B), điều khác biệt quan trọng là ông Luca lên mãi tới
nguyên tổ nhân loại là ông Adam, “con của Thiên Chúa” (3,38).
Như vậy, tầm nhìn của Luca rộng lớn hơn, khi cho thấy Đức Giêsu thuộc về dòng
dõi của tất cả loài người, chứ không riêng một dân tộc nào. Điều này không
những nằm trong thần học về ơn cứu độ phổ quát, nhưng còn được nêu bật trong
bối cảnh mà gia phả được xen vào, nghĩa là tại sông Jordan. Một đàng ông Gioan
Tiền Hô cảnh cáo đồng bào rằng: “Các anh đừng vội nghĩ bụng rằng:
“Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”, vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể
làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (3,8). Cách
đó không xa, khi Đức Giêsu chịu phép rửa thì có tiếng từ trời phán rằng: “Con
là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (3,22). Chân tướng của Đức Giêsu là “Con
Thiên Chúa” (Lc 1,35), và điều này quan trọng hơn biệt hiệu “con
cháu vua David” hay “con
cháu tổ phụ Abraham” nơi
ông Matthew.
- Thánh Luca viết tác phẩm dành cho dân ngoại, vì thế ông
không bận tâm đến việc móc nối với những lời hứa dành cho vua David và dân tộc
Israel.[15]
Tuy nhiên, thánh sử tôn trọng sự thật về Đức Giêsu thuộc dòng dõi vua David.
Khi truyền tin cho Đức Maria, thiên sứ nói:“Thiên
Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng của David, tổ tiên Người” (1,33).
Thiên sứ báo tin cho các mục đồng rằng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra
cho anh em trong thành vua David” (2,11). Cũng vì lý do đó mà ông
Giuse cùng với bà Maria phải rời Nazareth về Bethlehem để khai tên tuổi (2,4).
Bằng cách nào Đức Giêsu thuộc về dòng dõi vua David? Chắc chắn là không phải do
họ mẹ (Đức Maria) như
sách “Tiền Phúc Âm Thánh Jacobe”nghĩ, nhưng là do
ông Giuse. Ông Giuse là con cháu vua David (3,23.31) và truyền lại dòng họ này cho Đức
Giêsu. Bằng cách nào? Câu trả lời cũng tương tự như ông Matthew, đó là ông
Giuse là chồng của bà Maria, kẻ cưu mang Đức Giêsu do quyền năng của Chúa Thánh
Thần.
- Bản gia phả của Matthew được chia làm ba nhóm, mỗi nhóm
14 đời. Bản gia phả của Luca thì liệt kê 77 hàng tổ tiên lên tới Thiên Chúa.
Hẳn là số 77 mang tính cách biểu tượng, chứ làm sao thu thập đầy đủ tên tuổi
các bậc tổ tiên của loài người được? Con số 77 là biểu tượng cho cái gì? Có
người cho rằng, số 77 được ghép bởi hai số 7 kề nhau: số 7 tượng trưng cho sự hoàn
thiện; có người tìm cách phân biệt 11 nhóm (3+3+2+3), mỗi nhóm 7
người.
- Trong hai bản danh sách, chỉ có sự trùng hợp từ ông
Abraham đến vua David. Sau đó, Matthew thuật lại hậu duệ vua David từ phía ông
Salomon (1Sbn 3,10-19), còn Luca
thì theo ông Nathan (xc. 2Sm 5,14; 1Sbn 3,5).
Hai danh sách gặp nhau nơi ông Santiel và Zerubbabel. Nhưng theo Matthew, từ
Salomon đến Santiel có 13 đời, và từ Zerubbabel đến Đức Giêsu là 10 đời; nhưng
theo Luca, từ Nathan đến Santiel có 19 đời, và từ Zerubbabel đến Đức Giêsu là
19 đời.
- Tên thân sinh của Thánh Giuse là ông Jacob (Mt) hay Hêli (Lc)?
Có lẽ Matthew muốn móc nối Thánh Giuse với tổ phụ Giuse trong Cựu Ước, do đó
thân sinh của cả hai trùng tên với nhau. Còn Luca có lẽ móc nối với vị tư tế Hêli
vì liên tưởng đến câu chuyện của bà Anna và cậu Samuel, với nhiều nét tương tự
với bà Elizabeth và cậu Gioan.[16]
Ngoài ra, theo một cách giải thích từ thời Giáo phụ do Eusebio Cesarea kể lại,[17] Jacob và Hêli là hai anh em cùng mẹ
khác cha: bà Estha lấy ông Matthan (thuộc tộc Salomon) sinh ra Jacob; sau khi ông Matthan
chết, bà tái giá với ông Matthat (thuộc tộc Nathan) và sinh ra Hêli. Vì Hêli chết mà không
có con, nên Jacob lấy vợ của Hêli (theo luật Levir: xc Mt 22,24) và sinh ra Giuse.
B. Truyền tin cho Đức Maria (1,26-38)
Như đã nói trên đây, Luca không có ý đối chọi cảnh truyền
tin cho Đức Maria với cảnh truyền tin cho ông Giuse ở Tin Mừng Matthew. Đúng
hơn, Luca đối chiếu hai cảnh truyền tin được nói trong chương Một, đó là cho
ông Zacaria và cho Đức Maria:
- Truyền tin cho ông Zacaria, một tư tế, diễn ra ở đền
thờ tại thủ đô Jerusalem (1,11-22). Bà vợ ông son
sẻ nhưng sẽ sinh ra một người con mang sứ mạng chuẩn bị lòng dân đón Chúa. Ông
Zacaria nêu thắc mắc.
- Truyền tin cho Đức Maria, một thiếu nữ tầm thường, ở
làng Nazareth miền Galilee (1,26-38). Cô là một trinh
nữ, nhưng sẽ sinh ra một người con do quyền năng Thánh Thần, và sẽ được gọi là
Con Đấng Tối Cao. Đức Maria thuận nhận làm theo ý Chúa.
Xét về địa vị xã hội, Đức Maria kém ông Zacaria; nhưng
xét về lòng tin thì thứ tự đảo ngược. Sự chênh lệch càng lớn hơn nữa khi so
sánh bản thân ông Gioan Tiền Hô và Đức Giêsu.
Trong cảnh Truyền tin cho Đức Maria, ông Giuse được nêu
đích danh, bởi vì “thiên sứ Gabriel đến một thành miền
Galilee gọi là Nazareth gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse
thuộc nhà David” (1,26-27). Nơi Luca, ta thấy hai dữ kiện trùng hợp
với Matthew: bà Maria đã đính hôn với ông Giuse, và hai người chưa ăn ở với
nhau (xc. 1,34). Tuy nhiên, có điểm khác biệt là
sau đó, Luca không nói gì về phản ứng của ông Giuse. Cho đến ngày lên đường về
Bethlehem để kiểm tra dân số, Đức Maria vẫn còn trong tình trạng đính hôn (Lc
2,5). Luca không bao giờ gọi Maria là “vợ
ông Giuse” như
Matthew (Mt 1,20.24). Tuy nhiên,
như chúng ta biết, theo luật Do Thái đương thời, những người đính hôn cũng có
những nghĩa vụ pháp lý như những người kết hôn. Lý do của cuộc đính hôn với
Giuse đã được nêu rõ khi nói rằng, “thuộc nhà David” (1,26),
và vì thế sẽ về Bethlehem để kiểm tra dân số, tại đây Chúa Cứu Thế giáng sinh (2,4.11).
Thoạt tiên, câu hỏi của Đức Maria với sứ thần mang tính
mâu thuẫn. Tại sao cô đã đính hôn rồi mà còn hỏi: “Việc
ấy xảy ra thế nào, vì tôi không biết người đàn ông?” (Lc 1,34). Tuy
nhiên, động từ “biết” trong ngôn ngữ Hippri được hiểu về
việc giao hợp, chứ không phải là biết tên biết tuổi mà thôi. Hai người đã đính
hôn, nhưng chưa sống chung với nhau.
Đàng khác, cả hai thánh sử Luca và Matthew đều trùng hợp
ở nội dung căn bản, đó là Đức Maria cưu mang Đức Giêsu do quyền năng Chúa Thánh
Thần (Lc 1,35 // Mt 1,18.20).[18]
C. Giáng sinh (2,1-20)
Như đã nói trên,
Thánh Luca không gọi bà Maria là “vợ” của ông Giuse: đây là điều khác với
Matthew. Mặt khác, Thánh Luca không ngại để cho Thánh Giuse làm “cha” của Đức Giêsu, điều mà Matthew chỉ
hiểu ngậm.
Dù sao, cho đến ngày sinh Đức Giêsu, Đức Maria vẫn chỉ là
người“đính hôn” với ông Giuse (2,5).
Tuy nhiên, trong chương Hai này, mối tương quan giữa hai người đã được diễn tả
như là “vợ chồng” và“cha
mẹ” đi đôi với nhau.
- Câu 6: “Khi hai người (= họ) đang ở đó
(Bethlehem) thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa”.
- Câu 7: “Bà... đặt con nằm trong máng cỏ, vì
hai ông bà (= họ) không tìm được chỗ trong nhà trọ”.
- Câu 16: “Các mục đồng gặp bà Maria và ông Giuse,
cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”.
- Câu 22: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các
ngài theo luật Moses, bà Maria và ông Giuse đem con lên Jerusalem”.
- Câu 27: “Vào lúc cha mẹ Hài nhi Giêsu đem con
tới… thì ông Simeon ẵm lấy”.
- Câu 33: “Cha mẹ Hài nhi ngạc nhiên về những
lời ông Simeon nói”.
- Câu 39: “Khi hai ông bà (= họ) đã làm xong mọi
việc... thì trở về Nazareth”.
- Câu 41-46: “Cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền
Jerusalem... Họ cùng lên đền... Họ trở về... Đức Giêsu ở lại trong đền thờ mà
cha mẹ chẳng hay biết. Họ cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành... Không
thấy con đâu, họ trở lại Jerusalem. Sau ba ngày, họ mới tìm thấy con trong đền
thờ”.
- Câu 48-51: “Khi thấy con, họ sửng sốt, và mẹ
Người nói với Người: Con ơi, sao lại xử với cha mẹ (= chúng tôi) như vậy? Con
thấy không, cha con và mẹ (= tôi) đây đã phải cực lòng tìm con! Người đáp: Sao
cha mẹ (= các ngài) lại tìm con? Cha mẹ (= các ngài) không biết là con có bổn
phận ở nhà của Cha con sao? Nhưng họ không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó,
Người đi xuống cùng với họ, trở về Nazareth và hằng vâng phục họ”.
Ở câu 7, Luca viết rằng, bà Maria sinh “con
trai đầu lòng”. Điều này không giả thiết rằng, sau đó bà còn sinh
nhiều con nữa! Thánh sử nhắc đến việc sinh con trai đầu lòng không chỉ vì muốn
ghi nhận một hiện tượng sinh lý của người phụ nữ (lần
đầu tiên sinh con) cho
bằng dẫn nhập vào một biến cố khác sẽ nói sau, đó là sự dâng con trong đền thờ: “Mọi
con trai đầu lòng phải được gọi là của Thánh, dành cho Chúa” (2,23).
D. Cắt bì và đặt tên
Việc cắt bì và đặt tên cho Đức Giêsu chỉ được Luca nói
đến trong một câu (2,21) đang khi sự việc tương tự của ông
Gioan Tiền Hô lại được nói dài hơn (1,59-66).
Thoạt tiên, xem ra thánh sử chỉ muốn thuật lại sự kiện
này để chứng tỏ cha mẹ của hai hài nhi đều là những người nghiêm túc tuân hành
luật lệ (xc. St 17,12tt; Lv 12,3).
Tuy nhiên, điều quan trọng nằm ở chỗ đặt tên cho Hài nhi, tên gọi nói lên sứ
mạng tương lai. Ở đây, chúng ta chỉ chú ý đến việc cắt bì và đặt tên cho Đức
Giêsu mà thôi.
Ai chủ sự việc cắt bì? Thánh Luca không nói, có lẽ vì
không quan trọng.[19]
Trong lịch sử Do Thái, thường là người cha (chẳng hạn ông Abraham cắt bì cho
Isaac: St 21,4), nhưng đôi khi là bà mẹ (Zippora
cắt bì cho con của ông Moses: Xh 4,25), hoặc một người nào khác.
Việc đặt tên mới thực sự là điều chủ yếu trong câu này: “Hài
nhi được đặt tên là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt trước khi Hài nhi thành
thai trong lòng mẹ”. Câu văn được đặt ở thể thụ động, và không rõ
ai giữ vai chủ động. Theo Matthew, thì ông Giuse đặt tên cho Hài nhi(1,21.25). Còn theo Luca,
thì việc đặt tên xem ra được thiên sứ giao cho Đức Maria vào lúc truyền tin (1,31),
cũng tương tự như việc đặt tên cho Gioan Tiền Hô được giao cho ông Zacaria (1,13.63).
Tuy nhiên, xét vì cả cha lẫn mẹ (bà Elizabeth: 1,60) đều tham gia vào việc đặt tên cho
Gioan, ta có thể suy đoán rằng, việc đặt tên cho Đức Giêsu cũng có sự tham gia
của “hai ông bà”, theo như mạch văn của toàn thể
chương Hai, mà chúng ta đã có dịp nhận xét. Xem ra vấn đề người chủ sự việc đặt
tên không quan trọng cho bằng việc tuân hành một chỉ thị từ trời.
Nên lưu ý là Luca không giải thích ý nghĩa của tên “Giêsu” như là Matthew (1,21:
“Thiên Chúa cứu dân Người khỏi tội lỗi”).
E. Dâng Con trong đền thờ (2,22-35)
Các nhà chú giải Kinh Thánh đã ghi nhận một chi tiết khác
thường trong trình thuật này, khi Luca viết rằng: “Khi
đã đến kỳ thanh tẩy của họ theo luật Moses, bà Maria và ông Giuse đem con lên đền
thờ Jerusalem”. Tại sao nói đến sự thanh tẩy của họ, nghĩa là của
hai ông bà, trong khi luật thanh tẩy của Moses chỉ ràng buộc bà mẹ (Lv
12,1-8)?
Có ý kiến cho
rằng, trong Tân Ước (bằng
tiếng Hy Lạp), danh từ“thanh
tẩy” (Katharismos) bao
hàm một nội dung rộng rãi (Mc 1,44; Lc 5,14; Ga 2,6; 3,25; Dt
1,3; 2Pr 1,9), chứ không chỉ giới hạn vào lễ thanh tẩy dành cho các
bà mẹ sau khi sinh con. Do đó, ở đây Thánh Giuse cũng tham gia vào sự thanh
tẩy, nghĩa là thi hành các nghi thức luật định. Một cách cụ thể, trong đoạn văn
này hai ông bà lên đền thờ để thi hành những điều mà luật Chúa truyền (2,23.24.27.39),
trong đó có việc tiến dâng con trai đầu lòng và chuộc lại (Xh
13,1.11tt). Nên lưu ý, có lẽ chính hai ông bà chủ sự việc tiến dâng (Lc
2,27), chứ không phải là ông Simeon. Ông này xuất hiện sau đó; ông
bế hài nhi và chúc tụng Thiên Chúa.
Như đã nhận xét trên đây, trong trình thuật này, Luca nói
đến Thánh Giuse và Đức Maria không những qua đại danh từ ở số nhiều (Họ
= hai ông bà) nhưng
còn xác định là “cha mẹ của hài nhi”: khi
thi hành việc tiến dâng (2,27), khi được nghe
những lời chúc tụng của ông Simeon (2,33).
F. Tìm lại Đức Giêsu trong đền thờ (2,41-50)
Thánh Luca trình bày Đức Maria và Thánh Giuse không chỉ
như những người giáo dục nhân bản cho Đức Giêsu, mà còn như là tấm gương trong
việc tuân hành Luật Chúa: hai ông bà đã lên đền thờ dâng tiến con trai đầu lòng
theo luật (2,22.39); hằng năm hai
ông bà lên đền thờ dự Lễ Vượt qua theo như luật định (2,41).
Khi Đức Giêsu lên 12 tuổi, xảy ra sự cố là cậu ở lại trong đền thờ sau ngày lễ
mà không báo trước cho cha mẹ.
Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và mẹ Maria đã cho thấy
những mối liên lạc đan chéo trong gia đình Nazareth.
- Đức Maria nói với Đức Giêsu: “con
ơi!”, theo lối xưng hô thân mật gia đình. Kế đó là lời trách móc
cậu bé vì đã gây lo lắng cho “cha của con và mẹ”. Đức
Maria nói thay cho ông Giuse, và đặt ông lên trước, theo thứ tự gia trưởng: “Con
thấy không, cha của con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”.
- Đức Giêsu trả lời chung cho cả hai người, với đại danh
từ đặt ở số nhiều: “Tại sao các ngài tìm con? Các ngài
không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”. Đức Giêsu
coi đền thờ như là “nhà” của Cha mình. Dĩ nhiên, “Cha” ở đây được hiểu về Thiên Chúa, chứ
không phải là ông Giuse, như bà Maria vừa nói!
Thánh sử Luca nhận xét rằng, “họ”
(= hai ông bà) không
hiểu lời của Đức Giêsu, nhưng rồi cũng thêm rằng, “Người
đi xuống cùng với họ, trở về Nazareth và hằng vâng phục họ”.
Như vậy, một đàng ta thấy rằng ông Giuse và bà Maria là “cha
mẹ” của Đức Giêsu;
nhưng Đức Giêsu còn có một “Cha khác”. Tuy nhiên, dù
Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” (đã được nói trước ở
1,35), nhưng Người cũng phục tùng những kẻ giữ cương vị của cha mẹ
trong gia đình.
Chương Hai kết thúc với thời gian ẩn dật của Đức Giêsu ở Nazareth
cho tới khi hoạt động công khai. Tại đây, Đức Giêsu hấp thụ nền giáo dục nhân
bản và đạo đức “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh,
đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (2,39).
III. KẾT
LUẬN
Trong Tin Mừng Luca, vai trò của Thánh Giuse không nổi
bật như trong Tin Mừng Matthew. Thánh Giuse là một nhân vật thầm lặng bên cạnh
Đức Maria; tuy nhiên, sự hiện diện của ông không phải là dư thừa, bởi vì ông
cũng góp phần vào việc thực hiện ý định của Thiên Chúa: khi về Bethlehem để
kiểm tra dân số, khi thi hành việc cắt bì và đặt tên cho Hài nhi, khi dâng tiến
Hài nhi trong đền thờ, khi nuôi nấng dưỡng dục Hài nhi ở Nazareth. Ông đáng
được hưởng lời chúc phúc dành cho kẻ “lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”
(Lc 11,27).
Chúng ta nên ghi nhận vài dụng ngữ của Thánh Luca khi bàn
về những mối tương quan của Thánh Giuse.
1/. Với Đức Maria
Thánh Luca chỉ nói rằng Đức Maria là một trinh nữ “đính
hôn” với ông Giuse,
kể cả vào lúc về Bethlehem. Tuy nhiên, trong suốt chương Hai, Luca nhiều lần
nói đến sự liên lạc chặt chẽ giữa hai người khi dùng chủ từ ở số nhiều, - “họ”
(hai ông bà) -: trong
thời kỳ về Bethlehem làm kiểm tra, lúc Đức Giêsu ra đời, khi đem con lên đền
thờ để tiến dâng hay để dự lễ Vượt qua.
2/. Với Đức Giêsu
Khi nói đến việc lên đền thờ dự lễ, Thánh Luca viết rằng: “Hằng
năm cha mẹ của Người lên đền thờ” (Lc 2,41). Khi tìm lại Đức Giêsu,
Đức Maria nói: “Này cha của con và mẹ (= tôi) phải
cực lòng tìm con” (Lc 2,48). Như vậy, ở trong gia đình Nazareth,
ông Giuse vẫn cư xử với Đức Giêsu như một người cha. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng
lưu ý rằng mình còn có một Cha lớn hơn (Lc 2,49). Thánh Giuse
biết rằng, Đức Giêsu không sinh ra do sự giao hợp thể lý, và thi hành chức vụ
làm cha trong sự tôn trọng mối liên hệ độc nhất của Đức Giêsu với Chúa Cha.
Nhưng, những người ngoài gia đình, bởi vì họ không biết đến chuyện cưu mang
khác thường, cho nên họ vẫn nghĩ rằng Đức Giêsu là “con
của ông Giuse” (Lc 3,23).
Dù sao đi nữa, bên cạnh vấn đề “danh
chính ngôn thuận”, Thánh Luca đã nhìn nhận nhiều trách nhiệm của
ông Giuse.
- Về phương diện pháp lý: Tránh cho Đức Maria khỏi rơi
vào tình trạng đẻ con không chồng; bảo đảm cho Đức Giêsu được mang dòng tộc
David.
- Về phương diện nhân bản: Thánh Giuse săn sóc Đức Maria
trong thời kỳ thai nghén, và sinh nở. Cùng với Đức Maria, Thánh Giuse có trách
nhiệm dưỡng dục Hài nhi Giêsu.
***
MỤC 3: TIN
MỪNG THÁNH MARCO VÀ THÁNH GIOAN
Trong Tân Ước, chỉ có hai cuốn Tin Mừng Thánh Matthew và
Luca cung cấp nhiều dữ kiện hơn cả về Thánh Giuse. Hai cuốn Tin Mừng còn lại
thì sao?
I. TIN
MỪNG THÁNH MARCO
Theo ý kiến các học giả, đây là cuốn Tin Mừng ra đời sớm
nhất, và mở đầu với sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Tin Mừng Marco không đề cập
đến thời thơ ấu của Đức Giêsu, vì thế không nhắc đến Thánh Giuse.
Tuy nhiên, cũng có hai chi tiết đáng để ý:
1/. Thánh sử Marco đã 5 lần gắn liền “Nazareth” với thân thế của Đức Giêsu: Nazareth
không những ám chỉ nguyên quán (1,9; 14,67) mà còn trở thành biệt hiệu của Người (1,24;
10,47; 16,6).
2/. Thánh sử Marco là người duy nhất cho biết Đức Giêsu
làm nghề “thợ mộc” (Mc 6,3).
Cả hai chi tiết này đều gián tiếp nói lên mối liên hệ với
Thánh Giuse: “cha nào con nấy”. Tuy
nhiên, dưới một phương diện khác, liền sau khi nói đến “Đức
Giêsu là thợ mộc”, thánh sử thêm rằng, “con
bà Maria” (6,3). Lối nói này hơi ngược đời, bởi vì tục lệ thường
gắn con với người cha chứ không gắn với bà mẹ (thí dụ như: Simon con ông Gioan).
Phải chăng, bởi vì thánh sử muốn nêu bật việc sinh hạ khác thường của Đức
Giêsu?
II. TIN
MỪNG THÁNH GIOAN
Tin Mừng Thánh Gioan chú trọng đến Đức Giêsu là “Con
Thiên Chúa” hơn là “con
của ông Adam”. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa, hiện hữu từ muôn thuở,
đã đến cắm lều ở giữa loài người (Ga 1,1.14).
Trong tác phẩm này, tên ông Giuse được nhắc đến hai lần:
1/. Vào lúc Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ và thâu nhận môn đệ,
ông Philipphe mô tả thân thế của Người như sau: “Chúng
tôi đã gặp ông Giêsu Nazareth, con ông Giuse” (1,45). Đây không
phải là một chức tước danh giá gì, bởi vì ông Nathanael vặn lại: “Từ
Nazareth, làm sao có cái gì hay được”. Ông Philipphe ôn tồn mời anh
bạn: “Đến mà xem!”. Qua cuộc đối đáp này, ta có
thể ghi nhận rằng, người đương thời khinh rẻ làng Nazareth. Đàng sau não trạng
dân gian này, có lẽ còn có một quan điểm thần học nữa, đó là dân Do Thái không
thể nào chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, bởi vì vị này được tiên báo như là
con vua David, xuất thân từ Bethlehem miền Judea.[20]
2/. Điều này càng rõ hơn nữa khi Đức Giêsu tự xưng là “Bánh
từ trời xuống”. Người nghe liền xầm xì: “Ông
này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều
biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42).
Hai trường hợp nhắc đến Đức Giêsu như là “con
ông Giuse” đều nằm
trong bối cảnh người Do Thái đặt vấn nạn về thiên tính của Đức Giêsu. Xem ra
Thánh Gioan muốn đối chọi giữa hai cái nhìn về nguồn gốc của Đức Giêsu: người
đời chỉ có thể biết được nguồn gốc nhân tính của Người như là con ông Giuse và
xuất thân từ Nazareth; cần phải có ơn trên thì mới nhận ra Người từ trời xuống (Ga
6,44; 7,28-29). Sự thay đổi viễn tượng có thể nhận thấy nơi
Nathanael. Vào lúc đầu, ông tỏ ra thái độ ngờ vực cách tự nhiên: “Từ
Nazareth, có cái gì hay được?” (Ga 1,46); nhưng sau khi đã gặp gỡ
Đức Giêsu, ông thốt lên: “Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua
Israel” (Ga 1,49).
***
MỤC 4:
NHỮNG HÌNH ẢNH TRONG CỰU ƯỚC
Lẽ ra mục “Thánh Giuse trong Cựu Ước” phải được trình bày trước mục “Thánh
Giuse trong Tân Ước”, nhưng đó là nói theo thứ tự thời gian chứ
không theo ý nghĩa của lịch sử cứu độ. Thật vậy, phải chờ sự giải thích của Đức
Giêsu Phục sinh, các môn đệ mới hiểu được những đoạn văn nào trong Cựu Ước nói
về Đấng Kitô (xc. Lc 24,27), cách riêng
những đoạn nói đến người Đầy tớ đau khổ (xc. Cv 8,34) chứ không riêng gì những đoạn nói về
Đấng Messia ngự trên ngai David.[21]
Một đặc trưng của
Tin Mừng Thánh Matthew là việc sử dụng thuật ngữ “ngõ
hầu ứng nghiệm lời ngôn sứ đã nói” (hoặc: để kiện toàn, hoàn tất, làm
trọn,.v.v…). Thuật ngữ này xuất hiện 41 lần trong toàn tác phẩm, và
ngay trong hai chương đầu tiên đã gặp thấy 5 lần (1,23;
2,6.15.18.23). Tác giả muốn chứng minh cho các độc giả (người Do Thái) rằng, Đức Giêsu thật là Đấng Messia mà
Thiên Chúa hứa sẽ sai đến để cứu dân tộc. Người không chỉ là con cháu vua David
mà thôi, nhưng còn giữ vai trò ngang với ông Moses nữa. Điều này được khẳng
định trong bài giảng trên núi: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ
luật Moses hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để
kiện toàn” (Mt 5,17). Một cách gián tiếp, sự kiện toàn được bày tỏ
qua các phản đề tiếp đó: “Anh em đã nghe luật xưa rằng... còn
Thầy, Thầy bảo cho anh em biết...” (Mt 5,21.27.31.33.38.43).
Dựa trên nguyên tắc đó, Giáo Hội tiên khởi cũng lục lọi
trong Cựu Ước những đoạn văn có thể áp dụng cho Hội Thánh (chẳng
hạn: giao ước, Dân Chúa, đoàn chiên, đền thánh, v.v…), cho Đức
Maria (bà Eva, thiếu nữ Sion,.v.v…). Một cách tương
tự như vậy, các Giáo phụ cũng cố gắng đi tìm những đoạn văn Cựu Ước có thể áp
dụng cho Thánh Giuse. Tuy có nhiều đường hướng đã được sử dụng (thí
dụ những mẫu “người công chính” trong Cựu Ước), nhưng chúng tôi chỉ
giới hạn vào một nhân vật cụ thể do chính Thánh Matthew gợi lên, đó là tổ phụ
Giuse.[22]
Có nhiều điểm tương đồng giữa tổ phụ Giuse trong Cựu Ước và Thánh Giuse.
- Xét về tên gọi, “Giuse” theo nguyên ngữ có nghĩa “Thiên
Chúa đã tăng thêm” (St 30,22-24).[23] Thân sinh của cả hai người đều mang
tên là “Jacob” (Mt 1,16). Xem ra
Matthew cũng muốn nhắc đến tên gọi của thân mẫu nữa khi trưng dẫn bà “Rachel” trong cảnh tàn sát các anh hài (1,18;
xc St 30,22-24).
- Một điểm tương đồng khá nổi bật, là cả hai người đã
nhận được mặc khải qua “giấc mộng”. Tổ phụ Giuse
đã nhận được giấc mộng báo trước sự nghiệp của mình (St
37,5-9 = 42,6-9) và ông cũng giải thích giấc mộng của người khác (St
41,12.16.25). Cả hai đã nắm bắt được ý định của Thiên Chúa qua giấc
mộng.
- Lánh nạn qua Ai Cập. Tổ phụ Giuse bị các anh mưu toan
ám hại, và nếm cảnh lưu vong bên Ai Cập (St 37,18-20.28). Thánh
Giuse đưa thánh gia sang Ai Cập để tránh cuộc tàn sát của vua Herode (Mt
2,13.16).
- Dính líu tới nhà vua. Thánh Giuse đưa thánh gia sang Ai
Cập vì vua Herode sợ tiếm vị, và phải chờ đến lúc nhà vua băng hà thì mới trở
về quê hương. Tổ phụ Giuse tuy được lòng vua Pharaoh, nhưng ông biết trước rằng
khi nhà vua này qua đời thì dân Israel sẽ bị áp bức và buộc phải rời bỏ Ai Cập (Xh
1,8; 13,18-19).
- Con người liêm khiết. Tổ phụ Giuse là người ngay chính,
không chiều theo lời dụ dỗ phạm tội (St 39,7-20). Thánh Giuse
là người công chính và không muốn xúc phạm đến Đức Maria.
- Trách nhiệm. Tổ phụ Giuse được giao phó nhiều chức vụ
quan trọng: quản lý ở nhà quan Potiphar (St 39,4), quản đốc trại
giam (St 39,22), quản đốc hoàng gia Pharaoh và
quản trị toàn xứ Ai Cập (St 41,41-45). Thánh Giuse
chịu trách nhiệm trông coi thánh gia tại Bethlehem, Ai Cập, Nazareth.
Vào thời cận đại, nhiều vị Giáo Hoàng thường đối chiếu
Thánh Giuse với tổ phụ Giuse, cách riêng khi nói đến vai trò bảo trợ Giáo Hội.[24]
Thế lực bầu cử của Người dựa theo câu nói của vua Pharaoh: “Ite
ad Joseph” – “Hãy đến cùng Giuse” (St 41,55), đã được sử dụng từ
Thánh Bernado.[25]
KẾT LUẬN
Trong chương này chúng tôi chỉ giới hạn vào việc tìm hiểu
ý nghĩa những đoạn văn Tân Ước nói về Thánh Giuse. Trong những chương kế tiếp, chúng
ta sẽ thấy tầm áp dụng của những đoạn văn đó để hiểu biết sứ mạng của Người
cũng như mẫu gương cho các môn đệ Chúa Kitô. Một cách cụ thể, chúng ta sẽ thấy
rằng, Tông huấn Redemptoris Custos của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sẽ
dựa trên những đoạn văn Tân Ước vừa nói, tựa như những “mầu
nhiệm kinh Mân Côi”, để chiêm ngắm vai trò của Thánh Giuse trong sứ
mạng cứu độ của Chúa Kitô.
- Thánh nhân trở nên “môi giới” để Đức Giêsu trở thành “Con
vua David” hoàn tất
những lời hứa về Đấng Messia.
- Thánh nhân đã “đặt tên” cho Hài nhi là Giêsu, trình báo cho
nhân loại biết Người là Đấng cứu tinh nhân loại, là Emmanuel.
- Thánh nhân đã “đăng ký” Đức Giêsu vào sổ kiểm tra của hoàng đế
Roma, để chứng thực Người là thành phần của thế giới nhân loại.
- Thánh nhân đã “dâng tiến” Đức Giêsu cho Chúa Cha, báo trước hy
tế cứu chuộc trên thập giá.
- Thánh nhân không những đã bảo vệ Hài nhi Giêsu tại
Bethlehem và Ai Cập, nhưng còn tạo điều kiện để Đức Giêsu trở thành “người
Nazareth”, một danh hiệu gắn liền với sự nghiệp của Chúa Cứu Thế.
- Dĩ nhiên, Thánh nhân đã góp phần không nhỏ trong việc
giáo dục Hài nhi Giêsu về nhân bản, đạo hạnh, cũng như nghề nghiệp.
Đó là cơ sở cho danh hiệu “Redemptoris
Custos” (người giữ gìn Đấng Cứu chuộc), “Minister
Salutis” (kẻ phục vụ ơn cứu độ) của
Tông huấn mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong những chương tới.
***
CHƯƠNG HAI
THÁNH GIUSE TRONG TRUYỀN THỐNG HỘI THÁNH
Trong chương này, chúng ta theo dõi sự phát triển về thần
học và lòng tôn kính Thánh Giuse trong lịch sử Giáo Hội. Trước tiên, chúng ta
sẽ tìm hiểu những lưu truyền về Thánh Giuse nơi các ngụy thư Tân Ước (mục
1). Tiếp đến, chúng ta sẽ điểm qua những đường hướng thần học bàn
về Thánh Giuse từ thời Giáo phụ đến thời cận đại, cũng như sự tiến triển của
lòng tôn kính Thánh Nhân (mục 2). Sau cùng, chúng
ta sẽ phân tích những văn kiện Tòa Thánh trong hai thế kỷ gần đây bàn về vai
trò của Đấng được tôn phong làm Quan thầy Giáo Hội(mục 3).
***
MỤC I. CÁC
TÁC PHẨM NGỤY THƯ TÂN ƯỚC
Trong chương thứ nhất vừa rồi, khi phân tích các đoạn Tin Mừng nói về Thánh Giuse,
chúng ta thấy rằng, các thánh sử không cung cấp một chi tiết nào về cuộc đời
của Người: Sinh năm nào? Ở đâu? Đính hôn với bà Maria lúc nào? Qua đời hồi nào?
Chôn cất ở đâu?
Đàng khác, chúng ta thấy nhiều bức tranh vẽ hình Thánh
Giuse đầu tóc bạc phơ, hoặc cầm cành hoa huệ, hoặc nhắm mắt lìa trần với Đức Mẹ
và Đức Giêsu đứng bên cạnh. Các dữ kiện này dựa vào tài liệu nào?
Câu trả lời vắn tắt cho những câu hỏi vừa rồi là: những
chi tiết về cuộc đời Thánh Giuse dựa theo những lưu truyền dân gian, được ghi
lại trong các tác phẩm ngụy thư Tân Ước. Trước khi đi vào chi tiết, cần xác
định ý nghĩa của từ ngữ “ngụy thư”.
I. KHÁI NIỆM
Theo nguyên ngữ Hy Lạp, “Apokryphos” chỉ có nghĩa là “bí
mật, giữ kín”, và được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Lúc đầu, nó
được dùng để áp dụng cho toàn thể Sách Thánh: cần phải cất giữ các tác phẩm
này, không nên để lọt vào tay người ngoại (Ý nghĩa này có lẽ do ảnh hưởng của
các nhóm ngộ đạo: chỉ có ai đã được khai tâm thì mới được đọc các sách thiên
khải). Sau đó, nó được áp dụng cho những sách chỉ nên đọc tư, chứ
không được phép đọc chính thức trong các buổi cử hành phụng vụ. Đến khi sổ bộ “Quy
Thư” (libri canonici) được xác định, thì nó ám chỉ những sách nào
không thuộc quy thư, vì thế cấm không được đọc công khai. Từ đó, người ta dịch
là “ngụy thư” (đối lại với “quy thư”), và mang
một ý nghĩa xấu.
Thực ra, các ngụy thư không hẳn lúc nào cũng xấu. Một
quyển sách có thể được xếp vào ngụy thư bởi vì không phải là do các Tông đồ
viết, mặc dù nội dung của nó rất lành mạnh: thí dụ như “thư
của Clemente”, “thư của Barnabe”. Lúc
đầu, có giáo đoàn coi đó như là quy thư và sau đó đã loại ra khỏi sổ quy thư (và
trở thành ngụy thư). Ngược lại, sách Khải Huyền của Thánh Gioan
từng bị coi là ngụy thư, nhưng sau đó được xếp vào quy thư. Ngày nay, các học
giả đã dùng nhiều tiêu chuẩn khác nhau để phân loại các “apocrypha”
(ngụy thư).
- Một số tác phẩm ra đời vào thời các thánh Tông đồ, đã
được vài giáo đoàn nhìn nhận làm Sách Thánh nhưng sau đó bị gạt ra bởi vì không
do các Tông đồ viết. Những tác phẩm này được đặt tên là Văn
chương Kitô giáo nguyên thủy, đó là: sách Didakhe, thư Clemente,
sách Mục tử của Hermas, thư của Barnabe. Ngược lại, một tác phẩm tuy mang danh
một tông đồ nhưng sau khi bị lật tẩy thì đương nhiên bị xếp vào hàng ngụy thư,
chẳng hạn: thư thứ ba của Thánh Phaolô gửi Corinth, hoặc thư gửi Laodikeia.
- Đa số các ngụy thư ra đời sau thế kỷ II, dựa theo thể
văn của các tác phẩm Tân Ước. Mục tiêu của các soạn giả khác nhau. Đôi khi vì muốn
thỏa mãn tính tò mò, bằng cách thêu dệt nhiều phép lạ. Đôi khi muốn biện minh
cho một học thuyết nào đó (chẳng hạn chủ trương của nhóm ngộ
đạo, ảo nhân thuyết). Các tác phẩm này được phân ra bốn loại: Tin
Mừng, Hoạt Động Tông Đồ, Thư, Khải Huyền. Nhiều tác phẩm chỉ được biết qua sự
trích dẫn của các Giáo phụ chứ không còn được lưu lại nguyên bản.
A. Tin Mừng
Tuy được gom một loại mang danh là “Tin
Mừng ngụy thư”, nhưng giá trị của chúng khác nhau xét về lịch sử
cũng như đạo lý.
1/. Một số tác
phẩm ra đời đồng thời với các Tin Mừng quy điển, và dĩ nhiên là được xếp vào
hạng nhất xét về giá trị lịch sử. Trong tiến trình biên soạn các sách Tin Mừng,
các thánh sử đã sử dụng những nguồn tư liệu đã được thu thập trước đó, gồm các
lời nói (đặc biệt là các dụ ngôn).
Vài tác giả đương thời cũng sử dụng những nguồn tư liệu đó và soạn ra tác phẩm
song hành. Các sử gia đặt tên cho chúng là “Agrapha” (những lời nói của Đức
Giêsu). Thường các lời nói được thuật lại trong bối cảnh của một
cuộc đàm thoại với các môn đệ, chẳng hạn như: “Tin Mừng thánh Tôma”, thu
thập 114 câu nói của Đức Giêsu, hoặc do tự Người dạy hoặc để trả lời cho câu
hỏi mà môn đệ đặt ra; hoặc “Cuộc đàm đạo của Chúa Cứu Thế”,
thuật lại cuộc đàm đạo của Chúa Phục sinh với ông Judas và ông Matthew, với thể
văn tương tự như cuộc đàm đạo tại nhà Tiệc ly theo Tin Mừng Thánh Gioan.
2/. Hạng thứ
hai sử dụng các tư liệu vừa nói để soạn có vẻ những tác phẩm biện minh cho chủ
thuyết nào đó, chẳng hạn hoặc phủ nhận nhân tính của Đức Giêsu (thuyết
ảo nhân), hoặc phủ nhận thiên tính của Người (các
Tin Mừng của người Do Thái).
3/. Hạng thứ
ba chỉ mang danh là “Tin Mừng” theo nghĩa là kể lại cuộc đời của Đức
Giêsu, nhưng mục tiêu chúng không còn là loan báo Tin Mừng cứu độ cho bằng thỏa
mãn tính tò mò. Nội dung xoay quanh hai giai đoạn đặc biệt của cuộc đời của
Chúa Cứu Thế, đó là thời thơ ấu và hồi tử nạn Phục sinh.
a/. Một nhóm chú trọng đến nguồn gốc gia thế và thời thơ
ấu của Chúa. Nổi tiếng nhất là “Tin Mừng tiên khởi Thánh Jacobe”,
mà chúng tôi sẽ trở lại dưới đây. Tác phẩm này ra đời vào khoảng năm 150, và
được quảng bá trong nhiều cộng đoàn phụng vụ bên Đông Phương. Cùng với tác phẩm “Cuộc
từ trần của Đức Maria” (Transitus Mariae) nó đánh dấu khởi điểm của lòng tôn
kính Đức Maria trong các thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội. Nói chung, các Tin Mừng
thơ ấu thích kể lại các phép lạ xảy ra lúc Đức Giêsu ra đời, lúc tị nạn bên Ai
Cập và thời niên thiếu; chẳng hạn “Tin Mừng thơ ấu của ông Tôma” (khác
với Tin Mừng thánh Tôma vừa nói trên).
b/. Một nhóm chú trọng đến cuộc Tử nạn và Phục sinh của
Đức Giêsu: “Tin Mừng ông
Nicodemo”, “Tin Mừng thánh Phêrô”.
B. Công vụ các Tông đồ
Nếu muốn theo sát nguyên bản thì phải dịch là “Những
hoạt động của các Tông đồ” (Actus apostolorum), chứ không phải là “Công
vụ” (Acta). Dù sao, tác giả không chỉ đóng vai trò một ký giả ghi
chép các biến cố đã xảy ra trong Hội Thánh nguyên thủy, nhưng còn muốn trình
bày một thần học về đường hướng truyền giáo của Hội Thánh.
Các tác phẩm ngụy thư không còn duy trì viễn ảnh thần
học, nhưng chỉ thích kể các phép lạ, có vẻ như muốn đề cao các Tông đồ như là
các “siêu nhân” hoặc
ít là “người hùng” của Kitô giáo. Các tác phẩm này ra đời
vào thế kỷ II. Các Giáo phụ nhiều lần nhắc đến các “Hoạt
động của ông Phêrô” (soạn khoảng năm 180-190), của “ông
Phaolô” (khoảng 185-195), Anrê, Gioan và Tôma. “Hoạt
động của ông Tôma” được
duy trì trọn vẹn hơn cả trong bộ sưu tập 5 cuốn, lưu hành trong nhóm Manikhe
vào cuối thế kỷ IV.
C. Các thư
Ngoài các thư của Thánh Phaolô được nhận vào sổ quy thư,
còn một số thư khác được lưu hành giữa các giáo đoàn, chẳng hạn: thư thứ Ba gửi
Corinth, thư gửi Laodikeia, thư gửi Alexandria.
D. Khải Huyền
Ngoài các sách Khải Huyền mang danh các thánh Tông đồ (Phêrô,
Phaolô, Tôma, Stephano), tại vài nơi còn có các tác phẩm của đạo Do
Thái, chẳng hạn: “Sự thăng thiên của ông Isaia”.
Nên biết, vào thời các Giáo phụ, các tác phẩm vừa kể được
đánh giá khác nhau. Có những tác phẩm được trích dẫn trong các bài giảng ngang
hàng với các quy thư (vào lúc mà sổ quy thư chưa nhất định).
Có những tác phẩm khác đã bị gạt bỏ bởi vì chứa đựng đạo lý sai lầm hoặc bởi vì
chỉ lưu hành trong các nhóm lạc giáo. Dưới phương diện lịch sử, giá trị của các
tác phẩm này tùy thuộc vào những nguồn tư liệu, nghĩa là dựa theo những sự kiện
có thể kiểm chứng được, hoặc do óc tưởng tượng bày ra, đó là chưa kể trường hợp
sao chép.
II. NHỮNG NGỤY THƯ LIÊN QUAN ĐẾN THÁNH GIUSE
Trong số những ngụy thư nói đến Thánh Giuse, ta có thể kể
[26]:
1/. Hoạt động của ông Pontius Pilate
Từ giữa thế kỷ II,
Thánh Justino đã nói đến tác phẩm này. Sang các thế kỷ sau, tên của nó cũng
được ông Tertulliano cũng như ông Eusebio Cesarea nhắc đến, nhưng không ai biết
nội dung ra sao. Tác phẩm được lưu lại ngày nay là một phiên bản mới, được soạn
vào thế kỷ IV, do một tác giả tự xưng là Anania. Tác phẩm mang tính cách hộ
giáo, nhằm bênh vực Đức Giêsu trước những lời tố cáo của dân Do Thái trước tòa
tổng trấn Pontius Pilate.
Khi bàn về gia đình của Đức Giêsu, chúng ta biết được
những sự đàm tiếu và vu khống của người Do Thái thời ấy [27]:
họ tố cáo Đức Giêsu là con hoang. Phần biện hộ chứng minh rằng Đức Maria đã lập
giá thú với ông Giuse, và hai ông bà là người đức hạnh kính sợ Chúa.
2/. Tin Mừng thánh Philipphe
Tác phẩm này ra đời khoảng đầu thế kỷ III, trong khung
cảnh hộ giáo, chống lại lạc thuyết ngộ giáo (không chấp nhận rằng Đức Giêsu có một
thân xác con người).
Tác giả khẳng định rằng, Đức Giêsu có thân xác con người.
Đức Giêsu có hai người cha: Cha trên trời, và cha dưới đất là ông Giuse. Ông
Giuse làm nghề thợ mộc. Ông trồng nhiều cây trong vườn để lấy gỗ. Gỗ thập giá
được lấy từ vườn đó, và nhờ cây thập giá mà cửa thiên đàng đã được mở cho nhân
loại.
Dù khẳng định rằng ông Giuse đã cấp thân xác con người
cho Đức Giêsu, tác giả vẫn bênh vực sự trinh khiết của Đức Maria.
3/. Tin Mừng thánh Phêrô
Ông Origène,[28] và
Eusebio Cesarea nhắc đến “Tin
Mừng thánh Phêrô”,[29] nhưng bản văn không được tồn tại đến nay. Nội
dung tường thuật cuộc Tử nạn và Phục sinh của Đức Giêsu. Vào lúc Chúa bị treo trên
thập giá, tác giả không đả động gì đến bà thân mẫu hoặc các phụ nữ khác, ngoại
trừ cô Maria Madalena và các anh em của Chúa. Theo ông, các anh em này là con
mà ông Giuse đã có với đời vợ trước. Eusebio cho biết giám mục Serapion
Antiokia đã liệt sách này vào loại lạc đạo.
4/. Tin Mừng tiên khởi Thánh Jacobe
Tựa đề “Tin Mừng tiên khởi” (hay “Tiền Tin
Mừng”: “Protoevangelium”) do
ông Guillaume Postel đặt ra khi xuất bản năm 1522 tại Bâle, dựa vào tên của tác
giả, tự xưng là Jacobe, một người anh cùng cha khác mẹ với Đức Giêsu. Tựa đề
muốn nêu bật là tác phẩm này ra đời trước các quyển Phúc Âm chính quy. Thực ra
các thủ bản cổ điển mang tựa đề chính xác hơn “việc sinh hạ Đức Maria” (De
Nativitate Mariae = Gennesis Marias) bởi vì nói nhiều đến Đức Maria. Tác
phẩm này được viết bằng tiếng Hy Lạp vào hậu bán thế kỷ II, và đã được ông
Origène nhắc đến.
Mục tiêu biên soạn có lẽ nhằm chống lại những vu khống
của người Do Thái về thân thế của Đức Giêsu, và đề cao việc cưu mang trinh
khiết của Đức Maria. Tác giả đưa ra một nhân chứng là Thánh Jacobe, một nhân
vật được người Do Thái kính nể.
Phần lớn tác phẩm dành để nói tới nguồn gốc lai lịch của
Đức Maria; còn Thánh Giuse xuất hiện vào lúc Đức Maria thành hôn và mang thai.
Nội dung gồm 24 chương ngắn, có thể chia làm 3 phần. Phần thứ nhất (gồm
16 chương đầu), kể lai lịch, thời thơ ấu Đức Maria cho tới lúc kết
hôn với ông Giuse. Phần thứ hai (từ chương 17 đến 21) thuật lại những phép lạ chung quanh
cuộc sinh hạ Đức Giêsu. Phần chót (ba chương cuối từ 22 đến 24) kể chuyện vua Herode tàn sát các thiếu
nhi ở Bethlehem.
Tác phẩm mở đầu với cảnh ông Gioakim, một nhà phú hộ và
quảng đại, bị một người tên là Rubel chế diễu vì không có con, và không muốn
cho ông dâng lễ vật như các tín hữu khác(Nên
biết là xã hội Do Thái coi đôi vợ chồng không có con là bạc phước).
Ông Gioakim buồn tủi vô hạn, vì thế đã rời bỏ nhà cửa và vào nơi hoang địa, ăn
chay 40 đêm ngày, với lòng dốc quyết rằng nếu Chúa không đến viếng thăm thì ông
sẽ không trở về nhà. Bà Anna, ở nhà cô quạnh, cũng buồn rầu và than khóc số
phận hiếm muộn của mình chẳng khác gì thân phận góa bụa. Bà đã than khóc thảm
thiết, vào một ngày lễ của dân tộc, một dịp hân hoan của toàn dân. Trông lên
trời thấy những đàn chim bay nhảy, nhìn xuống nước thấy đàn cá bay lội, bà lại
càng tủi thân, bởi vì chúng được Thiên Chúa chúc phúc với hậu duệ đông đảo, còn
mình thì giống như mảnh đất khô cằn không có sức sống.
Giữa lúc tuyệt vọng như vậy, một thiên sứ hiện đến với bà
Anna, báo tin cho biết Thiên Chúa đã nhậm lời của bà, và sẽ ban cho bà một hậu
duệ sẽ được muôn đời nhắc đến. Nghe tin đó, bà Anna liền hứa rằng dù sinh con
trai hay con gái thì cũng sẽ dâng nó cho Thiên Chúa để phục vụ nhà Chúa trót
đời. Thiên sứ cũng hiện ra với ông Gioakim và loan tin như vậy. Ông liền đứng
dậy trở về nhà, và truyền giết 10 con chiên, 12 con bò tơ để dâng lễ tạ ơn
Chúa, và giết 100 con dê để đãi cả làng.
Câu chuyện vừa rồi nhắc lại những cuộc sinh hạ kỳ diệu
nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa mà ta gặp thấy trong Cựu Ước, chẳng hạn như ông
Abraham (với bà Sara son sẻ), ông
Samson cũng được sinh ra trong hoàn cảnh tương tự, hoặc như ông Samuel. Phép lạ
không chỉ chứng tỏ bàn tay đặc biệt của Thiên Chúa, nhưng nhất là cho thấy sứ
mạng dành cho người con sắp sinh ra. Tác giả sách Tiền Tin Mừng Thánh Jacobe
cũng mang một não trạng đó, nghĩa là ông muốn nêu bật vai trò và sứ mạng mà
Chúa sẽ dành cho Đức Maria.
Sau khi sinh con được 14 ngày, bà Anna đặt tên cho cô bé
là Maria, một danh tánh khá quen thuộc trong dân Do Thái. Khi cô bé tròn một
tuổi, song thân mời các tư tế và toàn dân dự lễ cai sữa; đây là cơ hội để bà
Anna dâng lời ca tụng Thiên Chúa vì đã đoái nhìn đến mình và cất đi sự ô nhục
vì son sẻ. Đến khi cô bé lên ba tuổi, thì song thân mang lên đền thờ. Cô bé hí
hửng ở lại đó chứ không đòi theo bố mẹ trở về nhà.
Khi cô lên 12 tuổi và phải rời đền thờ, thì hội đồng các
tư tế bàn định chuyện kết hôn qua một thủ tục diệu kỳ. Nhờ ơn trên soi sáng,
thượng tế hô hào các chàng trai tới, mỗi người mang một cái que và đặt trong
đền thờ. Sáng hôm sau, thượng tế vào đền thờ cầu nguyện thì thấy các que còn y
nguyên như trước, và mỗi chàng lại vác que về nhà. Thế nhưng còn sót lại một
que của ông Giuse và chủ nhân được gọi tới; khi ông Giuse vừa lấy lại cây que
của mình thì một con chim bồ câu thoát ra từ cây que và đáp xuống trên đầu của
ông Giuse. Thật đúng là dấu lạ! Nhưng ông Giuse không dám nhận cô Maria, viện
cớ là mình đã già lại phải nuôi nấng một đàn con. Thầy cả phải dọa rằng nếu ai
không tuân theo ý Chúa thì sẽ bị trời phạt; ông cụ sợ quá đành rước Maria về
nhà.
Đưa cô về nhà rồi, ông Giuse ra đi kiếm việc làm (ông
làm nghề xây cất). Đang khi đó, thiên thần hiện đến báo tin cho Đức
Maria về việc thụ thai và sinh hạ Đức Giêsu. Sáu tháng sau, ông Giuse trở về
nhà thấy bạn mình mang bầu. Khỏi nói ai cũng đoán được tấn bi kịch diễn ra thế
nào. May thay, đến đêm thiên thần hiện ra giải thích đầu mối nguyên do. Nhưng
đó mới là chuyện nội bộ giữa hai người; đến lượt hàng xóm và nhất là vị
Thượng tế trong đền thờ cũng trách móc ông Giuse vì đã xâm phạm tiết hạnh của
bà Maria.[30] Cả ông Giuse lẫn cô Maria đều hết sức
thanh minh nhưng vô ích. Sau cùng để kiểm chứng, thượng tế bắt cả hai phải uống
nước đắng, theo luật của sách Dân số (5, 11-31) đã truyền khi người nào bị tố cáo về
tội ngoại tình. Cả hai đều uống nước đắng nhưng không bị tác dụng; cả làng mừng
rỡ tung hô Chúa. Ông Giuse đưa Maria về nhà cho tới ngày đi Bethlehem. Còn
nhiều phép lạ nữa xảy ra khi Đức Mẹ sinh con tại Bethlehem và khi Herode truy
nã các anh hài.
Ảnh hưởng của tác phẩm này trên các Giáo phụ rất lớn:
Thánh Giuse được vẽ như một ông lão (góa vợ), mặc dù không thể
xác định tuổi tác. Ông đã nghi ngờ vợ mình ngoại tình khi thấy bà mang thai.
Nhiều tác phẩm ngụy thư khác cũng lấy lại dữ liệu của “Tiền
Phúc Âm Thánh Jacobe”: “Tin Mừng mạo-Matthew” (“Pseudo
Mattheum”, thế kỷ VII-VIII), “Tin Mừng thơ ấu bằng tiếng Arap”
(hay: “Tin Mừng thơ ấu tiếng Syriac”, thế kỷ VI-VII), “Tin
Mừng thơ ấu tiếng Armeni (khoảng năm 590).
Ngoài những chi tiết liên quan đến Thánh Giuse, thiết
tưởng cũng nên ghi nhận những ảnh hưởng khác của tác phẩm đối với phụng vụ, cụ
thể là danh tính của thân sinh Đức Maria(ông
Gioakim và bà Anna) và
lễ Đức Maria dâng mình vào đền thờ.
5/. Cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu theo thánh Tôma
Đừng nên lẫn lộn với “Tin Mừng thánh Tôma” (một hợp tuyển
các lời nói của Đức Giêsu, được viết vào tiền bán thế kỷ II). Sách “Cuộc
đời thơ ấu” (Ta paidika tu Kyriou) không chứa đựng đạo lý quan trọng,
nhưng được viết ra do óc hiếu kỳ. Cậu bé Giêsu, con ông Giuse, thường quấy phá
các bạn bè. Được thầy giáo và hàng xóm mách bảo, ông Giuse cũng chỉ trách lấy
lệ, chứ không dám làm mạnh tay bởi vì ông biết con mình là một nhân vật khác
thường. Trên thực tế, cậu bé làm phép lạ dễ như chơi, dù khi phụ giúp cha trong
nghề thợ làm mộc, dù khi chơi giỡn với chúng bạn.
6/. Chuyện ly trần của ông Giuse thợ mộc
Nội dung tường thuật những giây phút cuối đời của Thánh
Giuse, được Đức Giêsu kể lại cho các môn đệ ở trên núi Cây Dầu.
Có lẽ tác phẩm này xuất phát từ Ai Cập vào khoảng thế kỷ
thứ IV-V; ngày nay chỉ còn giữ được thủ bản bằng tiếng Arap và Copto. Một ý
kiến khác cho rằng tác phẩm này ra đời sớm hơn nữa, khoảng thế kỷ II, tại
Nazareth, để đọc bên mộ Thánh Giuse vào dịp giỗ ngày qua đời (ngày
26 tháng Abib theo lịch Copto, tương đương với ngày 2 tháng 8 dương lịch).
Khi các Kitô hữu gốc Do Thái bị hoàng đế Eraclio (610-614) trục xuất khỏi Nazareth, họ di cư sang
Ai Cập, mang theo bản văn và dịch ra tiếng địa phương (với
nhiều chi tiết được thêm thắt).
Thánh Giuse quê tại Bethlehem làm thợ mộc, nhưng cũng là
người học thức. Ông lấy vợ và có 4 con trai: Judas, Giosep, Simon và Jacobe, và
hai con gái: Lisia và Lydia.
Ông lấy bà Maria,
và bà đã mang thai cách lạ lùng. Một thiên sứ đã hiện ra để giải thích cho ông.
Sau khi sinh con, ông phải đưa hài nhi sang Ai Cập lánh nạn, cùng với bà
Salome. Sau một năm ngụ cư ở đất khách, ông đưa thánh gia trở về Nazareth. Các
đứa con lớn của ông đã lập gia đình, chỉ còn đứa út(Jacobe) ở
lại sống chung với cậu Giêsu.
Lúc ông được 111 tuổi và dù sức khỏe còn tốt, một thiên
sứ hiện ra báo tin đã tới lúc ly trần. Ông lên đền thờ Jerusalem cầu nguyện, và
khi trở về Nazareth thì ngã bệnh. Ông đâm ra bàng hoàng lo sợ, nghĩ tới bao
nhiêu tội lỗi đã phạm. Đức Giêsu đã đến bên giường trấn an. Đức Maria cũng ở
bên cạnh cùng với các con cái quây quần. Trước khi nhắm mắt, ông đã xin lỗi Đức
Maria bởi vì đã có lúc nghi ngờ đức khiết tịnh của bà. Mọi người oà lên khóc.
Đức Giêsu đã xin Thiên Chúa sai thiên thần Micael và Gabriel đưa linh hồn ông
về trời. Đám tang được tổ chức long trọng ở Nazareth, do Đức Giêsu chủ sự buổi
cầu nguyện và hứa không để thân xác ông bị tan rữa.
Ở chương XIV, tác phẩm tóm tắt niên biểu cuộc đời của ông
Giuse như sau: lúc 40 tuổi ông lập gia đình với bà Melcha (hay
Escha) và sống với bà
này được 49 năm, sinh được bốn trai hai gái. Như vậy, khi vợ mất thì cụ đã được
89 tuổi rồi. Một năm sau, cụ được lệnh phải lấy cô Maria (lúc
ấy mới có 12 tuổi). Sau đó hai năm, cô Maria có thai, và khi Đức
Giêsu ra đời thì cụ đã được 93 tuổi. Cụ qua đời khi Đức Giêsu lên 18 tuổi,
hưởng thọ 111 tuổi. Tại sao lại già quá vậy? Theo cha Pierre Benoit O.P., tại
vì tổ phụ Giuse trong Cựu Ước qua đời lúc 110 tuổi, nên ông Giuse trong Tân Ước
phải được tăng thêm một tuổi!
Sau cùng, thiết tưởng nên ghi nhận lưu truyền về ngôi mộ
của Thánh Giuse: một lưu truyền cho rằng ngôi mộ của Người ở Nazareth, một lưu
truyền khác cho rằng ngôi mộ ở Jerusalem, bên cạnh thánh Gioakim và Anna.
Kết luận
Đừng kể những chi tiết được thêu dệt để thỏa tính tò mò,
ta thấy mối bận tâm chính của các lưu truyền này là bênh vực đạo lý về sự trinh
khiết của Đức Maria: Người mang thai do quyền năng Thánh Thần, và suốt đời giữ
mình trinh khiết. Tại sao các sách Phúc Âm lại nói đến các anh em của Đức
Giêsu? Nhằm trả lời câu hỏi đó, các tác giả sách ngụy thư cho rằng họ là những
người con mà Thánh Giuse đã có với một bà vợ trước.
Ngày nay, khoa chú giải Kinh Thánh tìm cách giải thích
cách khác (anh em theo nghĩa là anh em họ),
nên không cần tới giả thuyết anh em cùng cha khác mẹ nữa. Ngoài ra cũng nên
biết là ngay từ thời Trung cổ, Thánh Thomas Aquinas đã bác bỏ những truyền kỳ
đó, và quả quyết rằng Thánh Giuse trinh khiết suốt đời.[31] Nhiều bức tranh cũng vẽ Thánh Giuse
cầm cây bông huệ tượng trưng sự trinh khiết.
Nên biết là Tông huấn Redemptoris Custos không hề nhắc đến các dữ kiện
do các ngụy thư cung cấp: một đàng có lẽ bởi vì chúng không có giá trị lịch sử,
đàng khác bởi vì tông huấn muốn chú ý đến mầu nhiệm cứu độ hơn là những chuyện
hiếu kỳ.
***
MỤC II. SỰ
TIẾN TRIỂN THẦN HỌC VÀ PHỤNG VỤ
Tân Ước để lại cho chúng ta bức chân dung của Thánh Giuse
âm thầm phục vụ Đức Giêsu, chứ không nói một lời nào (khác
với Đức Maria, mà các thánh sử còn ghi được 6 câu nói). Thánh Giuse
trở thành biểu tượng cho sự thinh lặng. Sự thinh lặng này bao trùm cuộc đời của
Người lúc sinh tiền và sau khi qua đời. Thực vậy, Thánh Giuse đã bị rơi vào
quên lãng, và mãi vào thời cận đại mới xuất hiện trong thần học và phụng vụ.
Chúng ta sẽ theo dõi sự tiến triển về tâm thức của Giáo Hội trong thần học và
phụng vụ trải qua thời các Giáo phụ, trung đại và cận đại. Nên lưu ý, khi nói
đến các tác phẩm thần học về Thánh Giuse, chúng ta nên phân biệt nhiều cấp độ
và hình thức: các Giáo phụ đã nói đến Thánh Giuse trong các bài giảng hoặc chú
giải Tin Mừng; nhưng phải chờ đến thời cận đại mới thấy xuất hiện những khảo
luận thần học hệ thống mạch lạc. Một cách tương tự như vậy, khi nói đến phụng
vụ, chúng tôi hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các hình thức tôn kính công cũng
như tư.
I. THỜI CÁC GIÁO PHỤ
A. Thần học
Không thể phủ nhận sự kiện nhiều Giáo phụ đã trưng dẫn
các tài liệu ngụy thư vừa kể trong các bài giảng về Thánh Giuse.[32] Tuy nhiên, nhiều vị khác cố gắng đào sâu
khía cạnh thần học dựa trên các bản văn Kinh Thánh. Chúng ta có thể ghi nhận
vài tác giả sau đây [33]:
- Trong các tác phẩm chống lại phái ngộ đạo, Thánh Irénee
đã viết rằng: “cũng như Thánh Giuse đã chu toàn bổn
phận vào việc dưỡng dục Chúa Kitô và săn sóc Đức Maria thì Người cũng là kẻ giữ
gìn và bảo vệ Hội Thánh, mà Đức Maria là hình ảnh”.[34]
- Ông Origène (+255?) đề cao sứ mạng đặc biệt của Thánh
Giuse như là kẻ được chọn để thu xếp việc giáng trần của Chúa.[35] Ông cũng cho rằng việc ghi tên Đức Giêsu
vào sổ kiểm tra dân số của hoàng đế Roma mang một ý nghĩa nhiệm mầu: Đức Giêsu
muốn được kể vào số phần tử nhân loại.
- Thánh Ephrem (+373) định nghĩa Thánh Giuse là “thừa
tác viên của nhiệm cục nhập thể”.[36]
- Thánh Ambrosio (+397) khẳng định rằng sự kết hiệp giữa Đức
Maria và Thánh Giuse là một giá thú thực sự chiếu theo luật Roma, bởi vì hôn
nhân hệ tại giao ước chứ không phải sự ăn nằm.[37] Đồng thời thánh nhân cũng khẳng định đức
khiết tịnh của Thánh Giuse, bởi vì Người phải trở nên chứng nhân cho đức trinh
khiết của Đức Maria.[38]
- Thánh Gioan Kim Khẩu (+407) tuyên bố rằng, kể từ lúc đón nhận Đức
Maria về nhà, Thánh Giuse trở thành “thừa tác viên của nhiệm cục” (totius
dispensationis minister).[39]
- Thánh Hieronimo (+419-420) là người đầu tiên chống lại các lưu
truyền của các ngụy thư, coi như chuyện điên rồ.[40] Ông quả quyết rằng, “kẻ
đáng được gọi là thân phụ của Chúa thì trót đời giữ mình trinh khiết”.[41]
- Thánh Augustino (+430) cho rằng, chân lý đức tin về Đức Giêsu
là Con Thiên Chúa và thuộc dòng dõi David gắn liền với chân lý về hôn nhân thực
thụ của Thánh Giuse với Đức Maria. Vì thế trong nhiều tác phẩm,[42] Thánh Augustino đã cố gắng chứng minh
rằng: Thánh Giuse là kẻ trinh khiết; hôn nhân với Đức Maria là giá thú thực sự;
Thánh Giuse là thân phụ của Đức Giêsu một cách độc đáo. Thánh Giuse là chồng
của Đức Maria không phải vì ăn nằm nhưng do tình yêu (non
concubitu, sed affectu), không phải vì giao hợp thân xác nhưng là
kết hợp tinh thần (copulatione animorum).[43] Hôn nhân của Thánh Giuse và Đức Maria
hội đủ ba điều kiện: con cái, chung thủy, bí tích (bonum
prolis, fidei, sacramenti): con là Đức Giêsu; chung thủy bởi vì
không có ngoại tình; bí tích bởi vì không có ly dị.[44] Thánh
Augustino cũng nêu bật đức ái (caritas coniugalis) trong mối tương quan giữa hai vị thánh
này.
- Thánh Phêrô Kim Ngôn (+450) coi hôn nhân của Đức Maria với Thánh
Giuse như là sự thành tựu của những đôi hôn nhân lý tưởng mà Cựu Ước đề cao, và
đồng thời tiên báo cho đôi hôn nhân huyền nhiệm của Chúa Kitô với Hội Thánh.[45] Thánh
Giuse hôn phu của Đức Maria cũng là hình ảnh của giám mục hôn phu của Giáo Hội
trinh khiết và phong phú.[46]
- Thánh Maximo giám mục Torino khẳng định rằng, Thánh
Giuse không phải là một cụ già như tục truyền.[47]
B. Phụng vụ
Thời các Giáo phụ cũng trùng với giai đoạn tiến triển
phụng vụ Kitô giáo, cách riêng từ thế kỷ IV, với sự thành hình các chu kỳ năm
phụng vụ (mùa Phục Sinh và mùa Giáng Sinh) cũng như các nghi điển. Đối với việc
tôn kính các thánh, sau các thánh tông đồ và tử đạo, đến lượt các thánh giám mục
và tu hành cũng được kính nhớ. Đối với Đức Maria, lòng sùng kính được phát
triển từ sau khi Công Đồng Ephesus tuyên bố tín điều “Thiên
Mẫu” (năm 451).
Thánh Giuse xuất hiện trong những bức tranh mô tả cảnh
Chúa Giáng sinh, chứ chưa được kính riêng biệt.[48] Một vài nhà khảo cổ cho rằng ngụy thư “Sự
ly trần của Thánh Giuse thợ mộc” giả
thiết một cuộc tưởng niệm ngày qua đời, được lịch Giáo Hội Copto bên Ai Cập
mừng vào ngày 26 tháng Abib (tương đương với ngày 20 tháng 7 lịch
Giuliano và ngày 2 tháng 8 theo dương lịch hiện nay). Tuy nhiên,
khó xác định từ hồi nào lễ này được cử hành.
II. THỜI TRUNG CỔ
Thời Trung cổ đánh dấu sự tiến triển lòng tôn kính Thánh
Giuse khởi đầu từ các Dòng tu, và cũng có thể nói cách tương tự về tư tưởng
thần học.
A. Thần học
Đặc trưng của thời Trung cổ là sự xuất hiện các trường
phái kinh viện. Tuy nhiên, Thánh Giuse được nói đến trong các bài giảng nhiều
hơn là trong các tác phẩm thần học.
1/. Ông Rémi d’Auxerre (+ k. 900) đã xếp
Thánh Giuse vào hàng ngũ những cộng sự viên trực tiếp của công trình cứu chuộc
nhờ đức vâng phục: “per inobedientiam Adae omnes perditi
sumus; per bonum obedientiae Ioseph omnes ad pristinum statum revocamur”.[49]
2/. Thánh Bernardo đã
so sánh Thánh Giuse với tổ phụ Giuse trong Cựu
ước về quyền thế bầu cử “Ite ad Ioseph”.[50] Thánh Giuse là tôi tớ trung thành đã
được Chúa đặt làm quản gia.
3/. Các nhà thần học đầu tiên của Dòng
Đaminh đã nói đến
Thánh Giuse khi chú giải những đoạn Tin Mừng Luca, chẳng hạn như Thánh Alberto (+
1280).[51] Đặc biệt Thánh Giuse được trưng bày như
mẫu gương cho các linh mục và mục tử. Trước đây, có người gán cho Thánh Alberto
như là soạn giả của bài kinh nguyện về Thánh Giuse (Officium)theo
lời yêu cầu của nhiều anh em trong Dòng.[52] Tuy nhiên, khoa phê bình lịch sử đã phủ
nhận điều này.
Từ thế kỷ XI, các nhà giáo luật và thần học tranh luận về
bản chất hôn nhân của Thánh Giuse với Đức Maria: hôn nhân thành sự hay không?
Đâu là yếu tố cốt yếu của hôn nhân? Cuộc tranh cãi này cũng chịu ảnh hưởng của
hai quan điểm về hôn nhân: Roma (sự thỏa thuận: pactio coniugalis) và Đức quốc (sự
giao hợp: copulatio carnis). Dựa theo quan điểm Roma, ông Petrus
Lombardus nhìn nhận hôn nhân của Thánh Giuse là thực hữu; đối lại, vì theo quan
điểm Đức quốc, ông Gratianus phủ nhận giá trị hôn nhân của Thánh Giuse.
4/. Thánh Thomas Aquinas (+ 1274) đề cập đến
Thánh Giuse trong nhiều tác phẩm.[53] Trong bộ Summa
Theologica (Tổng luận thần học), hôn nhân giữa Đức Maria và Thánh
Giuse được bàn ở trong phần thứ ba, khi nói đến những mầu nhiệm cuộc đời Chúa
Cứu Thế.[54] Thánh Thomas khẳng định ba chân lý căn
bản về Thánh Giuse:
a/. Hôn nhân với Đức Maria là một giá thú thật sự (chứ
không phải giả tạo).[55]
b/. Thánh Giuse đã giữ gìn đức trinh khiết trọn hảo suốt
đời.[56]
c/. Đức Maria và Thánh Giuse đã khấn giữ khiết tịnh:
trước khi kết hôn, lời khấn có điều kiện(tùy
theo ý Chúa), và trở thành tuyệt đối sau khi kết hôn.[57]
Tiếp nhận đạo lý của các Giáo phụ, Thánh Thomas cắt nghĩa
rằng, “các anh em của Đức Giêsu” phải hiểu là anh em họ chứ không phải là
anh em cùng cha khác mẹ. Cách riêng Thánh Thomas đưa ra những lý lẽ giải thích
vì sao đức trinh nữ Maria cần lấy Thánh Giuse làm chồng:
a). Những lý do về phía Đức Giêsu:
- (i) Để Người không bị thiên hạ khước từ vì lý do là con
hoang (Thánh Ambrosio);
- (ii) Để người ta có thể truy cứu gia phả của Người (Thánh
Ambrosio);
- (iii) Để hài nhi được che chở khỏi những cuộc tấn công
của ma quỷ (Thánh Inhaxio Antiokhia);
- (iv) Để hài nhi có người chăm sóc dưỡng dục.
b). Những lý do về phía Đức Maria:
- (i) Tránh cho Người khỏi bị ném đá về tội ngoại tình (Thánh
Hieronimo);
- (ii) Để gìn giữ sự khiết trinh của Người (Thánh
Ambrosio);
- (iii) Để giúp đỡ Người (Thánh
Hieronimo).
c). Những lý do về phía chúng ta:
- (i) Để có người làm chứng về chân lý Đức Giêsu sinh bởi
trinh nữ Maria (Thánh Ambrosio);
- (ii) Để xác nhận những lời quả quyết của Đức Maria về
sự trinh khiết của mình (Thánh Ambrosio);
- (iii) Để những trinh nữ nào đã vi phạm lời thề không có
lý do biện minh cho lỗi của mình(Thánh
Ambrosio);
- (iv) Để trở nên biểu tượng cho Hội Thánh tuy là trinh
nữ nhưng đã đính hôn với Đức Giêsu (Thánh
Augustino);
- (v) Để trong Hội Thánh những trinh nữ và những người
kết bạn đều được kính trọng.
Những nguyên tắc vừa nói đã được các nhà thần học và
giảng thuyết khai triển thành những sách suy gẫm về vị dưỡng phụ của Chúa Cứu
Thế.
5/. Những tác giả khác thời Trung cổ:
- Dòng Đaminh: Thánh Vincente Ferrier (+
1419), Thánh Anthonio (+ 1459).[58]
- Dòng Phansinh: Thánh Bonaventura (+
1274), Ubertino de Casale (+ k. 1325). Thánh
Bernardino Siena (+ 1444), trong một bài
giảng về Thánh Giuse: “Sermo de Sancto Joseph Sponso B.
Virginis”, đã chấp nhận rằng, Người đã được sống lại và lên trời
với Đức Giêsu.
B. Phụng vụ
Bên Đông Phương, từ thế kỷ X, Giáo Hội Constantinopolis
mừng lễ Thánh Giuse chung với các thánh tổ phụ (từ
ông Abraham cho đến người hôn phu của Đức Maria) vào ngày 26 tháng chạp; và chung với
vua David và tông đồ Jacobe vào chủ nhật trong tuần bát nhật lễ Chúa Giáng
sinh.
Có lẽ do ảnh hưởng của các đoàn người hành hương Thánh
địa trở về, lòng tôn kính Thánh Giuse được nhen nhúm bên Tây Phương. Ngôi nhà
nguyện đầu tiên dâng kính Thánh Giuse được cất tại Parma (Italia) vào năm 1074, và thánh đường đầu tiên
được cung hiến cho Người tại Bologna (Italia) năm 1129.
Tên Thánh Giuse được ghi vào Tử-đạo-thư (martyrologium) ở vài nơi bên Đức (Reichenau,
Trier) vào ngày 19
hoặc 20 tháng 3 hằng năm. Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ XIII mới thấy bài lễ (Officium) được sử dụng tại đan viện Dòng
Benedicto tại Liège, nhưng các chứng tích vào thời này vẫn còn hiếm hoi.
Một bước tiến xa hơn được bắt đầu với sự xuất hiện các
Dòng Hành Khất. Lễ Thánh Giuse được mừng vào ngày 19 tháng 3 ở trong Dòng Tôi
Tớ Đức Mẹ (quyết định của tổng hội năm 1324),
Dòng Phansinh (năm 1399), Dòng Carmelo (cuối
thế kỷ XIV). Theo đà đó, năm 1479, Đức Giáo Hoàng Sixto IV (Dòng
Phansinh) truyền thêm
lễ Thánh Giuse vào sách nguyện và sách lễ Roma; nhưng quyết định chỉ có giá trị
cho Giáo phận Roma. Phải chờ đến ngày 8/5/1621, Đức Giáo Hoàng Gregorio XV mới
truyền cử hành trong toàn Hội Thánh; thế nhưng nghị định không được chấp hành,
và Đức Giáo Hoàng Urbano VIII đã lặp lại vào năm 1642.
III. THỜI CẬN ĐẠI
Các sử gia không nhất trí trong việc ấn định lằn ranh
giữa thời Trung Đại và thời Cận Đại. Ở đây, chúng tôi không theo sát tiêu chuẩn
của các nhà sử học nhưng chỉ muốn nêu bật sự chuyển hướng về thần học và phụng
vụ.
A. Thần học
Theo sự nhận xét của Đức Giáo Hoàng Benedicto XIV,[59] trong
số những người tiên phong đã sử dụng ngòi bút để cổ động lòng tôn kính Thánh Giuse
phải kể đến hai nhân vật: linh mục Jean Gerson, chưởng ấn đại học Paris (1363-1429) và linh mục Isidoro de Isolanis, Dòng
Đaminh (k. 1475 - k. 1528).
1/. Cha Jean Gerson
Tên thật là Jean de Charlier (Gerson
là tên của nguyên quán). Là chưởng ấn của đại học Paris từ năm 1395
lúc mới được 32 tuổi, cha dốc hết nhiệt tình vào việc giải quyết cuộc khủng
hoảng của Giáo Hội lúc đó, bị phân chia giữa hai Giáo Hoàng Roma và Avignon.
Cha đã viết nhiều bức thư, bài thơ và bài giảng để ca
ngợi sứ mạng và sự thánh thiện của Thánh Giuse cũng như thỉnh cầu giáo quyền
thiết lập lễ tôn kính Thánh Cả.[60] Những bài giảng đầu tiên bắt đầu từ năm
1413, đặc biệt với khảo luận bằng tiếng Pháp “Considérations sur saint Joseph”,
đưa ra những lý do để cổ động lòng tôn sùng Thánh Nhân. Tác phẩm chính là một
trường thi (2957 câu) bằng tiếng Latin tựa đề “Josephina”
(khoảng năm 1414-1416), thuật lại cuộc đời của Thánh Giuse kể từ
biến cố truyền tin cho đến lúc lìa đời. Sau cùng, trong thời gian họp Công Đồng
Constance, cha đã thuyết trình trước nghị phụ một bài giảng nhân lễ sinh nhật
Đức Mẹ (08/09/1416) mang tính cách thuyết minh để thúc đẩy
việc thành lập lễ Thánh Giuse “Sermo de nativitate gloriosae
Virginis Mariae et de commendatione virginei sponsi eius Joseph”. Cha đề nghị thiết lập nhiều lễ kính:
ngày ly trần, cuộc thành hôn với Đức Maria, và cha đã soạn sẵn bản văn phụng
vụ.
Ngoài những động lực dựa trên các nhân đức của Thánh
Giuse (khiêm tốn, hiền hòa, tận tâm phục vụ), cha
Gerson thâm tín rằng, Thánh Nhân là người có thế lực để chuyển cầu cho Hội
Thánh đang trải qua thời kỳ phân ly. Cha lập luận rằng, Thánh Giuse là gia
trưởng ở Nazareth, và được Đức Maria và Đức Giêsu suy phục. Uy tín này vẫn còn
được duy trì ở trên trời. Cha Gerson, một nhà thần học bênh vực đạo lý Đức
Maria vô nhiễm nguyên tội, cũng muốn cho Thánh Giuse được thánh hóa từ lòng mẹ
giống như Thánh Gioan Tiền Hô. Đường hướng thần học của cha là học hỏi Thánh
Giuse dựa theo thần học về Đức Maria, xét về các nhân đức và đặc ân.[61] Một hình ảnh khác cũng được phổ biến nhờ
cha Gerson là “tam vị ở dưới trần” (Đức Giêsu, Đức
Mẹ, Thánh Giuse) được
trình bày như phản ánh mầu nhiệm “tam vị” ở trên trời.
2/. Cha Isidoro Isolani
Chúng ta không biết chắc chắn về năm sinh và năm chết của
cha Isidoro Isolani.[62] Chỉ biết rằng, cha làm bề trên tu viện
St. Maria delle Grazie tại Milan (nơi có bức họa nổi tiếng Bữa Tiệc ly
của Leonardo Vinci) vào
năm 1528.
Trước đó, từ năm 1517, cũng tại Milan, cha đã xuất bản
tác phẩm thần học “De imperio militantis Ecclesiae”.
Nhiều tác phẩm khác được phát hành tại Pavia vào những năm kế tiếp (chẳng hạn
những khảo luận chống lại Luther (“Disputationes catholicae quinque”,
1522), cho thấy cha đã được thuyên chuyển đây đó để dạy học. Cũng
vào năm 1522 tại Pavia, cha cho phát hành cuốn tổng luận thần học về Thánh
Giuse, tuy cha bắt đầu biên soạn quyển này từ năm 1514, tại Fontanellato, cạnh
tu viện có nhà thờ dâng kính Thánh Giuse. Có lẽ cha chỉ dừng lại tu viện
Fontanellato chừng hai ba năm, bởi vì vào năm 1517 cha đã trở về Milan rồi. Cha
qua đời khoảng năm 1528.
Như đã thấy trên đây, những bài giảng, suy niệm hoặc khảo
luận về Thánh Giuse đã ra đời từ thời các Giáo phụ. Tuy nhiên, cha Isolani là
người đầu tiên biên soạn một quyển sách thần học trình bày mạch lạc về người
dưỡng phụ của Đức Giêsu, với tựa đề “Summa de donis S. Joseph”.
Lúc xuất bản tại Bologna (nơi cha đang làm giám học “magister
studii”) năm 1522,
cha Isolani đã đề tặng tác phẩm lên Đức Giáo Hoàng Adriano VI.
Tác phẩm được chia thành bốn phần, giống như bốn mùa trong
năm. Mỗi phần được chia thành nhiều chương, mỗi chương là một đề tài được trình
bày theo lối văn của “Summa Theologica”, nghĩa
là: vấn nạn; thân bài; giải đáp.
a/. Phần
thứ nhất gồm 17 chương, bàn
về các hồng ân mà Thánh Giuse đã lãnh nhận trước khi kết hôn với Đức Maria.
- Trước hết (ch.1-2), tác giả phân tích sáu nhân đức dựa
theo danh tánh (danh là người) I.O.S.E.P.H.,
đó là: iustitita (công chính), oboedientia (vâng
lời), sapientia (khôn ngoan), experientia (kinh
nghiệm), patientia (nhẫn nhục), humilitas (khiêm
nhường).[63] Dù sao, tác giả không quên ý nghĩa của
danh từ Iôsef trong Cựu Ước có nghĩa là “Gia-vê ban thêm” (Iehôsef, augmentum,
dựa theo sách Sáng Thế 30,24).
- Thêm vào đó là các hồng ân: xứ sở (ch.3), dòng dõi
(ch.4-8), sự thánh thiện ngay từ trong lòng mẹ (ch.9-10). Theo tác giả, sự
thánh thiện được ban nhằm đến chức vụ sẽ đảm nhận trong tương lai. Nếu ta chấp
nhận được ông Jeremia và ông Gioan Tiền Hô được thánh hóa ngay từ lòng mẹ bởi
vì họ được tuyển chọn làm tiên tri cho Đấng Cứu Thế sẽ đến, thì tại sao lại
không thể nghĩ đến một đặc ân tương tự cho Thánh Giuse là kẻ đã ẵm bế, che chở,
nuôi dưỡng Chúa Kitô?[64]
- Hai chương 11-12 bàn đến hồng ân duyên dáng (pulchritudo:
đẹp trai?). Không thể nào hình dung một người luôn sống bên cạnh Đức
Giêsu và Mẹ Maria mà dung mạo xấu xí, già khụ! Người ta sẽ đàm tiếu chết! Sau
khi nói đến ơn đồng trinh (ch.13-14), ơn nghề thợ mộc (ch.15), tác giả kết thúc
phần thứ nhất với hồng ân các nhân đức trong cuộc đời Thánh Giuse: prudentia (khôn
ngoan), iustitita (công chính), pietas (đạo
đức), thanh khiết, đầy tình mến thương, thanh bần (ch.16-17).
b/. Phần
thứ hai, gồm 15 chương, bàn đến những hồng ân mà Thánh Giuse nhận được sau
khi kết hôn với Đức Maria. Đứng đầu là hồng ân được kết duyên với Đức Maria (ch.1-2),
rồi đến tuổi tác (ch.3) và các đức tính do cuộc hôn nhân: bảo vệ Đức Maria và
Hài nhi, dưỡng phụ Đức Giêsu, ơn công chính (ch.4-5), ơn được chứng kiến cuộc
gặp gỡ của Đức Maria với bà Elisabeth (ch.6), được thiên sứ truyền tin
(ch.7-8), được Đức Maria yêu quý (ch.9), được thờ lạy Chúa giáng sinh (ch.10),
được đặt tên cho Hài nhi (ch.11), được thiên thần năng hiện đến (ch.12), được
sống kề bên Chúa Cứu Thế và thánh mẫu (ch.13), được tìm thấy Hài nhi trong đền
thánh (ch.14) và sau cùng là ơn mến Đức Giêsu hết lòng (ch.15).
Đây là phần súc tích nhất về thần học, khi tác giả phải
bảo vệ hôn nhân đích thực của Đức Maria với Thánh Giuse đồng thời với đức trinh
khiết của hai vị. Nên biết là khi nói về tuổi tác vào lúc kết hôn, tác giả cho rằng
Thánh Giuse không trẻ lắm nhưng cũng không già lắm. Người thuộc tuổi trung
niên, chín chắn, để có thể cáng đáng chức vụ dưỡng phụ Chúa Cứu Thế.
c/. Trong phần
thứ ba (22 chương), tác giả
dành ra 9 chương đầu để đối chiếu Thánh Giuse với những phúc lành (Benedictiones) được Chúa ban cho các tổ phụ (Adam,
Noe, Jacob, Giuse, Balaam, Moses).
Hơn các thánh tổ phụ của Cựu Ước, Thánh Giuse còn được
lãnh nhận các hồng ân thời Tân Ước: ơn được lãnh bí tích rửa tội (ch.10), ơn
thanh tịnh (ch.11), bảy ơn Chúa Thánh Thần (ch.12), hồng ân bảy mối phúc thật
(ch.13-16).
Sau cùng, tác giả so sánh Thánh Giuse với các thánh tông
đồ, các ngôn sứ, thánh sử, mục tử (ch.17-22).
d/. Phần
thứ bốn bàn về những ơn của
thánh nhân khi chết và ơn được vinh hiển hồn xác trên trời. Tuy thú nhận là một
vấn đề khó khăn, nhưng tác giả đã dành ra 10 chương để bàn về lúc từ trần
(ch.1), về việc xuống ngục tổ tông (limbô, ch.2), về sự vinh quang cả hồn lẫn
xác (ch.3), về ba triều thiên (tử đạo, đồng trinh, tiến sĩ, ch.4), và ơn các
hoa trái (ch.5). Ba chương 6-8 bàn về lễ phụng vụ kính Thánh Giuse. Chương 9
lược thuật tiểu sử Thánh Giuse dựa theo bài đọc của phụng vụ Đông Phương (dịch
từ tiếng Do Thái sang tiếng Latin năm 1340), nơi mà Thánh Giuse được
kính hằng năm vào ngày 20 tháng 7. Chương chót kể lại phép lạ một người có lòng
sùng kính Thánh Giuse được thánh nhân đón tiếp vào thiên đàng.
Kết luận là bài lễ phụng vụ (officium
sancti Ioseph) do tác
giả soạn và được Đức Giáo Hoàng Adriano VI châu phê. Nên biết là từ năm 1508,
Dòng Đaminh đã mừng kính Thánh Giuse trong lịch phụng vụ, nhưng các bản văn
kinh nguyện lấy từ phần chung (Commune confessorum). Cha
Isolani soạn thêm phần riêng.
Tất cả các sử gia đều nhìn nhận tác phẩm của cha Isolani
như nền tảng cho sự phát triển thần học về Thánh Giuse,[65] một thứ thần học đúng nghĩa, dựa trên
Kinh Thánh, các Giáo phụ, các tiến sĩ Giáo Hội, các luận cứ (chứ
không phải theo truyền kỳ hay cảm tình ướt át).
Những tác phẩm của cha Gerson và Isolani đã trở nên nguồn
tài liệu dồi dào cho các nhà giảng thuyết và thần học trong các thế kỷ kế tiếp.
- Thánh Francois de Sales (1567-1622), Sur
les vertues de st Joseph. Les vrais entretiens spirituels n. 19.
- Giám mục Bénigne Bossuet (1627-1704) với hai bài giảng: “Depositum
custodi” và“Quaesivit
sibi Deus”.
Trong số những người nhiệt thành cổ động lòng sùng kính
Thánh Giuse vào thời cận đại, chúng ta không thể nào bỏ qua thánh Teresa Avila (1515-1582).
Tên Thánh Giuse được đặt cho đan viện cải tổ ở Avila năm 1562, và 11 đan viện
khác (trong số 17 đan viện được thiết lập).[66] Dù sao, tất cả đan viện Carmelo đều đặt
tượng Thánh Giuse cũng với châm ngôn “Ite ad Joseph” (do sáng kiến của cha
Jeronimo Gracian).
Nhiều Dòng tu ra đời vào thời cận đại cũng nhận Thánh
Giuse làm quan thầy, như sẽ thấy trong chương tới.
B. Phụng vụ
Những lễ kính Thánh Giuse bắt đầu từ vài Giáo phận hay
Dòng tu, dần dần được đưa vào lịch phụng vụ phổ quát:
- Ngày 8/5/1621, Đức Giáo Hoàng Gregorio XV truyền mừng
lễ Thánh Giuse vào ngày 19 tháng 3, như là lễ buộc trong toàn Hội Thánh. Ngày
4/2/1714, Đức Giáo Hoàng Clemente XI phê chuẩn bản kinh mới cho Sách nguyện với
ba thánh thi: “Te Ioseph, Caelitum Ioseph, Iste quem
laeti”.
- Năm 1725, lễ hôn phối của Thánh Giuse được Đức Giáo
Hoàng Benedicto XIII cho phép cử hành (vào ngày 23 tháng giêng) trong toàn Giáo Hội. Cũng chính vị
Giáo Hoàng này ghi tên Thánh Giuse vào “Kinh Cầu Các Thánh” (liền sau tên
Thánh Gioan Tiền Hô) do
sắc lệnh ngày 19/12/1726.
- Ngày 10/9/1847, Đức Giáo Hoàng Piô IX ấn định lễ Thánh
Giuse bảo trợ toàn thể Giáo Hội được cử hành vào ngày thứ Tư tuần thứ ba sau lễ
Phục sinh. Ngày 8/12/1870, ngài tôn Thánh Giuse làm bảo trợ Hội Thánh.
IV. KẾT LUẬN
Trong mục này, chúng ta đã theo dõi sự tiến triển về tư
tưởng thần học và lòng tôn kính Thánh Giuse trải qua lịch sử. Đó là những dữ
kiện sẽ được các văn kiện Tòa thánh sử dụng như sẽ thấy trong mục tới. Trước
khi kết thúc, chúng ta hãy lượt qua vài đường hướng thần học về Thánh Giuse
trong những thế kỷ gần đây.
Từ sau Công Đồng Trento, thần học Công Giáo bắt đầu phát
triển nhiều thiên độc lập tựa như: thần học hộ giáo (Apologetica),
Giáo Hội học (Ecclesiologia), Thánh mẫu
học (Mariologia).
Theo đà đó, cũng có người muốn phát triển bộ môn thần học về Thánh Giuse (Josephologia). Giữa hai mốc
điểm đó, chúng ta hãy rảo qua vài đường hướng:
- Nói chung, Thánh
Giuse được nhắc đến khi bàn về Mầu nhiệm Nhập thể (De
Verbo Incarnato), nay gọi là Kitô học (Christologia).
Dĩ nhiên, bối cảnh thích hợp hơn cả là Thánh mẫu học(Mariologia), khi nói đến sự trinh khiết trọn
đời của Đức Maria.
- Tuy nhiên, cũng có vài tác phẩm được dành riêng cho
Thánh Giuse, chẳng hạn như: P. Morales, In cap. I Matth., de Christo, S.ma Virgine... veroque eius Sponso,
2 voll., Paris 1869; G. M. Schenck, De s. Ioseph,Augsburg
1850; P. V. Mercier, St Ioseph d'après l'Ecriture et la
tradition,Paris 1895; C. H. Jamar, Theologia
s. Ioseph,Louvain 1897; G. Sinibaldi, La
grandezza di san Giuseppe, Roma 1927: L. E. Dubois, St
Joseph,VII ed., Paris 1929; A. H. Lépicier, Tractatus
de s. Ioseph,III ed., Roma 1933; D. Buzy, St
Joseph (Cahiers de la Vierge, 19), Paris 1936; J.
Mueller, Der hl. Joseph,Innsbruck
1937; U. Holzmeister, De s. Ioseph quaestiones biblicae,
Roma 1945. B. Llamera, Teologia de san José,
Madrid 1953.
Các tác giả thường có khuynh hướng trình bày Thánh Giuse
với những ân huệ được ban kèm theo ơn gọi, cũng tựa như Đức Maria: trinh khiết,
vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời.
Kể từ Công Đồng Vatican II, người ta chú trọng hơn đến
vai trò phục vụ ơn cứu độ. Điều này giả thiết một sự thay đổi phương pháp, dựa
trên Kinh Thánh và Thánh Truyền hơn là các suy diễn. Việc nghiên cứu thần học
được thực hiện cách riêng do những trung tâm sau đây:
- Tây Ban Nha: Sociedad Espanola Josefina do cha J.A. Carrasco, O.C.D. thành lập
ngày 30/8/1951 tại Valladolid, sau đó đổi tên thành Sociedad
Ibero-americana de Josefolofia. Tạp chí nghiên cứu: Estudios
Josefinos.
- Canada: Bên cạnh đền Thánh Giuse ở Montréal, trung tâm
nghiên cứu Centre de Recherche et de
Documentation được
thiết lập từ năm 1952, và xuất bản tạp chí Cahiers de Joséphologie từ năm 1953 (đổi tên thành Cahiers
de l?Oratoire Saint-Joseph từ
năm 1996).
- Italia: Centro studi San Giuseppe (Viterbo), Movimento
Giuseppino (Roma).
- Mexico: Centro de Documentacion y Estudios
Josefinos de Mexico
- Balan: Polskie Studium Jozefologiczne (Kaliszu)
- Đức: Arbeitskreis fuer Josefstudien (Kevelaer)
Thêm vào đó, nhiều Hội nghị thần học quốc tế về lịch sử
lòng tôn kính Thánh Giuse trải qua các thời đại, được tổ chức tại Roma (1970),
Toledo (1976), Montréal (1980), Kalisz (Ba lan, 1985), Mexico (1989), Roma
(1993), Malta (1997), San Salvador (2001), Kevelaer (2005).
MỤC III.
HUẤN QUYỀN
Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, trong các tín biểu (Kinh
Tin kính), Giáo Hội đã tuyên xưng chân lý đức tin về Đức Maria thụ
thai Đức Giêsu do quyền năng Thánh Thần, và thực sự là thân mẫu của Con Thiên
Chúa nhập thể (Công Đồng Ephesus năm 431).
Những chân lý này nằm trong truyền thống các thánh tông đồ. Vào thời cận đại,
huấn quyền đã tuyên bố tín điều“Đức
Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” (1854) và “Hồn
Xác Lên Trời” (1950).
Tuy nhiên, Huấn quyền không tuyên bố tín điều nào về
Thánh Giuse, tuy một cách gián tiếp, thánh nhân được nhắc tới trong tín điều về
Đức Maria thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần, và tín điều về “Đức
Maria Trọn Đời Đồng Trinh”.
I. NHỮNG VĂN KIỆN
Huấn quyền giữ thái độ im lặng đối với Thánh Giuse mãi
đến những thế kỷ gần đầy khi thánh nhân được suy tôn làm Đấng Bảo trợ của Hội
Thánh,[67] bắt
đầu từ Đức Thánh Cha Piô IX. Trước tiên, chúng ta sẽ điểm qua những văn kiện
chính, sau đó chúng ta sẽ dừng lại phân tích Tông huấn Redemptoris Custos.
1/. Đức Giáo Hoàng Piô IX (1846-1878)
- Sắc lệnh của Bộ Nghi lễ Inclytus
Patriarcha Joseph (10/9/1847), mở rộng ra toàn thể Giáo Hội lễ kính
Thánh Giuse bảo trợ (trước đây đã được cử hành tại vài địa
phương và Dòng tu), được cử hành vào thứ Tư tuần thứ Ba sau lễ Phục
sinh. Đây là lần đầu tiên, một văn kiện Tòa Thánh trình bày những nguyên tắc
thần học về Thánh Giuse.
- Sắc lệnh Quemadmodum Deus (8/12/1870) tuyên bố Thánh Giuse bảo trợ Hội
Thánh, đáp lại lời thỉnh cầu của Công Đồng Vatican I.[68] Tổ phụ Giuse trong Cựu Ước là hình ảnh
của Thánh Giuse, được đặt lên làm quản trị tài sản hoàng gia và phân phát lương
thực; Thiên Chúa cũng trao cho Thánh Giuse việc chăm sóc những nhu cầu của Hội
Thánh.
2/. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (1878-1903)
- Quan trọng nhất là Thông điệp Quamquam pluries (15/8/1889). Trình bày những lý do vì sao Giáo Hội nhận
Thánh Giuse làm bảo trợ. Lý do thứ nhất bởi vì thánh nhân được chia sẻ vào
những ân huệ và phẩm giá của Đức Maria, nhờ mối dây hôn nhân. Lý do thứ hai là
bởi vì mối tương quan hiền phụ với Đức Giêsu: thánh nhân luôn luôn được Đức
Giêsu tỏ lòng tôn kính vâng phục. Lý do thứ ba là những đức tính của Thánh
Giuse trong việc chu toàn trách nhiệm với Đức Mẹ và Đức Giêsu. Người vẫn tiếp
tục vai trò bảo vệ Thánh gia được nối dài nơi Hội Thánh. Tất cả mọi tầng lớp xã
hội đều có thể chạy đến Thánh Giuse: các gia trưởng, các đôi bạn, các người
trinh khiết, các giới thượng lưu cũng như giới lao động. Thông điệp kèm theo
kinh khẩn cầu Thánh Giuse che chở Hội Thánh, được đọc trong tháng Mười cùng với
kinh Mân Côi.
- Tông thư Neminem fugit (14/6/1892) thiết
lập hiệp hội các gia đình được dâng hiến cho Thánh Gia.
3/. Đức Giáo Hoàng Piô X (1901-1914)
Lòng tôn kính Thánh Giuse của vị Giáo Hoàng này phần nào
bắt nguồn từ tên riêng của mình (Giuseppe
Sarto). Ngài phê chuẩn kinh cầu Thánh Giuse (18/3/1909).
4/. Đức Giáo Hoàng Benedicto XV (1914-1922)
- Phê chuẩn kinh Tiền tụng Thánh Giuse trong Sách Lễ Roma (9/4/1919)
- Tự sắc Bonum sane (25/7/1920),
nhân dịp kỷ niệm 50 năm Thánh Giuse được tôn phong Bảo trợ Hội Thánh. Nhắc lại
tầm quan trọng của việc cầu khẩn Thánh Giuse để đáp lại những nhu cầu của thế
giới sau thế chiến thứ nhất. Ngoài mẫu gương nhân đức cho giới lao động, Thánh
Giuse còn được giới thiệu như là bảo trợ những người sắp qua đời.
5/. Đức Giáo Hoàng Piô XI (1922-1939)
- Huấn dụ ngày 19/3/1935, nêu bật mối liên hệ của Thánh
Giuse với sự hiệp nhất ngôi vị(unio
hyposthatica) của
Ngôi Lời nhập thể.
- Thông điệp Ad sacerdotii catholici
(20/12/1935) nói đến
Đức Giêsu đã được đào tạo ở Nazareth bởi Đức Maria và Thánh Giuse, cả hai người
đều trinh khiết.
- Thông điệp Divini Redemptoris (19/3/1937) trình bày Thánh Giuse như khuôn mẫu
cho giới lao động.
6/. Đức Giáo Hoàng Piô XII (1939-1958)
Thiết lập lễ Thánh Giuse lao động, và phê chuẩn những bản
văn phụng vụ dùng vào dịp lễ(ngày
1/5/1955). Lễ này thay thế lễ Thánh Giuse bảo trợ Hội Thánh.
7/. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-1963)
Hơn một lần, ngài đã nhắc nhớ rằng, Giuse là tên thứ hai
của mình (Angelo Giuseppe Roncalli).
Hai sự kiện đáng ghi nhớ:
- Tông thư Le voci triệu tập Công Đồng Vatican II (19/3/1961) đặt Công Đồng dưới sự bảo trợ của
Thánh Giuse. Nhắc lại giáo huấn của các vị tiền nhiệm về vai trò của Thánh
Giuse đối với Giáo Hội.
- Sắc lệnh Bộ Nghi lễ (13/11/1962),
ghi tên Thánh Giuse vào Lễ quy Roma.
8/. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI (1963-1978)
Nhiều lần nói đến Thánh Giuse trong các bài giảng hay
huắn từ nhân lễ kính thánh nhân ngày 19/3 và 1/5. Nổi tiếng là bài suy niệm tại
Nazareth (5/1/1964) nhân dịp hành hương kính
viếng Thánh địa (được trích dẫn trong bài đọc Giờ Kinh Sách lễ Thánh gia).
9/. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005)
- Nhiều lần đề cập đến Thánh Giuse trong các bài giảng
nhân dịp lễ vào ngày 19 tháng 3, nêu bật vai trò của Người trong chương trình
cứu độ của Thiên Chúa (1982) và trong Hội Thánh (năm
1993 và 2001; 26/3/2003), cũng như những nhân đức nổi vượt, tựa như
tín thác(1980),
tin và cầu nguyện (1983). Thánh nhân cũng
trở nên mẫu gương cho đời sống gia đình (năm 1981, 1987, 1993, 1999).
- Thánh Giuse được nhắc đến trong nhiều văn kiện: Thông
điệp Redemptor hominis (4/3/1979), số 9; Thông
điệp Laborem exercens (14/9/1981), số 26; Tông huấn Familiaris
consortio (22/11/1981),
số 86; Thông điệp Dominum et vivificantem (18/5/1986),
số 18 và 49; Thông điệp Redemptoris mater (25/3/1987), khi ôn lại các biến cố
thời thơ ấu của Đức Giêsu; Tông huấn Christifideles laici (30/12/1988); Tông huấn Vita
consecrata (25/3/1996),
số 28.
- Văn kiện quan trọng nhất là Tông
huấn Redemptoris Custos sẽ
được trình bày dưới đây.[69]
10/. Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI (2005-2013)
Tên riêng là Joseph Ratzinger. Ngài đã dành một suy niệm
ngắn về Thánh Giuse trong huấn từ chúa nhật thứ IV mùa Vọng năm 2005 (19/12) về sự thinh lặng, và nhân ngày lễ kính
thánh nhân 19/3/2006.
11/. Đức Giáo Hoàng Phanxicô (2013- …)
Ngày 08-12-2020 nhân kỷ niệm 150 năm tôn vinh Thánh
Giuse là Bổn mạng Hội Thánh, Đức thánh cha Phanxiô ban hành tông thư Patris Corde để “chia sẻ về dung mạo
phi thường của Thánh Giuse, thật gần gũi với kinh nghiệm của con
người”… qua các hình ảnh : 1o một
người cha yêu thương ; 2o một người cha dịu dàng và yêu thương ; 3o một
người cha vâng phục ; 4o một người cha chấp nhận ; 5o một người cha có
lòng can đảm đầy sáng tạo ; 6o một người cha làm việc ; 7 o một
người cha trong bóng tối. Ngài cũng cho mở một năm đặc biệt để tôn
vinh Thánh Cả kéo dài từ 08-12-2020 đến 08-12-2021.
II. TÔNG HUẤN REDEMPTORIS CUSTOS
Văn kiện quan
trọng nhất của Tòa Thánh từ sau Công Đồng Vatican II là Tông
huấn Redemptoris custos của
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, được ban hành ngày 15/8/1989, để kỷ niệm 100 năm Thông
điệp Quamquam Pluries của
Đức Thánh Cha Lêô XIII (15/8/1889). Chúng tôi xin giới thiệu những nét đại
cương.
A. Chiều hướng: Chương trình cứu độ
1/. Tựa đề của
văn kiện này là “Redemptoris Custos” (Đấng gìn giữ
Chúa Cứu Thế) gợi lên
nhiều văn kiện khác của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng mang danh từ“Redemptor”: Thông điệp Redemptor
hominis (3/3/1979), về Chúa Kitô; Thông điệp Redemptoris Mater (25/3/1987) về Đức Maria; rồi sau đó
là Thông điệp Redemptoris Missio(7/12/1990) về
hoạt động truyền giáo.[70]
2/. Phụ đề của Tông
huấn “về dung mạo và sứ mạng của Thánh Giuse trong cuộc đời của Đức Giêsu và
của Hội Thánh” xác
định rõ hơn viễn tượng của văn kiện này, đó là tìm hiểu vai trò của Thánh Giuse
trong kế hoạch cứu độ được thực hiện nơi Đức Kitô và tiếp tục nơi Hội Thánh.
3/. Những tư tưởng then chốt. Kế hoạch cứu độ nhân loại của Chúa Cha được thực hiện
qua mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua của Đức Kitô. Mầu nhiệm Nhập Thể là nền tảng
cho mầu nhiệm Vượt Qua. Do sự gắn bó chặt chẽ của các mầu nhiệm đó trong nhiệm
cục cứu độ cho nên tuy Thánh Giuse tham dự vào mầu nhiệm Nhập Thể hơn là mầu
nhiệm Vượt Qua nhưng Người cũng đáng được mang danh hiệu là “Đấng
gìn giữ Chúa Cứu Thế” và “thừa
tác viên của ơn cứu độ” (redemptoris custos, minister salutis).[71] Người đã cộng tác vào việc thực hiện mầu
nhiệm Nhập Thể bằng việc đảm nhận chức vụ làm chồng của Đức Maria và cha của
Đức Giêsu. Nhằm chu toàn sứ mạng đó, Thánh Giuse đã được chuẩn bị tâm hồn với
những nhân đức thích ứng, cách riêng là yêu thương, tận tụy, chiêm niệm. Thánh
Giuse vẫn còn tiếp tục sứ mạng của mình trong Hội Thánh. Mặt khác, Hội Thánh
cũng nhận thấy nơi Người tấm gương trong việc thực thi cùng một sứ mạng là phục
vụ nhiệm cục cứu độ.
B. Bố cục
Tông huấn gồm nhập đề và 6 chương. Chương Một và Chương
Hai có thể coi như một thứ“Lectio
divina”, suy gẫm những đoạn văn Tân Ước bàn về Thánh Giuse. Những
chương kế tiếp đào sâu vài chủ đề về hôn nhân gia đình (ch.3), lao động (ch.4),
lắng nghe tiếng Chúa (ch.5).
- Nhập đề (số 1): Giải thích lý do ban hành Tông
huấn
- Chương Một: Khung cảnh của
Tin Mừng
Phân tích cảnh truyền tin của sứ thần (Mt
1,18-25), khởi đầu của sứ mạng Thánh Giuse: chồng của Đức Maria thân
mẫu của Đức Giêsu (số 2-3). So sánh với cảnh
truyền tin cho Đức Maria, chúng ta nhận thấy điểm tương đồng là sự tuân phục
lời Chúa bằng đức tin.
- Chương Hai: Người được ký
thác mầu nhiệm của Thiên Chúa
Vai trò của Thánh Giuse đối với Đức Maria và Đức Giêsu
dựa theo các trình thuật Phúc Âm(số
7-8), được ví như “hành trình đức tin” (số 4-6),
trải qua những chặng đường của Chúa Cứu Thế: về Bethlehem để kiểm tra dân số (số
9), Chúa Giáng sinh (số 10), cắt bì và đặt tên
cho Hài nhi (số 11-12), dâng Hài nhi
vào đền thánh (số 13), lánh nạn sang Ai
Cập (số 14), tìm lại Hài nhi lạc trong đền thánh (số
15), trở về Nazareth (số 16).
Thánh Giuse hiện diện bên cạnh Chúa Cứu Thế như một kẻ
phục vụ ơn cứu độ trong cương vị người làm cha.
- Chương Ba: Người công
chính - vị hôn phu (số 17-21)
Chương này phân tích mối tương quan của Thánh Giuse với
Đức Maria. Hôn nhân giữa hai vị làm nổi bật yếu tính của hôn nhân là “ý
hợp tâm đầu” (liên kết tinh thần hoặc liên kết tâm hồn).
- Chương Bốn: Lao động, biểu
hiện của tình yêu
Ý nghĩa của lao động như là biểu hiện của tình yêu và
phương tiện nên thánh: Thánh Giuse trở nên mẫu gương cho những người làm môn đệ
Chúa qua công việc thầm lặng thường nhật (số 22-24).
- Chương Năm. Ưu tiên của
đời sống nội tâm
Giữa công việc hàng ngày, Thánh Giuse vẫn duy trì được sự
thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa. Người trở nên gương mẫu của đời nội tâm (số
25-27), như thánh Têrêsa Avila đã lưu ý.
- Chương Sáu. Đấng Bảo trợ
Hội Thánh thời nay
Vào buổi khó khăn của thời cận đại, các Đức Giáo Hoàng Piô
IX, Lêo XIII, Phaolô VI đã xin Thánh Giuse bảo trợ Giáo Hội. Thánh nhân luôn là
kẻ che chở Hội Thánh trong công cuộc truyền giảng Tin Mừng.
C. Nhận xét về những nguồn dữ liệu
Những suy tư của tông huấn dựa trên những dữ kiện của
Kinh Thánh và Thánh Truyền được trưng dẫn nhiều lần.
1/. Kinh Thánh
- Nói chung: trưng dẫn minh thị 80 lần trong bản văn, 4
lần gián tiếp trong các chú dẫn
- Cựu Ước: 2 lần minh thị: St 17,13 (số
11, đối chiếu giao ước với Abraham và giao ước mới của Đức Kitô);
Hs 11,1 (số 14, lấy lại của Mt 2,14-15);
2 lần ám tàng: St 3,1-24 (Đối chiếu Adam - Eva với Maria -
Giuse, ở số 7); tổ phụ Giuse (chú dẫn số 4).
- Tân Ước: Nhiều nhất là Luca (30
lần) và Matthew (21
lần). Các tác phẩm khác: Ep (6 lần), Rm (4
lần), Cv (2 lần), Dt (2
lần), 1Cr (2 lần) và 2Cr (2
lần), Gl - Pl - 1 Pr - 2Pr (1 lần).
Các bản văn Phúc Âm được trích dẫn nhiều hơn cả ở chương
Hai (30 lần), chương Một (12
lần), chương Ba (11 lần), chương Sáu (3
lần), chương Năm (2 lần), chương Bốn (1
lần).
2/. Giáo phụ và Tiến sĩ
- Thánh Augustino 9 lần ở số 7 liên quan đến hôn nhân của
Đức Mẹ và Thánh Giuse
- Origène: 2 lần ở số 8 và 9 (nota
27; 28).
- Thánh Irénee và Thánh Gioan kim khẩu được trưng dẫn
gián tiếp ở số 1 (nota 1+ 4).
- Thánh Thomas Aquinas (được trưng dẫn 4 lần).[72] Đạo lý của vị này được coi như tổng hợp
của truyền thống Kitô giáo về các chân lý căn bản liên can đến hôn nhân giữa
Thánh Giuse và Đức Maria (nota 15),[73] kèm theo các tác phẩm của Thánh
Augustino. Đặc biệt ở chương Năm, “Ưu tiên của đời sống nội tâm”,
Thánh Thomas được trưng dẫn 3 lần (nota 38, 39, 41), để
trình bày:
a/. Khái niệm về lòng đạo đức,[74] hệ tại tâm tình sẵn sàng phục vụ Chúa;
b/. Sự tiếp xúc với nhân tính Đức Kitô dẫn đưa tới sự kết
hiệp với thiên tính [75];
c/. Sự hài hòa giữa lòng yêu mến chân lý (caritas
veritatis) với đòi
hỏi của lòng yêu mến(necessitas
caritatis).[76]
3/. Phụng vụ
- Lịch sử các lễ kính Thánh Giuse: số 6; 16; 21; 22; 29.
- Bản văn phụng vụ lễ kính Thánh Giuse và lễ ngoại lịch:
số 8; 31.
- Bản văn lễ Đức Mẹ (mầu nhiệm Nazareth): số 20
4/. Huấn quyền
Tông thư trích dẫn các văn kiện của Công Đồng Vatican II,[77] của
các Giáo Hoàng tiền nhiệm, hoặc những văn bản chính thức,[78] hoặc những huấn từ, bài giảng,[79] và
kể cả vài văn kiện của chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Dù sao, nên lưu ý là Tông thư không hề nhắc tới các lưu
truyền từ các ngụy thư, lại càng không trích dẫn các thứ “mạc
khải tư”.
Đó cũng là những chỉ dẫn quý báu cho công cuộc nghiên cứu
thần học trong chương tới.
CHƯƠNG BA.
THÁNH GIUSE TRONG NHỮNG SUY TƯ THẦN HỌC
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP. (catechesis.net 18-3-2016)
Trong hai chương trước đây, chúng ta
đã thu thập những dữ kiện của Thánh Kinh và Thánh truyền về Thánh Giuse. Trong
chương này, chúng ta sẽ xếp đặt những dữ kiện đó theo hệ thống, đồng thời cũng
cố gắng tìm hiểu những lý lẽ giải thích đạo lý đức tin(intellectus fidei).
Như đã nói ở Nhập đề, Công Đồng Vatican II đã thay đổi
đường hướng trình bày thần học về Đức Maria. Thay vì dừng lại ở những suy diễn
về các đặc ân cao trọng mà Thiên Chúa đã ban cho Người, Công Đồng đã muốn nhìn
ngắm Người trong tương quan với Đức Giêsu và Hội Thánh. Dựa theo chiều hướng
đó, trong Thông điệp Redemptoris Mater,
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phân tích “cuộc lữ hành đức tin” của Đức Maria: tuy được ủy thác vai
trò độc nhất vô nhị trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ cũng đã trải qua
nhiều thử thách gian truân giống như chúng ta. Vì thế Người rất gần gũi với
chúng ta; hay cũng có thể nói ngược lại: chúng ta thấy mình gần gũi với Người
như một kẻ đồng hành trong đức tin.
Chúng ta có thể nhận xét cách tương tự về đường hướng suy
tư thần học của Tông huấn Redemptoris Custos.
Thay vì suy diễn các đặc ân cao trọng của Thánh Giuse (vô
nhiễm nguyên tội? hồn xác lên trời?), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II nhìn Thánh Giuse trong vai trò phục vụ chương trình cứu độ, nghĩa là trong
tương quan với Đức Giêsu và với Hội Thánh. Theo chiều hướng ấy, chúng tôi sẽ
lần lượt bàn về Thánh Giuse trong cuộc đời của Đức Giêsu (mục 1), trong Hội
Thánh (mục 2), trong phụng vụ (mục 3).
***
MỤC I. VAI TRÒ THÁNH GIUSE TRONG CUỘC ĐỜI CỦA ĐỨC GIÊSU
Trong những danh hiệu mà truyền thống đã dành cho Thánh
Giuse, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chọn hai diễn ngữ xem ra thích hợp
nhất để diễn tả vai trò của Người trong chương trình của Thiên Chúa: “Redemptoris
custos” (kẻ gìn giữ Chúa Cứu Thế) và “Minister
salutis” (người phục vụ [thừa tác] ơn cứu độ). Vai trò này được thể
hiện qua chức năng là“cha
của Đức Giêsu”, và Người trở nên cha của Đức Giêsu qua cuộc hôn
nhân với Đức Trinh nữ Maria, thân mẫu Đấng Cứu Thế.
“Cha của Đức Giêsu” – “Chồng của Đức Maria”: đó là hai chủ đề căn bản của những suy tư thần học về
Thánh Giuse từ thời các Giáo phụ. Khác một điều là trước đây, người ta dừng lại
ở chỗ tranh cãi về bản chất của “phụ tính” (cha theo nghĩa nào?) và “hôn nhân” (đâu là yếu tính của hôn
nhân?), Tông huấn Redemptoris Custos muốn đào sâu hơn khía cạnh tương quan, nghĩa là trong mối liên hệ
với Đức Giêsu và với Đức Maria. Nhờ việc suy niệm các đoạn văn Kinh Thánh,
chúng ta có thể khám phá ra khuôn mặt mới của “tình cha” và “hôn nhân” trong viễn ảnh của Nước Trời.
I. THÁNH GIUSE VỚI ĐỨC GIÊSU: “CHA”
Theo thứ tự thời gian và luận lý, lẽ ra cần phải bàn đến
Thánh Giuse là “chồng của Đức Maria” trước khi nói đến “cha
của Đức Giêsu” (Người là cha bởi vì là chồng của mẹ), nhưng xét
theo thứ tự thần học, thì mối tương quan với Đức Giêsu cần được đặt lên hàng
đầu. Sở dĩ Thánh Giuse được mời gọi hãy lấy Đức Maria làm vợ là bởi vì ông được
trao nhiệm vụ phục vụ cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Vai trò làm cha (“Kẻ
giữ gìn Đấng Cứu Chuộc”)nằm trong chương trình “phục
vụ ơn cứu độ”. Cuộc phục vụ này bao hàm nhiều lãnh vực, đứng đầu là “chứng
nhân cho mầu nhiệm Nhập Thể”.
A. Thánh Giuse chứng nhân cho mầu nhiệm Nhập Thể
Nhiều người tỏ ra
thất vọng vì Tân Ước không cung cấp nhiều dữ kiện về cuộc đời Thánh Giuse. Nói
cho đúng, Tân Ước cũng không cung cấp dữ kiện dồi dào về cuộc đời của Đức
Maria, và ngay cả về tiểu sử của Đức Giêsu nữa. Trọng tâm của Tân Ước dồn vào
hai điểm chính: thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu Kitô. Nói cách khác, Tân
Ước muốn trả lời cho hai câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu đã làm gì cho nhân
loại? Hai câu hỏi này tương đương phần nào với mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm
Vượt Qua của Người.
Đức Giêsu là ai?
Các nhà chú giải Kinh Thánh nhận thấy một sự tiến triển
trong cộng đoàn các môn đệ tiên khởi trong tâm thức về thân thế của Đức Giêsu, từ
chỗ quan niệm Đức Giêsu như là Đấng Messia được nâng lên làm Con Thiên Chúa do
sự phục sinh (xc. Rm 1,4) đến chỗ tin rằng Người là Lời hằng hữu
của Thiên Chúa xuống thế làm người (Ga 1,1.14). Dù sao đi
nữa, trong hai trình thuật truyền tin của Matthew và Luca, thân thế của Đức
Giêsu được mặc khải cho Thánh Giuse và Đức Maria: họ là hai chứng nhân đầu tiên
về đức tin của Hội Thánh. Thực vậy trong cuộc truyền tin cho Đức Maria, thiên
sứ cho biết rằng Con Trẻ sẽ là: “Con Đấng Tối Cao và Con Thiên Chúa”.
Còn trong cuộc truyền tin cho Thánh Giuse, căn cước của người con sinh bởi Đức
Maria là “Giêsu và Emmanuel”.
Thánh Giuse không những nhận được mặc khải của thiên sứ
về thân thế của Đức Giêsu, nhưng còn được mời gọi hợp tác để chương trình của
Thiên Chúa có thể thành tựu. Thực vậy, theo Tin Mừng Matthew, ông Giuse được
lệnh đưa bà Maria về làm vợ, ngõ hầu người con sinh ra bởi bà Maria được thừa
hưởng dòng dõi vua David, và như vậy là thực hiện những lời Chúa hứa liên quan
tới Đấng Messia. Ông Giuse cũng được lệnh đặt tên cho hài nhi sinh ra bởi bà
Maria là Giêsu, nhờ thế ông công bố
chức phận của Người là “Thiên Chúa Cứu chữa”, và
cũng nhờ vậy mà ông giúp cho chương trình của Thiên Chúa Nhập thể được hoàn
tất, bởi vì người con sinh ra sẽ là “Emmanuel” (Thiên Chúa ở cùng chúng
ta).
Cũng theo Tin Mừng Matthew (ở
cuối chương Hai), ông Giuse còn tạo điều kiện để Đức Giêsu trở
thành “người Nazareth”. Nazareth không những ám chỉ
nguyên quán của Đức Giêsu mà còn nói đến thân phận của Người nữa. Tuy Đức Giêsu
là Đấng Messia, là con vua David, nhưng Người không thiết lập vương triều Thiên
Chúa theo thể chế cai trị trần gian: Người là Đấng Messia khiêm tốn, chịu đau
khổ. Điều này đã gắn với danh hiệu “Nazareth”, một làng quê
bị khinh miệt.
Tóm lại, Thánh Giuse làm chứng nhân cho Đức Giêsu vừa là
Đấng Messia thuộc hoàng tộc, vừa là Messia tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, vừa
là Emmanuel.
Thánh Giuse thực thi vai trò chứng nhân bằng sự dấn thân
của mình: bằng việc lấy Đức Maria làm vợ, bằng việc lên đường về Bethlehem,
bằng việc tuân hành luật truyền về sự cắt bì và dâng hiến con đầu lòng, khi
lánh nạn qua Ai Cập, bằng việc từ Ai Cập trở về Nazareth; tắt một lời, bằng
cách đảm nhận làm “cha của Đức Giêsu”.
B. Thánh Giuse là cha của Đức Giêsu
Khi phân tích các bản văn Tân Ước, chúng ta nhận thấy
rằng Matthew không gọi Thánh Giuse là “cha của Đức Giêsu” như là Luca. Tuy nhiên, ta có thể suy
đoán dễ dàng từ lời thiên sứ truyền tin cho ông, bởi vì ông là chồng của bà
Maria, và bà này sinh ra Đức Giêsu. Hơn nữa, không phải Thánh Giuse chỉ mang
danh nghĩa là “cha” mà còn thi hành những bổn phận của
người cha theo luật lệ đương thời: đặt tên cho con trẻ (Matthew),
đăng ký vào sổ kiểm tra, cắt bì, dâng con đầu lòng (Luca).
1/. Thánh Giuse là cha theo nghĩa nào?
a/. Trong lịch sử thần học, chức vụ làm cha của Thánh
Giuse đã được đặt nhiều tên khác nhau:
- “Pater putativus” (cha giả định; coi
như cha; dường như cha). Tính từ “putativus” bởi động từ “putari” dựa theo đoạn văn của Luca 3,23 (ut
putabatur filius Joseph: thiên hạ nghĩ rằng Đức Giêsu là con ông Giuse).
- “Pater adoptivus” (cha nuôi, dưỡng
phụ). Tuy từ ngữ này đã trở thành phổ thông, nhưng không được chính
xác dưới khía cạnh thần học, bởi vì mối tương quan dưỡng hệ mang tính cách “ngẫu
nhiên”. Thực vậy, không ai kết hôn với ý định sẽ trở thành cha (hay
mẹ) nuôi! Việc nhận
con nuôi xảy ra sau khi kết hôn, vì một lý do ngoại tại thúc đẩy (thí
dụ son sẻ, hoặc từ thiện). Ngược lại, mối dây phụ hệ giữa Thánh
Giuse với Đức Giêsu nằm ở ngay trong mục tiêu của hôn nhân: ông được lệnh trời
phải lấy bà Maria để làm cha của hài nhi.
- “Pater legalis” (cha theo pháp lý).
Thực ra, danh hiệu “dưỡng phụ” cũng bao hàm cha theo nghĩa pháp lý
rồi, nhưng khi sử dụng diễn ngữ “cha theo pháp lý” người ta còn muốn trưng ra một đặc tính
của luật Do Thái, dự liệu những trường hợp nhìn nhận một người như là cha của
đứa trẻ tuy nó được sinh ra không do sự giao hợp của ông với mẹ của nó. Điển
hình là luật “levir”: khi một người qua
đời mà không có con, thì bà vợ sẽ lấy em chồng, và đứa con sinh ra được coi như
là con chính thức của chồng trước (xc. Đnl 25,5-6; xc. St 38,8; R 1; Mt
22,23).
b/. Những từ ngữ trên đây tìm cách xác định tình cha của
Thánh Giuse bằng cách quy chiếu về các khuôn mẫu đã có trong xã hội. Phương
pháp này đã bị chỉ trích bởi vì không đếm xỉa đến tính cách độc đáo của mối
tương quan giữa Thánh Giuse với Đức Giêsu. Tính cách độc đáo (độc
nhất vô nhị) nằm ở
chỗ dung hòa hai điểm trái ngược: một đàng, Thánh Giuse không phải là cha của
Đức Giêsu về thể lý; đàng khác, ông là cha “thật” của Đức Giêsu. Vì thế có người đã tạo
ra những diễn ngữ mới, chẳng hạn như:
- “Pater messianicus” (cha của vị Thiên
sai);
- “Pater virgo” (cha đồng trinh),
cũng như Đức Maria là “Mẹ đồng trinh”;
- “Pater spiritualis” (cha theo thần
khí, linh phụ), mối tình cha đã được Thánh Linh biến đổi.
c/. Thực ra, sự khó khăn trong việc diễn tả tình cha của
Thánh Giuse không phải chỉ vì Đức Giêsu sinh ra không bởi sự giao hợp vợ chồng (vì
thế không phải là “con theo nghĩa thường tình”), nhưng tại vì “cha
thật” của Đức Giêsu
là Chúa Cha, như Người đã nhắc khéo hai ông bà khi tìm gặp lại trong đền thờ (Lc
2,49). Nói cho cùng, sự khó khăn này không chỉ xảy ra cho người cha (ông
Giuse) mà cả cho bà
mẹ (Đức Maria nữa). Bà Maria có lẽ đã đau nhói
đến tim khi nghe Đức Giêsu tuyên bố: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (xc.
Mc 3,34-35); nhưng sau khi định thần, bà có thể an tâm: “Ai
thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”.
Chúng ta có thể áp dụng phần nào cho Thánh Giuse: ông đáng gọi là “cha
của Đức Giêsu” trong
tầm mức thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Thiết tưởng vinh dự của ông Giuse nằm ở
chỗ đó: ông đã chấp nhận làm cha của Đức Giêsu do ý muốn của Thiên Chúa, và
đồng thời ông giữ một vai trò như là đại diện của Thiên Chúa đối với Đức Giêsu.
2/. Ý nghĩa tình cha của Thánh Giuse
Thánh Giuse thực sự là cha của Đức Giêsu ở dưới thế: ông
đã giúp cho công cuộc Nhập thể của Ngôi Lời được trở nên trung thực hơn.[80] Thực
vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Đức Giêsu tỏ ra là con
người thật khi sinh ra từ một gia đình con người, và lớn lên trong một gia đình
con người. Thánh Giuse đã giúp cho Đức Giêsu “nên người”.
Ngoài những hành vi luật pháp đã nói trên đây, chúng ta
có thể xét đến mối tình phụ tử giữa Thánh Giuse và Đức Giêsu dựa theo tương
quan tình cảm nhìn từ cả đôi bên.[81]:
a/. Tình cha của Thánh Giuse
Khi trả lời với Đức Maria trong đền thờ Jerusalem, Đức
Giêsu nói rằng Người lo công chuyện của “Cha”, nghĩa là Chúa Cha.
Tuy nhiên, điều này không đương nhiên phủ nhận vai trò làm cha của Thánh Giuse.
Một cách tương tự như vậy, khi Đức Giêsu dạy các môn đệ rằng, “anh
em đừng gọi ai dưới đất là cha vì chỉ có một Cha là Cha trên trời” (Mt 23,8),
Người không muốn tiêu hủy tất cả mọi tương quan cha con trong xã hội. Điều mà
Đức Giêsu muốn nêu bật là một thứ tự trong liên hệ phụ tử: đứng hàng đầu là
Thiên Chúa Cha, nguồn gốc của mọi thứ phụ hệ (xc. Ep 3,14); các tương
quan phụ tử trên đời này cần phải quy chiếu về đó. Trong bối cảnh này, vai trò
làm cha của Thánh Giuse không xung khắc với Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu;
trái lại, có thể khẳng định rằng Thánh Giuse trở thành “hình
ảnh” của Chúa Cha
dưới đất, qua việc yêu mến, chăm nom, dưỡng dục. Thánh Giuse đã yêu mến Đức
Giêsu với những tâm tình của một người cha đối với con mình: tâm tình này chắc
hẳn đã được thanh luyện và nâng cao vì được chia sẻ vào chính cội nguồn của
tình phụ tử. Trên thực tế, Thánh Giuse đã đem hết tâm tình để phục vụ Đức
Giêsu, qua những công tác cụ thể vừa liệt kê trên đây trong thời kỳ sinh hạ, và
được tiếp nối với những công tác dưỡng dục nhân bản trong suốt thời ẩn dật.
b/. Tình con của Đức Giêsu
Tuy Thánh Luca nêu bật rằng “Cha” của Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng
liền đó, thánh sử viết tiếp rằng Đức Giêsu theo đức Mẹ và ông Giuse trở về
Nazareth, và “người đã tùng phục họ” (Lc 2,50-51).
Điều này cho phép suy đoán rằng Đức Giêsu đã dành cho hai ngài tất cả những tâm
tình thảo hiếu của một người con. Người đã hấp thụ nền giáo dục của song thân,
đã “tăng trưởng về khôn ngoan và ân nghĩa” (Lc 2,52),
đã hấp thụ cả danh phận nghề nghiệp của cha mình: Người được nhìn nhận như là “con
bác thợ mộc” (Mt 13,55), và thậm chí như là “thợ
mộc” (Mc 6,3).
Sau khi phân tích mối liên hệ phụ tử dưới khía cạnh tâm
lý, Tông huấn Redemptoris Custos còn muốn đi xa
hơn nữa, khi gán cho những tâm tình của Thánh Giuse đối với Đức Giêsu một giá
trị hy sinh cứu chuộc, qua những lời của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI: “Người
đã biến cuộc đời mình thành một sự phục vụ, một sự hy sinh cho mầu nhiệm Nhập
Thể và cho sứ vụ cứu độ gắn kèm theo đó; đã sử dụng uy quyền pháp lý đối với
thánh gia để trao ban bản thân, cuộc sống và công tác; đã biến đổi ơn gọi tự
nhiên trong tình yêu gia đình thành nên một hiến tế siêu nhiên chính bản thân
mình, trái tim và tất cả sức lực của mình cho tình yêu phục vụ Đấng Cứu Thế đã
sinh ra trong nhà mình”.
3/. Tái khám phá tình cha ở thời đại hôm nay
Việc suy tư về mối liên hệ phụ tử giữa Thánh Giuse và Đức
Giêsu không chỉ giới hạn vào phạm vi thần học, nhưng còn làm sáng tỏ vai trò
của người cha dưới khía cạnh nhân bản: bản tính của tình cha là gì? Vai trò của
người cha như thế nào?
Theo quan niệm cổ truyền, người cha là kẻ truyền lại dòng
họ và gia tài cho con cái: đó là “họ nội” (khác với họ ngoại, về đàng
mẹ). Mối liên hệ xem ra chặt chẽ: “cha nào con nấy”.
Tuy nhiên, thực tế ra như chứng minh ngược lại: cha thuộc
về “họ ngoại” chứ
không thuộc“họ nội”.
Người con được cưu mang chín tháng ở trong bụng mẹ; bà mẹ biết mình đang mang
một đứa con trong lòng, đang khi lắm lần người cha không biết rằng mình đã có
đứa con! Sau khi đứa con ra đời, nó vẫn thấy gần gũi với bà mẹ hơn là với người
cha: ông thường vắng nhà, mải miết với công ăn việc làm, khoán trắng hết mọi
chuyện gia đình cho“nội
tướng” là bà mẹ.
Người cha sống “ngoài gia đình”.
Dưới sự phân tích của ông Sigmund Freud, chức năng của
người cha lại càng bạc bẽo hơn nữa. Người cha tượng trưng cho pháp luật, kiềm
chế những ước muốn dục vọng của con cái. Vì thế sự trưởng thành của con cái đòi
hỏi phải “giết cha”: con người cần
được giải thoát khỏi những ràng buộc thì mới có thể phát triển tự do được. Tiếc
rằng thực tế không xảy ra như vậy: thiếu cha, đứa con không cảm thấy thoải mái
hơn, nhưng bơ vơ lạc lõng.
Trong bối cảnh xã hội này, nhiều cuộc học hỏi đã được tổ
chức để tái khám phá chức năng của người cha. Chức vụ của người cha không chỉ
giới hạn vào chuyện sinh con (bởi vì như thế chẳng khác thú vật cho
lắm). Người cha có vai trò quan trọng hơn nữa trong việc giáo dục
con cái mình: truyền thụ gia sản tinh thần (những kinh nghiệm bản thân, nghề
nghiệp, dòng họ); tập cho đứa con tiếp xúc với xã hội; chấp nhận
những cam go của thực tại, khác với những ước muốn theo cảm xúc. Nhất là người
con cần cảm nhận tình yêu của cha, tuy rằng cách biểu lộ tình yêu này khác với
tình yêu của người mẹ. Dù vậy, người con cần cảm nghiệm sự gần gũi của người
cha, một người cha quan tâm đến nó, chứ không bù đầu vào chuyện công ăn việc
làm.
Như đã nói trên đây, đối với Đức Giêsu, Thánh Giuse đã
thực hiện vai trò làm cha như là đại diện cho Chúa Cha. Tâm lý học cho biết
rằng nhiều lần chúng ta hình dung Thiên Chúa là cha dựa theo kinh nghiệm mà
chúng ta có về thân sinh của mình. Như vậy, tình cha không chỉ là một thực tại
tâm lý xã hội, nhưng còn mang chiều kích siêu nhiên nữa.
Nhận xét về tình cha trong liên hệ gia đình cũng có thể
áp dụng cho những “cha tinh thần”. Truyền
thống nhiều tôn giáo đã nhìn nhận vai trò của các “sư
phụ” (thầy như cha). Truyền thống Kitô giáo cũng đã biết đến mối
dây phụ tử tinh thần qua nơi các vị mục tử (sinh những người con cho Nước Trời,
nhờ lời giảng và các bí tích), các vị hướng dẫn tâm linh (“abbas”,
kể từ các ẩn sĩ Ai Cập thế kỷ IV).
II. THÁNH GIUSE VỚI ĐỨC MARIA: “CHỒNG”
Trong tiếng Việt, mối tương quan vợ chồng được diễn tả
qua nhiều từ ngữ: chồng được gọi là “hôn phu, phu quân, lang quân”;
vợ là “hôn thê, hiền thê”. Hai người là “bạn
trăm năm”. Tuy nhiên, ở đây, vì cần phân tích ý nghĩa thần học,
chúng tôi xin sử dụng ngôn ngữ trực tiếp là vợ chồng.[82] Có lẽ không ít người sẽ cảm thấy chói
tai khi gọi Đức Maria là “vợ” của ông Giuse (hoặc
gọi ông Giuse là chồng của Đức Maria), bởi vì hai người đã khấn giữ
đồng trinh và không có quan hệ vợ chồng (hai người là “bạn rất thanh sạch”).
Tuy nhiên, chính Tân Ước đã ghi nhận rõ ràng rằng, Thánh Giuse và Đức Maria là
vợ chồng (xc. Mt 1,15.18-20.24; Lc 1,27; 2,5);
thậm chí ông Giuse được lệnh của thiên sứ hãy lấy bà Maria làm vợ. Nói cách
khác, hai ông bà trở thành vợ chồng do ý muốn của Chúa. Đối với chúng ta, điều
quan trọng là cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của mối dây hôn nhân giữa Thánh Giuse
với Đức Maria. Hơn thế nữa, Thánh Augustino và Thánh Thomas Aquinas đã khẳng
định sự chân thực của mối hôn nhân ấy,[83] rồi từ đó trình bày ý nghĩa cao quý
của hôn nhân.
A. Hôn nhân của Thánh Giuse trong ý định của Thiên Chúa
Như đã nói, dựa theo Tin Mừng Matthew, thiên sứ đã kêu
gọi Thánh Giuse hãy lấy Đức Maria làm vợ. Trước đó, hai người đã đính hôn với
nhau rồi, và chúng ta không biết vì lý do gì. Nhưng từ khi thiên sứ hiện ra,
thì hôn nhân này mang một ý nghĩa chính xác: ông Giuse cần phải lấy bà Maria
làm vợ, để con trẻ sinh ra bởi bà Maria được nhận vào dòng dõi của vua David.
Ông Giuse cần phải lấy bà Maria làm vợ bởi vì ông được ơn gọi làm cha của Đấng
Messia.[84]
Đồng thời, cả Matthew lẫn Luca đều nhấn mạnh rằng Đức
Giêsu được sinh ra do quyền năng của Chúa Thánh Thần, chứ không do sự giao hợp
giữa hai ông bà. Trong lịch sử Giáo Hội, khá nhiều cuộc tranh luận đã nảy lên
chung quanh cụm từ “do quyền năng của Chúa Thánh Thần”.[85]
- Có ý kiến cho rằng đây là một huyền thoại (trinh
nữ sinh con: “Partenogenesis”) gặp
thấy nơi nhiều tôn giáo cổ truyền ở miền Điạ Trung hải;
- Có ý kiến cho rằng cụm từ muốn nói đến một tác động của
Thần Khí Tạo Dựng sự sống;
- Có ý kiến cho rằng cụm từ này chỉ muốn nói rằng Đức
Giêsu là một món quà do Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại mà thôi. Việc thụ
thai xảy ra do sự giao hợp thường tình giữa ông Giuse và bà Maria.
- Có ý kiến cho rằng cụm từ này không nhắm giải thích bản
chất sự thụ thai của Đức Maria cho bằng nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu: Đức
Giêsu là con người thật, sinh bởi một bà mẹ thuộc về nhân loại; tuy nhiên, Đức
Giêsu còn mang một nguyên uỷ siêu việt: Người là Con Thiên Chúa. Thật vậy, Đức
Giêsu không chỉ là một con người giống như bao nhiêu con người khác, nhưng
Người còn là Con Thiên Chúa.
Chúng tôi nghiêng
theo ý kiến cuối cùng này. Những cuộc tranh luận để giải thích cuộc thụ thai
của Đức Giêsu dưới phương diện sinh học (y học) không ích lợi gì hết, bởi vì điều này
không nằm trong lãnh vực mặc khải. Tân Ước chỉ nói cho chúng ta biết rằng, “Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa và là con của bà Maria”. Dĩ nhiên là trong
mỗi trường hợp, tiếng“con” mang một ý nghĩa riêng biệt: “Con
Thiên Chúa” không thể
hiểu như là con do Thiên Chúa sinh sản ra; một cách tương tự như vậy,“con của bà Maria” không thể hiểu như là con do cuộc giao
hợp giữa bà với chồng mình!“Điều
đó xảy đến thế nào được?”; Đức Maria đã hỏi sứ thần như vậy (Lc
1,34), và lời giải thích của sứ thần chẳng đi vào hết mọi ngóc
ngách của phương diện sinh lý! Cả một mầu nhiệm bao trùm việc Thiên Chúa làm
người do bởi Đức Trinh Nữ Maria.
Phải chăng vai trò của Thánh Giuse trở nên thừa thãi
trong câu chuyện này? Các Giáo phụ không nghĩ như vậy, và họ cố gắng tìm hiểu ý
nghĩa của sự hiện diện của ông trong mầu nhiệm này. Các lý do ấy đã được Thánh
Thomas tóm tắt lại trong sách Tổng Luận Thần Học: như Thánh Ambrosio đã nói,[86]
Thánh Giuse trở thành chứng nhân cho sự thụ thai trinh khiết của Đức Maria (ý
kiến của các Giáo phụ Ambrosio, Hieronimo, Augustino). Thật vậy,
nếu Đức Maria quả quyết rằng mình có con do một phép lạ thì không biết có ai
tin nổi hay không; nhưng nếu chính người chồng của mình cũng chứng thực điều đó
thì thiên hạ dễ chấp nhận hơn! Dù sao, đối với luật pháp đương thời, Đức Maria
cần được Thánh Giuse bảo vệ, kẻo bị ném đá vì tội ngoại tình. Đàng khác, Đức
Maria cũng cần được Thánh Giuse giúp đỡ trong suốt thời gian mang thai và nuôi
dưỡng Hài nhi Giêsu.
Ngoài những luận cứ còn nằm trên lý luận thường tình, các
Giáo phụ còn muốn tiến xa hơn nữa, đào sâu thêm khía cạnh triết học về bản chất
hôn nhân, cũng như khía cạnh huyền bí của mối tình phu phụ.
B. Ý nghĩa của hôn nhân giữa Thánh Giuse với Đức Maria
Trong lịch sử thần học, cuộc hôn nhân này đã được phân
tích dưới nhiều góc cạnh khác nhau.
1/. Vào thời Trung cổ, các nhà luật học đã tranh luận với nhau về yếu tố cốt
yếu của hôn nhân. Theo quan điểm của luật Roma, hôn nhân được cấu thành do sự
thỏa thuận của ý chí (Consensus);
theo quan điểm của luật Germanic, hôn nhân được cấu thành do sự giao hợp vợ
chồng (Copulatio). Vì muốn dung hòa hai quan điểm
đó, giáo luật đề ra học thuyết về “giá thú hữu hiệu và hoàn hợp” (ratum
et consummatum). Dĩ nhiên, giá thú của Thánh Giuse chỉ là “thành
hiệu”, nhưng “bất hoàn hợp”.
2/. Trước đó, Thánh
Augustino đã suy tư về bản chất hôn nhân dưới khía cạnh triết học và tâm lý, và
đã nhìn thấy khuôn mẫu tuyệt vời nơi hôn nhân của Thánh Giuse.[87] Theo
quan điểm dân gian cổ truyền, mục tiêu của hôn nhân là sinh con đẻ cái, nối dõi
tông đường. Nhìn dưới viễn tượng của thần học Kitô giáo, theo đó hôn nhân được
nâng lên hàng bí tích, nghĩa là được gán thêm giá trị Thánh Thiêng, Thánh
Augustino vạch ra ba thiện ích của hôn nhân là: con cái, trung tín và chung
thủy. Tất cả ba thiện ích này đều đạt được nơi hôn nhân của Thánh Giuse với Đức
Maria.[88]
Hơn thế nữa, lý tưởng cao quý nhất của hôn nhân là sự hòa
hợp (unio): hai người trở nên một. Tuy nhiên,
không nên hiểu sự hòa hợp này về khía cạnh thể xác mà thôi; cần phải lên cao hơn
nữa, đó là sự hòa hợp về tâm tình và về tinh thần (mentis
affectus).
3/. Suy tư của Tông huấn Redemptoris Custos
Như đã nói, Tông huấn Redemptoris Custos lặp lại đạo lý cổ truyền; khẳng định
rằng, hôn nhân của Thánh Giuse với Đức Maria là giá thú thật sự: đây là một dữ
kiện của Tân Ước. Tông huấn cũng trích dẫn những giải thích của Thánh Augustino
và Thánh Thomas Aquinas về bản chất hôn nhân.[89] Tuy nhiên, bên cạnh đặc tính hòa hợp
về tâm tình và tinh thần, Tông huấn còn muốn nêu bật nhiều yếu tố khác tạo nên
sự thông hiệp giữa Thánh Giuse và Đức Maria.
- Cả hai đều là mẫu gương của người tín hữu, đáp lại mặc
khải của Thiên Chúa với sự tuân thuận: Đức
Maria với lời “Xin vâng”, Thánh Giuse
với việc lấy Đức Maria về làm vợ.[90]
- Cả hai đều liên đới với nhau trong việc bảo vệ “mầu
nhiệm”, được ký thác cho hai người gìn giữ. Cả hai người đều giữ
một vai trò tích cực trong kế hoạch cứu độ: Đức Maria qua chức vụ làm mẹ của
Đức Giêsu; Thánh Giuse qua chức vụ làm cha của Đức Giêsu qua hôn nhân với Đức
Maria.[91]
- Cả hai đều đã nếm những thử thách của cuộc “lữ
hành đức tin”.[92]
Mặc dù chấp nhận lời của thiên sứ nói về bản tính của Đức Giêsu, Đức Maria chưa
hiểu trọn tất cả sự súc tích của nó: Mẹ đã nghiền ngẫm lời Chúa trong lòng (Lc
2,19); Mẹ đã cảm thấy tâm can như bị lưỡi gươm đâm thâu (Lc
2,35); Mẹ không hiểu câu trả lời của Đức Giêsu trong đền thờ sau ba
ngày thất lạc (Lc 2,50). Vào dịp này,
Thánh Luca chú thích rằng Thánh Giuse cũng chia sẻ cùng tâm trạng như vậy (“họ
không hiểu lời Chúa nói”). Chúng ta cũng có thể suy đoán rằng ông
cũng trải qua màn đen của đức tin kể từ khi thấy bà Maria có thai, và kéo dài
suốt những chặng đường đi về Bethlehem, lánh nạn về Ai Cập. Những gian nan thử
thách xem ra hoàn toàn trái nghịch với bản tính thần linh của Đức Giêsu: chẳng
lẽ Đấng Messia, Đấng “Thiên Chúa cứu độ” mà tỏ ra yếu ớt nhu nhược như vậy sao?
Thật là có lý để khẳng định rằng Thánh Giuse đã trải qua một tiến trình gay go
để hiểu biết bản thân của Đức “Emmanuel”.
- Từ sự chia sẻ và liên đới vừa nói, chúng ta có thể hình
dung sự khắng khít giữa hai vị: mối tình vợ chồng được Thần khí đức ái nâng cấp
để thông dự vào kế hoạch cứu độ. Mối tình của hai người thể hiện được lý tưởng “bí
tích” mà Thánh Phaolô
đã diễn tả về tình yêu huyền nhiệm giữa Đức Kitô và Hội Thánh.[93]
Thiết tưởng không phải là thừa khi nhắc đến những cấp độ
của tình yêu, từ chỗ chiếm hữu đến chỗ trao ban, mà thần học đã diễn tả qua
những từ ngữ: “Eros”, “Philia”, “Agape”,
được Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI phân tích trong Thông
điệp Deus caritas est.[94]
C. Sự trinh khiết của Thánh Giuse
Trong lịch sử Giáo Hội, đức trinh khiết của Thánh Giuse
đã trở thành đề tài cho nhiều cuộc tranh luận, có thể tóm lại vào ba điểm như
sau: 1/ phải chăng ông Giuse đã có một đời vợ trước khi lấy bà Maria? 2/ phải
chăng ông Giuse ăn ở sau khi bà Maria sinh con? 3/ phải chăng ông Giuse khấn
giữ đồng trinh?[95]
Hai câu hỏi đầu tiên được đặt ra do sự hiện diện của các “anh
em của Đức Giêsu” trong
các bản văn Phúc Âm (Mc 6,3). Để giải quyết
vấn đề này, hai ý kiến được đưa ra:
1/. Ông Giuse đã có một đời vợ và đã có con. Sau đó, ông
góa vợ, lấy bà Maria. Như thế,“những
anh em của Đức Giêsu” được
hiểu như “những người anh cùng cha khác mẹ”.
Đây là giải đáp của nhiều ngụy thư Tin Mừng, cách riêng là “Tiền
Tin Mừng Thánh Jacobe” và
được nhiều Giáo phụ chấp nhận (các Giáo phụ bên Đông Phương:
Origène, Epiphanius, Gregorio Nyssa, Cyrillô Alexandria, Theophylact,
Theodoretus, Gioan Kim khẩu; bên Tây Phương: Ambrosio, Hilariô).
Ảnh hưởng của nó trên dân gian cũng đáng kể, xét vì nhiều họa sĩ vẽ Thánh Giuse
như một cụ già.[96]
2/. Ý kiến thứ hai cho rằng, sau khi đã sinh ra Đức
Giêsu, bà Maria có quan hệ bình thường với ông Giuse và sinh ra nhiều con nữa:
như vậy họ là “em ruột của Đức Giêsu”.
Lập luận này dựa theo hai câu văn của Tin Mừng:
- “Ông Giuse không ăn ở với bà, cho đến
khi bà sinh một con trai” (Mt 1,25). Phải chăng sau khi sinh Đức
Giêsu, hai người lại có quan hệ vợ chồng?
- “Bà Maria sinh con trai đầu lòng” (Lc
2,7). Phải chăng bà còn sinh những con thứ nữa?
Những vấn nạn này đã được giải thích trong chương Một. Ít
là kể từ thế kỷ IV (tín biểu của thánh Epiphaniô năm 374;
Công Đồng Constantinopolis II năm 553), Hội Thánh Công Giáo tuyên
xưng rằng Đức Maria “trọn đời đồng trinh”,
trước và sau khi sinh con.[97]
3/. Đối lại với hai ý kiến vừa rồi, ý kiến thứ ba khẳng
định rằng Thánh Giuse cũng hoàn toàn khiết tịnh: ông không có bà vợ nào trước
bà Maria,[98] và thậm chí ông đã khấn giữ khiết tịnh
cùng với bà Maria.
Tuy điều này không nằm trong đạo lý chính thức của Giáo
Hội, nhưng đã được các nhà thần học khẳng định ngay từ thời Trung cổ, cách
riêng với Thánh Alberto và Thánh Thomas Aquinas.[99] Các văn kiện của Huấn quyền vào thời
cận đại cũng quả quyết như vậy.[100]
Thực ra, nên phân biệt nhiều cấp độ chung quanh sự khiết
tịnh trọn hảo của Thánh Giuse:
- Không có đoạn văn nào trong Tân Ước nói đến sự khiết
tịnh của Thánh Giuse; và cũng không có đoạn văn nào trong Tân Ước khẳng định
ngược lại. Vì thế, sự khiết tịnh trọn hảo của Thánh Giuse là điều suy đoán dựa
trên sự Thánh Thiện của ba nhân vật trong thánh gia Nazareth.
- Việc khẳng định đức khiết tịnh trọn hảo của Thánh Giuse
không nhất thiết đòi hỏi rằng Người đã “khấn hứa” hoặc riêng với Chúa hay cùng với Đức
Maria [101]: không có tài liệu nào khẳng định điều
đó (nhưng cũng không có tài liệu nào nói ngược lại).
Thiết tưởng nên hiểu sự “khấn hứa” (votum) như là một điều dốc quyết của ý chí
hơn là một thứ nghi thức đặc thù.[102]
- Một thắc mắc đương nhiên sẽ nảy lên: nếu đã quyết định
giữ mình trinh khiết (nghĩa là dâng hiến trọn trái tim
không chia sẻ cho Thiên Chúa), thì tại sao lại còn kết hôn? Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong loạt bài huấn giáo về Đức Maria,[103] đã trình bày vấn nạn và tìm cách trả
lời như sau:
“Vào
lúc Truyền tin, Đức Maria ở trong tình trạng đính hôn. Thử hỏi: tại sao Người
đã chấp nhận sự đính hôn một khi đã dốc lòng giữ mình trinh khiết suốt đời?
Thánh sử Luca đã nhận thấy sự khó khăn đó, nhưng ông chỉ
ghi nhận tình hình mà không đưa ra một lời giải thích nào hết. Sự kiện thánh sử
nêu bật quyết tâm sống trinh khiết của Đức Maria nhưng đồng thời cũng trình bày
như là vợ của ông Giuse là một dấu chỉ cho thấy cả hai chi tiết này đều đáng
tin về khía cạnh lịch sử.
Có thể giả thiết rằng giữa ông Giuse và bà Maria, vào lúc
đính hôn, họ đã đồng ý với nhau về cuộc sống trinh khiết. Mặt khác, Chúa Thánh
Thần, Đấng đã gợi hứng cho Đức Maria lựa chọn sự trinh khiết để nhằm tới mầu
nhiệm Nhập Thể và đã muốn cho mầu nhiệm này diễn ra trong khung cảnh một gia
đình thích hợp cho sự tăng trưởng của Hài nhi, thì ắt là Ngài cũng có thể gợi
nơi ông Giuse lý tưởng trinh khiết.
Sứ thần của Chúa, khi hiện ra với ông Giuse trong giấc
mơ, đã nói như sau: “Này, ông Giuse, con vua David, đừng sợ đón bà Maria về làm
vợ, bởi vì đứa con mà bà sinh ra là do Thánh Thần” (Mt 1, 20). Như vậy ông
Giuse đã nhận được lời xác nhận ơn gọi sống con đường hôn nhân một cách hết sức
đặc biệt.
Qua việc hiệp thông trinh khiết với người nữ đã được chọn
để sinh hạ Đức Giêsu, Chúa đã gọi ông Giuse hợp tác vào việc thực hiện chương
trình cứu chuộc.
Kiểu hôn nhân mà Chúa Thánh Thần hướng dẫn bà Maria và
ông Giuse chỉ có thể hiểu được trong toàn bộ kế hoạch cứu độ và trong khung
cảnh một linh đạo cao siêu. Việc thực hiện cụ thể mầu nhiệm Nhập Thể đòi hỏi
một sự sinh hạ trinh khiết để nêu bật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và đồng thời
đòi hỏi một gia đình để bảo đảm cho nhân cách của Hài nhi được phát triển điều
hòa.
Chính vì phải góp phần vào mầu nhiệm của Ngôi Lời nhập
thể mà ông Giuse và bà Maria đã lãnh nhận ơn thánh để họ vừa sống đặc sủng
trinh khiết vừa sống hồng ân hôn nhân. Sự thông hiệp tình yêu trinh khiết giữa
Đức Maria và ông Giuse, tuy tạo nên một trường hợp hết sức đặc biệt, gắn liền
với việc thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng vẫn là một hôn nhân đích thực”.[104]
Chúng ta phải nhìn nhận rằng đây là trường hợp độc nhất
vô nhị trong lịch sử loài người: Đức Maria vừa là trinh nữ vừa là mẹ, Thánh
Giuse vừa trinh khiết vừa là chồng. Sự nghịch lý này chỉ có thể giải thích được
ngay từ cội rễ của nó là mầu nhiệm Nhập Thể: Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là
con người.
Dù sao, trong chế độ Tân Ước, hai nếp sống hôn nhân và
trinh khiết không tương phản với nhau, nhưng được kêu gọi để bổ túc cho nhau
trong việc diễn tả một mầu nhiệm của sự kết hiệp huyền nhiệm của Đức Kitô với
Hội Thánh (xc. Ep 5,32). Dĩ nhiên, để
có khả năng diễn tả mầu nhiệm này, chúng ta cần nhận được ân sủng của Thiên
Chúa: ân sủng để dâng hiến con tim không chia sẻ cho Thiên Chúa, ân sủng để
trao ban hỗ tương trong đời vợ chồng.
Do đó, cũng như Đức Maria là mẫu gương cho các trinh nữ
và các bà mẹ,[105]
thì Thánh Giuse cũng là mẫu gương và bảo trợ cho những người chồng cũng như
những người trinh khiết (nam
hoặc nữ). Thiết tưởng trong quá khứ chúng ta thường nhấn mạnh rằng
sự “độc thân vì Nước Trời” là một “ơn
gọi” (một đặc sủng: xc. 1Cr 7,7; Mt 19,10-12), nhưng ít lưu ý đến
hôn nhân cũng là một “ơn gọi”: đôi bạn cần ân
sủng của Chúa để đón nhận nhau theo đức ái chứ không chỉ vì đam mê (cũng
như Thánh Giuse nhận Đức Maria làm vợ “theo ý Chúa”). Bí tích Hôn
Nhân được thiết lập nhằm đạt đến lý tưởng ấy.
III. NHỮNG ĐẶC ÂN VÀ NHÂN ĐỨC
Các tác phẩm thần học về Thánh Giuse thường nói đến các
đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Người, dựa theo vài nguyên tắc chung của đường lối
quan phòng đã được Thánh Thomas Aquinas phát biểu dựa theo giáo huấn của các
Giáo phụ.
1/. Khi Thiên Chúa đã tuyển chọn người nào vào một sứ
mạng đặc biệt thì Người cũng ban những ơn huệ cần thiết (kể
cả trên bình diện tự nhiên) để
chu toàn sứ mạng (“illos quos Deus ad aliquid eligit,
ita praeparat et disponit ut ad id ad quod eliguntur inveniantur idonei”).[106]
2/. Ai càng gần gũi với nguồn mạch ân sủng, thì càng nhận
được những hiệu quả dồi dào của ân sủng (“quanto aliquid magis appropinquat
principio in quolibet genere, tanto magis participat effectum illius
principii”).[107]
Từ những nguyên tắc vừa rồi, các nhà thần học lý luận thế
này: ở trên đời này, có ai được Thiên Chúa ủy thác trách vụ cao quý như là Đức
Maria và Thánh Giuse? Vì thế, sau đức Mẹ, Thánh Giuse chắc chắn đã lãnh nhận
những ân huệ tương xứng với ơn gọi của mình. Một cách tương tự như vậy, ngoài
Đức Mẹ ra, thử hỏi có ai gần gũi với Đức Giêsu nguồn mạch ân sủng và thánh hóa
như Thánh Giuse? Vì thế chắc chắn là Người đã được thánh hóa bởi đủ mọi thứ
nhân đức.
Nói chung, các tác giả thường bàn đến những đặc ân và
nhân đức sau đây.
A. Những đặc ân
Cũng như Đức Maria
được đặc ân vô nhiễm nguyên tội và hồn xác lên trời, hẳn Thánh Giuse cũng được
chia sẻ hai đặc ân ấy.
1/. Vô nhiễm nguyên tội
Dựa theo ý kiến của nhiều nhà thần học (Gerson, Isolani, thánh An-phong,v.v…),
nếu Thánh Gioan Tiền Hô đã được thánh hóa ngay từ trong lòng mẹ (xc.
Lc 1,41-44), thì đâu có lý do gì mà Thánh Giuse lại không được ân
huệ đó?
Tuy trước đây nhiều tác giả chấp nhận đạo lý“vô nhiễm nguyên tội” cách dễ dàng, nhưng ngày nay, người ta
tỏ ra dè dặt hơn. Lập luận của thần học không thể chỉ trên phương pháp suy
diễn, nhưng còn phải được kiểm chứng với nền tảng mặc khải nữa. Việc Thánh
Giuse không mắc tội tổ tông không dựa trên cơ sở của Kinh Thánh và Huấn quyền.
2/. Hồn xác lên trời
Dựa theo đoạn văn của Mt 27,52-53 (sau
khi Đức Giêsu sống lại, nhiều vị thánh cũng được phục sinh), cha
Francisco Suarez và thánh Francois de Sales cho rằng Thánh Giuse cũng được liệt
vào số những người đó, nghĩa là đã được sống lại cả linh hồn lẫn thân xác.
Về điểm này, chúng ta cũng có thể đưa ra nhận xét tương
tự như đối với đặc ân vô nhiễm nguyên tội.
B. Những nhân đức
Chúng ta thấy trong Tân Ước, Thánh Giuse đã được mệnh
danh là “công chính” (công bình chính trực: Mt
1,19). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Người chỉ có một nhân
đức mà thôi. Các nhà thần học tìm cách thiết lập danh sách các nhân đức dựa
theo những tiêu chuẩn khác nhau.
Có lẽ cha Isolani là người đầu tiên tán giải các nhân đức
của Thánh Giuse dựa theo những chữ cái ghép thành tên riêng (IOSEPH
trong tiếng Latin): Iustitia (công bằng), Oboedientia (vâng lời), Sapientia (khôn
ngoan), Experientia (kinh nghiệm), Patientia (nhẫn nhục), Humilitas (khiêm
nhường). Các nhà giảng thuyết như Bossuet không tiếc lời ca ngợi
đời sống đức độ của Người, dựa theo danh sách cổ truyền các nhân đức (Tin,
Cậy, Mến, Khôn ngoan, Công bằng, Mạnh bạo, Tiết độ), hoặc tám mối
phúc thật, hoặc bảy ơn Chúa Thánh Thần. Một danh mục dài hơn có thể tìm thấy
trong kinh cầu Thánh Giuse.
Dĩ nhiên, mỗi thời đại thích nhấn mạnh đến một vài nhân
đức đặc biệt. Một cách tương tự như vậy, mỗi hàng ngũ (giáo
sĩ, tu sĩ, giáo dân) hoặc
chức nghiệp cũng thích đề cao một điểm nổi bật (lao
động, thợ mộc), như sẽ thấy trong mục tới khi bàn về những mẫu gương.
Trong quá khứ, nhiều tác giả còn thêm hai phụ lục sau
đây:
1/. So sánh “vị trí cao trọng” của Thánh Giuse với các thánh khác,
cách riêng với Thánh Gioan tiền hô (xc. Mt 11,11: “Trong số những phàm
nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tiền Hô”),
các thánh tông đồ (luôn được xếp vào hàng đầu trong danh
sách đặc sủng, thí dụ Ep 4,11).
Người ta tìm cách phân biệt nhiều khía cạnh khác nhau.
Ông Gioan Tiền Hô lớn nhất xét theo Cựu Ước; sự so sánh này hết giá trị khi
bước sang Tân Ước (“Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước
Trời còn cao trọng hơn ông”: Mt 11,11). Thánh Giuse lớn xét về gần
gũi với nguồn mạch ân sủng; các thánh tông đồ lớn xét về mặt phẩm trật.
2/. Cấp đẳng “lòng sùng kính” dành cho Thánh Giuse. Theo thần học,
các việc tôn kính được phân làm ba cấp độ:
a) “Latria” (adoratio): “thờ
phượng”, dành riêng cho Thiên Chúa;
b) “Dulia” (veneratio): “tôn
kính”, dành cho các thánh;
c) “Hyperdulia”: “biệt
kính”, dành cho Đức Maria.
d) Có người muốn chỉ định cấp thứ bốn cho Thánh Giuse là “protodulia”.
Những văn kiện gần đây của Tòa Thánh tuy tiếp tục đề cao
vị trí cao cả vô song của Thánh Giuse trong kế hoạch cứu độ (thí
dụ: Tông huấn Redemptoris Custos, số 8; 20), nhưng không đả động
đến vấn đề so sánh cao thấp với các vị thánh khác.
***
MỤC II. THÁNH GIUSE TRONG ĐỜI SỐNG CỦA HỘI THÁNH
Trong mục vừa rồi, chúng ta đã tìm hiểu vai trò của Thánh
Giuse trong cuộc đời Đức Giêsu: người được kêu gọi làm chồng của Đức Maria, và
trở thành cha của đấng Cứu thế. Tuy nhiên, trong giai đoạn Đức Giêsu hoạt động
công khai, Tân Ước không nhắc đến sự hiện diện của Thánh Giuse nữa. Phải chăng
sứ mạng của Người đã hoàn tất, và nên rút lui vào bóng tối, cũng tựa như vị
tiền hô dọn đường cho Đấng Messia (xc. Ga 3,30)? Nếu chỉ
nhìn vào lịch sử Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ nhất, thì chúng ta có thể trả
lời rằng: “đúng vậy!”: sau khi đã
hoàn thành nhiệm vụ che chở Đức Giêsu trong thời thơ ấu, Thánh Giuse hoàn toàn
bị rơi vào quên lãng, như chúng ta đã thấy trong chương trước (Mục
II). Tuy nhiên, khi bước sang thiên niên kỷ thứ hai, và đặc biệt
vào những thế kỷ gần đây, Thánh Giuse không những được tôn kính trong phụng vụ,
nhưng còn được Giáo Hội tôn phong làm “Bổn mạng” (hay Bảo trợ: Ecclesiae
Patronus) của mình
cách chính thức kể từ Đức Giáo Hoàng Piô IX đáp lại thỉnh nguyện của Công Đồng
Vatican I.[108]
Vì lý do gì Hội Thánh thời này nhận ra một tương quan đặc
biệt với Thánh Giuse? Trong Thông
điệp Quamquam Pluries,[109]
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII trả lời là dựa trên sứ mạng của Thánh Giuse đối với
thánh gia. “Ngôi nhà mà Thánh Giuse cai quản với
quyền hành của người cha đã chứa đựng những mầm mống của Hội Thánh sơ sinh.
Cũng như Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của Đức Giêsu thì cũng là Mẹ của tất cả mọi
Kitô hữu; Đức Giêsu là trưởng tử của các tín hữu và họ trở nên những người em
của Chúa do ơn làm nghĩa tử nhờ sự cứu chuộc. Đó cũng là những lý do mà thánh
Tổ phụ coi như mình được ủy thác bảo trợ đoàn dân Kitô hữu họp thành Hội Thánh.
Bởi vì là chồng của Đức Maria và là cha của Đức Giêsu Kitô cho nên Thánh Giuse
cũng có một thứ quyền phụ hệ đối với Hội Thánh (Denz. 3262-3263).
[...] Sứ mạng mà Chúa quan phòng trao cho Thánh Giuse đã có một tiền mẫu ở nơi
ông Giuse, con của cụ Jacob, được vua nước Ai Cập gọi là “vị cứu tinh của thế
giới”. Cũng như ông Giuse xưa kia đã quản lý tốt đẹp những công việc trong nhà
của chủ mình và phục vụ hữu ích cho cả nước, thì Thánh Giuse, được đặt làm vị
hộ thủ Đức Kitô, phải được nhìn nhận như là kẻ che chở và bảo vệ Hội Thánh là
nhà của Chúa và là nước Chúa ở dưới đất”
Như vậy, việc nhìn nhận Thánh Giuse làm Bảo trợ Giáo Hội
dựa trên những nguyên tắc thần học sau đây:
1/. Hội Thánh là thân thể của Đức Kitô (xc.
Thánh Phaolô);
2/. Đức Maria thân mẫu của Đức Giêsu cũng trở thành thân
mẫu của Giáo Hội (xc. Ga 19,26-27; Cv 1,14);
3/. Tín điều “các thánh thông công”:
Các thánh trên trời tiếp tục cầu nguyện cho các anh chị em của mình ở dưới thế.
Vì thế, cũng như Thánh Giuse xưa kia đã gìn giữ Đức Giêsu khi còn ở dưới đất,
thì ngày nay trên trời Người cũng tiếp tục chuyển cầu cho Giáo Hội là nhiệm thể
của Chúa. Như Đức Maria được gọi là Mẹ của Giáo Hội, thì Thánh Giuse, đấng gìn
giữ Chúa Cứu Thế, cũng được gọi là đấng Bảo trợ Giáo Hội.
Như sẽ thấy trong mục tới, việc suy tôn Thánh Giuse làm
vị Bảo trợ đi kèm theo một lễ phụng vụ. Dù sao, trước khi được Tòa Thánh chính
thức tuyên bố làm Bảo trợ Giáo Hội, tước hiệu này đã được tôn kính tại nhiều
địa phương, Dòng tu. Dĩ nhiên, đã không thiếu Giáo phận, quốc gia, Dòng tu, hội
đoàn, ban ngành nhìn nhận Người như vị Bảo trợ. Nền tảng của việc suy tôn đó
dựa trên hai lý do căn bản: bởi vì Người là mẫu gương, và bởi vì Người có thế
lực chuyển cầu. Theo như lời của thánh Têrêsa Avila, Thánh Giuse không chỉ là
Đấng bảo trợ và chuyển cầu trong những ân huệ tinh thần mà ngay cả trong những
ân huệ vật chất nữa.
I. MẪU GƯƠNG NHÂN ĐỨC
Thánh Giuse được coi như mẫu gương nhân đức cho mỗi tín
hữu cũng như cho toàn thể Hội Thánh.
A. Giuse người công chính
Trong những sách suy ngắm về Thánh Giuse trong tháng Ba
dương lịch (cũng như trong kinh cầu kính Thánh
Nhân), danh mục các nhân đức khá dài. Tông
huấn Redemptoris Custos muốn nêu bật vài khía cạnh thích hợp cách
riêng trong thời đại chúng ta: đức tin, trung thành với bổn phận, chiêm niệm.
Chương ba của Tông huấn mang tựa đề của một đức tính
trích từ Tân Ước, đó là “người công chính” (Mt 1,19),
và khai triển cách riêng việc Thánh Giuse nhận Đức Maria làm vợ tuân theo ý
Chúa.
1/. Mẫu gương đức tin
Tuy nhiên, một chủ đề khác được tông huấn khai triển ở
nhiều đoạn là đức tin. Tin là thái độ của con người lắng nghe và tuân theo lời
Chúa.[110] Việc chấp nhận này không chỉ diễn ra
một lần qua tiếng “Xin vâng”, nhưng được
diễn tả ra hành động,[111]
và kéo dài ra suốt đời. Cũng như Đức Maria, Thánh Giuse trải qua nhiều thử
thách trong cuộc “lữ hành đức tin”.[112]
Đừng kể những nỗi nhọc nhằn trong việc bảo vệ thánh gia (những
cuộc di chuyển đi Bethlehem, sang Ai Cập, về Nazareth), chắc hẳn sự
thử thách lớn lao nhất của Đức Mẹ và Thánh Giuse ở chỗ tin rằng người con của
mình là “Thiên Chúa cứu chữa”, “Con
Thiên Chúa”. Một cuộc “chạm trán” đã xảy ra tại đền thờ Jerusalem, khi
Đức Maria trách con mình đã gây lo lắng cho song thân, thì Đức Giêsu đã trả lời
bằng một câu mà “hai ông bà không hiểu nổi” (Lc 2,50).
2/. Mẫu gương trung tín với bổn phận
Đức tin không chỉ giới hạn trong phạm vi lý trí và ý chí,
cũng không thể nào chỉ giới hạn vào việc thưa “xin vâng”. Tông
huấn Redemptoris Custos số
17 đã đối chiếu hai trình thuật thiên sứ truyền tin cho Đức Maria và Thánh
Giuse, và nhận thấy rằng, Đức Maria đã đáp lại bằng lời “Fiat” còn Thánh Giuse đáp lại bằng sự thinh
lặng. Thực ra, sự thuận tuân của Thánh Giuse được diễn tả qua việc làm theo ý
Chúa, qua việc chu toàn bổn phận của người chồng (đối với Đức Maria) và người cha (đối
với Đức Giêsu).
Mặt khác, việc trung thành với bổn phận mang tính cách
năng động, nghĩa là nhạy cảm với tiếng gọi của Chúa, và cụ thể là với tiếng gọi
tình yêu. Tông huấn đã trình bày cho thấy Thánh Giuse đã thực hiện chức vụ làm
cha và làm chồng với một ý thức mới, dưới tác động của Chúa Thánh Thần: tất cả
biến thành một cuộc hiến dâng và trao ban.[113]
Điều này cũng được ghi nhận một cách tổng quát hơn đối với các việc làm thường
ngày: lao động được thánh hóa nhờ tình yêu dâng hiến.[114]
3/. Mẫu gương của đời chiêm niệm
Như vừa nói, Thánh Giuse đã biểu lộ đức tin qua hành
động. Tuy nhiên Người không phải là con người náo động. Tiếp theo chương 4 về
lao động, chương 5 của Tông huấn Redemptoris Custos dành cho đời sống nội tâm. Thánh Giuse
không những là con người thầm lặng nhưng nhất là con người chiêm niệm: Người
sống trong sự đối thoại thân tình với Thiên Chúa, tìm hiểu mầu nhiệm của Thiên
Chúa qua những dấu chỉ của các biến cố, và đặc biệt qua dấu chỉ nhân tính của
Đức Kitô.
Thánh Giuse trở thành mẫu gương cho những ai được kêu gọi
sống đời chiêm niệm, theo như thánh Têrêsa Avila đã nhấn mạnh.[115]
Nhưng cũng thể nói được là Thánh Giuse trở thành mẫu gương cho tất cả các tín
hữu, cách riêng những người hoạt động tông đồ, bởi vì hiệu quả của hoạt động
tông đồ tùy thuộc vào mức độ kết hiệp với Thiên Chúa: “không
có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5).[116]
Tông huấn đã trưng dẫn lý tưởng về sự hòa hợp giữa chiêm
niệm và hoạt động dựa theo những diễn ngữ của Thánh Augustino và Thánh Gregorio
được Thánh Thomas tóm tắt qua hai chiều hướng của lòng yêu mến (đức
ái: “charitas”):
a) Lòng yêu mến chân lý (amor charitatis), hiểu về
Đức Kitô, chân lý hằng sống, đưa đến việc tìm kiếm tiếp xúc thân tình với Chúa;
b) Những đòi hỏi của lòng yêu mến (necessitas
charitatis), nghĩa là việc phục vụ tha nhân do đức ái thúc đẩy: vừa
có thể hiểu như là đức ái muốn mang Chúa Kitô đến cho tha nhân, vừa như là đức
ái phục vụ Chúa Kitô nơi tha nhân. Tất cả hai chiều hướng đều xoay quanh đức ái
và Chúa Kitô.
B. Mẫu gương cho toàn thể Hội Thánh
Thánh Giuse được suy tôn làm vị bảo trợ Giáo Hội. Giáo
Hội tin tưởng rằng Người sẽ tiếp tục bảo vệ và chuyển cầu cho Giáo Hội cũng như
xưa kia Người đã bảo vệ thánh gia.
Đồng thời, Giáo Hội cũng nhìn lên Thánh Giuse như một tấm
gương trong công cuộc phục vụ ơn cứu độ.[117]
Nói khác đi, Giáo Hội cũng nhận lãnh một sứ mạng tương tự như Thánh Giuse, đó
là bảo vệ những mầu nhiệm thánh. Sứ mạng này không chỉ giới hạn vào việc bảo vệ
chân lý đức tin khỏi những lầm lạc, nhưng còn kèm theo nhiệm vụ loan báo Tin
Mừng cho thế giới: hoặc truyền bá Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô cho những người
ở ngoài Giáo Hội, hoặc linh hoạt đức tin nơi những người đã tin Chúa nhưng thờ
ơ với tôn giáo.[118]
C. Mẫu gương cho các thành phần trong Giáo Hội
Ra như được soi sáng bởi một thứ trực giác đức tin, từ
lâu nhiều thành phần xã hội hoặc hàng ngũ Dân Chúa đã tìm thấy nơi Thánh Giuse
một tấm gương và một người bầu cử, chẳng hạn như:
- Những người đính
hôn và những người chồng: họ muốn học hỏi tấm gương tôn trọng người bạn của
mình, tìm cách bảo vệ thay vì lợi dụng nàng.
- Những người cha: Thánh Giuse là tấm gương của một người
cha quan tâm đến việc dưỡng nuôi và giáo dục con cái, hợp tác với Cha trên
trời.
- Những gia đình: Thánh Giuse cùng với Mẹ Maria là mẫu
gương của sự hòa hợp về tình yêu và đức tin, đặt ích chung lên trên sở thích cá
nhân.
- Những người thợ: Thánh Giuse là thợ mộc, đã cần cù làm
việc để kiếm kế sinh nhai, và đã dạy nghề cho con mình.
- Những người nghèo, những người tha hương, những người
bị xã hội gạt ra bên lề: Thánh Giuse cũng đã nếm cảnh đó tại Bethlehem, Ai Cập,
Nazareth.
- Những vị mục tử: Thánh Giuse là mẫu gương của “cha
tinh thần”, tận tụy phục vụ Giáo Hội.
- Những người chiêm niệm: Thánh Giuse là mẫu gương của sự
thinh lặng, dồn hết tâm trí vào việc sống thân mật với Đức Giêsu.
- Những người lâm chung: Thánh Giuse đã lìa đời với Đức
Giêsu và Đức Mẹ đứng bên cạnh. Vì vậy các tín hữu cũng cầu khẩn Người ơn được
nhắm mắt an bình trong tình nghĩa với Chúa.
Tông huấn Redemptoris Custos đã
nhắc riêng đến một vài hàng ngũ:
1/. Các gia đình [119]: tổ hợp của sự sống, cầu nguyện, lao
động. Gia đình là Giáo Hội gia thất.[120] Tông huấn Redemptoris Custos quy chiếu về nhiều văn kiện của Tòa
Thánh được trưng dẫn ở nota 17, đặc biệt là Tông huấn Familiaris consortio
(22/11/1981).
2/. Giới công nhân, lao động, người nghèo.[121]
3/. Các người chiêm niệm.[122]
II. QUAN THẦY BẢO TRỢ
Như đã nói trên, trước khi được Tòa Thánh chính thức công
bố làm Đấng bảo trợ toàn thể Giáo Hội, Thánh Giuse đã được tôn kính tại nhiều nơi
dưới tước hiệu ấy. Ngoài ra, Người cũng còn được đặt làm quan thầy cho nhiều
thành phần xã hội, các giáo đoàn địa phương. Chúng ta có thể kể ra vắn tắt:
A. Các quốc gia
- Áo: Đức Giáo Hoàng Clemente X – 1675
- Bohemia (miền của cộng hòa Séc):
Hoàng đế Ferdinand III – 1655
- Canada: Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII – 1637
- Trung Hoa và Việt Nam: Đức Giáo Hoàng Innocentê XI, Tông
hiến Sacrosancti Apostolatus 17/8/1678.
- Mexico: Đức Giáo Hoàng Innocentê XI – 1679
- Nga: Đức Giáo Hoàng Piô XI – 1930
- Peru: Đức Giáo Hoàng Piô XII – 1957
B. Các Giáo phận
Vài trường hợp điển hình:
- Mexico: Các Giáo phận Tapachula (1957), Autlán và
Chihuahua, Ciudad Guzman (1972), Culiacán (1991), Coatzacoalcos (1994). Các thành
phố: Puebla de los Angeles (1611), Oxaca (1727), Mexico (1732), San Miguel el
Grande (1764), Morelia (1949).
- Philippin: Các Giáo phận San José de Antique, Daet, San
José (1984).
- Pháp: Giáo phận Paris (1891). Các thành phố Avignon
(1630), Verdun, Laneuville-à-Bayard (1866).
- Canada: Các Giáo phận Ottawa (1848), Gravelbourg,
Labrador-Schefferville, Mackenzie-Fort Smith, Winnipeg (1915).
- Hoa Kỳ: Các Giáo phận Hartford (1962),
Saint-Joseph-Kansas City, Anchorage, San José in California (1981).
- Việt Nam: Công Đồng Đàng Ngoài họp tại Phố Hiến
(14/2/1670) dưới sự chủ tọa của Đức Cha Lambert de la Motte xin nhận Thánh
Giuse làm quan thầy địa phận Đàng Ngoài, và Đức Thánh Cha Clemente X đã chấp
thuận (Tông hiến Apostolatus Officium 23/12/1673).
Các Giáo phận: Quy Nhơn, Đà Lạt, Xuân Lộc cũng nhận Thánh Giuse làm bảo trợ.
C. Các Dòng tu
Có những Dòng mang tên Thánh Giuse và nhiều Dòng chọn
Thánh Giuse làm bổn mạng:
1/. Dòng Thánh Giuse
Theo tự điển các Dòng tu (Dizionario
degli Istituti di Perfezione), Hội Dòng đầu tiên mang tên Thánh
Giuse được thành lập tại Genova (Italia) năm 1517. Từ đó đến nay, đã có 244
Dòng nam nữ mang tên Thánh Giuse, đặc biệt 45 Dòng nữ phát xuất từ Hội Dòng
Thánh Giuse (Soeurs de Saint
Joseph) do cha
Jacques Crétenet, SJ. lập tại Le Puy (Pháp) năm 1650.
Tại Việt Nam có Dòng Thánh Giuse được cha Jean Sion, MEP.
thành lập tại Nhà Đá, Phù Mỹ, Bình Định ngày 1/11/1926.
2/. Nhiều Dòng nhận làm bổn mạng
Nhiều Dòng tu khác tuy không mang tên Thánh Giuse, nhưng
đã nhận Người làm bổn mạng. Ví dụ: Dòng Carmelo cải tổ năm 1621, Dòng Augustino
năm 1700, Dòng Phansinh viện tu năm 1741, Dòng Chúa Cứu Thế và Dòng Hiến sĩ Đức
Mẹ vô nhiễm.
Tại Việt Nam, Thánh Giuse được Đức Cha Lambert de la
Motte đặt làm bổn mạng cho các Hội Dòng Mến Thánh Giá (1670).
D. Những thánh đường và Hiệp hội
1/. Theo các sử gia, ngôi thánh đường đầu tiên được dâng
kính Thánh Giuse là nguyện đường do các cha Dòng Benedicto cất ở Bologna năm
1129. Thật khó đếm nổi hiện nay trên thế giới có bao nhiêu thánh đường được
cung hiến cho Người. Đền thờ nổi tiếng nhất hiện nay có lẽ là Thánh Điện tại
Montréal (Canada), được xây cất do
sáng kiến của Frère André (Alfred
Besset, 1845-1937, được phong chân phước năm 1982), khởi công từ
năm 1904 như một ngôi nhà nguyện nhỏ bé, nhưng hoàn tất năm 1969 với nóc lớn
thứ nhì thế giới (chỉ thua đền thờ thánh Phêrô ở Roma).
Một ngôi đền thờ vĩ đại được cất tại Barcelona kính Thánh
Gia (Sagrada Familia), được khởi công từ năm
1882, với mục đích truyền bá lòng tôn kính Thánh Giuse. Nhiều kiến trúc sư thời
danh đã cộng tác vào việc xây cất (đến nay vẫn chưa hoàn thành),
như ông Antoni Gaudí.
Tại Việt Nam, nhà thờ Chính tòa Hà Nội mang tước hiệu
Thánh Giuse, cũng như hai Đại Chủng Viện Sài Gòn và Hà Nội.
2/. Thánh Giuse được nhận làm bổn mạng của nhiều Hiệp hội
và Đoàn thể Công Giáo, cách riêng Hiệp hội các thợ mộc (Venerabile
Arciconfraternita di san Giuseppe dei Falegnami, Roma 1450), Hiệp
hội cầu nguyện cho những người lâm tử (Pia Unione del Transito di san
Giuseppe per la salvezza dei morenti, Roma 1913).
***
MỤC III. NHỮNG KINH NGUYỆN VÀ VIỆC TÔN KÍNH
Giáo Hội nhìn nhận tầm quan trọng của Thánh Giuse không
chỉ qua những tuyên ngôn, những văn kiện, nhưng nhất là qua những việc tôn kính
đạo đức. Trong chương Hai, chúng tôi đã nói qua sự phát triển của lòng sùng
kính Thánh Giuse trải qua các thế kỷ. Trong mục này, chúng ta hãy tìm hiểu lịch
sử và ý nghĩa của vài hình thức cụ thể, được xếp vào hai loại chính [123]:
1/. Những hình thức phụng vụ, theo lịch phổ quát và địa
phương: lễ kính Thánh Giuse ngày 19/3 (bài lễ; kinh Tiền Tụng và phụng vụ
giờ kinh); lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse; lễ Thánh Gia; lễ Thánh
Giuse lao động (01/5); lễ kính cuộc kết hôn; lễ kính Thánh Giuse bảo trợ Hội
Thánh; tưởng nhớ việc trốn sang Ai Cập.
2/. Những việc đạo đức dân gian:
a) Các kinh nguyện: kinh cầu Thánh Giuse; bảy sự vui
buồn;
b) Các thời điểm: thứ tư hàng tuần, tháng 3 dương lịch.
I. PHỤNG VỤ
Trước hết, chúng ta sẽ tìm hiểu những lễ được ghi trong lịch
phụng vụ phổ quát, sau đó là những lễ của vài địa phương, hoặc đã thuộc về quá
khứ.
A. Ngày lễ chính: 19 tháng Ba
Như đã nói trong chương Hai, bên Đông Phương, nghi điển
Byzantin kính nhớ Thánh Giuse chung với các thánh tổ phụ vào mùa Giáng Sinh;
riêng nghi điển Copto (bên Ai Cập) mừng vào ngày 26 tháng Abib. Bên Tây
Phương, ngày lễ chính được cử hành vào ngày 19 tháng Ba, với một tiến trình
lịch sử kéo dài qua nhiều thế kỷ.
Lần đầu tiên, tên Thánh Giuse được nhắc đến vào ngày 19/3
là một cuốn “Tử Đạo Thư” (“Martyrologium”: nêu
danh tánh của các thánh nhân dịp kỷ niệm ngày qua đời của các ngài) tại
thế kỷ VIII của một đan viện Benedicto ở Rheinau (thuộc
Tổng Giáo phận Zurigô, Thụy sĩ). Vào thế kỷ IX, một đan viện khác
cũng thuộc Dòng Benedicto ở Reichenau (miền nam nước Đức) tưởng nhớ Người vào ngày 19/3, và cũng
có thể là nơi xuất phát phong trào phổ biến lòng tôn kính Thánh Nhân. “Tử
Đạo Thư” ở thế kỷ X
của Fulda đã đặt tiêu đề ngày 19/3 là: “Tại
Bethlehem, Thánh Giuse, Đấng dưỡng nuôi Chúa” (In Bethleem, sancti Joseph,
nutritoris Domini).
Người ta không rõ nguồn gốc mối liên hệ giữa ngày 19/3
với Thánh Giuse. Một giả thuyết cho rằng, trước kia đã có lễ Thánh Giuse
Antiokia vào ngày 20/3 trong nhiều “Tử Đạo Thư”. Có thể do sự
trùng tên, cho nên lịch đã ghi Thánh Giuse hôn phu của Đức Maria vào cùng ngày
hoặc vào ngày hôm trước. Một giả thuyết nữa cho rằng, thời xưa tại Roma, ngày
19/3 là lễ của các người thợ tôn kính nữ thần Minerva; vì thế, nó được thay thế
bằng lễ kính Thánh Giuse là một người thợ xem ra dễ hiểu. Tiếc rằng, chưa có đủ
bằng chứng lịch sử về lễ kính Thánh Giuse thợ vào các thế kỷ đầu tiên của Kitô
giáo. Dù nguồn gốc như thế nào đi nữa, việc mừng lễ Thánh Giuse vào ngày 19/3
đã được thành hình từ đầu thiên niên kỷ thứ hai.
Vào khoảng năm 1030, một đan viện Dòng Benedicto tại
Winchester đã cử hành lễ Thánh Giuse. Cũng trong thế kỷ này, Dòng Carmel từ
thánh địa trở về châu Âu đã góp phần vào việc quảng bá lòng sùng kính.
Vào năm 1129, các đan sĩ Benedicto thuộc đan viện thánh
Helena đã cất một nhà thờ dâng kính Thánh Giuse ở Borgo Galliera (thành
phố Bologna, Italia). Có thể nói được, đây là trung tâm phổ biến
lòng sùng kính Thánh Nhân sang các nơi khác. Cũng tại nơi đây, tên Thánh Giuse,
vốn đã trở thành quen thuộc bên Đông Phương, bắt đầu được đặt cho các trẻ em
khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Có lẽ, lòng đạo đức sơ khởi kính Thánh Giuse
trong Dòng Phanxicô bắt nguồn do ảnh hưởng của cuộc tiếp xúc với Bologna.
Sang thế kỷ XIII, chúng ta tìm thấy những bản văn được
soạn để mừng lễ. Tại Liège có một Lời Nguyện riêng cho Thánh Giuse. Đan viện
Benedicto thánh Lorenso tại thành phố đó đã có toàn bộ kinh nguyện, với cung
hát, để tôn kính Người. Đan viện thánh Floriano ở nước Áo có một quyển sách lễ
với một bài lễ kính Thánh Giuse, và một bài lễ khác kêu cầu những công nghiệp
của Người “chống lại sự phỉ báng của phường tội
lỗi”.
Trong thế kỷ XIII, các tu sĩ Dòng Phanxicô đã tự động
mừng lễ Thánh Giuse, và một “tử đạo thư” đã xếp ngày 19/3 như là ngày lễ “duplex
maior” trong khi một
quyển trước đó chỉ mừng với cấp “duplex minor”.[124]
Tại Pháp, nhà thờ Phanxicô ở Toulouse có một nhà nguyện tôn kính Thánh Giuse từ
năm 1222, và vào ngày 07/07/1275 một nhà thờ kế cận tu viện Phanxicô ở
Bourbonnais miền Champagne đã được cung hiến long trọng với thánh hiệu này.
Những cuộc thập tự chinh cũng là cơ hội để mang những di
tích thánh từ thánh địa về châu Âu, ví dụ như cây gậy của Thánh Giuse, và chiếc
nhẫn đính hôn Người trao tặng Đức Maria. Vào năm 1254, một nhà nguyện được xây
cất trong nhà thờ thánh Lorenso ở Joinville-sur-Marne (Pháp) để tôn kính đai thắt lưng, và nơi đây
đã trở thành trung tâm hành hương.[125] Có lẽ tại những nhà nguyện được cất
lên để tôn kính Thánh Giuse, lễ mừng kính Người được cử hành vào tháng Ba.
Vào ngày 1/5/1324, Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ trở thành Dòng tiên
khởi tuyên bố tại Tổng Hội rằng, các thành viên của Dòng phải cử hành trong tất
cả nhà thờ của họ lễ Thánh Giuse được ấn định mừng vào ngày 15/3. Các tu sĩ
Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ đã làm chủ nhà thờ Thánh Giuse ở Bologna kể từ năm 1301, và
họ đã phổ biến việc cử hành lễ này. Tổng Hội Dòng Phansinh, vào năm 1399, cũng
đã thiết lập lễ Thánh Giuse với chín bài đọc trong Giờ Kinh Phụng Vụ và một
Thánh lễ sử dụng phần chung của các thánh “hiển tu”,[126] (Commune confessorum); đồng
thời quyết định rằng, lễ này phải được cử hành vĩnh viễn trong toàn Dòng. Tuy
nhiên, không rõ các quyết nghị này có ảnh hưởng đến đâu.
Tại Agrigento (nam Italia), nơi có các
tu viện của Dòng Phanxicô, Đaminh, Carmel, vào thế kỷ XIV đã lưu hành “Kinh
nguyện kính Thánh Cả Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”
(Officium Santissimi Joseph nutricii et patris adoptivi Domini nostri Jesu
Christi). Trong phần điệp ca của kinh Magnificat, Người được gọi là “dòng
dõi ưu tuyển của Bethlehem, được giải thoát khỏi mọi vết nhơ tội lỗi” (O proles
almifica de Bethleem electa, gemma nimis ardua, ab omni labe erepta).
Những chi tiết vừa rồi nhằm trình bày nguồn gốc của việc
mừng kính lễ Thánh Giuse trong tháng Ba cùng với việc phát triển ở Tây Phương.
Sang thế kỷ XV, ngày lễ mới bắt đầu được phổ biến hơn. Tại Công Đồng Constance
(1414-1418), các Nghị phụ đã nghe cha Jean Gerson thuyết minh về lời bầu cử đầy
quyền năng của Thánh Giuse, Đấng đã sai khiến hài nhi Giêsu và Đấng có thể được
kêu cầu cách hiệu nghiệm để chấm dứt nạn ly giáo đang gây đau khổ cho Hội
Thánh. Cha Gerson đã xin Công Đồng xem xét và tuyên Thánh Giuse với một danh dự
lớn lao hơn. Tuy nhiên, xem ra ảnh hưởng của Dòng Phanxicô trong thế kỷ này mới
thực là nhân tố chính cho việc bành trướng ngày lễ.
Các tu sĩ Dòng
Phanxicô, như thánh Bernardino Siena (+ 1414), không chỉ giảng về Thánh Giuse
mà còn phân phát lược đồ các bài giảng nữa. Tu sĩ Bernardino Feltre đã thiết
lập ở khắp nước Italia những quỹ tín dụng(cho
vay không lãi) mang
tên “những ngọn núi đạo đức” (Monte di pietà) đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse.
Năm 1461, ở Salamanca, Tổng Hội Dòng Phanxicô (nhánh nhiệm nhặt)đã ấn
định ngày lễ vào 19/3. Năm 1471, một người bạn của cha Bernardino Feltre và là
nguyên Bề trên Tổng Quyền của Dòng Phansinh đắc cử Giáo Hoàng, với niên hiệu
Sixto IV. Vào tháng Mười Một năm 1480, ngài cho phép Dòng Phanxicô được cử hành
mừng lễ bậc “duplex maior” ngang hàng với các lễ Hiển Linh,
Truyền Tin, và Phục Sinh. Mặc dầu là đặc ân được ban cấp cho một Dòng tu, nhưng
sự phê chuẩn công khai của Đức Thánh Cha đã mở đường cho việc bành trướng lễ
rộng rãi hơn. Nhiều ấn bản của Sách Lễ Roma và Sách Nguyện, chẳng hạn như những
quyển do tu sĩ Philipphe Rotingo ở Venise xuất bản năm 1481, đã sắp xếp ngày lễ
với bậc “duplex maior” với bài đọc riêng. Người ta cho rằng,
Đức Giáo Hoàng Sixto IV đã mở rộng lễ này ra khắp Hội Thánh với cấp “simplex”,
mặc dầu chưa có tính cách bó buộc. Một ấn bản Sách Lễ Roma tại Venise do
Giovanni Sessa in vào năm 1497, đăng lịch của Dòng Phanxicô với ngày lễ này và
những bản văn riêng mà Sách Lễ của Đức Giáo Hoàng Piô V sẽ sử dụng.
Qua thế kỷ XVI, người ta thấy sự bành trướng của việc cử
hành lễ 19/3 trong các Giáo phận và các Dòng tu, với việc ghi tên trong các
lịch phụng vụ cùng với việc xuất bản những bản văn dùng trong các Sách Lễ và
Sách Nguyện. Việc cải tổ Phụng vụ sau Công Đồng Trento đã thiết lập sự thống
nhất các sách phụng vụ trong toàn thể nghi lễ Latin. Khi Đức Giáo Hoàng Piô V
cho xuất bản Sách Nguyện (năm 1568) và Sách Lễ Roma (năm
1570), ngày 19/3 được dành kính “Thánh Giuse hiển tu” ở bậc “duplex”.
Nói chung, những Lời Nguyện được trích từ bài lễ của các vị thánh khác (Thánh
Matthew và thánh Tôma). Tuy nhiên, trong thế kỷ này, nhiều Thánh
Thi và Lời Nguyện được sáng tác và sử dụng trong các lịch riêng, kể cả sau cuộc
canh tân của Đức Giáo Hoàng Piô V.
Theo lời yêu cầu của nhiều quốc gia và Đoàn thể, Đức Giáo
Hoàng Gregorio XV tuyên bố lễ Thánh Giuse là ngày lễ buộc trong toàn thể Giáo
Hội (ngày 8/5/1621). Ngày 6/12/1670, Đức Giáo Hoàng
Clemente X nâng lên bậc “duplex secundae classis”,
và soạn ba bài Thánh Thi cho Giờ Kinh Phụng Vụ (kinh
Chiều: “Te Ioseph celebrent”; kinh Sách: “Caelitum, Ioseph, decus”; kinh Sáng:
“Iste, quem laeti”).
Ngày 4/2/1714, Đức Giáo Hoàng Clemente XI phê chuẩn những
bản văn riêng cho ngày lễ 19/3, bao gồm những Thánh Thi đã được Đức Giáo Hoàng
Clemente X chứng nhận. Ngày 8/12/1870, Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố Thánh
Giuse là bảo trợ của Hội Thánh và nâng lễ Thánh Giuse lên bậc “duplex
primae classsis”.
Trong Thông điệp Quamquam Pluries năm 1889, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII ước
muốn rằng, tại những nơi nào mà ngày 19/3 không phải là lễ buộc, thì cũng nên
được tuân giữ với lòng đạo đức và lòng nhiệt thành như ngày lễ buộc.
Năm 1911, Đức Giáo Hoàng Piô X dời ngày lễ vào Chúa Nhật
sau ngày 18/3 như để giảm bớt số lượng ngày lễ buộc trong tuần. Tuy nhiên, chỉ
sau ba tuần lễ, do những cuộc tranh luận về phụng vụ mùa Chay, lễ Thánh Giuse
được mừng trở lại vào ngày 19/3 ở bậc “duplex primae classsis”,
nhưng không phải là lễ buộc, với tiêu đề mới: “Lễ trọng kính Thánh Giuse, bạn trăm
năm Đức Trinh Nữ Maria, hiển tu” (Commemoratio Sollemnis S.Ioseph, Sponsi
B.M.V. Confessoris). Với việc cải tổ phụng vụ năm 1913, ngày lễ
được giảm xuống bậc“duplex
secundae classis”.
Khi Đức Giáo Hoàng Benedicto XV ban hành Bộ Giáo Luật năm
1917, điều khoản 1247 một lần nữa ấn định lễ Thánh Giuse là ngày lễ buộc trong
toàn thể Hội Thánh. Hậu quả là vài tháng sau, lễ nghi phụng vụ được nâng lên
bậc “duplex primae classsis”. Trong Bộ Giáo Luật
năm 1983, lễ Thánh Giuse là một trong mười ngày lễ buộc của Hội Thánh hoàn vũ,
tuy Hội đồng Giám mục địa phương có thể xin loại bỏ các ngày đó.
Năm 1956, một quyết định quan trọng theo sau việc thiết
lập “lễ Thánh Giuse lao động” là hủy bỏ “lễ
Thánh Giuse bảo trợ” được
cử hành vào ngày thứ Tư trong tuần thứ Ba sau lễ Phục Sinh. Sắc lệnh này đã nối
kết tiêu đề của lễ trọng này: “Bảo trợ Hội Thánh hoàn vũ” vào ngày lễ chính của Thánh Giuse
19/3.
Năm 1969, trong lịch phụng vụ canh tân do Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI ban hành, ngày 19/3 được xếp vào hàng lễ trọng và mang tiêu đề: “Thánh
Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria” (S. Ioseph, Sponsi B.M.V.).
Với sự thay đổi này, không chỉ ngày lễ, mà cả tiêu đề “bảo
trợ Hội Thánh hoàn vũ” cũng
bị loại bỏ.
1/. Thánh lễ ngày 19/3
Sách Bài đọc ban hành năm 1969 ấn định ba bài đọc như
sau: 2Sm 7,4.12-14a.16 (Đức Messia dòng dõi vua David);
Rm 4,13.16-18.22 (gương mẫu đức tin); Mt
1,16.18-21.24 hay Lc 2,41-51a.
Sách Lễ Roma ban hành năm 1970 có những Lời Nguyện mới về
Thánh Giuse trong thánh lễ, đề cao vai trò của Người trong nhiệm cục cứu độ và
về niềm vui của Hội Thánh có Thánh Giuse như là mẫu gương và Đấng bầu cử. Những
bản văn hiện tại chú trọng đến Thánh Giuse trong tương quan với Đức Kitô và với
Hội Thánh:
- Đối với Đức Kitô, Thánh Giuse “đã
hết lòng phục vụ Đức Kitô, Con Một Chúa”. “Chúa đã giao phó Con Một Chúa chăm
sóc giữ gìn như người cha lo cho con cái”.
- Đối với Hội Thánh, Thánh Giuse là vị bảo trợ “được
thánh nhân phù trợ ở dưới thế gian này thì cũng được cầu thay nguyện giúp trước
toà Chúa”; đồng thời, Người cũng là mẫu gương cho Hội Thánh trong
việc “cộng tác với Đức Giêsu để hoàn tất công trình Người đã
khởi đầu”, biết “phục vụ hy sinh suốt đời như người
tôi trung”.
Kinh Tiền Tụng duy trì bản văn được Đức Giáo Hoàng
Benedicto XV châu phê ngày 9/4/1919, tóm tắt những điều chính yếu của Tin Mừng
về vai trò thánh Giuse “người công chính, kết bạn với Đức
trinh nữ Mẹ Chúa Trời... tôi tớ trung tín và khôn ngoan được trao phó coi sóc
Thánh Gia”, để thay quyền Chúa Cha “gìn
giữ Đức Giêsu Kitô, Con Một Chúa Nhập thể bởi quyền năng Thánh Thần”.
2/. Phụng Vụ các Giờ Kinh
Khi bàn về lịch sử lễ kính Thánh Giuse, chúng ta đã đề
cập đến sự phát triển của Sách Nguyện về lễ này. Vào thế kỷ XIII, một đan viện
Dòng Benedicto ở Liège đã có một bài nguyện riêng, và vào năm 1399, các tu sĩ
Dòng Phanxicô đã đọc các giờ kinh với chín bài đọc. Đức Giáo Hoàng Sixto IV
(1471-1484) thuộc Dòng Phanxicô đã đưa các bản văn này vào Sách Nguyện Roma.
Nhiều sách nguyện khác có kinh Phụng Vụ kính Thánh Giuse vào thế kỷ XVI. Sau
Công Đồng Trento, những bản văn được thống nhất dưới thời Đức Giáo Hoàng Piô V
(1566-1572) nhưng bản văn đầy đủ hơn được Đức Giáo Hoàng Clemente XI công bố
ngày 4/2/1714 mà người ta nói do chính ngài soạn ra. Những bản văn này không
thay đổi trong hai thế kỷ rưỡi, cho đến khi duyệt lại sách Phụng Vụ Giờ Kinh
năm 1971, bao gồm những bản văn mới cho ngày lễ 19/3, lễ Thánh Gia, lễ Thánh
Giuse lao động.
3/. Lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse
Lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse bắt đầu xuất hiện vào thế
kỷ XIII, và được đưa vào nhiều Sách Lễ xuất bản vào thế kỷ XVI như ở Orleans,
Paris, Strasbourg, Salzburg, Chalon va Reims.
Sắc lệnh năm 1883 cho phép các công nghị Giáo phận và các
cộng đoàn tu trì sáng tác các kinh nguyện ngoại lịch, và ấn định những lễ ngoại
lịch vào các ngày khác nhau trong tuần, riêng ngày thứ Tư là: “Thánh
Giuse, bạn của Đức Trinh Nữ Maria, bảo trợ của Hội Thánh Công giáo”.
Tiêu đề này xuất hiện ở phần “Lễ nhớ ngoại lịch quanh năm” trong Sách Lễ Roma, được xuất bản dưới
thời Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, nhưng trong ấn bản của Đức Giáo Hoàng Benedicto
XV, tiêu đề chỉ còn giữ lại “Lễ Thánh Giuse” mặc dầu các bản văn không thay đổi.
Thỉnh thoảng, Tòa Thánh ban phép cho một vài Hội Dòng được cử hành lễ nhớ ngoại
lịch vào những dịp không bị ngăn trở bởi lịch phụng vụ.
Trong Sách Lễ Roma năm 1970, các thánh lễ ngoại lịch
không còn gắn với ngày nào đặc biệt trong tuần nữa, nhưng được xếp theo thứ tự
hệ thống cấp bậc: bắt đầu với lễ Chúa Ba Ngôi, Đức Maria ở vị trí thứ tám, các
thiên thần ở vị thế thứ chín, Thánh Giuse được xếp vào hàng thứ mười, trước các
tông đồ.
Ca Nhập Lễ trích từ Lc 12,42 và ca Hiệp Lễ lấy từ Mt
25,21 nhằm trình bày Thánh Giuse như mẫu người đầy tớ trung tín mà Đức Kitô nói
đến. Lời tổng nguyện của bản văn cũ vẫn duy trì, trong khi Lời Nguyện trên lễ
vật và Lời Nguyện hiệp lễ là những bản văn mới: “xin
vì mẫu gương và lời chuyển cầu của Thánh Giuse, người công chính và vâng phục
cùng là thừa tác của các mầu nhiệm cứu độ giúp chúng ta sống Thánh Thiện và
công chính trong tác vụ của mình”.
B. Lễ Thánh Gia
Lòng tôn kính Thánh Gia “tam vị ở trần gian”: Đức
Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, mới phát triển ở những thế kỷ gần đây. Vào thế
kỷ XVII, việc đạo đức đã trải rộng ở Âu châu và Canada, được hỗ trợ bởi những
nhân vật như chân phước Marie de l’Incarnation Dòng Ursuline, cha Jean Jacques
Olier sáng lập Tu Hội Xuân Bích, và cha Pierre Marie Chaumonot, SJ. Năm 1665,
Giám mục Nouvelle France, chân phước Francois Xavier de Montmorency-Laval, đã
cho phép huynh đoàn Thánh Gia Québec cử hành một lễ kính vào ngày 22/1. Khi lễ
kết hôn Thánh Giuse được mừng vào ngày này, lễ Thánh Gia được dời lên Chúa Nhật
thứ hai sau lễ Hiển Linh. Đặc ân này đã sớm mở rộng tới toàn thể Giáo phận với
bài lễ và kinh nguyện riêng.
Năm 1865, bài lễ và kinh nguyện riêng đã được phép sử
dụng trong Giáo phận Montréal, rồi cho toàn thể tỉnh Québec.
Tông Thư Neminem Fugit năm
1892 của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã phê chuẩn những quy chế của Hiệp hội Thánh
Gia quốc tế. Vào ngày giáp năm Tông thư này, đáp lại những lời thỉnh cầu của
nhiều Giám mục, một thánh lễ và kinh Phụng Vụ mới về lễ này đã được chấp thuận
với những bài thánh ca mà người ta cho rằng do chính Đức Giáo Hoàng Lêô XIII
sáng tác: Kinh Chiều “O lux beata caelitum”, Kinh Sách “Sacra iam splendent” và Kinh Sáng “O gente felix hospita”. Tất cả những nơi và
tổ chức đã được phép mừng lễ có thể sử dụng những bản văn này, và dĩ nhiên
những Giáo phận và Hội Dòng khác cũng có thể áp dụng phép này. Giáo quyền đã thống
nhất việc mừng ngày lễ vào Chúa Nhật thứ ba sau lễ Hiển Linh.
Năm 1893, những Giáo phận sau đây đã xin và đã được phép
cử hành lễ này: Albano, Rome và các vùng phụ cận, Andria, Melfi, Rapolla,
Acquapendente, Ariano, Chioggia, Lipari, Caiazzo, Trezzo và Trevisio trong Tổng
Giáo phận Milan, tất cả ở trong nước Italia; Lavant ở Nam Tư; Tours và Lyons ở
Pháp; Brugge ở Bỉ; Eichstatt ở Đức; năm 1894 tại Litomerice ở Tiệp Khắc; năm
1903 Biella ở Italia. Các Hội Dòng được phép cử hành trong năm 1893-1894 bao gồm
Dòng Phanxicô, Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Gioan Thiên Chúa, Dòng Benedicto
Silvestrini và các Tỉnh Dòng Đaminh ở đảo Sicilia và Malta. Lễ được xếp vào bậc “duplex
maior”. Tại Thánh địa, nhà thờ Thánh Giuse ở Nazaret và Thượng Phụ
Latin ở Jerusalem được phép cử hành lễ ngoại lịch về Thánh Gia trong một số
ngày.
Năm 1914, lễ Thánh Gia được ấn định mừng vào ngày 19/1.
Dưới thời Đức Giáo Hoàng Benedicto XV, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị Giám
mục, lễ này đã mở rộng cho toàn thể Hội Thánh với bậc “duplex
maior”, vào Chúa Nhật trong tuần bát nhật lễ Hiển Linh với những
đặc ân giống như ngày Chúa Nhật. Trong lịch canh tân 1969, lễ này là một trong
bốn lễ được chỉ định thường xuyên mừng vào ngày Chúa Nhật, ấn định vào Chúa
Nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh hoặc vào ngày 30/12 trong những năm không
có ngày Chúa Nhật trong tuần bát nhật.
Các bài đọc mới được thêm vào cho chu kỳ ba năm của Thánh
lễ là: Huấn Ca 3, một vài câu của Colose 3 và hai đoạn Tin Mừng. Sách Lễ năm
1969 đã thay đổi các Lời Nguyện. Năm 1971, những bản văn mới cho Phụng vụ các
giờ kinh, bao gồm bài đọc trích ở diễn từ của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, đã hoàn
tất việc sửa đổi lễ này.
C. Lễ Thánh Giuse lao động
Lễ này có nguồn gốc gần đây, mặc dầu việc chọn Thánh
Giuse làm bổn mạng giới công nhân và lao động có một lịch sử lâu dài. Ở đây,
chúng ta truy tầm một vài dấu vết trong hai thế kỷ vừa qua. Thí dụ trong diễn
từ năm 1871, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã nhìn nhận rằng, việc đặt tên Thánh Giuse
cho một Hiệp hội tìm kiếm việc làm cho những người thất nghiệp thật là thích
hợp, bởi vì Người đã nuôi sống Thánh Gia. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII dành một vài
đoạn trong Thông điệp Quamquam Pluries cho Thánh Giuse như là kiểu mẫu và bổn
mạng của những người lao động. Năm 1905, Đức Giáo Hoàng Piô X ban ân xá cho một
lời cầu nguyện với Thánh Giuse, đề cao việc Thánh Nhân nghỉ việc vào ngày của
Chúa và là gương mẫu cho tất cả các công nhân bắt chước. Năm sau, ngài cũng ban
ân xá cho ai đọc kinh cầu nguyện với Thánh Giuse, gương mẫu của các công nhân.
Kinh cầu nguyện nổi tiếng này do chính ngài sáng tác. Năm 1909, kinh cầu Thánh
Giuse được chấp thuận bao gồm lời cầu“gương
mẫu thợ thuyền”. Tự sắc Bonum Sane do Đức Giáo Hoàng Benedicto XV ban
hành năm 1920 đã đặt Thánh Giuse như mẫu gương cho những người lao động để họ
có thể học hỏi nơi Người.
Trong một bài huấn
từ ngày 11/3/1945, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã đặt các Hiệp hội những người lao
động Công giáo Italia (ACLI) dưới sự bảo trợ của
Thánh Giuse. Để kỷ niệm mười năm biến cố này, ngài đã loan báo vào ngày 1/5/1955
việc thiết lập lễ Thánh Giuse lao động trong phụng vụ, được cử hành ngày đầu
tiên của tháng Năm, để Kitô hóa ngày lao động trần thế. Ngày lễ muốn trưng bày
người thợ khiêm tốn Nazaret như mẫu gương cho các người lao động, giúp họ nhận
ra phẩm giá thật sự của sự làm việc và lôi kéo họ đến gần Đức Kitô.
Ngày 1/5/1956 những bản văn mới cho Sách Lễ và Sách
Nguyện được ban hành với tiêu đề:“Lễ
trọng Thánh Giuse lao động, chồng của Đức Trinh Nữ Maria, hiển tu”.
Một đề tài quan trọng, là công việc của Thánh Giuse tiếp tục công việc của
Thiên Chúa trong việc tạo dựng thế giới. Đặc biệt, trong Thánh Thi kinh Sáng (Te,
pater Ioseph, ópifex), chúng ta kêu xin Thiên Chúa là Cha và là thợ
đã làm nên tất cả mọi sự, đến giúp đỡ chúng ta trong công việc của mình, biết
bắt chước Thánh Giuse, người cũng là cha và là thợ. Chín bài đọc trích từ sách
Sáng Thế 1-3, Đức Giáo Hoàng Piô XII, Thánh Alberto Cả, cùng với Colose 3 và
Matthew 13,54-58 được dùng cho các bài đọc trong thánh lễ và các giờ kinh nhỏ.
Bậc lễ trọng chỉ kéo dài một thời gian ngắn, bởi vì từ
năm 1969, lễ này chỉ còn là lễ nhớ tự do. Tuy nhiên, các bài đọc của Sách Lễ
vẫn giữ như cũ, chỉ thêm vào một vài bản văn mới. Bản văn Giờ Kinh Phụng Vụ đã
chọn số 33-34 của Hiến chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và
Hy Vọng) cho bài đọc
kinh Sách, và soạn ra những lời cầu mới cho kinh Sáng và kinh Chiều. Thánh
Giuse được nhìn nhận như là bổn mạng và gương mẫu cho các người thợ, và mặc dầu
bậc lễ bị rút lại là lễ nhớ tự do, lễ này còn được cử hành long trọng tại nhiều
nơi trên thế giới.
Trên đây là những lễ được mừng trong toàn thể Giáo Hội;
tiếp theo là những lễ được mừng ở một vài địa phương hay thuộc về quá khứ.
D. Lễ kết hôn của Đức Maria và Thánh Giuse
Tại Công Đồng Constance năm 1416, cha Jean Gerson đã đề
nghị các linh mục cử hành một lễ ngoại lịch kính nhớ việc kết hôn của Đức Maria
và Thánh Giuse vào ngày thứ Năm của tuần III mùa Vọng, vì thích hợp với đoạn
Tin Mừng của ngày này. Năm 1474, cha Bernardino Bustis thuộc Dòng Phanxicô đã
viết một kinh Phụng Vụ cho ngày lễ. Năm 1537, các tu sĩ Dòng Phanxicô mừng lễ
vào ngày 7/3, và chẳng bao lâu, Dòng Tôi Tớ Đức Bà mừng ngày 8/3, Dòng Đaminh
vào ngày 22/1.
Năm 1684, Đức Giáo Hoàng Innocente XI cho phép cử hành
trong vương quốc của Leopold I, và sau đó ở Tây Ban Nha. Ở Pháp và Canada, lễ
mừng vào ngày 22/1, trong khi những huynh đoàn ở Ba Lan mừng ngày 23/1. Năm
1725, Đức Giáo Hoàng Benedicto XIII mở rộng lễ này cho các quốc gia thuộc quyền
Giáo Hoàng và ấn định ngày lễ vào ngày 23/1.
Trong thế kỷ XIX
và XX, Tòa Thánh ban phép đặc biệt cho nhiều nơi cử hành lễ, thông thường vào
ngày 23/1, nhưng đôi khi vào các ngày khác. Ví dụ năm 1859, lễ được ghi vào
ngày 11/2 trong sách kinh nguyện riêng cho Tổng Giáo phận Fribourg (và
ngày 13/2 theo ấn bản 1894) và
ngày 26/11 cho Giáo phận Cordoba.
Năm 1961, Thánh Bộ Nghi Lễ ban hành một Huấn thị loại bỏ
các lễ đặc biệt trong những lịch riêng, trong đó có lễ kết hôn của Đức Maria và
Thánh Giuse, ngoại trừ những nơi có một lý do đặc biệt để cử hành. Trong thời kỳ
canh tân phụng vụ hậu Công Đồng Vatican II, lễ này một lần nữa được cho phép
trong những lịch phụng vụ riêng. Ví dụ, năm 1989, Dòng Hiến Sĩ Thánh Giuse (Oblati
di San Giuseppe) được
phép cử hành lễ “kết hôn thánh của Đức Maria và Thánh
Giuse” như lễ kính
vào ngày 23/1, với những bản văn riêng, trong đó có kinh Tiền Tụng như sau:
“Cha đã cho Hội Thánh niềm vui cử hành lễ kết hôn Thánh
Thiện của Đức Maria và Thánh Giuse: nơi Đức Maria, đầy ân sủng và xứng đáng là
mẹ Con Một của Cha, Cha đã báo cho biết sự khởi đầu của Hội Thánh, vị hôn thê
xinh đẹp của Đức Kitô; Cha đã chọn Thánh Giuse, người tôi tớ trung tín và khôn
ngoan như là chồng của đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, và đặt người làm đầu gia
đình của Cha, để trông coi người Con duy nhất của Cha, đấng được thụ thai bởi
phép Chúa Thánh Thần, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”.
E. Lễ Thánh Giuse bảo trợ Hội Thánh
Năm 1416, cha Jean Gerson, trong bài giảng cho các Nghị
phụ của Công Đồng Constance, đã khẩn cầu Thánh Giuse như là bảo trợ của Hội
Thánh, với niềm hy vọng được thấy sự hiệp nhất trong Hội Thánh đang bị chia rẽ
do sự hiện diện của hai Giáo Hoàng giả và một Giáo Hoàng chính thức. Năm 1621,
Tổng Hội Dòng Carmel đã chọn Thánh Giuse làm bảo trợ và người cha của toàn thể
Hội Dòng. Năm 1680, Tòa Thánh đã ban phép cho Dòng Carmel cử hành lễ Thánh
Giuse là bảo trợ. Lễ được cử hành vào Chúa Nhật thứ Ba sau lễ Phục Sinh với
những bản văn riêng cho thánh lễ và các Giờ Kinh Phụng Vụ. Lễ này đã mở rộng
cho Dòng Augustino năm 1700, Dòng Đức Mẹ Chuộc Kẻ Làm Tôi năm 1702, Giáo phận
Mexico năm 1703; chẳng bao lâu sau đó lan đến nhiều Dòng tu và các Giáo phận
khác. Vào giữa thế kỷ XIX, lễ đã lan rộng đến nỗi, vào ngày 10/9/1847, Đức Giáo
Hoàng Piô IX đã châu phê cho toàn thể Hội Thánh Sách Lễ và Sách Nguyện riêng
cho lễ này, được cử hành vào Chúa Nhật thứ Ba sau lễ Phục Sinh như lễ bậc “duplex
secundae classis”. Sắc lệnh quan trọng ngày 8/12/1870 công bố,
Thánh Giuse bảo trợ toàn thể Hội Thánh tăng thêm lý do thần học cho việc cử
hành, mặc dầu không thêm gì long trọng cho phụng vụ.
Năm 1911, Sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô X đã ấn định “Lễ
trọng Thánh Giuse, hiển tu, bảo trợ toàn thể Hội Thánh” được cử hành vào Chúa Nhật thứ Ba sau
lễ Phục Sinh, như lễ bậc “duplex primae classis” với tuần bát nhật. Với những thay đổi
năm 1913, nhằm tách rời các ngày lễ khỏi ngày Chúa Nhật, lễ này được ấn định
mừng vào ngày thứ Tư trước Chúa Nhật thứ Ba sau lễ Phục Sinh, tuy vẫn duy trì
tuần bát nhật và bậc lễ.
Năm 1956, sau khi thiết lập lễ Thánh Giuse lao động, lễ
này đã bị bỏ đi, nhưng ít là tiêu đề“Bảo
trợ của toàn thể Hội Thánh” được
giữ lại bằng cách gắn thêm cho ngày lễ 19/3. Năm 1957, vì Dòng Carmel đã mừng
lễ này hơn ba trăm năm, nên được phép giữ lại trong lịch canh tân của Dòng như
lễ bậc “duplex primae classis” với kinh Phụng Vụ và thánh lễ riêng
vào ngày thứ Tư trước Chúa Nhật thứ Ba sau lễ Phục Sinh.
Trong lịch phụng vụ 1969, lễ ngày 19/3 được đặt tên “Thánh
Giuse, chồng của Đức Maria” đã
bỏ đi tiêu đề “bảo trợ Hội Thánh”.
Từ năm 1979, nhiều thỉnh cầu khôi phục lại tiêu đề do các
Bề trên Tổng Quyền, các Trung tâm và Hội thảo quốc tế về Thánh Giuse đệ trình
lên Tòa Thánh, nhưng không được chấp thuận. Năm 1981, Thánh Bộ Bí Tích Và Phụng
Tự lặp lại phúc thư của Hồng y Villot năm 1973, theo đó, tước hiệu “Bảo
trợ” nên để trong
lịch riêng hơn là trong lịch phổ quát. Cha Gauthier đã lưu ý rằng, trong những
ấn bản Sách Lễ Roma bằng tiếng Pháp, một số các thánh bảo trợ được ghi trong
lịch riêng như các vị thánh bổn mạng của nước Pháp, Luxemburg và châu Âu.
Trong Tông huấn Redemptoris Custos,
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II xác nhận cách chính thức sự quan trọng của tước
hiệu “Bảo trợ Giáo Hội ngày nay” như sau:
“Giáo Hội luôn phải kêu cầu Thánh Giuse bảo trợ, không
những để bảo vệ Giáo Hội khỏi những nguy hiểm không ngừng nẩy sinh, nhưng nhất
là còn để nâng đỡ Giáo Hội trong những nỗ lực canh tân nhằm rao giảng Tin Mừng
cho thế giới cũng như tái rao giảng Tin Mừng”.[127]
F. Lễ nhớ cuộc trốn sang Ai Cập
Dòng Chúa Cứu Thế đã cử hành lễ này vào Chúa Nhật thứ Tư
của tháng Tư. Năm 1856, lễ này được dời vào ngày 17/2. Giáo phận Castellammare
di Stabia (gần Napoli, Italia) đã xin phép cử hành lễ này vào năm
1866 nhưng bị từ chối. Năm 1937, giáo quyền đã cho phép cử hành các lễ riêng
tại đền Thánh Giuse ở Allex (Drome) bên Pháp: hoặc là lễ kết hôn ngày 23/1
hay lễ nhớ cuộc trốn sang Ai Cập ngày 17/2. Năm 1958, nhà nguyện Thánh Giuse ở
Montréal đã được phép cử hành thánh lễ riêng như lễ “duplex
maior”. Lời thỉnh cầu của họ ghi nhận rằng, đây là một biến cố
trong đời sống của Chúa, trong đó Thánh Giuse đóng vai trò chính như là “Đấng
bảo trợ cho Đức Kitô”. Những bản văn của lễ này là Isaia 19,20-22
và Matthew 2,13-15. Năm 1961, chỉ thị về việc sửa đổi các lịch phụng vụ riêng
đã loại bỏ lễ này, ngoại trừ những nơi có sự liên kết đặc biệt của thánh lễ với
biến cố này.
G. Tên Thánh Giuse trong nghi thức cầu cho bệnh nhân và
người hấp hối
Năm 1920, “Hiệp hội Thánh Giuse chết lành” đã nhận được phép thêm vào những lời
cầu nguyện đặc biệt đến Thánh Giuse trong lễ ngoại lịch cho người hấp hối, và
cho người chết lành ở nhà thờ của họ tại khu phố Trionfale, Roma; và chẳng bao
lâu phép này được mở rộng cho tất cả các linh mục và các nhà của Hiệp hội.
Vào ngày 9/8/1922, Thánh Bộ Nghi Lễ đã thêm vào sách Nghi
Thức Roma những lời cầu khẩn đến Thánh Giuse trong nghi thức xức dầu thánh (nay
là xức dầu bệnh nhân), trong nghi thức trao phó linh hồn đang hấp
hối và trong những lời cầu nguyện cho người mới qua đời.
Năm 1964, Tòa Thánh phê chuẩn cho vùng Canada nói tiếng
Pháp những lời cầu khẩn Thánh Giuse trong nghi thức Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân,
trong kinh cầu phó dâng linh hồn người đang hấp hối và người vừa tắt thở. Năm
1972, Nghi Thức Xức Dầu và chăm sóc mục vụ cho bệnh nhân ban hành cho toàn thể
Giáo Hội có nhắc tới Thánh Giuse trong những lời cầu nguyện phó dâng người hấp
hối và người sinh thì.
H. Tên Thánh Giuse trong Kinh Nguyện Thánh Thể
Ít là từ năm 1815, nhiều thỉnh cầu được gởi về Roma để
xin ghi tên Thánh Giuse vào trong các lời cầu nguyện của thánh lễ, bao gồm
trong Lễ Quy (nay gọi là Kinh Nguyện Thánh Thể).
Trong nhiều năm, hàng triệu chữ ký đã được thu thập cho lời thỉnh cầu này. Năm
1868, cha Lataste, OP. đã viết thư cho Đức Thánh Cha sẵn sàng dâng hiến chính
mạng sống của mình cho việc công bố Thánh Giuse là bảo trợ của Hội Thánh, và
ghi tên Người vào trong Lễ Quy. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã chấp thuận đề nghị thứ
nhất để đáp lại những thỉnh cầu của các Nghị phụ Công Đồng Vatican I, nhưng
ngài đã không ghi tên Thánh Giuse vào trong Lễ Quy. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã
vui mừng vì nhiều lời thỉnh cầu gởi đến ngài, nhưng ngài cho rằng, không thích
hợp để thay đổi một kinh nguyện phụng vụ đã có từ lâu đời. Đức Giáo Hoàng Piô X
đã trả lời bằng miệng với Tổng Giám mục Camilli rằng, mặc dầu đề nghị bị từ
chối năm 1892, nhưng ngài có thể tiếp tục thúc đẩy phong trào ghi tên Thánh
Giuse vào trong Lễ Quy.
Khi người ta đệ trình những thỉnh cầu này lên Đức Giáo
Hoàng Gioan XXIII, ngài cảm thấy đã đến thời cơ thuận tiện và ngài đã thông báo
cho Thánh Bộ Nghi Lễ biết ý kiến riêng của ngài về vấn đề này. Tại Công Đồng
Vatican II, nhiều Giám mục đã thỉnh cầu việc ghi danh bằng những lời đề nghị
mạnh mẽ. Ngày 13/11/1962, Đức Thánh Cha đã gây ngạc nhiên cho các Nghị phụ, qua
hồng y Quốc vụ khanh, ngài thông báo sẽ thêm câu “và
Thánh Giuse, bạn của Đức Trinh nữ Maria” ngay liền sau tên Maria trong Lễ Quy.
Ngài ước mong quyết định này có hiệu lực vào ngày 8/12 như biểu lộ ước muốn của
Công Đồng. Ngày 30/12/1962, một ấn bản mới của Sách Lễ Roma đã ghi thêm tên
Thánh Giuse trong đó. Sau đó, Đức Giáo Gioan XXIII đã tặng nhà thờ Kalisz, Ba
Lan, một trong những chiếc nhẫn của ngài để tưởng nhớ biến cố này, và chiếc
nhẫn này đã được gắn vào hình Thánh Giuse vào dịp lễ Thánh Gia.
Tiếc rằng, 5 năm sau đó, ba Kinh Nguyện Thánh Thể mới
được ban hành lại không có tên Thánh Giuse. Nhưng đến ngày 01-5-2013, Bộ Phụng
tự và Kỷ luật Bí tích đã có Sắc lệnh thêm tên Thánh Giuse vào bốn Kinh nguyện
Thánh Thể :
BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT CÁC BÍ TÍCH
Prot. N. 215/11/L
SẮC LỆNH
Được đặt lên coi sóc Gia đình của Chúa trong nhiệm cục cứu
độ, thánh Giuse thành Nazareth đã xuất sắc chu toàn sứ mạng do ơn thánh khi
thay quyền cha chăm sóc Chúa Giêsu và hết lòng gắn bó với những mầu nhiệm cứu
độ nhân loại trong giai đoạn khởi đầu, ngài đã trở nên gương mẫu của sự khiêm
nhường nhân ái mà đức tin Kitô giáo đã hết sức đề cao, và nên nhân chứng
về những đức tính thông thường, nhân bản và giản đơn, cần thiết để con người
trở nên tốt lành và nên môn đệ đích thực
của Chúa Kitô. Chính nhờ những nhân đức này, đấng công chính ấy, khi hết lòng
yêu thương chăm sóc Mẹ Thiên Chúa và vui
vẻ tận tình dấn thân lo việc giáo dục Chúa Giêsu Kitô, đã trở nên người gìn giữ
những kho tàng vô giá của Thiên Chúa Cha, và được Dân Thiên Chúa, qua các thời
đại, luôn tôn kính như đấng phù trợ Giáo Hội là Thân Thể mầu nhiệm của Đức
Kitô.
Trong Giáo Hội Công Giáo, các tín hữu luôn có thói quen
bày tỏ lòng sùng kính thánh Giuse, và qua những nghi lễ long trọng cũng như
việc tôn kính thường xuyên, vẫn kính nhớ thánh nhân như Bạn trăm năm rất mực
tinh tuyền của Mẹ Thiên Chúa và như Đấng Bầu cử trên trời của toàn thể Giáo
Hội, đến độ vào thời gian Công đồng Vaticanô II, Chân Phước Gioan XXIII đã
quyết định thêm tên thánh nhân vào Lễ Quy rất mực cổ kính của Rôma. Khi ý thức
về sự hiệp thông toàn vẹn giữa các Thánh là những đấng đã cùng chúng ta lữ hành
nơi trần thế và đang đưa dẫn chúng ta đến với Đức Kitô và kết hợp chúng ta với
Người, Đức Bênêđitô XVI đã vui lòng tiếp nhận và nhân từ chuẩn y những thỉnh
nguyện rất chính đáng, được ghi thành văn từ nhiều nơi gởi đến. Những thỉnh
nguyện này vừa được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phê duyệt.
Bởi vậy, dựa theo những điều trình bày trên và chiếu theo
năng quyền được Đức Giáo Hoàng Phanxicô ủy thác, Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ luật
các Bí Tích hân hoan quyết định rằng, từ nay, tên thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức
Trinh Nữ Maria, sẽ được thêm vào các Kinh Nguyện Thánh Thể II, III và IV hiện
nay trong Sách Lễ Rôma, ấn bản mẫu thứ ba, sau tên của Đức Trinh Nữ Maria như
sau: trong Kinh Nguyện Thánh Thể II: “Cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ
Thiên Chúa, thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh Nữ, các thánh Tông đồ …”;
trong Kinh Nguyện Thánh Thể III: “nhất
là với Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa, thánh
Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh Nữ, các thánh Tông đồ …”; trong Kinh
Nguyện Thánh Thể IV: “cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh Nữ,
các thánh Tông đồ …”.
Đối với các bản văn đã được soạn thảo bằng La ngữ, phải
sử dụng những công thức giờ đây được công bố là công thức mẫu. Đối với các bản
dịch thuộc các ngôn ngữ tây phương phổ biến hơn, Bản Bộ sẽ cung cấp nay mai;
còn những bản dịch thuộc các ngôn ngữ khác sẽ do các Hội Đồng Giám mục biên
soạn theo quy tắc giáo luật và phải được Tòa Thánh phê duyệt qua Bản Bộ.
Bất chấp những gì trái ngược.
Ban hành tại Trụ sở Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật các Bí
Tích, ngày 01 tháng 05 năm 2013, lễ thánh Giuse thợ.
Hồng y
Antonius Cañizares Llovera,
Tổng Trưởng
+ Arthur Roche,
Tổng Giám Mục Thư Ký
I. Tên Thánh Giuse trong kinh cầu các thánh
Thành phố Bologna là địa điểm đầu tiên đưa tên Thánh
Giuse vào trong kinh cầu các thánh vào năm 1359. Vào thế kỷ XVI, Dòng Đaminh,
Carmel và nhiều Dòng khác đã ghi tên Thánh Giuse vào trong kinh cầu. Tuy nhiên,
sau việc canh tân của Công Đồng Trento dưới thời Đức Giáo Hoàng Piô V, tên
Thánh Giuse đã bị bỏ đi, do lỗi của nhà in hơn là do Sắc lệnh của cấp thẩm
quyền. Sau khi đón nhận vô số thỉnh cầu và theo lời khuyên của Hồng y
Lambertini (Giáo Hoàng
Benedicto XIV tương lai) vào
ngày 19/12/1726, Đức Giáo Hoàng Benedicto XIII đã thêm tên Thánh Giuse vào
trong kinh cầu, sau tên Đức Maria, các thiên thần và Thánh Gioan Tiền Hô, nhưng
trước tất cả các vị thánh khác.
II. NHỮNG VIỆC ĐẠO ĐỨC DÂN GIAN
Chúng tôi chỉ giới hạn vào một vài hình thức quen thuộc
đối với giáo dân Việt Nam và bỏ qua những tập tục chỉ lưu hành ở vài nước châu
Âu.
A. Những kinh nguyện
1/. Kinh cầu Thánh Giuse
Bản kinh cầu Thánh Giuse lâu đời nhất là của cha Jerónimo
Gracián Dòng Carmel, xuất bản ở Roma năm 1597 bằng tiếng Italia và Tây Ban Nha.
Có thể ngài đã lấy từ quyển sách nhỏ về bảy sự buồn cùng bảy sự vui của Thánh
Giuse do Hiệp hội các thợ mộc in ở Perugia. Tuy nhiên, dường như ngài đã thêm
vào nhiều lời cầu, và ấn bản tiếng Tây Ban Nha có 49 lời cầu trong khi bản
tiếng Italia chỉ có 21 lời.
Trong thời gian này, nhiều kinh cầu của các thánh khác đã
xuất hiện. Một vài bản kinh chứa đựng những lời cầu sai lầm về thần học; vì
thế, năm 1601 dưới thời Đức Giáo Hoàng Clemente VIII, Tòa Thánh đã ra sắc lệnh
tất cả các kinh cầu, ngoại trừ những kinh cầu đã được chấp thuận
(đó là kinh cầu Các Thánh và kinh cầu Đức Bà Loreto) phải đệ trình để được duyệt y trước
khi cho sử dụng công khai. Các hàng giáo phẩm tại Italia và Tây Ban Nha giải
thích và áp dụng Sắc lệnh này cách chặt chẽ, nên không sử dụng kinh cầu Thánh
Giuse trong hai nước này. Tại các nước khác ở Âu châu, hàng giáo phẩm giải
thích rằng, Sắc lệnh chỉ áp dụng cho các kinh cầu được đọc nơi công cộng chứ
không áp dụng cho việc sử dụng riêng tư. Có hơn ba mươi phiên bản kinh cầu khác
nhau, những bản kinh cầu ảnh hưởng nhất là của: chị María de San José Dòng
Carmel (1548-1603), người bạn thân của Thánh Terexa Avila và cha Gracián; Thánh
Francois de Sales trong lá thư gửi cho thánh nữ Gioanna Chantal năm
1614,.v.v... Trong những kinh cầu đa dạng, một vài lời cầu ca ngợi Thánh Giuse,
nhìn nhận vai trò của Người trong thời thơ ấu của Chúa Kitô, sự hiệp nhất của
Người với Đức Maria và những đặc ân của Người như là người chủ của Thánh Gia.
Một vài kinh tóm tắt đời sống và sự ưu việt của Người, trong khi những kinh
khác liệt kê những ân huệ chính với ước vọng sẽ đạt được nhờ lời chuyển cầu của
Người. Một vài kinh chứa đựng những ý kiến đạo đức cá nhân chưa được Hội Thánh
tuyên bố, ví dụ như sự thánh hóa của Người trong lòng mẹ và thân xác Người được
đưa về trời, nhưng những điều này không bị Hội Thánh phản đối bởi vì nó phản
ánh những ý tưởng thần học của thời đại.
Vào đầu thế kỷ XX, nhiều Giám mục tại châu Âu và châu Mỹ
xin Tòa Thánh phê chuẩn kinh cầu để được đọc công khai. Sau nhiêu lần thỉnh
nguyện bị từ chối, sau cùng Tổng Viện phụ Dòng Trappe, cha Sébastien Wyart (+
1904) đã soạn một kinh cầu để xin phê chuẩn. Tuy nhiên theo nhiều học giả, công
thức của kinh cầu được Đức Giáo Hoàng Piô X châu phê ngày 18/3/1909 và được lưu
hành hiện nay là của Đức Hồng y A.M. Lépicier.
Kinh cầu Thánh Giuse dựa theo khung sườn của kinh cầu Đức
Bà, với bố cục như sau:
Sau phần dẫn nhập (kêu cầu Chúa Ba Ngôi, và Đức Mẹ),
là lời khẩn nài Thánh Giuse kèm theo “25 danh hiệu”. Có thể
phân chia ra thành 6 nhóm:
- a) Sự Thánh Thiện (số 1);
- b) Nguồn gốc: dòng dõi vua David, và miêu duệ các tổ
phụ (số 2-3);
- c) Các chức vụ được ủy thác đối với Đức Maria (số 4-5)
và với Đức Giêsu (số 6-8);
- d) Các nhân đức nội tâm, gồm 6 nhân đức: công chính,
khiết tịnh, khôn ngoan, mạnh bạo, vâng lời, trung thành (số 9-14);
- e) Các nhân đức trong tương quan với tha nhân: nhẫn
nại, thanh bần, cần cù lao động, mẫu gương cho các gia trưởng (số 15-18);
- f) Bảo trợ: những người trinh khiết (số 19), các gia
đình (số 20), những người túng quẫn (số 21), những người ốm đau và lâm tử (số
22-23), chống cự ma quỷ (số 24), bổn mạng Hội Thánh (số 25).
2/. Suy gẫm “bảy sự buồn” cùng “bảy sự vui” Thánh Giuse
Năm 1536, cha Giovanni da Fano (+ 1539), một tu sĩ Dòng
Capuchino người Italia, đã phổ biến một việc đạo đức gọi là “bảy
kinh Lạy Cha của Thánh Giuse” trong
một phụ lục của cuốn sách “De arte unione”. Cha nói
rằng, chính Thánh Giuse đã khuyến khích thói tục ấy, khi hiện ra để cứu hai tu
sĩ bị đắm tàu ở Flandre. Kinh này họa theo việc suy gẫm bảy sự đau đớn Đức Mẹ
do các tu sĩ Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ phổ biến.
Công thức hiện tại
được gán cho chân phúc Gennaro Sarnelli (+ 1744). Vào ngày 9/12/1819, Đức Giáo
Hoàng Piô VII ban ân xá cho việc đạo đức này. Ngoài ra, ngày 22/1/1836, Đức
Giáo Hoàng Gregorio XVI cũng ban thêm ân xá cho việc thực hành “Bảy
ngày Chúa Nhật kính nhớ bảy sự buồn cùng bảy sự vui của Thánh Giuse”.
Bảy sự vui buồn Thánh Giuse suy gẫm những biến cố vui
buồn của Thánh Giuse, dựa theo những trình thuật Tin Mừng thơ ấu của Thánh Matthew
và Thánh Luca, đó là:
- Thứ nhất, Đức Mẹ mang thai Đức Giêsu, gây ra nhiều băn
khoăn cho Thánh Giuse, nhưng sau đó được thiên thần giải thích.
- Thứ hai, khi chứng kiến cảnh khó nghèo của Đức Giêsu
khi sinh ra tại Bethlehem.
- Thứ ba, khi làm phép cắt bì cho Đức Giêsu.
- Thứ tư, khi cụ Simeon tiên báo những đau khổ của Đức
Giêsu.
- Thứ năm, khi trốn qua Ai Cập.
- Thứ sáu, khi trở về Nazareth.
- Thứ bảy, khi lạc mất và tìm lại Đức Giêsu trong đền
thờ.
Sau mỗi cảnh suy niệm, đọc một kinh Lạy Cha và Kính Mừng,
có thể thêm kinh Sáng Danh.
B. Những thời điểm dâng kính Thánh Giuse
Ngoài những lễ phụng vụ, những kinh đọc, truyền thống dân
gian còn dành vài thời điểm kính ngài, đó là: ngày thứ Tư hàng tuần và tháng Ba
dương lịch.
1/. Thứ tư hàng tuần
Tục lệ Kitô giáo dành ngày thứ Sáu để kính nhớ cuộc Tử
nạn của Chúa, ngày thứ Bảy kính Đức Mẹ, và ngày thứ Tư kính Thánh Giuse. Năm
1876, các sư huynh giáo dục Dòng Mariste được phép tưởng nhớ Thánh Giuse mỗi
ngày thứ Tư trong kinh Tiểu nhật khóa kính Đức Mẹ. Năm 1883, Sách Lễ Roma và
Sách Nguyện đã xếp Thánh lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse vào ngày thứ Tư.
Dưới khía cạnh lịch sử, các học giả không thấy một mối
liên hệ nào giữa ngày thứ Tư với Thánh Giuse. Vào những thế kỷ đầu tiên của
Kitô giáo, các tín hữu ăn chay mỗi tuần hai ngày (thứ
Tư và thứ Sáu), khác với người Do Thái cũng ăn chay mỗi tuần hai
ngày, nhưng là vào thứ Hai và thứ Năm. Theo sự giải thích của vài Giáo phụ,
ngày thứ Sáu tưởng niệm Đức Giêsu chịu chết trên thập giá, còn ngày thứ Tư
tưởng nhớ ngày Chúa bị Judas phản bội. Không rõ từ hồi nào người ta dành thứ Tư
để kính Thánh Giuse và vì lý do gì. Tuy vậy, cũng có người bóp trán để giải
thích thế này. Ngày thứ Tư là ngày ở giữa tuần lễ, với nhịp độ làm việc cao,
khác với nhịp độ uể oải hay cầm chừng của đầu tuần hay cuối tuần. Như vậy đáng
để dành cho Thánh Giuse, gương mẫu của sự cần cù làm việc.
2/. Tháng ba dương lịch: tháng Thánh Giuse
Lễ Thánh Giuse được mừng vào ngày 19/3 dần dần đưa đến sự
phát triển nhiều việc đạo đức kính Thánh Nhân.
a) Trước tiên là tập tục chuẩn bị ngày lễ với một tuần
cửu nhật
Như đã nói, sự phát triển lòng đạo đức kính Thánh Giuse
đã tập trung vào ngày lễ chính của Người 19/3. Việc cử hành được nối dài với
tuần bát nhật và được chuẩn bị bởi tuần chín ngày. Ngày 4/3/1713, Đức Giáo
Hoàng Clemente XI ban ân xá cho những người tham dự tuần cửu nhật được tổ chức
tại nhà thờ Thánh Inhaxio tại Roma.
b) Kế đó người ta kéo dài việc tôn kính Thánh Giuse ra
suốt tháng Ba dương lịch
Năm 1802, giáo xứ Thánh Augustino tại Modena (Italia) in một quyển sách nhỏ với tựa đề:“Tháng hoa huệ, tháng ba dâng hiến
Thánh Giuse” (Il mese del Giglio, ossia il mese consacrato a Giuseppe).
Kể từ đó, nhiều sách tương tự được xuất bản tại nhiều nơi, nổi tiếng nhất là
tác phẩm của Giuseppe Marconi xuất bản tại Roma năm 1810 (Il mese di marzo consacrato al
glorioso patriarca San Giuseppe) và
được dịch ra nhiều ngôn ngữ.
Ngày 27/4/1865, Đức Giáo Hoàng Piô IX ban ân xá cho những
ai làm viêc đạo đức trong một tháng để kính Thánh Giuse. Sắc lệnh của Đức Giáo
Hoàng Piô IX ngày 4/2/1877 cho phép tính tháng Thánh Giuse từ ngày 16/2 đến
ngày 19/3. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII trong Thông điệp Quamquam Pluries năm 1889 đã khuyên nhủ thực hành chung
việc đạo đức hằng ngày trong tháng Ba để tôn kính Thánh Giuse.
c) Ngày lễ được mừng vào ngày 19/3 đưa tới một tập tục
khác là kính nhớ Thánh Giuse vào ngày
19 mỗi tháng.
Năm 1884, Tòa Thánh phê chuẩn thói quen lâu đời của Giáo
phận La Paz (Bolivia) đọc kinh nguyện và cử hành thánh lễ
ngoại lịch vào ngày 19 của mỗi tháng khi không bị ngăn trở. Những đặc ân tương
tự cũng được ban cấp cho nhiều chỗ khác, tựa như nhà nguyện của đại học
Guatemala và một đan viện Carmel bên Tây Ban Nha.
***
THAY LỜI KẾT
Trong bài viết này, chúng tôi đã trình bày một đường
hướng thần học về Thánh Giuse dựa theo Tông huấn Redemptoris Custos của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Dĩ
nhiên là còn rất nhiều thiếu sót.
- Thứ nhất, cần phải đọc Tông huấn này trong toàn bộ tư
tưởng của Đức Thánh Cha, mà tựa đề đã gợi lên xoay quanh “Đấng
Cứu Chuộc”: “Redemptor
hominis”, “Redemptoris mater”, “Redemptoris missio”.
- Thứ hai, cần phải bổ túc với những văn kiện khác của
ngài nhắc đến Thánh Giuse, đặc biệt về gia đình (Familiaris
consortio), về lao động (Laborem exercens), và các
bài giảng nhân lễ kính Thánh Giuse.
- Thứ ba, cần chấp nhận còn nhiều đường hướng khác nữa để
nghiên cứu về Thánh Giuse. Tông
thư Redemptoris custos muốn
nêu bật mối tương quan của Người với Đức Kitô (Mầu nhiệm cứu chuộc), Đức
Maria, Hội Thánh. Vai trò của Chúa Thánh Linh chỉ mới phớt qua. Thánh Linh
không chỉ tác động nơi Đức Maria trong việc Ngôi Lời thụ thai, nhưng chắc hẳn
là cả nơi Thánh Giuse, qua việc nâng đỡ đức tin cho Người để đón nhận ý Chúa
(số 3-4), qua việc tăng cường lòng nhiệt thành hy sinh phục vụ Đức Kitô (số 8),
qua việc thánh hiến tình yêu với Đức Maria (số 18-19).
Bài viết này chỉ là một thứ nhập đề vào việc nghiên cứu
thần học về Thánh Giuse, chứ chưa thể kết thúc. Trước khi kết thúc, chúng tôi
xin giới thiệu vài địa chỉ internet, để những người muốn tìm hiểu có thêm nguồn
tài liệu:
A. Thư tịch tổng quát Internet
- Johannes Stoehr, Josefsbibliographie: http://www.teol.de/BIB-JOS.htm
B. Những tạp chí nghiên cứu về Thánh
Giuse
- Estudios Josefinos, Valladolid, Tây Ban Nha. Xuất bản từ năm 1947, do sáng
kiến của cha J.A. Carrasco OCD. Indices 1977-2000 in n.108, vol. 54 (2000).
- Cahiers de Joséphologie, Montréal, Canada, từ năm 1953.
C. Những hội nghị và hội thảo quốc tế
về Thánh Giuse
1/. Những hội nghị
- AA. VV., Die Bedeutung des hl. Josef in der
Heilsgeschichte.Akten des IX. internationalen Symposions
ber den hl. Josef, 2 Bde., Kevelaer 2006.
- AA. VV., San José en el siglo XIX. Actas del
sexto Simposio Internacional, in:
Estudios Josefinos 39 (1995); Cahiers de Joséphologie 53 (1995) .
- AA. VV., San José en el siglo XVIII. Actas del
quinto Simposio Internacional, in:
Estudios Josefinos 45 (1991); Cahiers de Joséphologie (1991) 39.
- AA. VV., Presencia de San José en el siglo
XVII. Actas del quarto Simposio Internacional (Kalisz, 22-29 septiembre 1985), Valladolid 1987; Estudios Josefinos 51 (1987) n. 81-82;
Cahiers de Joséphologie (1987) vol. 35.
- AA. VV., San Giuseppe nel Seicento. Atti del terzo
Simposio Internazionale su San Giuseppe, Libreria
Editrice Murialdo, Roma 1981.
- AA. VV., San José en el Renacimiento. Actas
del segundo Simposio Internacional, Toledo
1977, 882 pp.
- AA. VV., San Giuseppe nei primi quindici secoli
della Chiesa. Atti del Primo Simposio Internazionale, Roma 1971, 838 pp. = Estudios Josefinos 25 (1971).
2/. Những hội thảo
- AA. VV., La Sagrada Familia en el siglo XVIII. Actas del Tercer Congreso Internacional sobre la Sagrada
Familia (Barcelona, 6-10. 9. 1996), Barcelona 1997.
- AA. VV., Actas del Segundo Congreso sobre la
Sagrada Familia, Barcelona-Roma 1995.
- AA. VV., Actas del Primer Congreso sobre la
Sagrada Familia, Barcelona-Roma 1993.
- AA. VV., La Sagrada Familia en los primeros
XVI siglos de la iglesia, Actas del Congreso, Barcelona 1992.
D. Những trung tâm phổ biến những
nghiên cứu về Thánh Giuse: tài liệu thần học, bài giảng, kinh nguyện, hình ảnh.
1/. Tiếng Pháp:
- Site international de chercheurs
josephains pluridisciplinaires: http://www.josephologie.info/
- Oratoire Saint Joseph du Mont-Royal: http://www.saint‑joseph.org/
- Famille Saint Joseph: http://www.saint‑joseph.fr/
2/. Tiếng Anh:
- Oblates of Saint Joseph in California: http://www.osjoseph.org (St Joseph in Scripture, Liturgy, Apocrypha, Magisterium,
Church Fathers, Art)
3/. Tiếng Italia:
- Centro Studi San Giuseppe (Giuseppini del Murialdo): http://www.murialdo.org/sangiuseppe/centro.htm
- Movimento Giuseppino: http://www.osjcuria.org/movgiuseppino/
4/. Tiếng Tây Ban Nha:
- Centro Josefino Espanol (OCD, Valladolid): http://www.centrojosefino.org
- Movimiento de Vida Cristiana,
Medellín (Colombia): http://www.redemptoriscustos.org
- Centro Josefino de Centro America (Salvador): http://www.centroiph.org/
5/. Tiếng Việt:
- Thánh Giuse quan thầy Giáo Hội Việt
Nam (Lm Nguyễn
Phúc Kim): http://hivong.org/giusequanthayvn.php
***
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- AA.VV. Custodio del Redentor. Comentario a
la exhortación apostolica “Redemptoris Custos”, in: Estudios Josefinos 44(1990) n. 87-88, pp. 3-266.
- Doublier-Villette Christian Michel, Joséphologie. Etat de la question, Mémoire de Maitrise d’Archéologie, Lyon 2004.
- Griffin Michael, St Joseph: a Theological Introduction, in: Cahiers de Joséphologie 1972, p. 219-251.
- Stramare Tarcisio, San Giuseppe nella storia della
salvezza, LDC, Torino 1993.
- Stramare Tarcisio, Gesù lo chiamò Padre. Rassegna
storico-dottrinale su san Giuseppe, LEV,
Città del Vatican 1997.
- Stramare Tarcisio, Vangelo dei Misteri della Vita Nascosta
di Gesù, Sardini, Bornato in Franciacorta 1998.
- Stramare Tarcisio, San Giuseppe. Il custode del
redentore nella vita di Cristo e della Chiesa, Temi di Predicazione n. 98, Napoli 2006.
- Toschi Larry M., Joseph in the New Testament, Guardian of the Redeemer Book, Santa Cruz 1991.
- Toschi Larry M., St Joseph in Liturgy. Liturgical and
paraliturgical recognition of Saint Joseph,
in: http://www.osjoseph.org/stjoseph/liturgy/index.php
[1] Thí dụ: A. Michel, art.
[2] Larry M. Toschi, Joseph
in the New Testament, Guardian
of the Redeemer Book,
[3] Trong Tân Ước, còn có ba nhân vặt mang tên Giuse: Giuse
Arimatea, một người môn đệ đã hiến ngôi mộ để chôn Thầy (Mt 27,57-60); Giuse
Barsabba, một người được đề cử cùng với Matthia giữ chức vụ tông đồ thế chỗ
Judas (Cv 1,23); Giuse
Barnabea (Cv 4,56).
Ngoài ra, trong hàng thân thích của Chúa Giêsu, có một người tên là Giuse (Mt 13,55), và gia phả của
Luca liệt kê hai người trong hàng tổ tiên (Lc
3,25.30).
[4] Xc. Sách
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 517; 1115.
[5] Nên lưu ý lời của thiên sứ nói với ông Giuse: “những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết
rồi” (Mt 2,20). Chủ từ ở số nhiều.
[6] Trái lại, Cựu Ước nhiều lần đề cập đến giấc mơ như là
phương thế Thiên Chúa mặc khải, chẳng hạn trong trường hợp của ông Abraham (St 15,12-13), Jacob (St 28,12-13; 31,10-18; 46,2-4),
Giuse (St 37,5-11),
Samuel (1 Sm 3,1-14),
Nathan (2 Sm 7,4-17),
Salomon (1V 3,5), Đaniel (Đn 2,18-23).
[7] Trong Cựu Ước, thuật ngữ “Sứ thần Chúa” (sứ giả của Thiên
Chúa, hoặc sứ giả của Giavê) đôi
khi ám chỉ chính Thiên Chúa (xc.
St 22,15-16). Vai trò chính yếu là thông báo một sứ điệp của Thiên Chúa.
[8] Ngoài ra, việc xen vào tên của 5 phụ nữ vào bản gia phả (Tamar, Racab, Rut, Betsabea,
Maria) cũng là đề tài cho
nhiều cuộc tranh cãi.
[9] Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng số 14 là nhân đôi con
số 7, ám chỉ tuần lễ. Từ ông Abraham đến Đức Giêsu có 6 tuần (3 x 14), chuẩn bị cho cuộc
giáng sinh của Chúa Giêsu khai trương tuần lễ thứ bảy (Ảnh hưởng của sách Henoch,
91,15-17; 93,3-5).
[10] Xc. Bộ
Giáo Luật 1983, điều 1062.
[11] I. de La Potterie, Maria
nel mistero dell?alleanza, Marietti Torino, pp. 65-92.
[12] Thánh Irénee đã giải thích ý nghĩa biểu trưng của ba lễ
phẩm: “mộc dược” tiên báo Đức Giêsu sẽ chết để cứu
chuộc loài người; “vàng” tiên báo Hài nhi sẽ là vua của muôn
dân; “nhũ hương” dâng tiến Chúa tể trời đất (xc. Adv. Haereses III,9,2).
Từ thế kỷ XI, ba nhà chiêm tinh(hay đạo sĩ) được gọi là “ba vua” có lẽ vì được móc nối với Thánh Vịnh
72,10 (“Từ Thác-si và hải đảo
xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Arap,
[13] Có người cho là sao chổi (Halley), sao mới (nova), chòm sao; có người giải
thích là một điềm sao (mà các
nhà chiêm tinh nhận ra). Có người cho rằng, “sao” ám chỉ nhà David, dòng dõi Judas (xc. Ds 24,17). Có người cho
rằng sao ám chỉ ánh sáng đức tin.
[14] Nên biết là 5 mầu nhiệm mùa Vui của kinh Mân Côi đều dựa
theo Tin Mừng Luca: truyền tin (1,26-38),
thăm viếng (1,39-56),
giáng sinh (2,1-20),
dâng con trong đền thờ (2,22-39),
lạc mất con trong đền thờ (2,41-51).
[15] Có người nhận xét rằng, thay vì trưng dẫn các đoạn văn
Cựu Ước như Matthew, Thánh Luca nêu bật tác động của Chúa Thánh Thần: Lc
1,15.35.41.67; 2,25-27.
[16] Có nhiều điểm tương đồng giữa cuộc đời của Samuel với câu
chuyện của Thánh Gioan Tiền Hô và Chúa Giêsu. Bà Anna và bà
[17] Eusebio Cesarea , Historia
Ecclesiastica lib.I,
cap.VII.
[18] Theo Luca, thiên sứ đến truyền tin cho Đức Maria trước khi bà thụ thai. Theo Matthew, thiên
sứ hiện ra với ông Giuse sau khi Đức Maria đã có thai.
[19] Có Giáo phụ (như
Origène) không chỉ giải thích
việc cắt bì như là dấu hiệu được kết nạp vào dân giao ước (xc. St 17,12; Lv 12,3),
nhưng còn như tiên báo việc hiến tế trong tương lai(đổ máu xá tội: Xh
4,24-26).
[20] xc. 7,43-44: “Đức
Kitô mà lại xuất thân từ
[21] Thánh Phaolô đã nói cách tổng quát: “Tôi đã truyền lại cho anh em điều
mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh,
rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã chỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3-4).
[22] Ông được nhắc đến gần 200 lần trong Cựu Ước và 8 lần
trong Tân Ước.
[23] Trong nguyên gốc Hippri, “Yôsep” viết tắt của “Yehôsep” ghép bởi hai từ “Yhw” (Yahweh)và “ysp”: nguyện xin Thiên Chúa
tăng thêm (xc. St 30,23-24;
49,22-26).
[24] Xc. Đức Giáo Hoàng Leo XIII, Thông điệp Quamquam Pluries, 15/8/1889, in: Leonis XIII Pontificis
Maximi Acta, vol. IX, Romae 1890, p. 179-180.
[25] Homilia II Super
missus est, PL 183, 69-70.
[26]
[27] Theo sách Talmud, bà Maria có con với chàng “Pandera”, một tên lính Roma.
Có lẽ người ta muốn chế nhạo, bằng cách cắt nghĩa tính từ Hy Lạp “parthenos” (đồng trinh) là tên riêng của một người đàn ông:
không phải là sinh bởi mẹ “đồng
trinh” nhưng là bởi “Pandera”. Chưa hết, khi lớn
lên, chàng Giêsu sang Ai Cập để học nghề phù thủy. Đó là nguồn gốc các “phép lạ” sau này.
[28] In Mattheum 10,17: PG 13, 876-877.
[29] Historia Ecclesiastica: PG 20, 217.269-271.
[30] Xem ra tác giả mẫu thuẫn: bởi vì một đàng ông Giuse lấy
bà Maria làm vợ (VIII, 3),
cho nên chuyện có thai phải kể là thường tình; tuy nhiên đàng khác, khi thượng
tế trao Maria cho Giuse, thì ông được dặn dò là bà Maria được giao cho ông
trông nom mà thôi (IX 3;
XV,1-4).
[31] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, III, q.28, a.3, ad. 5m.
[32] Thí dụ Clemente Alexandria (+216) chấp nhận những người “anh em” của Chúa Giêsu là con cùng cha khác mẹ
với Người (Hypotyposeis,
fragm. 24). Thánh Pacomio (+
k. 346) cũng theo ý kiến
này. [8]
[9]
[10]
[11]
[12]
[13]
[14]
[33] G.M. Bertrand et G. Ponton, Textes patristiques sur S. Joseph,
in: Cahiers de Joséphologie 3 (1955) - 10 (1962. J. T. Lienhard, S.J.,
[34] Adv. Haereses IV,23.
[35] Hom. XIII in Lucam: PG 13, 1832.
[36] Commento al Diatesseron, I, 26.
[37] De institutione virginis, 6, 41: PL 16, 316.
[38] Exp. Ev. Luc 2,: PL 5, 55.
[39] In Matthaeum, 5,3: PG 57, 57-58.
[40] In evang. Matt., II,12,49-50: PL
26,88.
[41] Adversus Helvidium, 19: PL 23,213.
[42] Bối cảnh là những cuộc tranh luận với nhóm Pelagio và
nhóm Manikhe. Xc. T. Stamare,San Giuseppe nel pensiero di Sant’Agostino.
L’unione coniugale, in: Temi di Predicazione n. 98 (2006) p. 127-130.
[43] Contra Faustum 23,8: PL 42,470: cf. Contra Iulianum, 5,12: PL
44,810.
[44] De nuptiis et concupiscentia 1,11,13: PL 44,421.
[45] Sermo 146: PL 52,592.
[46] Sermo 175: PL 52,657-658.
[47] Sermo 53: PL 57,639.
[48] Nhiều nhà sử học nhận xét rằng những bức tranh cổ thời vẽ
Thánh Giuse như một thanh niên trẻ trung. Nhưng từ thế kỷ IV, Thánh Giuse xuất
hiện như một cụ già. Tại sao có sự thay đổi như vậy? Có lẽ vì vào thời ấy nổi
lên nhiều nhóm lạc giáo chống lại đạo lý về sự trinh khiết của Đức Maria. Nhằm
bảo vệ đạo lý đức tin, người ta vẽ Thánh Giuse già đi để tránh dị nghị và cũng
để giải thích vấn nạn liên quan đến các?anh em của Chúa Giêsu?
[49] Homilia 4: PL 131,889.
[50] Homilia II super Missus est: PL 183,69s
[51] E.P. Dunne, Albert
the Great?s Theology of
[52] Joachim Joseph Berthier, trong bài tựa khi tái bản quyển Summa de Donis Sancti Iosephở
Roma năm 1887, p.v-vii.
[53] Ngoài Summa
Theologica (III, qq.
28-29 và 35-37), Thánh Giuse được đề cập ở In IV Sententiarum, d. 30, Catena Aurea, Lectura super
Evangelium S. Matthaei. Ai muốn nghiên cứu thêm vấn đề có thể tham khảo:
J.J. Davis, A Thomistic
Josephology, in: Cahiers de Joséphologie 9 (1961) 167-197; 10 (1962)
59-114.251-285; 11 (1963) 25-42.211-232; 12 (1964) 73-94.253-267; 13 (1965)
87-120.273-303; 14 (1966) 315-351.
[54] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, III, qq. 28-29.
[55] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, III, q. 29, a. 2; IV Sent., dist. 30, q.2, a.2.
[56] Ad Galatas, c. 1. lect. 5;
[57] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, III, q. 28, a. 4.
[58] M. García Miralles, Doctrina
josefina en S. Vicente Ferrer, in: San Giuseppe nei primi quindici secoli
della Chiesa, Roma 1971, p. 396-406. T.M. Sparks, St Antoninus of Florence on Saint
Joseph, in: op.cit. p. 429-455.
[59] De servorum Dei beatificatione, Lib. XIV, Pars II,
cap. XX, n. 17: Inter eos autem qui scriptis maximopere laboraunt pro
amplificatione cultus S. Ioseph, omitti nullo modo possunt Ioannes Gerson,
Cancellarius Parisiensis, qui obiit anno 1429, et Isidorus de Isolanis,
theologus Ordinis Praedicatorum, in Summa
de Donis Sancti Ioseph, Hadriano VI Summo Pontifici dicata: quos alii
deinde subsecuti sunt
[60] P. Glorieux,
[61] Đương thời với cha Gerson, Hồng y Pierre d’Ailly (+1420)
cũng viết một tác phẩm tựa đềTractatus de duodecim honoribus Sancti Joseph.
[62] L.A. Redigonda, La
Summa de donis Sancti Joseph di Isidoro Isolani, in: Cahiers de Josephologie
25 (1977) 203-221. Xem thêm G.M. Bertrand, La
Summa de donis Sancti Joseph d?Isidore de Isolanis, o.p., in: Cahiers de
Joséphologie 8 (1960) 219-249.
[63] Virtutes vero signantur congruenter et quam ordinatissime
in litteris nominis IOSEPH. Iustitia quidem in Davi, qui etiam prius ponitur,
ut mysterium mysterio copuletur. Obedientia in Abraham, Sapientia in Salomone,
Experientia exilii in Iechonia, Patientia in Zorobabel, Humilitas in ultimis
patribus, qui infimae fuerunt conditionis (I pars, cap.5).
[64] Vào thế kỷ XVII, đang khi các trường phái thần học còn
tranh luận về đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria, thì cha Isolani đã mở
một mặt trận mới, nghĩa là bênh vực luôn cả đặc ân vô nhiễm nguyên tội cho
Thánh Giuse nữa.
[65] Bonifacio Llamera O.P., Teologia
de
[66] Avila (1562), Medina del Campo (1567), Malagón (1568),
Toledo (1569), Salamanca (1570), Segovia (1574), Beas de Segura (1575), Sevilla
(1576), Caravaca (1576), Palencia (1580), Burgos (1582).
[67] B. Burkey, Pontificia
Josephina. Documents of the Holy See concerning
[68] Các nghị phụ đã trình hai thỉnh nguyện (postulatum), một mang chữ ký
của 153 giám mục, một mang chữ ký của 43 Bề Trên Tổng Quyền Dòng tu. Cũng nên
biết là cha Marie Jean Joseph Lataste O.P. (1832-1869), -vị sáng lập Dòng các
nữ tu Béthanie chuyên về mục vụ các thiếu nữ lạc đường-, đã tình nguyện hiến
dâng mạng sống để xin đức Giáo Hoàng Piô IX tôn phong Thánh Giuse làm quan thầy
Hội Thánh. Lúc ấy, Bề Trên Tổng Quyền của Dòng là cha A.J. Jandel. Cha có ký
thỉnh nguyện lên công đồng cùng với các nghị phụ, nhưng không biết đến sáng kiến
của cha Lataste. Mãi sau này cha Jandel mới được Đức Thánh Cha thông tri. T. M.
Sparks, Devotion to
[69] Trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, chúng ta gặp thấy
nhiều nhân vật mang tên Giuse: tổ phụ Giuse trong Cựu Ước (số 312), ông Giuse
người anh em họ với Chúa Giêsu (số 500), ông Giuse Aritmatêa (số 595). Thánh
Giuse được nói đến trong phần Một, về mầu nhiệm Nhập thể: khi nói đến danh tánh
Giêsu (437; 1846); trong cảnh thiên sứ truyền tin cho Đức Maria (số 488) và cho
Thánh Giuse (số 497; khi nói về cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu (số 534; 564),
cảnh tìm lại trong đền thờ (534). Thánh Giuse cũng được nhắc đến như bằng chứng
của việc Chúa Giêsu tuân giữ luật Môsê. Trong phần II, khi nói đến bí tích hôn
nhân, mẫu gương thánh gia được đề cao như Giáo Hội gia thất (số 1655).. Sách
Giáo lý nhắc đến lễ Thánh Giuse được kể vào số các lễ buộc (số 2177).
[70] Lưu ý: từ ngữ “Cứu độ” trong
tiếng Việt dùng để dịch hai từ ngữ khác nhau trong tiếng Latinh: 1/. Salvator (Pháp: Sauveur; Anh: Saviour); 2/. Redemptor (Pháp: Rédempteur; Anh: Redeemer). Từ thứ nhất (salvare) nói
lên sự “cứu” khỏi
cơn lâm nguy; từ thứ hai (redimere)gợi lên ý tưởng “chuộc” (mua lại).
[71] Redemptoris Custos: kẻ giữ gìn (hộ thủ) Đấng Cứu thế. Minister salutis: người thừa
tác (phục vụ) ơn cứu độ (xc. số 8). Diễn ngữ này đã
được Thánh Gioan Kim Khẩu sử dụng.
[72] Tarcisio Stramare, La
presenza di san Tommaso nell’esortazione apostolica Redemptoris Custos,
in: AA. VV. S. Tommaso
Teologo, Libreria ed. Vaticana 1995 (Studi Tomistici, vol.59), p. 310-319.
Fernando Soria Heredia, Presencia
de Santo Tomás en la Redemptoris Custos, in: Estudios Josefinos 44 (1990),
195-203.
[73] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, III, q. 29, a. 2.
[74] Devotio: II-II, q. 83, a. 3, ad 2m.
[75] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, III, q. 8, a. 1, ad 1m.
[76] Được Thánh Thomas đề cập ở Summa Theologica, II-II, q.
182, a.1, ad 3m.
[77] Hiến chế Lumen Gentium, Hiến chế Dei Verbum.
[78] Thông điệp Quamquam Pluries, Sắc lệnh
Quemadmodum Deus.
[79] của Đức Giáo Hoàng Piô XII (nota 26); Đức Giáo Hoàng
Gioan XXIII (nota 35);
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI (nota
16, 22, 36, 47).
[80] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng
chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 21.
[81] Xc. Ibid.,
số 8.
[82] Thực ra, trong tiếng Latin, người ta dùng nhiều từ ngữ: Sponsus, Coniux, Vir.
[83] Trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta gặp thấy nhiều lập
trường đối nghịch: 1/ Một bên phủ nhận sự trinh khiết của Đức Maria (ông Giuse
và bà Maria là hai vợ chồng giống như bao đôi vợ chồng khác). Chủ trương này đã
xuất hiện từ những thế kỷ đầu tiên, thí dụ các ông Cerinthius, Carpocrates,
nhóm Ebionist, ông Helvidius; họ phủ nhận Đức Maria đồng trinh. 2/ Ngược lại,
một lập trường cho rằng giá thú của ông Giuse và bà Maria chỉ có hình thức bên
ngoài để che mắt thiên hạ: hai người không có ý định nên vợ nên chồng (bởi vì Đức Maria đã khấn giữ
trinh khiết trọn đời). Đây là chủ trương của ông Giulianô mà Thánh Augustino
đã phải đương đầu (Contra
Iulianum), và của vài nhà thần học thời Trung cổ như Gratianus và Miguel
de Medina.
[84] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng
chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 2-3.7
[85] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Những bài huấn giáo về Đức Maria,
Tp. HCM 1999. Bài 26: “Chân
lý đức tin về sự trinh khiết của Đức Maria”.
[86] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, III pars, q. 29.
[87] Thánh Augustino sử dụng một diễn ngữ xem ra mâu thuẫn khi
diễn tả hôn nhân của Thánh Giuse, đó là “hôn
nhân trinh khiết” (virginale connubium) chứ
không chỉ nguyên “khiết tịnh”
(castum); xc. Contra
Iulianum, lib.3, n.2: PL 42,214.
[88] De nuptiis et concupiscentia, 1,11,13: được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
nhắc lại trongTông huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế),
Ngày 15-09-1989, số trích dẫn ở nota 14.
[89] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng
chăm sóc Chúa Cứu Thế), ngày 15-09-1989, số 7.
[90] Ibid., số 4.
[91] Ibid., số 3.
[92] Ibid., số 4; Thông điệp Redemptoris mater.
[93] Ibid., số 7.
[94] Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, Thông điệp Deus caritas est (Thiên
Chúa Là Tình Yêu), Ngày 25-12-2005, số 3-8.
[95] Tuy ngôn ngữ thông thường chỉ dành từ ngữ “đồng trinh” (hay “trinh khiết”) cho nữ giới, nhưng các Giáo phụ và nhà
thần học áp dụng cho cả nam giới nữa. Nên biết là đức “khiết trinh” (virginitas) không chỉ giới hạn vào phạm vi thể lý
mà thôi. Xc. Florent Raymond Bilodeau, The
Virginity of Saint Joseph in the Latin Fathers and Medieval Ecclesiastical
Writers, St. Mary’s University -
[96] Nên biết là cha Jean Gerson đã nêu vấn nạn như thế này:
nếu Thánh Giuse già lão như vậy thì làm sao đủ sức mà giúp đỡ thánh gia trong
bao nhiêu việc nặng nề, chẳng hạn trong suốt cuộc hành trình sang Ai Cập?
[97] Xc. Sách
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 499.
[98] Nhiều Giáo phụ bên Đông nghiêng theo lưu truyền về Thánh
Giuse goá vợ trước khi đính hôn với Đức Maria. Bên Tây Phương, thánh Hieronimo
bác bỏ ý kiến đó, và chủ trương Thánh Giuse trinh khiết.
[99] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, III, q. 28, a. 4.
[100] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng
chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 7: “Opus namque salutis Servator ex virginali hac et sacra
coniunctione incohavit, ubi omnipotens ipsius ostenditur voluntas
purificandae ac sanctifcandae familiae, quae et amoris sacrarium est et vitae
ipsius seminarium”; số 20: “Est
enim coniugium societas necessitudoque omnium maxima, quae natura sua adiunctam
habet bonorum unius cum altero communicationem. Quocirca si sponsum Virgini
Deus Iosephum dedit, dedit profecto non modo vitae socium, virginitatis testem,
tutorem honestatis, sed etiam excelsae dignitatis eius ipso coniugali foedere
participem”.; Trưng dẫn Thông
điệp Quamquam Pluries.
[101] Có tác giả dựa trên lời của Đức Maria thưa với sứ thần (Lc 1,34) như nền tảng của lời khấn trinh khiết (“Điều ấy xảy đến thế nào được,
bởi vì tôi không biết đến người đàn ông?”).
[102] xc. St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, II-II, q. 152, a. 4.
[103] Bài thứ 30, ngày 21/08/1996.
[104] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng
chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 7.
[105] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã quảng diễn đề tài này
trong Tông thư Mulieris
dignitatem (Phẩm giá phụ nữ), ban hành ngày 15/8/1988, nghĩa là một năm
trước Tông huấn Redemptoris
Custos.
[106] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, III, q. 27, a. 4, c.
[107] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologica, III, q. 27, a. 5, c.
[108] Đức Giáo Hoàng Piô IX, Sắc
lệnh Quemadmodum Deus, Ngày 8-12-1870.
[109] Được Tông
huấn Redemptoris Custos (Đấng chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989,
trưng dẫn một đoạn ở số 28.
[110] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng
chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 4, trưng dẫn Hiến chế về Mặc khải của Công Đồng Vatican II.
[111] Xc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos (Đấng
chăm sóc Chúa Cứu Thế), Ngày 15-09-1989, số 17.
[112] Ibid., số 4; 6; 21.
[113] Ibid., số 8; 19.
[114] Ibid., số 24.
[115] Ibid., số 25.
[116] Xc. Ibid.,
số 30.
[117] Ibid., số 31.
[118] Xc. Ibid.,
số 29.
[119] Ibid., số 21-22.
[120] Ibid., số 5; 26.
[121] Ibid., số 23.
[122] Ibid., số 25.
[123] Larry Toschi,
[124] Trong lịch phụng vụ hiện hành (sau Vatican II) các lễ được chia làm 3 cấp: lễ Trọng,
lễ Kính, lễ Nhớ. Trước đây, các lễ được chia làm nhiều cấp, tùy nơi tùy thời.
Nói chung, các bậc từ dưới lên trên như sau: “simplex”, “semiduplex”, “duplex minor”, “duplex maior”, “totum duplex”, v.v…
[125] Tại Âu châu, vài nhà thờ tự hào là lưu giữ các di tích
của Thánh Giuse.
[126] “Confessores”. Theo lịch sử, vào
những thế kỷ đầu tiên, phụng vụ kính các thánh “tử đạo” (martyres); sau đó
thêm “confessores” nghĩa là các tín hữu đã tuyên xưng đức
tin và bị giam cầm, nhưng không bị sát hại. Sau thời kỳ bắt đạo, hạn từ “confessores” áp dụng cho các thánh không tử đạo:
giám mục, tu sĩ, giáo dân.
[127] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptoris Custos,
chương VI.