Thánh Cả Giuse Và Những Khía Cạnh Tâm Hồn Ngài

LM. Jean Galot, SJ
Nguồn GP. Cần Thơ - (https://gpcantho.com/)

 

Nguyên tác của LM. Jean Galot, SJ

Bản dịch của Bonifaciô Maria, CMC

NS. Trái Tim Đức Mẹ

Xuất bản 1993

NIHIL OBSTAT

Rev. Anthony Trần Văn Kiệm, Cens. del.

National Pastoral Center for Vietnamese Apostolate

IMPRIMATUR

Most Rev. Francis B. Schulte

Archbishop of New Orleans, Louisiana

New Orleans, May 13, 1993

Mục Lục

Lời nói đầu.

Chương 1: Thân vị Thánh Cả Giuse.

Chương 2: Gặp gỡ Đức Maria.

Chương 3: Lễ Đính Hôn.

Chương 4: Chứng nhân của mầu nhiệm.

Chương 5: Tin báo cho Thánh Cả Giuse.

Chương 6: Lễ Thành Hôn.

Chương 7: Bạn đường Đức Nữ Trinh.

Chương 8: Chúa Cứu Thế giáng sinh.

Chương 9: Người Cha của Chúa Giêsu.

Chương 10: Gặp gỡ nhà tiên tri.

Chương 11: Tiến lễ đầu tiên.

Chương 12: Tin trong bóng tối.

Chương 13: Niềm đau lạc mất Chúa Giêsu.

Chương 14: Nhà giáo dục.

Chương 15: Môn đệ đầu tiên của Thầy.

Chương 16: Người lao công.

Chương 17: Nhà chiêm niệm.

Chương 18: Người công chính.

Chương 19: Người gia trưởng.

Chương 20: Người đầy tớ.

Chương 22: Người nghèo.

Chương 23: Một tâm hồn trong sạch.

Chương 24: Một tâm hồn đơn giản.

Chương 25: Một tinh thần khôn ngoan.

Chương 26: Một tình yêu trung tín.

Chương 27: Con người cậy trông.

Chương 28: Vị tông đồ ẩn khuất.

Chương 29: Thánh Cả Giuse qua đời.

Chương 30: Đấng cầu bầu.

Chương 31: Bổn mạng Hội Thánh.

 

Lời nói đầu

Ta không thể dựa vào một ít chỉ dẫn ngắn trong Phúc Âm để viết nên được hạnh tích Thánh Cả Giuse. Nhưng có phải vì thế mà bỏ, không nói đến Thánh Cả không? Ta lại không tin được là, từng sống đoàn tụ với Mẹ Maria và Chúa Giêsu, Thánh Cả cũng phải là một tâm hồn đặc biệt ư? Cho nên, nếu không lưu tâm đến Thánh Cả thì rất có thể là tai hại lớn.

Giải pháp duy nhất là ta hãy tìm cách khám phá tâm hồn Thánh Cả qua một ít chi tiết Phúc Âm kể lại, và trong tất cả những gì Phúc Âm cho phép ta suy diễn hợp lý được. Ở đây, chúng tôi không dựa vào óc sáng tác hay chạy theo những chuyện truyền ngôn như các nguỵ thư chẳng hạn. Chúng tôi chỉ chú ý noi theo văn bản Thánh Kinh, chú trọng tới những yếu tố xem ra chân xác, suy xét tất cả những gì bản văn đó chứa đựng, và bám sát những nguyên tắc thiết yếu của đời sống thiêng liêng, những định luật tiến hoá của ân sủng.

Do đó, trong loạt bài suy niệm về ít nhiều ngộ biến khác nhau của cuộc đời Thánh Cả Giuse, và về ít nhiều khía cạnh khác nhau của tâm hồn Thánh Cả, chúng tôi hy vọng làm sáng tỏ vai trò mà Thánh Cả đã và sẽ còn phải đóng trong mầu nhiệm cứu rỗi, cũng như ý nghĩa sự hoàn thiện của Thánh Cả đối với đời sống Kitô hữu chúng ta và ơn phù trợ mà chúng ta có thể đợi chờ Thánh Cả ban xuống.

Nhìn Thánh Cả Giuse như Ngài là, và y như Ngài đối với chúng ta, đó là đối tượng của tập sách này, một tập sách cũng muốn được thận trọng và đơn bạch như chân dung của vị Thánh mà nó cố gắng vẽ lại.

Trở lên là những lời Cha Jean Galot, một nhà thần học nổi tiếng hiện tại, giới thiệu tập sách về Thánh Cả Giuse của ngài mà đây là bản dịch. Người dịch xin được đưa ra một nhận xét là Cha Jean Galot nói rõ, ngài chỉ dựa vào “một ít chi tiết Phúc Âm kể lại”, để “suy niệm về ít nhiều ngộ biến của cuộc đời Thánh Cả Giuse”, cho nên ta sẽ thấy vắng thiếu một vài chi tiết Phúc Âm có nói tới Thánh Cả, chẳng hạn việc Thánh Cả đem Chúa Giêsu và Mẹ Người sang Ai Cập, và việc từ đó trở về Nazaret (Mt 2,13-15; 19-23). Bù vào đó, tác giả đã suy niệm về ít nhiều “khía cạnh tâm hồn” của Thánh Cả. Coi như chính việc suy niệm này mới là chủ đề tập sách của Ngài. Độc giả hẳn cũng sẽ nhận thấy như vậy.

Và đó cũng chính là lý do thúc đẩy chúng tôi phiên dịch tập sách này. Quả thật, theo chúng tôi, đây là tập sách hay nhất về Thánh Cả Giuse mà chúng tôi đã có may mắn được đọc. Khác hẳn với một số sách khác chỉ có tính cách hời hợt, hoặc quá chú trọng về thế giá ngoại chứng, sách của Cha Galot đây đặc biệt lưu tâm đến suy niệm, căn cứ vào những nền tảng rất vững chắc của Thánh Kinh, đúng như Ngài đã nói ở trên. Chúng tôi nghĩ nếu đem những bài suy niệm ấy cống hiến anh em đồng bào, cũng là một việc hữu ích, nên mới không ngại chuyển nó sang tiếng mẹ.

Xin dâng bản dịch thô thiển này lên Thánh Cả Giuse, và xin Thánh Cả chúc lành cho tất cả những ai đọc nó, cũng như cho tâm hồn hèn mọn của NGƯỜI DỊCH

08.09.1982

Chương 1:

Thân vị Thánh Cả Giuse

Việc tôn sùng Thánh Cả Giuse không phải lúc nào cũng đã tôn vinh Thánh Cả. Xem ra người ta thường tạo cho Thánh Cả một nhân vị mờ nhạt, phai màu.

Biết bao lần, người ta đã trình bày Thánh Cả Giuse như một ông già, một vị lão đại: Quả thực, họ đã tả Thánh Cả là một ông già đầy nhân hậu và thánh thiện, một vị lão đại cứ nhìn thấy là ta có thiện cảm ngay. Nhưng cách nào thì cũng là họ đã ăn cướp mất đặc ân trẻ trung của Thánh Cả. Niên tuế mà họ gán cho Thánh Cả thật là quá chênh lệch đối với địa vị Thánh Cả phải giữ trong nhà Nazaret: Nhìn thấy Thánh Cả còng lưng dưới gánh nặng thời gian, với một chòm râu trắng xoá, rất có thể ta coi Thánh Cả là ông nội Chúa Giêsu; và đối với Mẹ Maria, thì Thánh Cả phải là cha hơn là chồng.

Quả thật, họ không nghĩ rằng trình bày Thánh Cả Giuse như vậy là họ đã không tôn kính Đức Thánh Nữ Trinh và Chúa Giêsu hơn. Họ chủ trương đặt Thánh Cả làm một người bảo vệ, một vị giám hộ che chở Đức Maria, hơn là một bạn đời của Mẹ, như là họ hoài nghi tuổi thanh niên của Thánh Cả có thể gây nên một mối nguy cho đức thanh tịnh trinh khiết của Mẹ. Đó là làm lạt màu cuộc hôn nhân giữa Thánh Cả và Đức Nữ Trinh, là xoá nhoà mất vẻ hài hoà cầm sắt, là loại bỏ khỏi cuộc hôn nhân đó mối tình tươi trẻ, một mối tình phải là căn gốc của việc phối hợp. Đó cũng là từ chối, không tặng Chúa Giêsu một người Cha thật, như là Chúa Hài Nhi phải nhờ ảnh hưởng sự khôn ngoan của một cụ già mới có thể tăng triển được.

May mắn thay! Thời đại gần đây đã nẩy sinh một phản ứng: người ta càng ngày càng trình bày Thánh Cả Giuse với những đường nét trẻ trung hơn. Mặc dầu Phúc Âm không nói gì đến tuổi tác của Thánh Cả, nhưng ta cũng nhận được rằng, cứ thông thường, khi kết hôn với Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse cũng ở vào lứa tuổi của các thanh niên lúc họ lập gia đình. Thánh Cả Giuse đã đem tuổi xuân của mình phối hợp với tuổi xuân của Mẹ. Vì thế, phải vẽ ảnh Thánh Cả với những đường nét của một người thanh niên mới đúng. Mặt khác, ta cũng phải thêm rằng, Thánh Cả không bao giờ biết đến tuổi già, vì Thánh Cả đã qua đời trước khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa.

Tuổi thanh niên ấy, Thánh Cả Giuse đã đặc biệt chiếm giữ trong tâm hồn của Ngài. Thân vị Thánh Cả là thân vị một thanh niên. Đặc ân của tuổi thanh niên, đó là xuất hiện giữa đời với một vẻ tân kỳ muốn biến đổi cuộc đời. Thanh niên nhìn vũ trụ như một mảnh đất mà nghị lực thanh tân của họ sắp có thể được tung vào, khả năng hoạt động coi như vô giới hạn của họ sắp được thể hiện, để thay đổi và canh tân. Họ mơ tưởng tái tạo thế giới để làm cho nó nên tốt đẹp hơn. Mở tưởng như vậy cũng chẳng có gì sai lầm, vì, từng chút từng chút, nhờ phần đóng góp bền dai đó của một tuổi xuân tự đổi mới, nhân loại mới vươn lên được mãi không ngừng.

Thánh Cả Giuse đã đem chính tâm thức thanh niên ấy đối đầu với trần gian, y như Thánh Cả có thể nhìn thấy nó từ thôn xóm nhỏ ở Galilê của Ngài. Chắc chắn Thánh Cả biết rõ ràng nghề nghiệp của Ngài không cho phép Ngài gieo được một ảnh hưởng nào cụ thể trên cuộc tiến hoá của nhân loại. Nhưng Thánh Cả đã đem hết tâm hồn khát mong cộng tác vào việc kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn. Nơi dân Do Thái, tham vọng ấy của thanh niên lại được lòng nhiệt thành mong đợi Đấng Cứu Thế nâng đỡ. Từ lâu lắm rồi, người Do Thái hằng nóng lòng mong đợi một vị Cứu Thế, một Đấng Cứu tinh. Và cho tới nay, niềm mong đợi ấy vẫn chưa được thoả mãn. Nhưng ở vào thế hệ nào mà người ta chẳng hun lại nhiệt hứng ấy trong tâm hồn thanh niên? Thánh Cả Giuse cũng chẳng khỏi bị nung nấu vì khát mong chế độ lý tưởng mà Đấng Cứu Thế sẽ đến tạo lập.

Cho nên Thánh Cả cũng tin là thế giới sẽ được đổi mới. Và mặc dầu biết rằng thời giờ đổi mới đó thuộc quyền Thiên Chúa tối cao, Thánh Cả cũng quyết định đem phần khiêm tốn của mình góp vào việc chuẩn bị xây dựng Nước Cứu Thế. Đặc biệt là Thánh Cả cộng tác vào đó bằng cách cố gắng trở nên hoàn thiện như Ngài phải hoàn thiện theo đúng địa vị mà Chúa Quan Phòng chỉ định cho Ngài. Với niềm tin nồng nhiệt của tuổi thanh niên, Thánh Cả Giuse cố gắng sống một cuộc đời đẹp lòng Thiên Chúa nhất, để hy vọng đẩy mạnh đẩy mau việc xây dựng một dân tộc mới mẻ hơn, thánh thiện hơn.

Thái độ nhiệt liệt ấy, Thánh Cả đã không chỉ nhờ vào nghị lực thể lý và tính khí của tuổi xuân mà có. Nó còn đặc biệt phát xuất từ sự thanh xuân của Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa là Hữu Thể luôn luôn trẻ trung, đã thông ban cho con người tuổi thanh xuân thực sự, một tuổi thanh xuân luôn mơm mởm tươi rờn, không bao giờ lụi tàn héo úa. Thánh Cả Giuse đã mở rộng tâm hồn mình ra trước hoạt động tiềm mật của Thiên Chúa, bằng cách hoàn toàn sống thích thuận với Thánh ý của Người. Cho nên, Thánh Cả được tràn đầy nhiệt tâm, tràn đầy niềm hân hoan chiếm đoạt mà Thiên Chúa từng dùng để làm ta cảm thấy Người hiện diện. Thiên Chúa thông ban cho tâm hồn Thánh Cả Giuse một tuổi thanh xuân sâu đậm hơn tuổi thanh xuân về thể xác của Thánh Cả. Người cho Thánh Cả mượn cái nhìn mới mẻ của Người mà nhìn thế giới, cho Thánh Cả tham dự vào ước muốn đổi mới tất cả của Người, nhớ cho Thánh Cả cháy lên một hứng thú mãnh liệt trước tương lai tốt đẹp hơn đang được chuẩn bị, tương lai mà các tiên tri trước kia từng tiên báo.

Đó phải là tâm trạng của Thánh Cả Giuse lúc Ngài gặp gỡ Đức Maria. Tuổi thanh xuân đó, về sau Thánh Cả không bao giờ đánh mất. Những biến cố sắp ảnh hưởng đến đời sống tư của Thánh Cả lại đã chẳng chứng tỏ là Thánh Cả có lý khi chờ đợi và hy vọng một thế giới mới đến ngay đó ư? Và những biến cố ấy lại chẳng tỏ rõ là Ngài, Giuse, dầu rất nhỏ bé trong vũ trụ bao la, cũng đã có thể cộng tác một cách hiệu nghiệm vào việc chuẩn bị cuộc đổi mới ấy đó ư? Những biến cố ấy đã phấn khích nhiệt hứng thanh xuân của Thánh Cả. Nếu ta không được phép tưởng tượng ra Đức Maria dưới những đường nét già nua, và nếu lúc nào ta cũng thấy Mẹ thanh xuân tươi trẻ, thì ta cũng phải nghĩ về Thánh Cả Giuse y như vậy: Thánh Cả không bao giờ làm nhoè mất tuổi thanh niên của Ngài, một tuổi thanh niên được chính tuổi xuân của Thiên Chúa hứng khởi.

Cậy gậy nở hoa hay bônghuệ mà người ta đặt vào tay Thánh Cả trên nhiều tượng ảnh cũng chẳng kém tính cách đặc trưng hơn chòm râu bạc lão đại của Ngài. Ta có thể nhạn ra ở đó một tượng trưng hữu ích: theo truyện truyền khẩu mà các bản văn nguỵ thư phổ bá, cây gậy nở hoa nhắc nhở sự Thiên Chúa đặc tuyển Thánh Cả Giuse làm hiền phu của Đức thánh Trinh Nữ, một vị hiền phu độc nhất được chọn lựa trong cả một đám đông đảo thanh niên; bông huệ gợi lên đức thanh tịnh hết sức lạ lùng của Đấng hiền phu trinh khiết ấy. Nhưng cử chỉ cầm một bông hoa, một cử chỉ rất ít thích hợp với đấng trượng phu, cũng chỉ có nghĩa là làm cho Thánh Cả trở thành một con người ước lệ, là che khuất nhân cách một bậc tu mi nam tử của Ngài. Với đôi tay chai cứng của một người thợ mộc, Thánh Cả phải làm một việc khác, chứ không phả là việc cầm hoa.

Chắc chắn là trong tâm hồn Thánh Cả Giuse có chứa thật nhiều vẻ tế nhị. Tuổi thanh niên của Thánh Cả là một mùa xuân không bao giờ cạn ý thơ; có cả một mùa hoa nở lên trong đời Ngài, cuộc đính hôn của Thánh Cả đã đặc biệt phô bày mùa hoa ấy. Thánh Cả Giuse tiếp xúc với Đức Nữ Maria bằng một tâm tình hết sức tươi mát. Nếu Thiên Chúa đã chọn Thánh Cả làm hiền phu của Đức Nữ Trinh, thì hẳn Thánh Cả phải được phú bẩm một tình cảm tế nhị, để có thể hiểu được tâm hồn tế nhị của Đức Maria, thẩm giá được hương vị của tâm hồn Mẹ và hoà hợp được với tâm hồn Mẹ.

Tuy nhiên, thân vị của Thánh Cả Giuse không được tạo nên theo hình ảnh một cây cảnh trang hoàng. Thân vị ấy chẳng có gì nhân tạo, chẳng có gì nhạt nhẽo, chẳng có gì cầu kỳ. Thân vị ấy không sa lầy trong một cảm tình dễ dãi. Thánh Cả Giuse đã là một con người lúc nào cũng duy trì được tính tình tráng chí của mình, và luôn có một tâm hồn đặc biệt dũng cảm. Thánh Cả cần phải có nghị lực tráng dũng đó để chu toàn nhiệm vụ một gia trưởng sau này. Ngay cả đức thanh tịnh của Thánh Cả cũng đã diễn tả nghị lực ấy, một nghị lực thiêng liêng chính trực, bảo đảm sự linh hồn Ngài làm chủ xác thân, và biết cách tự vạch lấy một kỷ luật sống.

Với nghị lực của tính tình tráng dũng đó, Thánh Cả Giuse đã nâng đỡ Đức Maria đúng phận sự của một bậc phu quân đức độ đối với bạn mình; Thánh Cả đã dùng nghị lực đó để thể hiện quan hệ làm Cha và giáo dục cả Hài Nhi Giêsu của Ngài nữa.

Nghị lực đó, Thánh Cả lại có được một cách quân bình lạ thường. Căn cứ vào lời Phúc Âm, ta có ấn tượng Thánh Cả Giuse là một người đã cư xử thật khôn ngoan, thật bình tĩnh quả quyết. Sống cho Thiên Chúa và phụng sự Người, Thánh Cả lại chẳng đã ý thức được Ngài nhận lĩnh từ Thiên Chúa nghị lực cần thiết, nhất là trong những lúc cam go đó ư? Ý thức ấy đã giữ Thánh Cả khỏi rơi vào xúc động hay nao núng và còn giúp Ngài hành động bình tĩnh, với một nghị lực dai bền.

Trẻ trung và tráng dũng, đó phải là chân dung của Thánh Cả Giuse, với một nhân cách giàu ân tứ tự nhiên, và còn giàu ân sủng hơn nữa.

Chương 2:

Gặp gỡ Đức Maria

Một cuộc gặp gỡ đã quyết định hẳn định mệnh của Thánh Cả Giuse. Ánh nhìn của Thánh Cả một hôm đan vào ánh nhìn của Đức Maria Trinh Nữ.

Cứ bề ngoài, đó cũng là một cuộc gặp gỡ như bao nhiêu cuộc gặp gỡ khác, khi một thanh niên trai trẻ đến gặp thiếu nữ chàng vừa lòng, một mai sẽ là bạn trăm năm của chàng. Thánh Cả Giuse lại đã nghiệm thấy Ngài âm thầm cảm phục Mẹ Maria; Ngài từng bị say mê, bị lôi cuốn. Một tương lai hạnh phúc dường như mở rộng trước mặt Ngài.

Nhưng trên thực tế, thì đó là một cuộc gặp gỡ như chưa từng có bao giờ xảy ra trên trái đất. Trong vẻ tươi mát của ánh xuân in dấu một tình yêu vừa chớm nở, cuộc gặp gỡ ấy có tính cách khác hẳn các cuộc gặp gỡ thường tình. Thanh niên Giuse vừa mới rộn lên vì một vẻ đẹp khôn sánh, vẻ đẹp cao khiết của một linh hồn trinh bạch và hoàn thiện không một bóng mờ.

Rồi đây, Tổng Thần Gabriel sẽ chào Đức Trinh Nữ: “Kính mừng Đức Trinh Nữ đầy ân sủng!” Khi chiêm ngắm vẻ đẹp của Đức Trinh Nữ, Tổng Thần đã nhìn ra nơi Mẹ sẽ tràn đầy ân sủng diệu kỳ. Thánh Cả Giuse thì không thiể nhìn ra được ân sủng tràn đầy ấy bằng cái nhìn thiêng liêng như Tổng Thần; nhưng Thánh Cả cũng cảm thấy ân sủng ấy một cách lờ mờ, và nghiệm ra duyên nhị đặc biệt của ân sủng ấy. Thánh Cả tế nhận được nơi Đức Maria một tâm hồn cao khiết, hoàn thiện đến cảm kícn lạ lùng.

Có nhiều người khác từng rảo qua bên cạnh Đức Thiếu Nữ có duyên thầm kia, nhưng họ đã không dừng lại. Họ chẳng nhìn thấy nơi Cô có nét gì đặc biệt. Thân xác đẹp đẽ đơn sơ của Đức Maria chẳng có gì duyên dáng đến kéo được người ta phải nhìn. Khu vườn của Mẹ thật kín ẩn, thoát khỏi hẳn tầm giác quan. Cái nhìn nào ham muốn vẻ đẹp bề ngoài sẽ chỉ nhìn thoáng qua trên gương mặt đó, chứ không thể nhìn vào sâu hơn. Muốn gặp hấy tâm hồn của Đức Nữ Trinh, phải có một ánh nhìn sâu sắc,thoát ly hẳn khỏi những gì có thể giác cảm được.

Như vậy, Thánh Cả Giuse cũng phải có một tâm hồn sâu sắc mới thực sự gặp gỡ được Đức Maria, mới khám phá được Mẹ. Ánh nhìn sâu sắc đó của Thánh Cả Giuse không phải chỉ là một phẩm tính tự nhiên; nó còn là một ân tứ siêu nhiên nữa. Từ lâu rồi, Chúa Thánh Thần đã chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này. Không những Chúa đã ban cho Thánh Cả một nghị lực đặc biệt để sống, vượt trên những xu hướng và yêu sách của bảnnăng, mà Chúa còn hoà hợp trước tâm hồn của Thánh Cả với tâm hồn của Đức Maria. Thực ra, Thánh Cả không thể nào chiếm hữu được một sự hoàn thiện như sự hoàn thiện nơi Đức thánh Trinh Nữ; nhưng một ân sủng cảo cả đã thanh luyện, đã nâng cao ánh nhìn của Thánh Cả, để làm cho nó có khả năng bắt gặp được vẻ huy hoàng kín đáo của Mẹ. Và Thánh Thần Tình Ái đã đặc biệt đúc nặn tâm hồn Thánh Cả Giuse, sao cho tâm hồn ấy có thể hài hoà được với Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria, Trái Tim sẽ trao thân gởi phận cho Thánh Cả.

Nhờ sự hài hoà có trước ấy mà cuộc gặp gỡ đã có thể đi tới tận tầng đáy sâu của hai tâm hồn. Sau này, qua các thế kỷ, những ai gặp được Mẹ Maria và ngây ngất vì vẻ đẹp siêu phàm của Mẹ, cũng sẽ gặp dưới ánh sáng đó của Chúa Thánh Thần, Đấng đã từng soi sáng và thanh luyện ánh nhìn của Thánh Cả Giuse: người ta chỉ có thể khám phá ra Đức thánh Trinh Nữ nhờ một tâm hồn siêu nhiên quy hướng về Mẹ.

Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên ấy, Chúa Thánh Thần đã đặt ra một mức quá độ mà Thánh Cả Giuse không thể nhận thức được ngay. Qua thật, thanh niên Giuse có cảm giác là đã tìm ra một cái gì thần linh nơi Đức Maria. Thánh Cả cảm thấy chưa bao giờ được tới gần Thiên Chúa như vậy. Nhưng Thánh Cả vẫn không sao biết được là chính gương mặt Thiên Chúa đã lôi cuốn Thánh Cả tới mức nào qua diện mạo Đức Maria; Thánh Cả vẫn không sao ý thức được ngay lúc đó tất cả những mỹ vị Ngài nếm hưởng và thẩm giá được một cách lờ mờ qua cuộc gặp gỡ đó.

Nhiều năm sau, khi sẽ sống đoàn tụ với Đức Maria và Chúa Giêsu, khi sẽ nghiệm ra hai Mẹ Con ấy tương tự nhau đến mức nào rồi, Thánh Cả mới nhận ra rõ rệt hơn là: khi bị Đức Maria lôi cuốn, Thánh Cả cũng đã từng bị chính Chúa Giêsu lôi cuốn nữa. Đức Nữ Trinh giấu kín trong mình hình ảnh Chúa Giêsu. Cho nên khi gặp gỡ Mẹ, Thánh Cả là người đầu tiên đã vừa gặp được Chúa Giêsu vậy.

Chính Chúa Giêsu đã lôi cuốn Thánh Cả Giuse một cách mầu nhiệm, và qua gương mặt băng tuyết của Mẹ Maria, Chúa đã chiếm đoạt linh hồn Thánh Cả, như sau này trong cuộc đời công khai, với tư cách Chúa Cứu Thế, Chúa đã lôi cuốn những ai gặp gỡ Người, hoặc cả đến quyến dũ họ nữa.

Như vậy, Thánh Cả Giuse đã nghiệm thấy điều mà, sau Thánh Cả, nhiều người sẽ nghieệm thấy khi say mê với vẻ duyên dáng của Đức Maria. Thánh Cả đã nhượng bộ những dun dủi của tình yêu thần linh mà Mẹ mang trong mình Mẹ. Thánh Cả lưu luyến gương mặt Chúa Giêsu, gương mặt đã bắt đầu in nét trên gương mặt Mẹ Chúa. Nơi Đức Nữ Trinh, Thánh Cả Giuse đã tìm và gặp được Chúa Cứu Thế sắp đến mà không biết.

Lúc nhận ra Đức Nữ Maria là một phụ nữ lý tưởng, Thánh Cả liền nhận lời mới: Vẻ kiều diễm thiêng liêng của Đức Maria đã làm Ngài mê hồn, đến nỗi chỉ muốn có một việc là duy trì được sự hiện diện linh thánh ấy của Mẹ. Từ nay, Thánh Cả chỉ còn có một khát vọng là được sống thân thiết với linh hồn độc nhất vô nhị trên thế giới ấy.

Nếu có thể so sánh cuộc gặp gỡ này với cuộc gặp gỡ giữa đôi ban nam nữ nguyên tổ, trước khi tội lỗi đến làm thâm tối nhân loại, và làm nặng nề những cuộc gặp gỡ khác, thì ta phải nhận thấy ngay rằng, khác hẳn với Evà cũ, Đức Evà mới chỉ đã lôi cuốn đức lang quân của mình hướng lên cao cả. Evà cũ đã lạm dụng ảnh hưởng của mình trên Adong để ông trượt theo trường dốc yếu đuối của mình; còn Đức Maria, thoạt ở giây phút gặp gỡ đầu tiên, đã làm cho Thánh Cả Giuse vượt lên trên chính Ngài, để nâng Ngài cao mãi lên.

Nhìn ngắm Đức Maria, Thánh Cả Giuse cảm thấy mình nên tốt đẹp hơn. Thánh Cả tiếp nhận ánh toả chiếu hoàn thiện và thánh đức của linh hồn Mẹ. Nhiều niềm khát vọng rất cao quý thức dậy trong Ngài.

Đặc biệt hơn nữa, Thánh Cả Giuse hiểu ra rằng muốn sống đoàn tụ với Đức Maria, Ngài phải bảo trì một đức trong sạch cao khiết nhất; và để cuộc phối hợp giữa Ngài với Mẹ được đặt trên một tầm mức cao vượt nhất, Thánh Cả thấy rõ rằng Mẹ phải cố kết với một đức trinh bạch trong suốt nhất. Ta có thể nghĩ rằng cuộc gặp gỡ Đức Maria ấy đã đưa Thánh Cả Giuse tới chỗ quyết định sống đồng trinh. Thực ra, nhờ ân sủng, Thánh Cả đã từng kín đáo hướng theo chiều hướng này; nhưng xét theo lẽ có thể đúng thì chẳng phải là chính vì nhờ sự hiện diện cụ thể của Đức Maria, mà Thánh Cả đã nhìn thấy tất cả vẻ đẹp của cuộc đời trinh khiết, cuộc đời mà Thánh Cả đã nghiệm ra hứng thú và mỹ vị, đó ư?

Đó không phải chỉ là vấn đề kính trọng, kính trọng ước muốn và ý chí của Đức Maria. Thánh Cả Giuse đã ý thức rằng chỉ bằng cách hài hoà với sự trinh khiết của Mẹ, Ngài mới thực sự phối hợp cuộc đời mình với cuộc đời của Mẹ Maria được. Đó là một lý tưởng phải chia sẻ.

Thánh Cả Giuse là người đầu tiên được Mẹ Maria soi cho thấy vẻ quyến rũ của lý tưởng trinh khiết. Nơi Mẹ Maria, trinh khiết không phải chỉ là một cách e ấp giữ ngọn gìn vàng, cũng không phải chỉ là sự nghiêm khắc từ chối những xu hướng giác cảm; đó là ngọn lửa của một tình yêu vĩ đại hơn, một tình yêu hằng ước muốn được thiêng liêng hơn mãi, để nên một tình yêu trinh trắng hơn lên mãi. Đó cũng là một tình yêu tràn trề tươi mát, không vương một chút dục vọng xáo động nào. Khi nhận ra quyết định sống nhờ ngọn lửa ấy, và hiểu ra tất cả vẻ tế nhị phải có để bảo vệ đức đồng trinh tinh tấn của Mẹ. Sau Thánh Cả, rất nhiều người khác sẽ có thể chứng tỏ rằng Mẹ Đồng Trinh Maria đã gieo một ảnh hưởng quyết định nơi họ, để họ tìm cầu đeo đuổi cùng một lý tưởng đó, và chính Mẹ đã nâng tâm hồn họ hướng lên tình yêu cao thượng hơn này.

Như vậy chứng tỏ một cách hiển nhiên là đã có Thiên Chúa ở ngay trung tâm cuộc gặp gỡ giữa Thánh Cả Giuse và Đức Trinh Nữ Maria. Thiên Chúa là Đấng đã phối hợp cuộc gặp gỡ ấy. Quả thật Đức Maria đã chỉ sống cho Thiên Chúa, và Mẹ đã quyết định giữ mình trinh khiết cốt để được hợp nhất với Chúa mật thiết hơn. Chỉ bằng cách đi vào tình mật thiết với Thiên Chúa, ta mới có thể vào sống trong tình mật thiết với Mẹ. Chính Mẹ đã lợi dụng tất cả để gợi lên hứng vị trinh trong của Thánh Cả: vì thế mà Thánh Cả Giuse đã say mê với khát vọng kép đôi này, hướng lên Thiên Chúa, hướng lên trong con đường khiết trinh.

Sau cuộc gặp gỡ ấy, khi nhìn lại sự vật trần gian, Thánh Cả Giuse đã thấy chúng thật quá ti tiện. Linh hồn Đức Maria mới thật là vĩ đại cao vời! Sự khám phá ấy sẽ soi sáng suốt cuộc đời Thánh Cả; Đức Maria đã thông cho Thánh Cả sự cao cả và trinh trong của tình yêu Mẹ.

Chương 3:

Lễ Đính Hôn

Dưới mắt Đức Maria, Thánh Cả Giuse xuất hiện như một vị trượng phu Chúa Quan Phòng gởi đến. Vị trượng phu ấy sẽ đeể yên cho Mẹ sống trong bậc trinh khiết mà Mẹ từng cảm thấy được Chúa kêu gọi. Khi gặp gỡ Thánh Cả, Mẹ đã hiểu ra là Thánh Cả cũng đang đi tới lý tưởng ấy, và ngay từ lúc đó, Mẹ đã có thể tính đến cuộc đính hôn với Thánh Cả Giuse.

Ngày nay chúng ta ngỡ ngàng vì sao đã quyết định ở đồng trinh mà Mẹ Maria lại còn dấn thân vào con đường đính hôn, con đường giá thú. Nhưng cảnh vực Mẹ sống đương thời không có một con đường nào khác. Nơi dân Israel, bấy giờ không có một thể chế sống trinh khiết nào, không có một cộng đồng trinh nữ nào, và lý tưởng của một cuộc tận hiến khiết trinh cho Thiên Chúa đã không được thẩm giá, cũng không được thực hành. Cùng lắm thì lý tưởng ấy chỉ bắt đầu được đặt ra trong một vài nhóm các nhà ẩn sĩ sống trong hoang địa. Khi suy nghĩ đến tương lai, Đức Maria đã phải tự nhủ rất có thể là trong bậc hôn nhân cũng treo cao được giá ngọc của mình, với điều kiện là có thể tìm được một người nào đó cũng được cùng một lý tưởng trinh khiết khích lệ, cũng xác tín về vẻ tuyệt vời của đức trinh khiết vẹn tuyền, và cũng quyết định tôn trọng đức khiết trinh. Hơn nữa, Chúa Quan Phòng, khi muốn đảm bảo một mái ấm cho Hài Nhi Giêsu, lại cũng đã âm thầm thúc đẩy Mẹ Maria theo chiều hướng ấy.

Tuy nhiên, Đức thánh Trinh Nữ hẳn cũng đã tự hỏi không biết mình có bao giờ gặp được một trang thanh niên khát vọng và ưng thuận một cuộc phối hợp đồng trinh như vậy không. Muốn được thế lại chẳng phải có một tâm hồn cao thượng ngoại thường đó ư? Và ta đoán ra hạnh phúc mà Mẹ Maria cảm nghiệm khi tìm thấy nơi Thánh Cả Giuse một tâm hồn say mê cùng một đức trinh trong đó, Mẹ đã ngây ngất thán phục vì những tâm tình cao thượng của Thánh Cả Giuse.

Vì thế, cuộc đính hôn giữa hai người đã là kết quả tự phát của mối hiệp thông đó trong cùng một lý tưởng, đồng thời cũng là của một niềm tôn trọng lẫn nhau sâu xa.

Trong những hoàn cảnh ấy, Đức Maria dâng lời ca tụng công việc Chúa Quan Phòng. Trong thẩm cung lòng Mẹ, Mẹ lại chẳng ca lên bài ca Ngợi Khen đầu tiên hay sao? Mẹ đã đem toàn thể nhiệt hứng của Mẹ cảm tạ Thiên Chúa, vì đã đặt trên đường đời Mẹ một thanh niên sẽ giúp đỡ Mẹ thực hiện được định mệnh của Mẹ. Thánh Cả Giuse thật là một ân tứ kỳ diệu lòng nhân từ Thiên Chúa ban cho Mẹ.

Bài ca Ngợi Khen đầu tiên ấy, cũng như bài ca Ngợi Khen Mẹ sẽ hát lên mấy tháng sau, là khúc ca tri ân vang lên nhân danh tất cả những người khiêm hạ. Thiên Chúa vừa mới tặng cho Đức Nữ Trinh Maria là một người khiêm hạ, một người nhỏ bé, làm vị-hôn-phu. Trong khi giấc mộng thông thường của thiếu nữ Do Thái là mong trở nên một ngôi hoàng hậu trong nước cứu thế, thì Mẹ Maria lại nhiệt liệt hứng thú vì sự Thiên Chúa lựa chọn đề cao những người không có một vẻ cao trọng nào bề ngoài tôn cao được, những người chìm đi trong bóng tối. Giá trị của Thánh Cả Giuse càng hoàn toàn sâu thẳm ở nội tâm, trong một linh hồn đơn giản và ẩn khuất, thì Mẹ càng quý trọng ngôi vị của Thánh Cả. Chính ở nội tâm, vẻ cao trọng của Thiên Chúa mới càng hiện lộ rõ ràng.

Như vậy, khi Thánh Cả Giuse ưng chọn Đức Maria làm vị-hôn-thê và khi Thánh Cả thề non hẹn biển với Mẹ, thì chỉ là Thánh Cả thừa nhận mối tình Thiên Chúa xe kết cho Thánh Cả. Chúa đã chọn lựa Thánh Cả trong toàn thể nhân loại để làm phu quân của Đấng sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Ngay lúc đó có thể Thánh Cả chưa biết được toàn thể mối tình mà Thiên Chúa gồm gói trong việc xe kết ấy, Thánh Cả bắt đầu tìm đoán, và ý thức được mình có một vị-hôn-thê hoàn thiện nhường ấy, thì thật là một đặc ân. Trong âm thầm của linh hồn, Thánh Cả cũng dâng lên Thiên Chúa một khúc ca tạ ơn y như bài ca Nagnificat của Đức Trinh Nữ Rất Thánh.

Đối với Thánh Cả Giuse cũng như đối với Đức Maria, lễ đính hôn đã bắt đầu trong một nhiệt hứng hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa. Nếu Mẹ Maria đã là người đầu tiên thẩm giá được những đức tính của Thánh Cả Giuse, và nếu Mẹ đã đi trước Hội Thánh trong việc tôn kính mà Hội Thánh sẽ chứng tỏ với Thánh Cả sau này, thì Thánh Cả Giuse cũng là người đầu tiên tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân bao la Người ban cho thế giới qua vẻ diễm lệ thiêng liêng của Mẹ Maria. Nhìn thấy cách thế vẻ diễm lệ ấy toả chiếu trên cuộc đời mình, Thánh Cả Giuse đã dâng hết lòng ca tụng tri ân.

Giai đoạn đính hôn chỉ làm Thánh Cả thêm vững mạnh trong niềm thán phục đó. Thánh Cả Giuse cảm thấy nơi mình chan hoà một niềm tôn sùng chân thực đối với người vợ chưa cưới của Ngài, người vợ chưa cưới được phủ phê biết bao ân sủng. Trong tâm hồn Thánh Cả khởi sự hình thành sự tôn sùng mà Hội Thánh dâng kính Mẹ Maria sau này: đó là một phấn khởi mà Thánh Cả đã đem trót cả mối tình tươi trẻ của Ngài vào, để diễn tả lòng thán phục một linh hồn mà tất cả đều phản chiếu chính Thiên Chúa.

Phải qua nhiều thế kỷ, Hội Thánh mới tìm lại được Đấng từng là vị-hôn-phu của Đức Maria. Nhưng kh Hội Thánh tìm lại được Ngài, thì Thánh Cả Giuse sẽ là Thánh Sư của tất cả các cuộc đính hôn theo tinh thần Kitô giáo.

Đạo tâm của Kitô hữu sẽ đánh giá cao niềm vui từng được dành riêng cho Đức Maria khi Mẹ gặp được người chồng-chưa-cưới lý tưởng ấy. Và Mẹ sẽ xin Thánh Cả ban xuống một niềm vui tương tự cho những thiếu nữ cảm thấy nơi mình những khả năng yêu đương và chờ đợi người thanh niên hứa hẹn làm bạn đời với họ.

Việc tìm chọn một bạn đời cho trót cuộc sống là một việc vừa tế nhị vừa quan trọng. Ai mà chẳng thấy trước mắt những tấm gương bauồn thảm của những cuộc phối hợp kém xứng đôi vừa lứa, của những cặp vợ chồng so le đũa lệch, hoặc rủi ro khốn khổ. Việc tìm chọn đính hôn có một ảnh hưởng quyết định trên rất nhiều định mệnh con người. Thật có lý việc phải quay về với Thánh Cả Giuse để xin Thánh Cả hướng dẫn sự tìm chọn này, sao cho sự tìm chọn của con người hoà đồng với sự lựa chọn của Thiên Chúa. Thánh Cả lại chẳng phải là Đấng can thiệp được chỉ định hoàn toàn để xin ơn Chúa trợ lực cho những trường hợp quan trọng sẽ khơi dậy cuộc gặp gỡ, và gây nên cuộc phối hợp giữa hai người Thiên Chúa đã dựng nên để cùng nhau chung sống đó ư?

Để việc tìm chọn của loài người có thể ứn ghợp với sự lựa chọn của Thánh Cả, Thánh Cả Giuse soi sáng cho đôi trẻ phải tiên liệu, quy tính trước hết đến các đức tính của linh hồn, hơn là tới duyên dáng thể lý; Thánh Cả soi sáng cho họ tìm cầu một vẻ đẹp thiêng liêng, một duyên thầm thật kín ẩn, nhưng thật vững chắc mà ân sủng hiện diện bên trong toả ra. Thánh Cả phấn khích họ khao khát tìm gặp trong người bạn đời của họ sự hoàn thiện mà chính Thánh Cả đã tìm tòi và gặp được nơi Đức thánh Trinh Nữ, một sự hoàn thiện tới gần Thiên Chúa.

Rồi khi tìm chọn đã xong, cũng lại chính là Thánh Cả Giuse mới có thể hướng dẫn cho mối tình đính hôn ấy tươi nở. Mối tình ấy có một hương thơm đặc biệt chỉ bảo tồn được trong đức thanh tịnh. Thánh Cả Giuse, đấng đã đạt tới chót đỉnh của đức thanh tịnh này, vì Ngài chỉ luôn luôn khát mong một cuộc phối hợp đồng trinh, sẽ thông trao cho đôi trẻ lòng ước muốn thực hiện lý tưởng đó trong thời kỳ dạm hỏi. Thánh Cả dạy cho họ nếm hưởng được tình gần gũi của tâm hồn, tránh lánh được tất cả những gì có thể giày xéo hay làm tàn héo vẻ diễm lệ thiêng liêng của nó. Thánh Cả thúc đẩy họ tế nhị cư xử trong việc tỏ cho nhau những dấu ân tình, và nâng đỡ ý muốn tôn trọng cách thiêng liêng đối với con người mà họ yêu mến. Thánh Cả chú trọng đặt Thiên Chúa vào trung tâm mối tình của họ.

Cuộc đính hôn của Thánh Cả Giuse với Đức Maria là một mô phạm phải được tái diễn trong các cuộc đính hôn theo tinh thần Kitô giáo vậy.

Hài hoà với Đức thánh Trinh Nữ, Thánh Cả Giuse cũng là Đấng dạy cho họ biết yêu. Thánh Cả dẫn đôi bạn vị-hôn qua một con đường mà tình yêu của họ không ngừng vươn lên, trong những tình cảm thật cao khiết. Hơn nữa, Thánh Cả còn làm tươi nở nhiệt hứng yêu đương, bằgn cách làm cho đôi trẻ nhận ra trong mối tình nhân loại của họ một ân tứ của tình yêu Thiên Chúa. Thánh Cả dạy họ nhìn mối tình của họ là một tiếng gọi nên thánh thiện.

Cho tới muôn đời, Thánh Cả Giuse vẫn còn là một vị-hôn-phu cao tột, vị-hôn-phu đã đạt tới đỉnh cao của tiey đính hôn, hướng dẫn tất cả các đôi bạn vị-hôn khác theo chiều hướng của Ngài; đồng thời Thánh Cả giúp họ hướng ánh nhìn của họ về người hôn-thê lý tưởng của Ngài là Mẹ Maria.

Mặt khác, trong cuộc đính hôn của Ngài, Thánh Cả Giuse không phải chỉ là mô phạm của các đôi bạn vị-hôn. Lời vàng đá Thánh Cả minh sơn thệ hải với Đức Maria cũng hàm chứa một lời đoan hứa khiết trinh, nên gương mẫu của Thánh Cả còn tỏ rõ một khía cạnh quan trọng trong việc tận hiến trinh khiết: tất cả những ai đoan thệ với Thiên Chúa nắm giữ đức thanh tịnh vẹn tuyền đều được đưa dẫn vào một tình mật thiết đặc biệt với Đức thánh Trinh Nữ. Thánh Cả cũng dạy họ thực hiện đặc ân của tình mật thiết này, dạy họ thể hiện hạnh phúc vì, trong cuộc sống, họ được ở ngay bên cạnh sự hiện diện của một Đức Nữ có khả năng khơi dậy toàn thể bản trường ca yêu đương, nhưng là bản trường ca chỉ định độc nhất để nâng cao linh hồn lên cùng Thiên Chúa. Được kinh nghiệm riêng chỉ giáo, Thánh Cả Giuse dạy cho các linh hồn tận hiến tu trì ấy biết nếm hưởng vẻ diễm lệ hoàn toàn thiêng liêng của Đức Thánh Nữ Trinh, và nêu cao nơi họ lòng khát vọng một đức trong sạch tuyệt đối, hầu có thể hiệp thông với lý tưởng  của Đức Trinh Nữ Maria. 

Chương 4:

Chứng nhân của mầu nhiệm

Từ ngày gặp gỡ Đức Maria, Thánh Cả Giuse đã từng ca tụng vẻ trong trắng khiết trinh của Mẹ. Tuy nhiên, giờ đây, Thánh Cả lại có cảm tưởng là đang bị đặt trước một mầu nhiệm khiết trinh cao vượt quá trên Thánh Cả. Có một sự kiện nào đó, Thánh Cả không hiểu được trong linh hồn Đức Maria, linh hồn mà Thánh Cả đã nhìn nhận là hoàn toàn tốt đẹp.

Nói cho rõ thì nghĩa là ngay trong thời gian còn đính hôn, Thánh Cả Giuse đã phải sững sờ chứng nghiệm một hiện tượng lạ kỳ: Đức Maria đợi chờ sinh một người con. Đứng trước một sự kiện hoang mang như vậy, bất cứ một ai khác, chắc chắn đã bị cám dỗ coi người vợ-chưa-cưới của mình là một kẻ mắc tội thất tiết. Mặt khác, rõ ràng là Đức Maria lại không muốn giải thích sự kiện ấy chút nào: sự im lặng ấy của Mẹ rất có thể xác nhận là Mẹ có tội. Nhưng vì gẫn giữ gìn không nghi ngờ gì trước mầu nhiệm vây kín định mệnh của Mẹ, Thánh Cả Giuse không kết luận như vậy được.

Thánh Cả, quá xúc động vì linh hồn băng tuyết của vị-hôn-thê của mình, không thể nhìn hận là Đức Maria đã đánh lừa Ngài. Và sự quyết tâm hết sức đặc biệt giữ đức đồng trinh trọn đời vẫn hiện rõ nơi Mẹ một mối ưu tư ân cần khác lạ để bảo toàn nguyên tuyền kho báu ấy. Vậy thì làm sao ý chí bề ngoài rất sắt đá của Mẹ kia, lại có thể thay đổi trong một thời gian quá ngắn như vậy? Mặt khác, trong ánh nhìn của Đức Maria, chẳng có gì thay đổi cả: luôn luôn vẫn giãi chiếu vẻ vẹn tuyền trinh trắng như xưa. Cho nên Thánh Cả vẫn thâm tín là người vợ-chưa-cưới của Ngài hoàn toàn vô tội.

Tuy nhiên, sự kiện không thể chối cãi vẫn sờ sờ ra đó. Ngội biến kỳ quái nào lại có thể xảy ra như vậy, và đưa Đức Maria vào một tình trạng mà về phía mẹ không hề có một chút gì đắc tội như vậy? Hay đó là can thiệp của thân nhân Mẹ đã muốn cho con gái mình có một vị-hôn-phu khác? Song chẳng có gì chứng tỏ được như vậy. Mỗi ngày hằng trăm lần, Thánh Cả Giuse bồn chồn với những thắc mắc đó mà không sao tìm được câu trả lời. Trong sự im lặng của Đức Maria, Thánh Cả tế nhận là có một mầu nhiệm mới đang hình thành.

Thánh Cả đoán rằng Đức Maria hẳn có một lý do cao vượt bắt buộc Mẹ phải im lặng. Nếu không có lý do đó, thì có lẽ nào mà Muộn lại không giải thích cho vị-hôn-phu của Mẹ, và sao một người vốn rất thẳng thắn như Mẹ lại không nói ra? Rõ ràng là Thánh Cả Giuse đã không đoán được đó là một bí mật mà một sứ giả của Thiên Chúa đã trao cho Mẹ, bí mật mà Mẹ nhìn nhận là Mẹ không có quyền tiết lộ.

Cho nên Thánh Cả cứ phải men theo một mầu nhiệm trực tiếp liên quan đến Ngài, mà Ngài lại hoàn toàn xa lạ. Tình trạng khổ sở ấy của Thánh Cả Giuse tỏ ra rất rõ sự sai biệt ngăn cách Ngài với Mẹ Maria, trong việc khuếch triển chương trình cứu độ, hay đúng hơn, trong việc mạc khải và thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể Cứu Chuộc.

Thánh Cả Giuse đã không được chỉ giáo về mầu nhiệm này đồng thời với Mẹ Maria, vì Thiên Chúa không đặt Thánh Cả vào trung tâm mầu nhiệm như Mẹ, và không đòi Thánh Cả phải trực tiếp và quyết định cộng tác vào mầu nhiệm ấy như Mẹ. Mẹ Maria đã được báo trước về ý muốn Thiên Chúa định ban Đấng Cứu Chuộc cho thế gian qua Mẹ. Quả nhiên Mẹ phải ưng nhận ý muốn đó của Chúa, để chính mầu nhiệm ấy có thể được thực hiện. Lúc truyền tin, khi Mẹ ưng thuận trở nên Mẹ Chúa Giêsu, thì Mẹ cũng trực tiếp ưng thuận và đồng công vào biến cố Nhập Thể. Lời “Xin Vâng” của Mẹ là điều kiện cần thiết cho biến cố ấy.

Thánh Cả Giuse thì, trái lại, chỉ nhận được tin mừng ấy sau khi biến cố đã xảy ra. Khi Thánh Cả phải ưng thuận trở nên Cha của Hài Nhi đầu thai lạ lùng, thì sự ưng thuận của Thánh Cả không phải đặt chính việc thể hiện mầu nhiệm ấy thành vấn đề nữa. Thánh Cả chỉ liên hệ đến một hình thái của mầu nhiệm ấy thôi. Vì thế, khi Đức Maria đã hoàn toàn dấn thân vào mầu nhiệm Nhập Thể, thì Thánh Cả Giuse vẫn chưa có thể đi sâu vào được; Thánh Cả vẫn còn ở trong bóng tối, ở ngưỡng cửa mầu nhiệm. Địa vị của Thánh Cả là cốt để làm một người chứng cho mầu nhiệm thôi.

Tuy nhiên, trong địa vị này, không ai có thể thay thế được Thánh Cả Giuse. Chỉ có Thánh Cả Giuse mới dự đoán được mầu nhiệm bao phủ Người Con mà Người Vợ-chưa-cưới của Thánh Cả cưu mang, vì đương nhiên tất cả những ai khác sẽ nhìn nhận Thánh Cả chính là Cha của Người Con đó. Chỉ có Thánh Cả Giuse mới ý thức được sự thanh khiết đồng trinh của Đức Maria, và mặc dầu có những vẻ bề ngoài đó, thì tự đáy sâu tâm khảm Ngài, Thánh Cả Giuse vẫn xác tín là Mẹ Maria đã không muốn từ bỏ đức trinh khiết ấy chút nào.

Sự xác tín đó xuất hiện trong quyết định mà Thánh Cả suy tư để hiểu cho thấu đáo. Phúc Âm thánh Matthêu viết: “Vì (Thánh Cả Giuse) là người công chính, và không muốn công khai tố cáo (Đức Maria), nên Ngài quyết định âm thầm từ bỏ” (Mt 1,19). Thánh Cả là người công chính và, như vậy, Ngài mới không tự nhận là có quyền hành động như là Cha của một người con không phải của Ngài. Càng đoán là có một mầu nhiệm nấp sau sự cố tình im lặng của Đức Maria, Thánh Cả càng e sợ sự cư xử với tư cách một người cha đó, Nếu người vợ-chưa-cưới ấy của Thánh Cả đã quý chuộng sự làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách giữ kín bí mật, thì Thánh Cả cũng phải làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách tôn trọng cùng một bí mật đó, và từ nay sẽ kính cẩn tránh xa cả Mẹ cả Con. Thánh Cả không muốn làm nhuốc hổ vị-hôn-thê của mình cách nào; tin chắc là Đức Maria vô tội, nên Thánh Cả khát vọng bảo vệ thanh danh cho Mẹ. Nếu Thánh Cả nghĩ là phải cắt đứt với Mẹ, thì Ngài phải thi hành việc đó một cách hết sức thận trọng.

Vì thế sự quyết định kín đáo từ bỏ Đức Maria chứng tỏ là Thánh Cả Giuse hằng tôn trọng mầu nhiệm. Quyết định đó là một bằng chứng Thánh Cả ủng hộ mầu nhiệm ấy.

Là người chứng của mầu nhiệm, Thánh Cả Giuse đã phải đau khổ vì mầu nhiệm. Từ lúc nhận ra Đức Maria sắp trở thành một bà mẹ, cho tới lúc Thiên Thần hiện đến, Thánh Cả hằng cảm nghiệm một đau khổ mỗi ngày một tăng thêm. Kết cuộc của việc đính hôn càng là nguồn hạnh phúc bao nhiêu, thì sự phải chịu bóng tối đến boa phủ trên cuộc phối hợp của hai người càng nặng nề bấy nhiêu. Thánh Cả Giuse có cảm tưởng là người con huyền nhiệm kia sẽ đến xé toang mối ý hợp tâm đầu từng được coi là kỳ diệu giữa Ngài với Đức Maria. Người Con đó đã làm cho Đức Maria nên xa lạ đối với Thánh Cả. Người Con đó dường như đặt ra một hàng rào không thể vượt qua giữa Thánh Cả và Đức Maria.

Ta thoáng nhìn ra Thánh Cả Giuse đã phải nhẫn nhục một cách đau đớn sâu sắc biết bao, mới dám tính đến việc chia lìa. Trước hết, Thánh Cả hy vọng Đức Maria chỉ tạm thời im lặng; Thánh Cả chời đợi Mẹ ngỏ với Ngài một vài lời giải thích. Chỉ một lời đó đủ soi sáng cho Ngài tất cả. Nhưng rồi thấy Mẹ vẫn cứ kiên trì im lặng, Thánh Cả Giuse lại thâm tín là Mẹ không có quyền nói gì, và rất có thể Mẹ cũng sẽ không nói. Thánh Cả lại cũng không sao không nhận ra là Mẹ cũng đang âu sầu đau khổ vì sự trạng đó. Thật là một nỗi đoạn trường cả hai cùng phải sống nó, mà ai cũng phải dập vùi trong một nỗi cô đơn kép đôi, và đau khổ của người này lại tăng thêm đau khổ cho của người kia.

Như vậy, cuộc thử thách ấy là đặc biệt do Chúa Quan Phòng muốn có. Đối với Chúa thì việc tránh cho Thánh Cả Giuse khỏi nỗi đau khổ ấy đã hẳn là việc rất dễ dàng: nếu Người đã sai thiên thần đến với Thánh Cả mấy tuần lễ hay mấy tháng trước sớm hơn, thì có thể Thánh Cả đã được bình tĩnh ngay tức khắc. Thánh Cả có thể đã hiểu ra nguồn gốc lạ lùng của Thai Nhi trong lòng Đức Maria, và đã rất có thể tránh được tấn thảm kịch kín đáo chia lìa tan vỡ Ngài mưu tính. Nhưng kéo dài việc sai thiên thần đến phút chót, vào buổi tối, lúc Thánh Cả quyết định đường ai nấy đi, một quyết định không thể hàn gắn được như vậy, là Thiên Chúa đã ghìm sâu cơn thử thách Thánh Cả xuống tới tận cùng.

Có nghĩa là, trong chương trình của Thiên Chúa, bằng chứng bao giờ cũng phải kèm theo hy sinh; bằng chứng tối cao đương nhiên chính là đau khổ tử đạo. Trước khi làm chứng nhân cho việc Chúa Kitô Phục Sinh, và cốt để làm chứng nhân cách đầy đủ, các môn đệ sau này sẽ phải trải qua cơn thử thách trong cuộc Tử Nạn, phải sống những giờ phút thống khổ vì phải chịu đau thương rất da diết và phải chia lìa Thầy yêu dấu. Để làm nhân chứng cho việc đầu thai đồng trinh của Chúa Kitô, Thánh Cả Giuse đã phải trải qua một thử thách tương tự. Cuộc thử thách Thánh Cả phải chịu cũng là một đau thương tinh thần như các môn đệ phải chịu sau này: phải bị lạc hướng, vì chỗ dựa của một tình yêu mà Thánh Cả có thể tin cậy, xem ra bỗng dưng thoát khỏi tầm tay, không biết phải nghĩ thế nào nữa. Thánh Cả Giuse đã nghĩ mình phải mất hẳn Đức Maria, cũng như các môn đệ sẽ ngờ phải mất hẳn Thầy.

Chính sự dằn vặt tiềm ẩn mà lại cảm nghiệm được rất mãnh liệt này, đã làm cho bằng chứng của Thánh Cả Giuse nên hoàn toàn giá trị. Thánh Cả đã đem tất cả tầng hữu thể sâu xa của mình để chứng minh mầu nhiệm làm Mẹ Đồng Trinh của Đức Maria, vì Thánh Cả đã chịu đau khổ vì mầu nhiệm ấy.

Niềm vui Thánh Cả đón nhận sứ điệp của thiên thần, sự mạc khải mầu nhiệm vĩ đại ấy cho Thánh Cả, càng vì thế mà lớn lao hơn. Niềm vui ấy đến tôn vinh hy sinh Thánh Cả đã chịu. Rốt cuộc, niềm vui ấy đã làm rạng sáng mầu nhiệm mà Thánh Cả làm chứng nhân ưu tuyển. 

Chương 5:

Tin báo cho Thánh Cả Giuse

Tin báo cho Thánh Cả Giuse là tin báo thứ ba trong Tân Ước. Cứ xét một mình nó, tin báo này cũng đã đủ để chứng tỏ tầm quan trọng của địa vị được uỷ thác cho Thánh Cả Giuse trong việc Thiên Chúa cứu độ loài người. Thật ra, như chúng ta đã thấy, tin báo đó không có cùng một tầm mức quyết định như tin báo cho Đức Maria, vì nó xảy ra sau biến cố chủ yếu của mầu nhiệm Nhập Thể. Tuy nhiên nó cũng chứng tỏ phẩm giá mà Thiên Chúa muốn nhìn nhận nơi Thánh Cả Giuse, vì Người gởi thẳng cho Thánh Cả một sứ giả để báo tin cho Thánh Cả về Tin Mừng vĩ đại đó. Soi sáng cho Đức Maria im lặng về những lời Chúa nói trong cuộc Truyền Tin cho Mẹ, Chúa đã dàh quyền thông trao cho vị-hôn-phu của Mẹ một sứ điệp, một sứ điệp hẳn sẽ làm cho vị-hôn-phu ấy cực kỳ hoan hỉ.

Mặt khác, sứ điệp đó bắt đầu bằng một lời chỉ dẫn về cách xử sự mà Thánh Cả Giuse phải thích ứng với: “Giuse, con Đavít, đừng sợ cưới Maria Bạn Ông, vì sự kiện xảy ra nơi Đức Nữ là do Chúa Thánh Thần mà ra đấy” (Mt 1,20).

Tin báo đến vừa lúc Thánh Cả Giuse dự tính thực hiện quyết định kín đáo từ bỏ Đức Maria. Sau khi đã để kế hoạch đó hình thành trong tâm trí Thánh Cả, Thiên Chúa bỗng dưng ngăn cản không cho Thánh Cả đem ra thi hành, và còn đặt ra cả một lối xử sự ngược hẳn lại; đó chính là Thiên Chúa cốt ý dẫn đưa cuộc đời Thánh Cả Giuse theo những nhãn quan thần linh đặc thù đánh đổ mọi dự phòng của loài người. Trong đó ta thấy có một dấu hiệu mới mẻ là: định mệnh Thánh Cả Giuse hoàn toàn nằm trong tay Thiên Chúa, được hướng dẫn theo một chương trình mà trí năng con người chỉ có thể chấp nhận cho xảy ra, chứ không làm chủ hay hiểu thấu được.

Những lời đầu tiên thiên thần nói cũng đặc biệt: “Đừng sợ…”. Sứ thần Gabriel cũng đã nói những lời ấy với Đức Maria, khi Mẹ bối rối vì nghe lời sứ thần chào kính Mẹ. Những lời đó tỏ rõ Thiên Chúa có ý nói với tư cách một bạn thân chứ không với tư cách một thẩm phán. Những lời đó mang lại sự bình an cao cả, có khả năng phá tan bất cứ một điều áy náy nào, một mối ưu tư nào, và làm yên lặng bất cứ một xúc động nào.

Trong tâm hồn Thánh Cả Giuse, cơn bối rối thực đã sâu sắc hơn trong tâm hồn Mẹ Maria, không phải vì thiên thần xuất hiện, nhưng vì cơn bối rối đó xảy ra sau khi toàn thể tấn thảm kịch Thánh Cả vừa mới sống, bởi không biết Người Con mà Đức thánh Trinh Nữ cưu mang xuất xứ từ đâu. Cho nên không những thiên thần trấn an cơn bối rối đó bằng cách tỏ cho Thánh Cả công việc lạ lùng Chúa Thánh Thần làm nơi Mẹ, mà còn xin Thánh Cả có ngay can đảm từ nay nhìn nhận mình là Cha của Người Con phát xuất từ Thiên Chúa ấy. Chính Thánh Cả đã từng lo ngại nhiều không dám nhận mình có quyền làm Cha Người Con mà Ngài không biết xuất xứ từ đâu kia, và vì lý do đó, Ngài đã muốn bỏ Đức Maria mà đi, thì giờ đây thiên thần lại xác nhận một địa vị làm Cha của Ngài đối với Người Con ấy, trong khi, cứ xét thông thường, thì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đảm nhận địa vị ấy được. Thiên thần đã khícn lệ Thánh Cả Giuse nhận lấy địa vị của chính Thiên Chúa vậy. Những lời “Đừng sợ” hoàn toàn có giá trị xét theo viễn tượng đó: những lời ấy đòi Thánh Cả Giuse cứ can đảm dấn thân chấp nhận quan hệ làm Cha, một quan hệ đáng lẽ phải là đặc quyền của Thiên Chúa.

Sự can đảm ấy còn xuất hiện trong một ánh sáng rạng rỡ hơn nữa khi thiên thần bắt đầu mạc khải sứ mạng của Người Con đó: Đức Maria “Sẽ sinh hạ một người Con Trai, mà ông sẽ đặt tên cho là Giêsu, vì Người Con ấy sẽ cứu vớt dân tộc mình khỏi tội lỗi” (Mt 1,21). Theo phong tục Do Thái chính người cha có quyền đặt tên cho con mình. Ở đây, tên mà Thánh Cả đặt cho sẽ biểu lộ rõ rằng tất cả định mệnh của Người Con mầu nhiệm: Người sẽ là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Chuộc dân tộc. Như vậy là trước khi đặt tên cho Con Trẻ, Thánh Cả Giuse đã phần nào hiến dâng Người Con ấy để làm sứ mạng cứu chuộc rồi.

Do đó, Thánh Cả Giuse không cần phải là chứng nhân của mầu nhiệm cứu rỗi sau này nữa. Thánh Cả đã được gọi đến cộng tác vào mầu nhiệm ấy với danh hiệu là Cha Đấng Cứu Chuộc. Cuộc sống của Thánh Cả đã tiếp nhận một chiều kích mới, một chiều kích thật hùng vĩ.

Sự cộng tác mà Thánh Cả Giuse phải cung xuất này, ngay từ lời chào đầu tiên, thiên thần đã liên kết nó vào nguồn gốc tông tộc Đavít của Thánh Cả: vừa tiếp gặp Ngài, thiên thần đã nói: “Giuse, con Đavít”, nghĩa là Chúa Giêsu sẽ thuộc về tông tộc Đavít qua quan hệ làm Cha của Thánh Cả Giuse vậy. Nhờ có quan hệ này, về sau, Chúa Giêsu mới có thể nhận danh hiệu là “Con Đavít” (Mt 9,27; 12,23; 15,22; 20,30t; 21,9.15; Mc 10,47t; Lc 18,38t). Khi danh hiệu ấy vang bên tai mình Chúa Giêsu lại chẳng nghĩ tới Thánh Cả Giuse hay sao? Danh hiệu đơn giản đó từng gợi lên mối liên hệ chặt chẽ hợp nhất định mệnh cứu thế của Chúa Cứu Chuộc lại với người thợ thủ công thuộc dòng dõi Đavít.

Khi trao lời cho Thánh Cả Giuse, thiên thần đặc biệt khích lệ Thánh Cả vui lên. Trước mặt Giacaria, thiên thần cũng đã từng ám chỉ đến hạnh phúc ông được qua người con Thiên Chúa ban cho ông: “Đối với ông, đó sẽ là nỗi hân hoan vui vẻ, và một số đông người sẽ hớn hở vì con ông sinh ra” (Lc 1,14). Trong tin báo cho Đức Maria, những lời đầu tiên cũng là những lời khích lệ vui mừng: “Vui lên! Trinh nữ đầy ân sủng” (Lc 1,28). Nếu khi nói với Thánh Cả Giuse đây, thiên thần không nói lên cùng một lời gọi mời đó, thì sứ điệp của thiên thần tự nó cũng đủ để khơi lên hân hoan và khoái thú trong tâm hồn Thánh Cả rồi.

Không những Thánh Cả Giuse thoát khỏi cơn xao xuyến dằn vặt trước khi được tin báo, mà tương lai còn giãi chiếu lạ lùng trước mặt Ngài. Giờ đây, Thánh Cả hiểu ra được Ngài phối hợp với Đức Maria sẽ đi tới kết quả nào.

Nói đúng ra, nếu Thánh Cả vui mừng khi tiếp nhận sứ điệp ấy, thì trước hết không phải vì Ngài, không phải vì cuộc sống cá nhân của Ngài được thay hình đổi dạng, nhưng vì cả thế giới được đổi dạng thay hình và được cứu sống. Từ nay, Đấng Cứu Thế không còn phải là một nhân vật xa xăm sẽ đến trong một thời đại tương lai vô định nữa: Người đã ở đó, ngay đây, liền bên cạnh; và Thánh Cả Giuse hân hoan vì đó thay cho loài người, thay cho dân tộc sắp được giải thoát khỏi tội lỗi. Trong tâm hồn của Thánh Cả Giuse nở lên một nguồn vui cứu thế, nguồn vui đã từng tràn ngập tâm hồn Đức Maria và bà Isave. Đó chính là nguồn vui của toàn thể thế giới ẩn kín trong Ngài; Thánh Cả Giuse miên man với nguồn vui ấy nhân danh tất cả những ai chưa biết đến Tin Mừng Ngài nhận được.

Tiếp theo, Thánh Cả Giuse lại cảm nghiệm một niềm vui là thấy cuộc phối hợp của Ngài với Đức Maria được củng cố. Trước kia Thánh Cả đã ngỡ rằng Người Con trong thai kia sắp phân rẽ Ngài khỏi Người Mẹ, sắp cấm không cho Ngài tới sống bên vị-hôn-thê mà Ngài yêu kính nữa. Sau tin báo của thiên thần, Thánh Cả thấy rằng Người Con đó, trái lại, sẽ nối kết một liên hệ còn bề chặt hơn nữa giữa Đức Maria và Ngài; Người Con đó sẽ đảm bảo cuộc phối hợp ấy một cách dứt khoát. Sau khi con như chia rẽ mối lương duyên, bây giờ Người Con đó lại chấp nối. Nghĩa là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc, hiện còn nhỏ xíu, song sẽ trở nên rất vĩ đại, đã xây lại tình mật thiết trong Thánh Cả Giuse và Đức Thánh Nữ Trinh.

Quả thật, tình mật thiết đó vừa được cơn thử thách làm cho nên vững mạnh biết mấy! Nỗi đau khổ chung cả hai cùng phải chịu đã chấm dứt ở nguồn vui rất sâu xa vì lại được cùng nhau tái hợp.

Lúc lại đến gặp Đức Maria, sau khi được tin báo, Thánh Cả Giuse nhìn Mẹ với nhiều tôn kính và thán phục hơn trước. Giờ đây, Thánh Cả thấy Mẹ xuất hiện bất khả xâm phạm hơn, Thánh Cả còn nhận ra Mẹ là phụ nữ độc nhất Chúa Thánh Thần đã làm nên một bà Mẹ. Thánh Cả hiểu ra rõ ràng hơn sự Đức Maria quyết định ở đồng trinh đã được Trời Cao linh ứng như thế nào; Thiên Chúa đã quyết định dàh giữ Mẹ cho Người để làm Mẹ nên Mẹ Thiên Chúa.

Sau khi Chúa Thánh Thần đặt vào lòng Đức Maria một hoa trái thánh đức mà chiếm đoạt Mẹ, mà lại trao Mẹ cho Thánh Cả Giuse làm Bạn Đường, Thánh Cả đã nhận ra lòng nhân từ của Thiên Chúa thật lạ lùng biết bao. Lúc gặp gỡ lần đầu, Thánh Cả coi Đức Maria là người được tình yêu Thiên Chúa tạo nên cho cuộc đời mình, bây giờ, một lần nữa, Thánh Cả tiếp nhận Mẹ như một tặng vật quý báu nhất, lộng lẫy nhất của tình yêu ấy.

Những ưu tư về trước của Thánh Cả đã tan ra như tuyết dưới ánh mặt trời, và Thánh Cả chỉ còn lại một niềm vui bao la vì gặp lại vị-hôn-thê đồng trinh của mình, vị-hôn-thê đã được tô điểm và trang sức mỹ lệ hơn, bằng một phẩm chức làm Mẹ tuyệt vời cao cả. 

Chương 6:

Lễ Thành Hôn

Qua lời thiên thần chỉ giáo, Thánh Cả Giuse biết rằng cuộc hôn phối của Thánh Cả đã được Thiên Chúa rõ ràng quyết định. Thánh Cả vội vã chu toàn Thánh ý Thiên Chúa vừa tỏ ra cho Ngài. Thánh Cả đón nhận Bạn mình về nhà “như lời thiên thần Chúa đã truyền bảo Ngài (Mt 1,24), theo lời Phúc Âm thuật lại.

Hễ đã đón nhận người vợ chưa cưới về nhà, là người chồng chưa cưới nhận người đó làm vợ mình. Theo thông tục Do Thái, hợp đồng căn bản của hôn nhân là hợp đồng đính hôn; cuộc đính hôn biến thành cuộc hôn phối từ lúc người vợ đến ở nhà người chồng. Cho nên, khi rước Đức Maria về nhà mình, Thánh Cả đã chính thức thành hôn với Mẹ.

Phúc Âm không nói gì đến các hoàn cảnh khác về lễ cưới này. Chắc chắn là cũng có lễ mừng và tiệc vui theo tập tục, nhưng một cách rất đơn giản thôi, vì cả hai họ đều không giầu có gì. Đó là một lễ cưới vào loại lễ mà Phúc Âm nói đến ở Cana, lúc Chúa Giêsu khởi sự cuộc đời công khai của Người.

Nói cho đúng thì lễ cưới ở Cana xảy ra ba mươi năm sau ấy, giúp ta hiểu ra được lễ cưới của Thánh Cả và Mẹ Maria đã tổ chức như thế nào, xét theo sự an bài những thực tại bên trong. Quả thật, những thực tại sâu xa ấy có thể hiện lộ rõ rệt hơn, qua một tượng trưng như sau:

Rượu thiếu ở tiệc cưới Cana sẽ là ngộ biến mang nặng một ý nghĩa tượng trưng. Nó khơi lên tính cách thiếu hụt dính liền với tình yêu nhân loại, tính cách tàn héo của một cuộc hôn nhân chỉ dựa trên sự phối hợp hai ý chí phải luỵ thuộc tính yếu đuối và thay đổi. Sự phối hợp này liều mình trở thành rất ngắn ngủi: một khi đã qua hứng thú buổi đầu, thì tình yêu thơ mộng và thú vị có thể tàn phai, và tình lưu luyến lẫn nhau có thể bị phản bội mau chóng. Rượu thiếu: đó là thú say sưa ban đầu bị tan biến, đôi bạn phối ngẫu bị tuyệt vọng và rồi cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, đe doạ phải rẽ thuý chia loan.

Chính lúc đó là lúc Chúa Giêsu can thiệp, theo lời xin của Mẹ Maria. Đến xin Chúa làm một phép lạ để cứu thể diện đám cưới, Mẹ Maria hẳn đã nhớ lại lễ cưới của riêeng Mẹ, lễ cưới suýt nữa bị triệt bỏ, phải có thiên thần hiện ra với Thánh Cả Giuse mới cứu vãn được. Nhiệt tâm và niềm tin vững cậy của lời Mẹ can thiệp đã xin được Chúa làm phép lạ. Ban dư đầy một thứ rượu hảo hạng, để cuộc lễ mừng được kéo dài, Chúa Giêsu tỏ cho ta biết: Người vừa ban cho việc hôn nhân một tình yêu mới, tình yêu của Người, để bảo đảm cho nó trở thành mối tình thiên thu bất diệt.

Trong trường hợp Thánh Cả Giuse, ý chí đã không hề nhu nhược, và tình yêu đã không hề thất vọng, đến có thể bội ước; nhưng cuộc Ngài phối hợp với Đức Maria lại bị đe doạ một cách khác. Quyết định mà Thánh Cả định tâm và theo những hoàn cảnh lúc ấy Ngài phải định tâm từ bỏ vị-hôn-thê của mình, quyết định ấy chứng tỏ rằng, nói theo kiểu loài người, thì cuộc hôn nhân đó đã tan vỡ. Chỉ có Chúa Giêsu hiện diện mới cứu vãn được.

Như sau này ở Cana, và bằng các trực tiếp hơn, sâu xa hơn, Đấng Cứu Chuộc đã duy trì cuộc hôn nhân đó một cách lạ lùng. Ở đây, Chúa không ban rượu ngon; Người ban chính mình Người làm nền tảng và lý do hiện hữu cho cuộc hôn nhân đó. Khi đem đặt mối tình tương hỗ của Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria dựa trên Người, Chúa đã ban cho mối tình đó nghị lực thần linh của Người và làm cho mối dây hôn nhân giữa Thánh Cả và Mẹ nên đá vàng trọn nghĩa. Chúa đã nối kết Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria bằng một mối tình thơm đẹp hơn, vì từ ngày ấy mối tình đó đã ăn rễ sâu trong chính tình yêu của Chúa.

Như vậy cuộc hôn nhân của Thánh Cả Giuse đã chứa đựng thực tại mà tiệc cưới ở Cana sau này sẽ đưa ra tượng trưng khuyến dụ. Tượng trưng đó vẫn tiếp tục giảng dạy một chân lý nền tảng về hôn nhân. Phàm cuộc phối hợp nào không xây trên tình yêu Chúa Kitô, trên sự hiện diện mầu nhiệm của Người trong tầng sâu thẳm của mọi tình lưy luyến chân thực, thì đều tạm bợ và xộc xệch như ván long đanh. Mặt khác, đó cũng chính là ý nghĩa mà chính nhiệm tích hôn phối muốn diễn tả và cung xuất: nhiệm tích ấy chỉ nghĩa tình yêu của Chúa Kitô đến năng đỡ, yêu thương mối tình phu phụ, nuôi cho mối tình này bền vững tới ngày đầu bạc răng long. Cuộc hôn nhân của Thánh Cả Giuse và Đức Maria không phải là một nhiệm tích, vì đã phối hợp trong chế độ Cựu Ước, và Chúa Kitô cũng chưa lập ra các nhiệm tích. Nhưng cuộc hôn nhân đó đã gồm gói thực tại sẽ làm nền tảng của nhiệm tích; nó tạo nên nguyên mẫu lý tưởng của hôn nhân Kitô giáo sau này.

Cho nên, việc tiếp tục nhìn cuộc hôn nhân của Thánh Cả Giuse để hiểu xem chừng nào mọi cuộc phối hợp giữa người nam người nữ phải được nuôi dưỡng ở nguồn mạch siêu nhiên là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Nhập Thể cũng kể là việc đáng công. Sự Ngôi Lời Nhập Thể Cứu Chuộc tạo nên giá trị nâng đỡ mọi cuộc hôn nhân. Có hai khía cạnh tỏ ra nổi vượt đến cảm kích trong cuộc phối hợp mà Thánh Cả Giuse ký kết. Một mặt, cuộc phối hợp ấy được việc Nhập Thể yêu sách phải có, được nối kết trong sự Chúa Kitô hiện diện, nghĩa là sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa đến cư ngụ trong tâm hồn con người. Mặt khác, cuộc phối hợp đó xảy ra từ một đau thương cứu chuộc, vì mối tình tương hỗ giữa Thánh Cả Giuse và Đức Nữ Maria đã vì sự Chúa Cứu Chuộc hiện diện ấy mà cần được củng cố bằng một đau khổ chung hai người phải chịu.

Cuộc hôn nhân của Thánh Cả Giuse dạy chúng ta biết cách nhìn bất cứ cuộc hôn nhân nào trong viễn tượng đó, phải nhìn nhận ra ở đó một việc vào cuộc của mầu nhiệm Nhập Thể Cứu Chuộc, phải nhìn nhận ra ở đó sự đem điền vào trái tim con người một tình yêu chí thánh đến thay hình đổi dạng nó, và liên kết nó vào một ơn ban rộng rãi hơn, mà đau khổ sẽ cộng tác vào một cách thiết yếu. Thật ra, sự Nhập Thể chỉ xảy ra trong lịch sử có một lần, và việc Thánh Cả Giuse chiếm hữu được biến cố lịch sử ấy ở đầu nguồn cuộc hôn nhân của Ngài, đó là một đặc ân rõ rệt. Nhưng mầu nhiệm Nhập Thể vẫn tiếp tục hoạt động trong các nhiệm tích, và chính mầu nhiệm ấy cũng thông trao cho việc hôn nhân bản thể siêu nhiên của nó. Như vậy, mặc dầu cứ lễ nghi bề ngoài, cuộc hôn nhân của Thánh Cả Giuse còn thuộc về Cựu Ước, nhưng nó đã là khởi sự của thể chế hôn nhân Kitô giáo rồi. Cho nên những Kitô hữu nào phối hợp với nhau theo nhiệm tích hôn phối, cần phải nhằm bắt chước Thánh Cả Giuse và Đức Nữ Maria, cần phải nhằm làm cho cuộc hôn nhân của họ nên một cuộc kéo dài và mộtp hương tiện diễn tả mầu nhiệm Nhập Thể Cứu Chuộc.

Giá trị hiện thực cuộc hôn phối của Thánh Cả Giuse còn tỏ rõ qua việc đặt cao người Con lên trước. Quả vậy, trong chương trình của Thiên Chúa, cuộc hôn nhân đó đã được sự hiện diện của Hài Nhi Giêsu chứng thực. Khi thiên thần đã khích lệ Thánh Cả Giuse cưới Đức Maria rồi, thì mục tiêu mà vị sứ giả của Thiên Chúa ấy theo đuổi, là cốt cung cho Hài Nhi Giêsu một người cha và một mái ấm gia đình.

Trong trường hợp ngoại lệ mà người Con đầu thai đồng trinh đi trước và đòi phải có cuộc hôn nhân ấy, ta thấy sáng lên chân lý rát quan trọng là sự phối hợp đôi bạn phải được chứng thực trước hết nơi người con sẽ sinh ra. Xem ra một số gia đình khó chạnh chân lý này. Người ta thường bị cám dỗ quá mạnh để cho tính ích kỷ len lỏi vào tình yêu, biến đổi tình yêu đôi bạn ít là phần nào trở thành thói xấu vụ tư lợi; họ không thể hiểu ra rằng, để thể hiện, thì tình yêu đó cần phải đi tới kết quả là con cái. Người ta thường khuyên đôi bạn nhìn nhận lẫn nhau, chứ không cần phải nhìn theo chiều hướng người con suyễn sinh ra nữa. Vì thế hôn nhân liều mình bị trệch mất mục đích, liều nguy bị dùng làm tấm bình phong che cho một ước muốn hưởng thụ, hay một khát vọng tình cảm bẻ gập lại chính mình, và không còn thích thuận với một ân ban chân thật nữa.

Bằng một mẫu gương tuyệt độ, cuộc hôn nhân của Thánh Cả Giuse tỏ rõ trật tự Thiên Chúa muốn có. Cuộc hôn nhân ấy nhắc nhở chúng ta rằng: hôn nhân được lập ra cốt để sinh con cái trước nhất.

Tuy nhiên, ta lại rất có thể xác định rằng: tình mật thiết của Đức Maria là một lợi ích hết sức cao cả, đến nỗi cứ đạt được lợi ích đó là có thể đã đạt được mục tiêu hôn nhân rồi. Tự nhận sống chung với một tâm hồn rất cao thượng, rất đẹp đẽ như linh hồn Đức Maria, để tiến về Thiên Chúa trên cùng một con đường, lại chẳng phải là mục tiêu đáng ca tụng nhất đó ư? Tuy nhiên, Thiên Chúa còn chỉ định cho cuộc phối hợp ấy một mục tiêu thiết yếu hơn nữa; Người muốn rằng Thánh Cả Giuse không những chỉ nếm hưởng tình mật thiết ấy vì nó, mà hoàn toàn còn phải hướng về Người Con. Thánh Cả Giuse đi vào bậc hôn nhân chỉ vì Người Con ấy. Thánh Cả còn đó để giúp cho những ai kết hôn có được một dự kiện tâm hồn tương tự, và được coi việc sinh con cái là mục đích thành tựu cuộc phối hợp của họ. 

Chương 7:

Bạn đường Đức Nữ Trinh

Khi “đón nhận Đức Maria về nhà mình”, Thánh Cả Giuse đưa Mẹ vào cuộc xống mật thiết của Ngài. Nhưng cho đúng hơn nữa thì phải nói là Thánh Cả đã đi vào tình mật thiết của Đức Maria, như là nhờ tiếp xúc với một linh hồn tốt đẹp hơn, phú quý hơn mà ta đi vào ảnh hưởng, vào phạm vi thấu nhập của linh hồn ấy ậy. Theo nghĩa ấy thì chính Đức Maria đã cưới Thánh Cả Giuse cách thiêng liêng về nhà mình.

Phàm tình mật thiết nào cũng có một cái gì không thể diễn tả; tình mật thiết ở đây còn không thể diễn tả hơn bất cứ tình mật thiết nào khác nữa. Tình mật thiết này vừa thuần hậu, vừa phú quý, vừa trong sáng, vừa sâu chìm, vì cả hai tâm hồn cùng đã tiếp nhận nhau trong một mối tình đằm thắm.

Khi Thánh Cả Giuse gặp gỡ dj, chính ân sủng siêu nhiên đã đặc biệt xúc động Thánh Cả. Thánh Cả cảm thấy một hứng vị cao vượt sản ra từ linh hồn trinh khiết của Mẹ, và sức quyến rũ Mẹ gây ra trên Thánh Cả là do một vẻ diễm lệ thánh đức mà ra. Cho nên hứng vị đó không phải là một ấn tượng ngoài mặt, chạm phải những thực tại thường nhật là tan vỡ; cũng không phải là vẻ lôi cuốn phù du, phai nhoà cùng với cái lộng lẫy của vẻ đẹp thể lý.

Hứng vị của Đức Nữ Maria vẫn tồn tại, và Thánh Cả Giuse thấy mình càng ngày càng thấm sâu vào hứng vị ấy. Ân sủng Thiên Chúa ban tràn đầy tâm hồn Mẹ thấm nhiễm lời nói và cử chỉ của Mẹ, làm xuất hiện ở đó một vẻ nhân hậu bình lặng và lan toả sáng ngời. Mỗi ngày Thánh Cả Giuse một bị quyến rũ một cách sâu xa hơn lúc gặp gỡ buổi đầu; và, cũng như ở buồi đầu gặp gỡ đó, chính Thiên Chúa đã chiếm đoạt Thánh Cả Giuse hơn qua Đức Maria.

Hứng vị siêu nhiên chung sống với Đức Maria là một sự nâng đỡ vĩ đại cho Thánh Cả Giuse, Đức thánh Trinh Nữ đã làm cho hạnh phúc nên đáng yêu và làm cho việc chu toàn bổn phận nên dễ dàng. Mẹ không vào số những người được ca tụng vì chính trực khổ hạnh, nhưng lại lạnh lùng đáng sợ và liều mình làm cho gánh bổn phận nên nặng nề. Mẹ tạo nên hạnh phúc cách dễ dàng, và chu toàn hết mọi bổn phận của Mẹ với một tình yêu làm nổi bật khía cạnh hứng khoái của bổn phận đó, ân sủng tràn đầy nơi Mẹ hiện lộ ra ở  nụ cười tươi vui khi âm thầm chu toàn những công việc hết sức khó nhọc đối với Mẹ; tình yêu của Mẹ nên hân hoan để được hoàn bị. Thánh Cả Giuse đã tiếp nhận từ đó một an ủi thường xuyên.

Đổi lại, Thánh Cả Giuse cũng là sự nâng đỡ của Mẹ Maria. Những đức tính tín trung, bền vững, can đảm bằng phẳng nhưng mạnh mẽ, trung thành tuyệt đối và tận tâm hoàn toàn của Thánh Cả đã là một sự cứu trợ to lớn đối với Đức Nữ Trinh. Những đức tính ấy cộng tác vào việc không ngừng xe bền cuộc phối hợp của hai người, làm rộ nở lên trong đó một nhiệt tâm sốt sắng.

Vì nếu Thánh Cả Giuse không hề bị thất vọng vì Đức Nữ mà Thánh Cả đã chọn làm vợ hiền, thì Đức Maria cũng không hề thất vọng vì trang thanh niên mà Chúa Quan Phòng đã cho Mẹ để làm chồng tốt. Thánh Cả Giuse biết giữ vuông tròn tất cả mọi lời ước ngọc thề vàng, tất cả mọi lời cam kết của hôn nhân. Nhờ nhận biết Thánh Cả cách thân mật hơn trong cuộc chung sống mà Đức Maria cảm thấy lòng mình thêm kính trọng Thánh Cả. Thánh Cả Giuse thật là một ông chồng gương mẫu.

Thánh Cả là người chồng gương mẫu không những vì Ngài mang lại cho cuộc hôn phối ấy những bổn phận y như người ta mong đợi ở một ông chồng, mà còn vì Ngài hoàn toàn tích cực chia sẻ với Đức Maria trong việc phục vụ công cuộc mà hai Đấng phải thực hiện. Công cuộc đó là chuẩn bị cho thế giới đón nhận Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu độ nó. Từ ngày truyền tin, Đức Maria đã chỉ sống vì mục đích ấy; khi đem hết tâm hồn chia sẻ mối ưu tư ấy của Mẹ, Thánh Cả Giuse biến lý do sống của Đức Maria nên của mình, và đem cả tâm hồn cộng thông vào tới mức độ sâu xa nhất. Từ đó, tình Thánh Cả yêu mến gia đình trở thành tình yêu thương toàn thể nhân loại, vì gia đình Thánh Cả hiện hữu chỉ là để ban một Đấng Cứu Chuộc cho loài người.

Theo cách xử sự đó, tình mật thiết giữa Thánh Cả Giuse và Đức Maria chẳng có chút gì là của một cuộc phối hợp đóng kín nơi mình. Hạnh phúc của mối tình đó không muốn tự giấu ẩn trong một nơn an toàn tường cao cổng kín, làm nên một dấu ngoặc trong định mệnh thế giới và không dính dấp gì với vũ trụ, để hưởng thụ dòng đời bình lặng của mình mãi hơn lên. Trong ý chí của Thánh Cả Giuse cũng như trong ý chí của Đấng Hiền Thê Ngài, hạnh phúc ấy quy tụ trên sự hiện diện của Đấng Cứu Chuộc toàn thể thế gian, và ước mong được cùng với sự hiện diện đó, thông trao mình cho toàn thể cộng đồng nhân loại.

Mục tiêu bao la ấy phải mang lại cho tình mật thiết kia một khoái thú không ngừng làm giãn nở tâm hồn. Khi nhìn thấy công cuộc vĩ đại được tiên báo ấy, Thánh Cả Giuse hẳn đã nhận ra cuộc đời làm Bạn Đường với Đấng Mẹ Chúa Cứu Thế là cuộc đời phấn khích.

Tình mật thiết giữa Thánh Cả Giuse với Đức Maria, qua rất nhiều khía cạnh, là một tình mật thiết độc nhất đáng ta noi theo. Mối tình ấy vừa là mối tình đôi bạn, vừa là mối tình trinh khiết, nhằm cung xuất một trung tâm tình yêu cho việc phát triển của Người Con sắp cứu chuộc thế gian.

Nhưng qua một số khía cạnh đặc trưng, tình mật thiết ấy lại tạo nên mô phạm cho những liên hệ yêu đương phải hợp nhất Kitô hữu lại với Đức thánh Trinh Nữ. Một điều thật có ý nghĩa cao cả là cử chỉ đưa Thánh Cả Giuse vào tình mật thiết của Đức Maria lại được Phúc Âm nhắn đến lần thứ hai nữa, trong những hoàn cảnh hoàn toàn khác biệt, và không liên hệ gì đến Thánh Cả Giuse nữa, nhưng liên hệ đến môn đệ dấu yêu của Chúa Giêsu.

Để chu toàn điều thiên thần xin Ngài làm, Thánh Cả Giuse đã đón nhận Đức Maria về nhà mình. Khi ở dưới chân Thánh Giá sau này, theo Phúc Âm thuật lại, lúc nghe di ngôn cảm kích của Thầy lâm cơn hấp hối: “Đây là Mẹ con”, môn đệ dấu yêu ấy cũng hành động như vậy, đó là: “Từ giờ phút ấy, môn đệ đó đã đón nhận Mẹ về nhà mình” (Ga 19,27).

Môn đệ dấu yêu ấy, trong tấn thảm kịch vĩnh quyết trên đồi Canvê, đã đại diện cho bất cứ môn đệ nào của Chúa Kitô, với tư cách được Chúa Giêsu yêu thương và tiếp nhận Mẹ Maria từ nơi Chúa làm Mẹ mình, nên, theo một nghĩa nào đó, bất cứ Kitô hữu nào cũng phải làm lại cử chỉ của tông đồ Gioan. Ai nấy đều phải đón nhận Đức Maria về nhà mình, tức là phải tiếp nhận Mẹ vào tâm hồn mình, sống mật thiết với Mẹ và hiến dâng Mẹ tình yêu xứng với một người Mẹ.

Từ đó ta hiểu ra chừng nào tình mật thiết ở gia đình Nazarét là khởi điểm và là mô phạm của tình mật thiết giữa các Kitô hữu với Đức Thánh Nữ Đồng Trinh. Cho nên Thánh Cả Giuse đã chiếm một địa vị đúng đắn để khích lệ tình mật thiết này. Nếu lời Chúa Kitô trối lại cho môn đệ dấu yếu trở nên nguyên tắc tôn sùng đối với Mẹ Maria mà tất cả các môn đệ đều phải tuân theo, thì ta liền nhận ra ngay địa vị mà Thánh Cả Giuse đã được mời giữ trong việc phát huy lòng tôn sùng ấy.

Ngay trước khi Chúa Cứu Chuộc phán dạy, Thánh Cả Giuse đã thực hiện tình yêu mật thiết hoàn thiện hợp nhất với Mẹ Maria, một tình yêu tạo nên một chiều kích của đời sống Kitô giáo. Như vậy là Thánh Cả đã giúp đỡ Kitô hữu đón nhận Đức Maria về nhà họ, dâng kính Mẹ một địa vị tuyệt hảo trong tư tưởng và tâm tình của họ, sống sát khít bên Mẹ, bằng cách dâng Mẹ lòng kính tôn, và tin tưởng phó thác nơi Mẹ. Thánh Cả đã giúp họ, để họ được chiếm đoạt do bàn tay Đức Thánh Trinh Nữ, do ánh toả chiếu của ân sủng đầy tràn nơi Mẹ, do sự hiện diện tươi cười quyến rũ của Mẹ, do bầu khí trinh trong bao quanh Mẹ.

Vì nếp sống chung của Thánh Cả Giuse với Đức Nữ Maria là một hiệp thông lý tưởng, nên Thánh Cả đặc biệt giúp Kitô hữu chia sẻ lý tưởng của Đức thánh Trinh Nữ, giúp họ mong muốn cộng tác với Mẹ trong công cuộc vĩ đại cứu độ loài người. Thánh Cả làm cho họ khát vọng những gì làm nên đối tượng của hết mọi ước mong và toàn thể hoạt động của Mẹ Maria, tức là Chúa Cứu Chuộc đến chiếm ngự thế gian mỗi ngày một thêm rộng.

Như vậy, Thánh Cả Giuse hướng lòng tôn sùng Mẹ Maria về viễn tượng nền tảng của nó, bằng cách làm nó đạt tới chỗ luyến kết với Chúa Kitô ở mức độ cao cả nhất. Và Thánh Cả rộng mở nó ra trên vòng chân trời nhân loại phải cứu độ. Tình yêu thơ thảo mà Kitô hữu chứng tỏ với Đức thánh Trinh Nữ sẽ trở nên mật thiết thuần hậu hơn tình mật thiết giữa con với mẹ, nó trở nên việc cộng tác với Mẹ Maria trong kế hoạch vĩ đại giải thoát và thánh hoá các linh hồn.

Đón nhận Đức Maria về nhà mình, đó là tự mở rộng mình ra cho niềm cậy trông và mến yêu phổ quát của Mẹ vậy. 

Chương 8:

Chúa Cứu Thế giáng sinh

Khi biết rằng việc đăng ký hộ tịch bắt buộc Ngài phải trở về Belem ngay, Thánh Cả Giuse đã hết sức bối rối. Đức Maria hẳn phải đi với Thánh Cả. Thế mà Mẹ lại sắp khai hoa nở nhuỵ vào một ngày rất gần, nên Thánh Cả tự hỏi không biết Mẹ có đủ sức để dấn thân vào cuộc hành trình đằng đẵng ấy không. Hơn nữa, Thánh Cả Giuse còn e ngại nỡ ra ngay trong lúc hành trình Mẹ sẽ lâm bồn. Thánh Cả rất buồn phiền vì phải rời bỏ ngôi nhà ở Nazarét, nơi tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng chờ ngày giáng sinh Chúa Hài Nhi. Thật, Thánh Cả đã muốn tránh cho Đấng Hiền Thê của mình khỏi phải chịu nỗi đau khổ phiền sầu ấy biết bao.

Nhưng Thánh Cả Giuse lại không thể tránh trút trách vụ Ngài phải chu toàn. Với một cảm thức siêu nhiên vốn đặc biệt nói lên cách nhìn của Ngài, Thánh Cả nhận ra trong sắc lệnh đăng ký hộ tịch ấy một biểu thị rõ ràng của thánh ý Thiên Chúa. Thật là một thánh ý gây ngỡ ngàng chưng hửng, đảo lộ tất cả những phòng ngừa theo kiểu loài người. Tuy nhiên, đó lại chẳng phải là dấu hiệu tỏ rõ Thiên Chúa nắm trong tay Người, một cách rất cảm kích, vận mệnh Hài Nhi mầu nhiệm, và đích thân muốn định đoạt những hoàn cảnh của việc Hài Nhi ấy sinh ra đó ư? Đối với Thánh Cả Giuse, như vậy, trẩy đi về phía mịt mờ đó chính là trẩy đi về chỗ Thiên Chúa muốn và định đoạt, trong sự minh triết không ai hiểu thấu của người.

Cho nên Thánh Cả đã tin tưởng lên đường. Ta đoán được Thánh Cả đã ân cần săn sóc cho Đức Maria đến mức nào, Thánh Cả đem hết khả năng để làm dịu bớt những nỗi đường trường vất vả. Nhưng con số quá nhiều người cũng phải hồi hương vào dịp đăng ký nhân khẩu ấy đã khơi dậy một trở ngại không nhỏ ở những nơi ăn chỗ nghỉ. Thánh Cả Giuse lại nghèo, nên không thể dễ dàng tìm được nơi nghỉ sức mà Ngài muốn tặng cho Đức Hiền Thê của Ngài. Trở ngại đó đã bắt buộc Thánh Cả, khi tới Belem, phải tìm nơi trú ngụ trong một cái hang vẫn dùng làm chỗ ẩn trú cho loài vật.

Khi thuật lại rằng “không có chỗ cho hai người trọ trong hàng quán” (Lc 2,7), Phúc Âm cho ta thoán gnhìn thấy niềm hy vọng mà, khi tới nơi, Thánh Cả Giuse mong tìm thấy dấu chỉ một góc xó trong hàng quán để có thể đảm bảo cho Đức Maria một nơi nghỉ ngơi tốt. Phúc Âm cũng cho ta hiểu ra sự thật vọng của Thánh Cả. Chắc chắn, nếu Thánh Cả giàu có, thì hẳn người ta sẽ mời mọc tiếp rước Ngài. Thánh ký nói rõ không có chỗ cho “hai người” trọ. Ta đoán ra được sự nhục nhã Thánh Cả Giuse cảm nghiệm khi thấy mình bị hất hủi, và nỗi cực lòng của Ngài khi phải đi ra ngoài thành để tìm một nơi trú tạm bợ, một cái chuồng bò.

Tuy nhiên, khi đi vận động mà không kết quả như vậy, Thánh Cả Giuse đã phác hoạ tấn thảm kịch cứu thế sau này mà không biết. Sự nhục nhã vì không tìm được nơi tạm trú trong thành quê hương mình, thành quê hương Đavít, đã dạo trước sự nhục nhã còn sâu sắc hơn nữa mà Chúa Cứu Chuộc sẽ cảm nghiệm sau này: “Người đến nhà Người, mà gia nhân Người đã không đón nhận Người” (Ga 1,11). Chúa Giêsu sẽ bị người đồng chủng hất hủi, những người đáng lẽ phải tiếp nhận Người. Theo kế hoạch của Thiên Chúa, sự thất bại, sự bạc đãi ấy hpải được khắc ghi ngay trong những hoàn cảnh của việc Chúa Giáng Sinh.

Nếu khi hiệp trợ những biến cố đánh dấu ngày Chúa Giáng Sinh ấy, Thánh Cả Giuse đã đưa Chúa đến sinh ra tại Belem, vì chính gốc tổ Đavít đã là duyên cớ để Ngài lên đường hồi hương, thì Thánh Cả cũng phải cộng tác để làm cho cuộc Giáng Sinh ấy nên một hình ảnh trước của lễ hy sinh Cứu Chuộc. Chính Chúa Giêsu đã nhờ Thánh Cả Giuse để tìm cách làm cho gia tộc mình, thành quê hương mình tiếp nhận mình, với tư cách một người nghèo, mà Người đã không thành công. Thánh Cả Giuse chỉ là sứ giả của Chúa Hài Nhi. Ở Belem sự cao cả của Thánh Cả Giuse là nhân danh Chúa Giêsu mà dấn thân vào con đường nhục nhã cứu chuộc ấy.

Ngoài ra, những hoàn cảh đau khổ lúc ấy cũng là giá mua quan hệ làm Cha mà Thánh Cả Giuse muốn đảm nhận đối với Chúa Hài Nhi. Sau này, thánh Phaolô cũng sẽ nhấn mạnh đến những đau khổ làm ông đáng được chức vụ làm cha thiêng liêng của giáo đoàn Galata: “Hỡi các con nhỏ, cha lại sinh ra các con lần nữa trong đau khổ, cho tới khi Chúa Giêsu hình thành trong các con” (Gl 4,19). Quan hệ làm cha cũng đòi Thánh Cả Giuse phải chịu những đau khổ tinh thần, nhất là khi các tiên tri đã từng tiên báo cuộc sinh hạ cứu thế là một cuộc sinh hạ trong đau khổ. Thánh Cả Giuse đã thông phần vào cuộc sinh hạ đau thương ấy.

Thế nên, trước hết phải áp dụng vào Thánh Cả bài học mà sau này Chúa Kitô sẽ áp dung cho các môn đệ trước viễn cảnh đau thương của việc cứu chuộc: “Người mẹ lúc sinh con nghiệm thấy đau buồn, vì giờ của bà đã tới; nhưng khi đã mẹ tròn con vuông rồi thì bà không còn nhớ tới đau khổ nữa, mà vui mừng vì một người đã sinh vào thế gian” (Ga 16,21). Ta hiểu ra rằng nếu con đường của các môn đệ Chúa Kitô phải băng qua đau khổ, thì quan hệ làm cha của Thánh Cả Giuse còn bắt Thánh Cả phải chịu nhiều đau khổ hơn nữa.

Nhưng từ dahỏ này sẽ vọt lên một nguồn vui còn lớn lao hơn nhiều. Khi Thánh Cả Giuse nhìn thấy Chúa Hài Nhi, kèm theo niềm hạnh phúc của Đức Maria lần đầu tiên ôm chặt Người trên tay, thì kỷ niệm đau khổ nào cũng tan biến. Trong tâm hồn Thánh Cả, cũng như trong tâm hồn Đức Hiền Thê của Ngài, chỉ còn một hân hoan là ngắm nhìn Hài Nhi lạ lùng ấy. Nụ cười toả sáng của Đức Maria cũng được thông trao sang Thánh Cả.

Đó không phải chỉ là niềm vui của một cuộc sinh hạ, không phải chỉ là hạnh phúc tiềm mật tràn lan từ sự em bé sơ sinh hiện diện. Đó là niềm vui nhìn thấy Đấng Cứu Thế, Đấng cứu độ loài người. Rồi đây Chúa Cứu Thế sẽ được giới thiệu với Simêon, vị lão đại khi ẵm bế Chúa Hài Nhi trên tay sẽ cảm thấy mình hoàn toàn thoả mãn để xin được chấm dứt cuộc đời, và không còn ước muốn một điều gì khác nữa. Trước ông già Simêon, Thánh Cả Giuse đã được đặc ân chiêm ngắm Hài Nhi mà toàn dân Do Thái từng mong đợi, toàn thể hy vọng của họ đều hướng về.

Khi ngắm nhìn Chúa Giêsu bằng cùng một ánh nhìn say mê như Đức Maria, Thánh Cả Giuse lại chẳng đại diện cho tất cả những ai trong loài người mong chờ một Đấng Cứu Chuộc đó ư? Và Thánh Cả lại chẳng nhân danh tất cả họ mà hoan hỉ, như Thánh Cả đã từng hoan hỉ nhân danh họ khi được sứ thần báo tin Đức Maria thụ thai kỳ diệu đó ư? Đấng Cứu Thế hiện ở đó, trong một thế giới hết sức cần được cứu độ và chắc chắn sẽ được cứu độ.

Việc các mục tử đến Belem làm vững mạnh thêm niền hoan hỉ này. Họ vào hang đá mà hẳn trước kia họ cũng đã từng tìm đến, “Và họ gặp thấy Đức Maria, Thánh Cả Giuse và Chúa Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16). Theo lời Phúc Âm thuật lại, các mục tử đã gặp thấy Đức Maria và Thánh Cả Giuse trước khi nhận ra Chúa Hài Nhi, như là phải nhờ hai Ngài mới gặp được Chúa Cứu Thế. Nghĩa là từ đó, Thánh Cả Giuse cùng với Đức Nữ Maria sẽ không thể nào tách rời khỏi Chúa Cứu Thế được nữa. Khi các mục tử bắt đầu thuật lại những điều sứ thần loan báo cho họ về Hài Nhi, thì thật là sửng sốt lạ lùng. Thánh Cả Giuse và Đức Nữ Maria đã biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế; nhưng được nghe các mục tử lặp lại việc đó thì hai Ngài càng thêm hân hoan vui sướng, và do đó, hai Ngài chỉ việc ca tụng Hài Nhi thơ bé hơn lên thôi. Hai Ngài sung sướng vì thấy niềm vui của mình được người khác chia sẻ, những người bình dân mà Chúa đã ưu ái mạc khải mình ra cho họ biết.

Sự kiện các mục tử thăm viếng hang đá chấm dứt việc tỏ ra cho Thánh Cả Giuse ý nghĩa cuộc hành trình của Ngài về Belem, và sự không thể tìm được một nơi trú ngụ nào khác ngoài cái hang loài vật. Chúa Giêsu phải giáng sinh trong vương thành Đavít, nhưng lại phải nằm vào một máng ăn của bò lừa, để làm dấu hiệu đặc biệt cho người ta nhận biết. Sứ thần đã chỉ chính dấu hiệu đó cho mục tử.

Chương trình củ athch, thoạt nhìn thì rất ngỡ ngàng, nhưng rốt cuộc lại tỏ ra thật oai phong minh triết; và những phiền sầu, những đau khổ Người bắt Thánh Cả Giuse phải chịu, giờ đây đã bộc lộ ra hết ý nghĩa của chúng trước mặt Ngài. Tất cả đều phải cộng tác vào việc làm cho Đấng Cứu Thế nên một người nghèo hơn hết các người nghèo khác; máng cỏ vẫn mãi mãi là dấu hiệu của sự khó nghèo đó. Niềm vui Chúa Cứu Thế giáng sinh được dành để tặng giới nghèo trước tiên. Vì thế, hạnh phúc của Thánh Cả Giuse thật là tràn đầy. Ta phải tự tước lột tất cả mới chiếm hữu được Chúa Kitô, và đó là việc Thánh Cả Giuse vừa thực hiện. Sự cùng quẫn đã trở nên phú quý cực độ vậy.

Chương 9:

Người Cha của Chúa Giêsu

Khi nhìn thấy Chúa Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ, Thánh Cả Giuse tán tụng Chúa, yêu mến Chúa như con của Ngài. Mặc dầu hoàn toàn không can thiệp gì vào việc hình thành thể xác Chúa Hài Nhi, nhưng Thánh Cả Giuse cũng thật là Cha của Chúa, và phải xử sự như Cha của Chúa. Theo lời sứ thần chỉ dẫn, Thánh Cả liền đặt tên Giêsu cho Hài Nhi để chứng thực Ngài là Cha của Chúa.

Rõ ràng là đovó những ai chỉ căn cứ vào việc sinh hạ Người Con về thể lý mà nhìn nhận quan hệ làm cha, thì Thánh Cả Giuse không thể nào được gọi là Cha của Chúa Giêsu. Nhưng đúng ra còn có nhiều khía cạnh khác trong quan hệ làm cha của Thánh Cả Giuse, mà là những khía cạnh quan trọng hơn khía cạnh sinh ra thể xác nữa. Ta cứ nhớ lại rằng quan hệ làm cha đầu tiên bất cứ một người con nào sắp sinh vào đời cũng là quan hệ làm cha của chính Thiên Chúa, lại chẳng đủ lẽ đó ư?

Xét theo đặc tính rất thiêng liêng của nó, thì quan hệ làm cha của Thánh Cả Giuse tương cận với quan hệ làm cha của Thiên Chúa. Quan hệ ấy mang theo tất cả những yếu tố có trong quan hệ làm cha nhân loại, chỉ trừ có khía cạnh sinh ra thể xác. Nhất là quan hệ ấy đặt Thánh Cả Giuse vào sứ mạng giáo dục, tạo nên giữa Thánh Cả và Chúa Giêsu những quan hệ tình cảm y như giữa một người cha khác và đứa con do người đó sinh ra. Ta phải thú nhận rằng thật khó dùng một danh từ nào đdể diễn tả quan hệ làm cha ấy của Thánh Cả Giuse. Nhưng lối diễn tả người ta thường dùng không phải lúc nào cũng thích thuận và chính xác cả, hoặc là nó rõ rràng còn thiếu sót.

Thế nên, Thánh Cả Giuse không phải chỉ là cha pháp lý của Chúa Hài Nhi. Trước pháp luật, Thánh Cả là Cha; nhưng giữa Thánh Cả và Chúa Giêsu không hpải chỉ có liên hệ pháp lý ấy. Cách xử sự hiếu tử của Chúa Giêsu đối với Thánh Cả Giuse không thuộc vào một thứ nghi chế pháp luật đơn giản.

Thành ngữ Cha như thức cũng hoàn toàn khiếm khuyết. Nó có nghĩa là Thánh Cả Giuse chỉ có tiếng là cha; nó có nghĩa là theo dư luận thì người ta coi Thánh Cả như là Cha của Chúa Giêsu. Trên thực tế thì đó là ý nghĩ chung của người Do Thái, vì Thánh Luca có viết “theo như người ta nghĩ, Chúa Giêsu là con Thánh Cả Giuse” (Lc 3,23). Nhưng quan hệ làm cha của Thánh Cả không phải là bề mặt trước dư luận; quan hệ ấy có thực tại đặc thù của nó.

Gọi Thánh Cả Giuse là nghĩa phụ thì không định nghĩa đúng được tư thế của Thánh Cả. Một dưỡng tử (con nuôi) là một đứa con ở ngoài hôn nhân; sự thừa nhận làm con đem nó vào một gia đình không phả là gia đình gốc của nó: đó không phải là trường hợp của Chúa Giêsu. Mặt khác, Thánh Cả Giuse đã không làm một khế ước thừa nhận nào đối với Chúa Giêsu: Thánh Cả trở nên Cha của Chúa Giêsu do sự kiện Ngài là phu quân của Đức Maria.

Thường người ta cũng gọi Thánh Cả là Cha nuôi Chúa Giêsu. Danh hiệu này có cái bất tiện là giới hạn địa vị Thánh Cả Giuse vào một phân vụ chu cấp những nhu cầu vật chất cho Chúa Hài Nhi, và dường như làm cho quan hệ làm Cha của Thánh Cả trở nên một thứ bổ khuyết, chỉ có thiện chí và lòng quảng đại của Thánh Cả làm nền tảng mà thôi. Nhưng nền tảng quan hệ làm cha của Thánh Cả thực tế lại là chính cuộc hôn nhân của Thánh Cả, và phận vụ làm cha của Thánh Cả đã hết sức vượt lên trên việc chỉ chu cấp lương thực và các nhu cầu vật chất khác cho gia đình mà Thánh Cả đã được uỷ thác.

Ngược lại, danh xưng Cha thiêng liêng mà đô lần có người áp dụng cho Thánh Cả, không phải là danh xưng thích thuận, vì nó quá dễ dàng gợi lên một chức vụ làm cha trong phạm vi tư tưởng, hay sự hướng dẫn một linh hồn đến xin chỉ dẫn trong đời sống thiêng liêng.

Trong tất cả các danh hieệu mà người ta từng thử gọi Thánh Cả, có lẽ danh hiệu đúng nhất là danh hiệu Cha đồng trinh. Quả thật, danh hiệu này thích thuận nhất cho ta thấy được Thánh Cả Giuse chiếm hữu tất cả những yếu tố tạo nên quan hệ làm cha trong nhân loại, trừ sự sản sinh thể lý. Chắc chắn danh hiệu này cũng chưa được hoàn toàn rõ nghĩa. Nó tỏ rõ quan hệ làm cha của Thánh Cả Giuse có một tương tự với quan hệ làm mẹ đồng trinh của Đức Mẹ Maria; mà so sánh với quan hệ làm mẹ này thì quan hệ làm cha của Thánh Cả Giuse có một dị biệt căn bản, xét vì Đức Maria đã cộng tác vào việc cấu tạo thể xác Chúa Hài Nhi mà vẫn còn nguyên vẹn đồng trinh, còn đối với Thánh Cả Giuse thì không như vậy. Nhưng trừ yếu tố đó ra, thì ta có hể thừa nhận danh hiệu Cha đồng trinh là danh hiệu thích hợp nhất với tình trạng ngoại thường của Thánh Cả Giuse.

Tuy nhiên, thực tế mới quan trọng hơn danh hiệu: ta phải nhìn nhận rằng Thánh Cả Giuse có một quan hệ cha con thực sự với Chúa Giêsu. Ta biết Chúa Giêsu từng nhìn nhận Thánh Cả Giuse làm Cha của Người, và đối xử với Thánh Cả y như một người con đối xử với cha mình. Bằng chứng của người thành Nazarét, những người từng nhìn nhận Chúa là con của Thánh Gia và không bao giờ nhận định một điều gì có thể hồ nghi quan hệ làm cha ấy, bằng chứng ấy đã đủ để ta tin nhận rằng Thánh Cả Giuse và Chúa Giêsu đã hành xử như cha với con. Ngoài ra, ta còn một bằng chứng trực tiếp hơn nữa, đó là bằng chứng của Đức Maria nói lên với Chúa Giêsu khi Mẹ tìm lại Chúa trong đền thờ: “Cha Con và Mẹ…” (Lc 2,48). Bằng chứng ấy tỏ ra rõ rằng trong mối thâm tình ở gia đình Nazarét, Thánh Cả Giuse vẫn luôn luôn được nhìn nhận là Cha của Chúa Hài Nhi.

Mà nếu Chúa Giêsu đã nhìn nhận Thánh Cả Giuse là cha của Chúa, thì Chúa đã chẳng nhìn nhận như vậy theo cách thức một nghi chế pháp luật, một sự “dường như” không ứng được với thực tế. Thánh Cả Giuse đã thực sự ở cương vị một người cha: Thánh Cả là phu quân thực sự của Đức Maria, là gia trưởng của một gia đình thực sự được lập nên do cuộc hôn nhân thực sự, và Chúa Giêsu đã sinh ra trong cuộc hôn nhân ấy. Cho nên Thánh Cả Giuse đã thi hành quyến bính một người cha; đã tỏ lộ mối ân cần và tình tận tâm của một bậc cha hiền; Thánh Cả đã từng được Chúa Hài Nhi kính ái, tuân phục và tin cậy. Khi Chúa Giêsu gọi Thánh Cả bằng danh xưng Cha, Chúa đã đặt vào tiếng gọi đó tất cả tâm hồn con thảo của Chúa; và tiếng gọi đó từng làm rung động đến tầng sâu thẳm tâm hồn cha hiền của Thánh Cả Giuse.

Thật ra, Chúa Giêsu đã có một người Cha khác, Người Cha trên trời, Người Cha mà Chúa đã là Con của Người từ đời đời. Rất có thể ta ngờ rằng như thế thì Chúa không thể nào lại có được một người cha nhân loại, không thể nào lại xứ với một con người như cha mình, yêu mến người đó như cha, không thể nào lại khuất luỵ ảnh hưởng của người cha ấy được. Cha hằng hữu, với một quan hệ làm cha hoàn hảo, lại không phải là Cha chuyên hữu của Chúa Giêsu đó sao? Nhưng, qua ơn  Nhập Thể, chính Cha trên trời ấy lại đã quyết muốn Con của Cha có một người cha nhân loại, và để người cha nhân loại này hướng dẫn, giáo dục. Như vậy, quan hệ làm cha của Thánh Cả Giuse là một trong những kỳ diệu gồm chứa trong ơn Nhập Thể; và chứng tỏ mầu nhiệm Nhập Thể đó đã hoàn bị đến mức nào, cũng như Ngôi Lời hoá thành nhục thể đã là một người con y hệt như những người con khác đến mức nào.

Ở đây, ta thấy tỏ hiện mầu nhiệm kín ẩn trong quan hệ làm ch ấy của Thánh Cả Giuse. Người thợ thủ công ở Nazarét ấy chỉ có thể trở nên cha của Chúa Giêsu bằng cách chính mình là một hình ảnh của Cha trên trời. Trước mặt Chúa Hài Nhi, Thánh Cả Giuse phải mô tả được Cha trên trời, phải giữ địa vị của Cha. Thế nên, vì sự tuyển chọn của Thiên Chúa đã tiền định Thánh Cả Giuse trở nên phu quân của Đức Maria, nên, qua một việc làm âm thầm của Chúa Thánh Thần, Thánh Cả đã được chuẩn bị một sứ mệnh làm cha cao cả ấy. Linh hồn Thánh Cả Giuse đã được đúc nặn tương tự như Cha trên trời. Linh hồn ấy đã được tràn đầy nhân ái mô phỏng sự nhân ái vô cùng của Cha.

Vì thế Chúa Giêsu đã say mê sung sướng vì tìm được nơi Thánh Cả Giuse những đường nét gợi lại gương mặt thần linh của Cha thiên quốc. Khi yêu mến người cha nhân loại này, Chúa đã lại dâng tình yêu của Người lên tới tận Cha hằng hữu, mà một hình ảnh hết sức lôi cuốn đã được tặng cho Người nơi Thánh Cả Giuse.

Cả đến yếu tố mà ta xem ra tinh giảm quan hệ làm cha của Thánh Cả Giuse, tức sự kiện Thánh Cả đã không cộng tác vào việc sản sinh Chúa về phần xác, cũng lại nhấn mạnh sự Ngài tương tự với Cha trên trời. Là Cha đồng trinh, Thánh Cả Giuse mới có thể là hình ảnh của một Người Cha sản sinh hoàn toàn thiêng liêng mầu nhiệm.

Từ đó ta lượng được những chiều kích thực sự về quan hệ làm cha của Thánh Cả Giuse. Quan hệ này trở nên lớn lao vì nó đem một người cha nhân loại tặng cho Đấng từng là Con Thiên Chúa; qua chính phẩm vị của Chúa Giêsu, quan hệ làm cha ấy nâng Thánh Cả lên một mức độ lạ lùng. Quan hệ làm cha ấy cũng mặc một vẻ cao cả bao la vì noơi người cha nhân loại, quan hệ ấy cốt ý diễn tả đầy đủ nhất quan hệ làm Cha của Thiên Chúa.

Gương mặt Thánh Cả Giuse là hình ảnh đẹp đẽ nhất của gương mặt Cha trên trời, và Chúa Giêsu đã không ngừng chiêm ngưỡng vẻ đẹp ấy trong một tình yêu hiếu kính, một tình yêu khi hướng về Thánh Cả Giuse, cũng lại quy hướng về Cha trên trời, đó thật là một mầu nhiệm vĩ đại. Một quan hệ làm cha khiêm nhượng và ẩn khuất đã tỏ hiện được, đã kéo dài được trong những quan hệ làm cha tuyệt vời nhất vậy.

Chương 10:

Gặp gỡ nhà tiên tri

Khi Thánh Cả Giuse cùng với Đức Maria lên đền thờ Giêrusalem để dâng hiến Chúa Hài Nhi, trên đường đi, Thánh Cả đã gặp ông già Simêon. Chắc chắn khi vừa thoạt giáp mặt, Thánh Cả đã đoán ra ông già đó là một người được Thiên Chúa sai đến; nhìn thấy ông già tiến thẳng lại về phía mình và nhìn nhận Chúa Hài Nhi, Thánh Cả hiểu rằng Thiên Chúa đã muốn có cuộc gặp gỡ ấy. Chúng ta hãy cố gắng chiêm ngưỡng ít phút hai nhân vật mặt đối mặt này, tức Thánh Cả Giuse và tiên tri Simêon hai nhân vật hợp nhất với nhau trong ánh nhìn mà cả hai cùng chăm chú vào Chúa Giêsu. Thánh Simêon đại diện cho nhiệt tâm chờ đợi Đấng Cứu Thế trong Cựu Ước. Ông thuộc vào số những người Do Thái sống vì niềm tin của mình và nghiêm chỉnh nắm chác niềm hy vọng. Theo Thánh Luca, “đó là một người công chính đạo hạnh, từng đợi chờ nguồn an ủi của Israel” (Lc 2,25). Đợi chờ nguồn an ủi của Israel, tức là đợi chờ hạnh phúc mà Đấng Cứu Chuộc sẽ mang đến. Gọi hạnh phúc là nguồn an ủi, vì nó sẽ tiếp nối vào những thử thách vĩ đại từng vụt xuống định mệnh của dân tộc Do Thái. Tâm thức ông già Simêon vừa nhớ lại những thử thách xa xưa, vừa nhìn thấy những thử thách hiện tại, nhất là ông lại đang nồng nhiệt khát khao ơn giải thoát. Ông nhận ra được tất cả những nỗi buồn thảm của thế giới đang vây bọc ông, nhưng mặc dầu đã cao tuổi đời, ông cũng đã không để mình bị chìm vào đắng cay hay thất vọng, vì ông vẫn đợi chờ một nguồn vui kỳ diệu mà Thiên Chúa sẽ ban cho dân Người.

Mặt khác, ông lại chắc chắn rằng chính ông sẽ được nếm hưởng nguồn vui ấy: “Ông đã được Chúa Thánh Thần tỏ cho biết sẽ không chết trước khi nhìn thấy Đấng Kitô của Chúa” (Lc 2,26). Đặc ân ấy không những tỏ ra ông Simêon có một đời sống thiêng liêng hăng mạnh, được mật thiết tiếp xúc với Chúa Thánh Thần; nó còn cho ta đoán được chừng nào Chúa Thánh Thần đã phát huy nơi ông niềm trông đợi Đấng Cứu Thế. Niềm trông đợi ấy là tất cả lẽ sống của ông; có thể nói, cuộc đời ông đã đồng hoá với niềm đợi trông ấy, và ông sẽ chết hoàn toàn vui lòng từ khi niềm trông đợi ấy được thực hiện trọn vẹn qua việc ông gặp gỡ Đấng Cứu Tinh.

Đối diện với ông là Thánh Cả Giuse, Thánh Cả cũng là người công chính đạo hạnh. Ta lại không phải nói về Thánh Cả cũng như về ông già được linh ứng đó rằng: “Chúa Thánh Thần đã ngự trong Thánh Cả” (Lc 1,25) đó ư? Nếu Chúa Thánh Thần đã dẫn ông già Simêon vào con đường Chúa Hài Nhi sẽ đi qua, thì lại cũng chẳng phải chính Chúa Thánh Thần đã vạch ra con đường đó và dẫn Thánh Cả Giuse và Đức Maria vào ư? Hơn nữa, Chúa Thánh Thần đã chẳng đổ tràn đầy Thánh Cả Giuse niền hy vọng Cứu Thế, và đã chẳng thúc đẩy Thánh Cả sống theo mục đích ấy đó ư? Như vậy là ông già Simêon và Thánh Cả Giuse đã gặp nhau trong cùng một lý tưởng. Nếu lúc đó đường lối hai người đi đã bắt gặp nhau, thì chính vì đường lối ấy là công trình chung của Chúa Thánh Thần.

Tuy nhiên, trong khát vọng có những nét chung căn bản đó, lại cũng hiện lên nhiều dị biệt. Ta rất có thể nói ông già Simêon là hiện thân của dĩ vãng, trong khi Thánh Cả Giuse là đại diện của tương lai. Ông già nặng trĩu tuổi đời kia tượng trưng tuyệt diệu cho niềm hy vọng chồng chất trên quá khứ của Israel. Đối với ông, cuộc gặp gỡ đó là một kết quả:nó chính là viên mãn của cuộc đời ông, là chấm dứt cuộc lữ hành của ông dưới đất. Còn đối với Thánh Cả Giuse thì đó lại là một điểm xuất phát. Thánh Cả vừa đem Đấng Cứu Chuộc vào đền thờ, vừa biết rõ rằng cuộc vào đền thờ đó của Chúa Giêsu là bước đầu một cuộc chinh phục sẽ xảy ra một ít năm sau.

Thánh Cả Giuse còn trẻ trung; Ngài muốn đem hết nghị lực tuổi thanh niên của Ngài để phụng sự Đấng Cứu Chuộc. Trong khi ông già Simêon, sau khi nhìn thấy Chúa Hài Nhi, đã quay về bên kia thế giới, và chỉ ước mong được lìa bỏ cõi đời này, thì Thánh Cả Giuse lại muốn lưu lại ở trần gian, hơn lúc nào hết, để dâng hiến cuộc đời mình chuẩn bị cho công trình Cứu Chuộc vĩ đại. Chúa Thánh Thần gợi lại cho ông già Simêon lúc ấy khát mong được chết, lại nung cháy thêm lòng khát vọng được sống nơi Thánh Cả Giuse. Cùng với Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse đã là người đầu tiên tìm ra rằng cuộc sống con người có một ý nghĩa diệu kỳ, khi người ta muốn kính hiến nó cho Chúa Cứu Chuộc.

Nhìn thấy niềm hạnh phúc dạt dào tâm hồn ông già Simêon, khi ông ẵm Chúa Hài Nhi trên tay, Thánh Cả Giuse còn cảm thấy cách linh động hơn nữa nguồn vui vì Ngài sẽ được ẵm bế Chúa là niềm an ủi và phần thưởng tối cao không phải một lần, song là rất nhiều lần, và là nguồn vui vì Thánh Cả có thể chứng tỏ với Chúa lòng cảm phục và yêu mến nhiều hơn. Ông Simêon chúc tụng Thiên Chúa vì đã được gặp gỡ Hài Nhi tiền định trong chốc lát rất ngắn ngủi, thì Thánh Cả Giuse có thể nào lại không chúc tụng Thiên Chúa suốt dọc cuộc đời mình biết mấy, vì có thể được chung sống đoàn tụ với Chúa Giêsu nữa. Đối với Ngài, đó không phải là cuộc gặp gỡ mau qua, mà là một cuộc sống thân thiết bền dai hết mọi ngày. Đó là một hạnh phúc luôn đổi mới không ngừng, một hạnh phúc sẽ không vì quen thuộc mà nên phai nhạt.

Thánh Cả Giuse thán phục ca ngợi khi  nghe ông già Simêon gọi Chúa Hài Nhi là “ánh sáng soi chiếu muôn dân và là vinh quang của Israel” (Lc 2,32). Vì luôn luôn với một nguồn vui mới, Thánh Cả còn được nghe lời ca tụng của tất cả những người sẽ nhận ra Chúa Hài Nhi là Đấng Cứu Thế, như trước đây các mục tử đã nhận ra. Sau này khi nhìn ngắm Chúa Giêsu, Thánh Cả lại nhớ lời tiên tri Simêon: “Ánh sáng và vinh quang”, những tiếng đó lần nào cũng gợi lại nguồn vui của Ngài, đồng thời với niềm hãnh diện làm cha và hạnh phúc cứu thế của Ngài.

Niềm kính tin của ông già Simêon đã mang lại một cái gì làm hứng thú tràn ngập tâm hồn trẻ trung của Thánh Cả Giuse. Niềm kính tôn đó giúp Ngài hiểu ra vẻ huy hoàng và quyền uy giấu ẩn trong cái dáng dấp còn trứng nước của Hài Nhi thơ bé. Sau cùng, qua sự chuyển thông khoái thú ấy, chính tâm hồn trẻ trung mà ông già Simêon duy trì được nguyên vẹn trong niềm cậy trông nóng cháy của ông, đã đến củng cố thêm sự trẻ trung của Thánh Cả Giuse, như một dĩ vãng nuôi dưỡng tương lai và thúc đẩy tương lai tiến tới.

Tuy nhiên, ông già Simêon vẫn chưa tiết lộ tầng sâu cuối hết trong thị kiến của ông. Khi nhìn nhận ra Chúa Hài Nhi, với ánh nhìn mà Thiên Chúa trao cho ông, ông đã nhìn thấy cả tương lai dành để cho Hài Nh Thiên Chúa. Trước hết, ông ca tụng khía cạnh vinh quang của tương lai đó. Một khía cạnh khác u tối hơn cũng đã xuất hiện trước mặt ông. Ông Simêon không thể im lặng bỏ qua khía cạnh này, như rất có thể ông đã bỏ qua để làm hài lòng Cha Mẹ Hài Nhi và khỏi làm họ hoảng sợ.

Ông biết rằng ông nói nhân danh Thiên Chúa, như các vị tiên tri, và ông cảm thấy ông có một sứ điệp quan trọng phải thông báo. Được Thiên Chúa linh ứng, ông quay về phía Đức Maria, nói cho Mẹ nghe những lời tiên báo này: “Này, Hài Nhi đây được đặt ra để một số đông người trong Israel phải gục ngã và vươn lên, và để làm một dấu chống đối và mâu thuẫn, và phần Bà, Bà sẽ phải một lưỡi gươm xuyên qua linh hồn: hầu những tư tưởng thầm kín của nhiều người được tiết lộ” (Lc 2,34-35).

Nói với Đức Maria như vậy. Ông già Simêon đã có ý tỏ rõ rằng Meẹ là người trực tiếp liên hệ với những mâu thuẫn mà Con Mẹ sẽ là đối tượng. Chính linh hồn Mẹ sẽ bị một gươm sắc thâu qua. Ông Simêon không ám chỉ gì đến nỗi đau khổ của Thánh Cả Giuse. Nhưng ông lại nói lời tiên báo ấy ngay trước mặt Thánh Cả. Thành ra nghe thấy lời tiên báo ấy, Thánh Cả Giuse liền bị quất mạnh ngay vào tình yêu kép đôi đang trấn ngự tâm hồn Ngài, đó là tình Ngài yêu mến Chúa Giêsu và tình Ngài dấu yêu Mẹ Maria.

Thánh Cả Giuse không thể xúc cảm đớn đau hơn được nữa. Ta thấy Ngài phải một lúc đứng chết trân tại chỗ, tự hỏi không biết mình có hiểu rõ được những lời ông già Simêon vừa nói ra đó không. Vừa rồi, cùng với Đức Maria,Ngài cảm thán vì bài ca tán tạ của ông già, giờ đây, cùng với Mẹ, Ngài lại đứng lặng thinh trước viễn tượng đau thương không dè đó.

Từ nay, Thánh Cả Giuse không còn có thể nhìn ngắm Chúa Giêsu và Đức Maria cùng một cách như trước nữa. Cùng với Chúa và Mẹ, Thánh Cả tiến tới một thảm kịch, và Ngài biết rõ như thế. Chuẩn bị cho Đấng Cứu Chuộc đến, đó sẽ là chuẩn bị nỗi đau thương của những người Thánh Cả yêu mến nhất trên thế gian này.

Lời tiên tri của ông già Simêon vừa dứt khoát đặt cuộc đời của Thánh Cả Giuse vào hướng đi sâu xa nhất của nó, hướng đi của lễ hy sinh cứu chuộc vậy.

Chương 11:

Tiến lễ đầu tiên

Sau thời gian im lặng, đầy xúc động, khơi lên do lời tiên báo về lưỡi gươm đau khổ, Thánh Cả Giuse và Đức Mẹ Maria bắt đầu bổn phận chu toàn nghi lễ mà hai người lên Đền thờ để làm: đó là hiến dâng Chúa Hài Nhi lên Thiên Chúa.

Phàm người con trai đầu lòng nào cũng được nhìn nhận là sở hữu của Thiên Chúa, và phải được cha mẹ chuộc lại, theo quy định của lề luật. Trong khi đối với nhiều cha mẹ, trách vụ đó chỉ hệ ở việc trả một số tiền cho tư tế, thì Thánh Cả Giuse và Đức Mẹ Maria lại đã quyết định cung cho giá chuộc tất cáy nghĩa của nó khi đến hiến dâng con mình trong dethờ. Do đó, hai Ngài chứng thực rằng Hài Nhi đó thuộc hẳn về Thiên Chúa; hai Ngài hiến dâng Hài Nhi cho thánh ý Thiên Chúa bằng cách nhìn nhận rằng Thiên Chúa có toàn quyền trên Hài Nhi.

Theo ánh sáng lời tiên tri của ông già Simêon, cử chỉ hiến dâng ấy có một tầm mức mới mẻ. Cử chỉ ấy không thể tương tự như cử chỉ của những bậc cha mẹ khác khi đến chuộc lại con mình. Vì khi dâng Chúa Giêsu lên, Thánh Cả Giuse và Đức Mẹ Maria biết rõ rằng mình hiến dâng Con mình để làm một lễ hy tế mầu nhiệm, nhằm hiến cho định mệnh đau khổ vừa được loan báo cho hai Ngài. Nếu ông già Simêon đã chặn đường hai Ngài lại trước khi hai Ngài làm cử chỉ hiến dâng ấy, thì đó chính là vì Thiên Chúa muốn một hiến lễ có thể được ý thức hơn về đối tượng chân xác của nó. Chúa Thánh Thần đã đưa ông Simêon đến gặp Chúa Hài Nhi, không những đã ban niềm vui tối cao đó cho ông, là người đã suốt đời mong đợi Đấng Cứu Thế, mà còn để sáng soi hiến lễ và biến đổi nó thành hiến lễ hy sinh một cách rõ ràng hơn, Thánh Cả Giuse và Đức Mẹ Maria hiểu rằng việc chuộc lại Chúa Hài Nhi phải thực hiện bằng giá của đau thương sẽ đến, và giá đó phải được trả để cứu chuộc nhân loại.

Vì thế, việc dâng Chúa Hài Nhi trong Đền thờ đã là hiến lễ hy sinh đầu tiên của núi Canvê, hơn ba mươi năm trước khi hoàn tất. Cùng với Đức Maria, Thánh Cả Giuse được đặc ân thi hành lễ hiến dâng hy sinh này. Chắc chắn Mẹ và Thánh Cả chưa nhận thức được chi tiết nào về bản tính lễ hy sinh ấy; Mẹ và Thánh Cả không biết hy lễ đó sẽ là một cái chết trên Thánh Giá. Nhưng lời tiên tri nói về lưỡi gươm đau khổ đã tỏ rõ đủ tầng sâu xa của đau khổ mà Đức Maria rất có thể cảm thấy lúc ấy, và để Mẹ đoán được rằng trong lễ hy sinh đó, Chúa Giêsu đã hiến dâng toàn thể hữu thể Người, vì tầng sâu linh hồn của Mẹ Maria sẽ phải vì đó mà bị xuyên thâu qua. Như vậy Thánh Cả Giuse đủ hiểu tầm quan trọng chủ yếu của hy lễ này, và lúc hiến dâng Chúa Hài Nhi lên, Thánh Cả đã hoàn toàn chú ý đến viễn tượng hãi hùng đó.

Ta có thể nói đó là hồi tiến lễ đầu tiên. Sau này, trên bàn thờ, Chúa Kitô sẽ mãi mãi tiến diễn lễ hy sinh của Người qua thừa tác vụ của linh mục. Mỗi hồi tiến lễ lại sẽ nhắc nhở lại leễ dâng hiến của Hội Thánh, vì lần nào Chúa Kitô cũng đem theo Nhiệm Thể của Người vào hiến lễ cứu chuộc của Thánh Lễ.

Chắc chắn là lúc Thánh Cả Giuse thi hành cử chỉ hiến dâng Chúa Hài Nhi, thì chưa có Hội Thánh. Cử chỉ đó cũng không phải là một cử chỉ tư tế: Thánh Cả Giuse không phải là tư tế. Tuy nhiên trong cử chỉ đó đã có Chúa Kitô làm của lễ, và Chúa kéo theo luôn cả đích thân Thánh Cả Giuse và Đức Mẹ Maria là những đại diện đầu tiên của tất cả những chi thể trong Nhiệm Thể sau này sẽ hợp nhất với hy lễ của Đấng Cứu Chuộc. Do đó, mầu nhiệm Thánh Lễ đã được phác tả trong lễ nghi bề ngoài rất đơn giản và thông thường được thực hiện trong Đền thờ Giêrusalem ấy.

Ở đây, sự cao trọng của Thánh Cả Giuse lại hiện lộ dưới một khía cạnh mới nữa. Rất lâu, trước khi thành lập chức Linh Mục và phép Thánh Thể, Thánh Cả đã là người đầu tiên dâng hy sinh cứu chuộc làm của lễ lên trời cao. Ngài là mẫu gương đầu tiên của nhân loại liên hợp với hiến lễ của Chúa Kitô; mặt khác, trong cử chỉ dâng hiến Chúa Hài Nhi lên, Thánh Cả Giuse vừa dâng hiến trót cả trái tim Ngài, y như môn đệ Chúa Kitô, sau này sẽ được mời gọi hiến dâng như vậy.

Nếu Thánh Cả Giuse đã không do dự hoàn tết lễ hiến dâng ấy, mặc dầu biết rõ toàn bộ những đau khổ mà lễ dâng ấy dẫn tới, thì chính là Thánh Cả chỉ ước ao có một điều: thi hành tất cả những gì thuộc khả năng Ngài, để Chúa Giêsu có thể là “Ánh sáng soi chiếu muôn dân” và là vinh quang của dân tộc Israel một cách hoàn bị nhất. Lời ông già Simêon tiên báo trước ấy đã không bị lời tiên tri đau khổ về sau xoá nhoà, và Thánh Cả Giuse vẫn minh tâm khắc cốt. Thánh Cả hiến dâng Chúa Hài Nhi lên để Chúa có thể là ánh sáng đó, là vinh quang đó, tức là Đấng Cứu Chuộc dân tộc Do Thái và các dân tộc khác. Thánh Cả đã chấp nhận con đường đau khổ Thiên Chúa vạch ra cho để công cuộc Cứu Chuộc ấy có thể được hoàn thành. Vì thế, khi nhìn ngắm Chúa Bé Thơ, sau khi đã hoàn tất lễ dâng, không những Thánh Cả Giuse chiêm ngưỡng Chúa như Người có một gương mặt giờ đây rất bình thản, mà rồi ra sẽ bị tan nát vì sự cừu thù của những kẻ phản kháng Ngài, mà còn chiêm ngưỡng Chúa như Người sẽ làm cho ánh sáng khải hoàn, Người mà các cừu địch cũng phải nhận là sẽ vinh quang, Người sẽ cứu độ thế giới ngang qua đau khổ. Nghĩa là lễ vật của Thánh Cả dâng lên không phải là một cử chỉ buồn sầu chịu nhịn, mà là một nhiệt hứng, đầy tin tưởng và lạc quan, hướng về ơn cứu độ vừa được tiên báo. Hồi tiến lễ đầu tiên đã là một hành vi quảng đại được hoàn tất trong hân hoan, niềm hân hoan tự nhận mình có quyền lực hơn đau khổ.

Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria đã hợp nhất với nhau trong cử chỉ hiến dâng Chúa Hài Nhi lên. Tuy nhiên, địa vị của hai Đấng đối với hy lễ tương lai lại không đồng nhất. Ông Simêon đã nói lên rõ ràng sự khác biệt nhau ấy. Để tiên báo định mệnh đau thương của Chúa Hài Nhi, ông tỏ tường quay về phía Đức Maria và ông nói với chính Mẹ rằng một lưỡi gươm sẽ thâu qua linh hồn Mẹ. Như vậy là ông đã tiên báo chừng nào Đức Mẹ Maria sẽ được mật thiết bao gồm trong hy sinh cứu chuộc, nhưng ông lại không nói gì về phần tham dự của Thánh Cả Giuse vào hy lễ ấy. Vì ông đứng trước mắt Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse mà nói cho cả hai người cùng nghe thấy một trật, nên sự khác biệt nói trên chỉ có thể là khác biệt hữu ý.

Ta có thể nhận chân ở đó một dấu chỉ là Thánh Cả Giuse không phải chứng dự hy lễ núi Canvê, và Ngài sẽ qua đời trước khi thảm kịch đó xảy ra. Ta cũng nhận ra ở đó một xác định trên giới hạn của sứ mạng chỉ định cho Thánh Cả Giuse. Đức Mẹ Maria được chỉ định giữ địa vị Đấng Đồng Công Cứu Chuộc; nên theo chương trình củ Thiên Chúa, Mẹ phải hợp nhất những đau khổ Mẹ chịu vào hy lễ có tính cách tư tế của Chúa Kitô, nhằm xin ơn cứu độ nhân loại. Bằng lễ vật Mẹ liên kết với lễ vật Chúa Giêsu, Mẹ cộng tác vào việc lập công đáng được ân sủng cho loài người. Sự trực tiếp cộng tác vào công cuộc cứu chuộc này tuyệt đối dành riêng cho Đức Mẹ Maria: chỉ một mình Mẹ mới bị gươm sắc thâu qua linh hồn, để mạc khải tình yêu Thiên Chúa ra và để Mẹ đi sâu vào một số rất lớn các tâm hồn. Sứ mạng của Thánh Cả Giuse không mang một nhiệm vụ như vậy.

Có thể nhiệm vụ của Thánh Cả Giuse sẽ ngưng lại ở một cuộc chuẩn bị xa cho hy lễ ấy. Ta đã thấy rằng Thánh Cả Giuse không làm một nhiệm vụ song song với Đức Mẹ Maria trong việc sản sinh Hài Nhi Giêsu; Thiên Chúa không đòi Ngài phải ưng thuận. Sự Ngài ưng thuận làm cha đã chỉ được đòi hỏi về sau, và do đó, nó hệ ở một nhiệm vụ khác, nhiệm vụ của quan hệ làm cha phải được thực thi đối với Chúa Hài Nhi, kèm theo sứ mạng giáo dục gắn liền với quan hệ làm cha ấy. Theo cách đó, sứ mạng theo nghĩa đen của Thánh Cả Giuse là chuẩn bị Chúa Giêsu, để Người chu toàn phận vụ cứu chuộc của Người. Đó là sứ mạng Thánh Cả phải đảm nhận chung với Đức Mẹ Maria. Một khi sự chuẩn bị ấy đã hoàn tất, thì Thánh Cả Giuse có thể lìa bỏ thế gian này, vì Ngài phải để Đức Maria một mình đứng dưới chân Thánh Giá.

Vì thế, lúc hiến dâng Chúa Hài Nhi lên, Thánh Cả Giuse đã không dâng đau khổ của cá nhân Ngài, Đức Mẹ Maria dâng hiến Con mình và chính mình cho lưỡi gươm đau khổ. Thánh Cả Giuse thì dâng hiến Chúa Hài Nhi và đau khổ của Đức Maria. Thánh Cả tự quên mình, tự xoá nhoà mình trong lễ vật Ngài dâng: đó là cách thức riêng biệt của Ngài để hoàn thành tiến lễ.

Chương 12:

Tin trong bóng tối

Sau khi kể lại cuộc Thánh Gia Nazaret gặp gỡ ông già Simêon và bà Anna, thánh Luca chấm dứt trình thuật dâng Chúa Hài Nhi bằng những lời này: “Khi đã chu toàn tất cả những điều luật Chúa đòi hỏi, Thánh Gia trở về Galilêa, nơi thành phố Nazaret” (Lc 2,39).

Để chỉ một thôn xóm nhỏ là Nazaret mà dùng tiếng thành phố thì cũng quá to tát. Sau khi nhìn thoả thuê vẻ lộng lẫy của Đền thờ Giêrusalem, Thánh Cả còn thấy thôn xóm của mình bé lại hơn nữa. Từ ánh sáng, Thánh Cả đã lui vào bóng tối vậy.

Nói cho đúng thì Thánh Cả Giuse vào bóng tối cùng với Đấng mà Ngài biết rõ là ánh sáng sẽ soi chiếu muôn dân. Đó mới đúng là sự tương phản sắp ngập đầy cuộc sống của Thánh Cả. Dài dọc nhiều năm, Thánh Cả sẽ sống chung đoàn tụ với Đấng Cứu Thế, trong một khung cảnh coi như quá bé nhỏ đối với một hiện diện quá vĩ đại nhường kia.

Thành phố Giêrusalem, thủ đô và trung tâm tôn giáo của Do Thái, rất có thể coi là một nơi thích thuận rất nhiều: tự nhiên, ta rất có thể phải nói đó mới là trụ sở của Đấng sẽ cứu độ dân tộc. Thế mà thay vì ở Giêrusalem, Chúa lại đi sống ở một nơi nào đó mãi tận xứ Galilê, trong một thôn xóm hết sức nghèo nàn, từ trước đới đó chưa hề được một ai chú ý đến, mà các vùng lân cận cũng chẳng trọn kính là bao. Sau này, Nathanael đã chẳng la lên thế này sao: “Từ Nazaret thì còn có cái gì tốt nữa chứ?” (Ga 1,46).

Tuy nhiên, Thánh Cả Giuse đã yêu mến thôn xóm của Ngài; và trong tình yêu của Ngài, Ngài bắt đầu hiểu ra tại sao Thiên Chúa lại chọn Nazaret hơn nhiều địa điểm khác có thể có nhei62u danh nghĩa để được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc sinh trưởng nơi mình. Ở đó có dấu hieệu của Thiên Chúa cao cả, Đấng không phán đoán theo quy tắc của loài người. Mà ở đó cũng có một cách biểu lộ tình yêu thần linh, muốn một Đấng Cứu Chuộc sát gần dân tộc, hoà mình vào đám bình dân, vào đám dân nghèo.

Điều sau này sẽ làm Nathanael chưng hửng và làm ông do dự một lúc rồi mới tin vào Chúa Giêsu, thì lại đã không có thể ngăn cản lòng tin của Thánh Cả Giuse như vậy. Nazaret mới là một khung cảch thích thuận với Đấng Cứu Thế để tỏ lộ tình yêu của Người ra.

Ngược lại, điều hẳn đã làm Thánh Cả Giuse ngạc nhiên rất sâu sắc và đặt ra một vấn đề cho lòng tin của Ngài, đó là cuộc sống bề ngoài rất thông thường của Chúa Hài Nhi và sự Người tăng trưởng. Chắc chắn các bậc cha mẹ bao giờ cũng đúng khi ca tụng sự phát huy nhân cách của con cái mình. Ở đây, Thánh Cả Giuse và Đức Mẹ Maria cũng từng ca tụng: ta có một vang âm về sự ca tụng ấy trong lơòi PHúc Âm, vang âm những kỷ nieệm và sự thán phục của Đức thánh Trinh Nữ: “Hài Nhi lớn lên và tráng kiện, tràn đầy khôn ngoan và ân sủng Thiên Chúa đổ xuống trên Người” (Lc 2,40). Cũng như Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse đã hân hoan tán thưởng nhận thấy Chúa Hài Nhi tăng triển, và Thánh Cả đặc biệt ghi nhận ân sủng siêu nhiên tràn đầy Thánh Nhi. Tuy nhiên, sự phát triển đó lại thực hiện trong âm thầm. Chứ bề ngoài thì chẳng có gì có thể làm cho người ta tiên cảm được sứ mạng cứu thế mà Chúa Hài Nhi sẽ đảm nhiệm.

Ta biết rằng cứ bề ngoài thì chẳng có gì làm Chúa Giêsu nổi vượt, vì sau này khi Chúa bắt đầu sống đời công khai, anh em họ của Chúa đã từ chối không tin vào sứ mạng của Người; họ còn nghĩ Chúa đã mất trí và muốn cắt đứt bài Chúa đang giảng để dẫn Chúa về nhà (x. Mc 3,21,31). Như vậy là họ đã chẳng nhận thấy nơi Chúa Giêsu có điều kiện nào để Chúa thoát ly hàng ngũ bình dân trong thôn xóm; nhưng, người từng sống thân cận với Chúa đó chẳng biết gì là Chúa có một trí óc siêu việt, một thánh đức hoàn thiện và một ý chí cứu độ cả loài người.

Phản ứng của những người dân khác ở Nazaret khi ngh Chúa Giêsu giảng thuyết cũng chẳng kém phần đặc sắc. Họ kinh ngạc “trước những lời đầy ý vị miệng Chúa nói ra”; họ nói: “Chẳng phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4,22). Thật là rõ ràng đã chẳng bao giờ họ nhật thấy nơi Chúa Giêsu một dấu hiệu nào tỏ ra sự cao trọng chân xác của Người. Cậu nhỏ, rồi chàng thanh niên Giêsu đã xử sự một cách coi như tầm thường, chẳng có gì đáng chú ý.

Nếu căn cứ vào cách cư xử bề ngoài thông thường mà những người đồng hương với Chúa Giêsu và bà con thân quyến Người từ chối không tin Người đó, thì ta đoán được rằng, trước cảnh sống hằng ngày của Chúa Giêsu, lòng tin của Thánh Cả Giuse cũng đã từng phải chịu thử thách. Rất có thể đôi khi ta tìm cách nghĩ rằng: được luôn luôn sống bên cạnh Chúa Giêsu như vậy, Thánh Cả đã tin Chúa cách dễ dàng. Nhưng thường tình thì sống thân cận với người nào, ta lại không nhận ra vẻ cao quý của họ. Chính Chúa Giêsu cũng sẽ ám chỉ đến nỗi cam go đó khi tuyên bố: “Tôi nói thật với các ông là không một tiên tri nào được tiếp đón nồng hậu nơi quê hương mình đâu” (Lc 4,24).

Trong cuộc sống thân mật bền vững với Chúa Hài Nhi, Thánh Cả Giuse đã phải cố gắng để tiếp tục tin vào tương lai của Chúa, vào sự cao trọng vượt trên loài người của Chúa. Dưới mái nhà Nazaret, niềm tin ấy từng bị bóng tối bao phủ. Thánh Cả Giuse phải tin rằng Chúa Giêsu cao cả hơn Ngài nhìn thấy kia rất nhiều. Lòng tin của Ngài phải táo bạo vượt qua bên kia những thực tế thân mật, bên kia những gì mà Ngài nhìn thấy trong tình ấm cúng hằng ngày.

Nhưng không bao giờ Thánh Cả Giuse để mình bị mất lòng tin ấy. Từ khi sứ thần báo tin cho Ngài về định mệnh Chúa Hài Nhi, Thánh Cả đã tin hẳn vào định mệnh ấy với trót tâm hồn Ngài. Trải qua bất cứ hoàn cảnh nào, lòng tin đó cũng không ngừng được kiện toàn vững mạnh và phát triển, hợp một với lòng tin của Mẹ Maria. Trong bóng tối của nhà Nazaret, đức tin nồng nhiệt đó vẫn luôn lớn lên, y như Chúa Giêsu hằng luôn tăng trưởng.

Cuộc sống ẩn dật càng kéo dài, thì lòn gtin đó càng đáng công. Thánh Cả Giuse đặt lòng tin của Ngài dựa trên mạc khải nền tảng là lời thiên thần đã báo cho Ngài, khi tuyên bố với Ngài rằng: Chúa Giêsu sẽ là Đấng Cứu Thế. Nhưng rồi dần dần ngày tháng trôi qua, càng ngày Thánh Cả càng phải ngạc nhiên vì chẳng thấy có triệu chứng nào chuẩn bị cho sứ mạng cứu thế ấy của Chúa Giêsu. Ngay cả khi đã hai mươi tuổi rồi, mà Chúa Giêsu vẫn cứ khăng khăng ở lại trong bóng tối, để làm một nghề chẳng có nét nào ăn nhập được với nhiệm vụ Đấng Cứu Thế mà Chúa được gọi đến thi hành.

Ở đây ta có thể gợi lên những nghi ngờ xâm chiếm trí lực thánh Gioan Tẩy Giả khi Chúa Giêsu đã sống đời công khai. Thoạt đầu, nhà Tiền hô đó nhận ra Đấng Cứu Thế, và tỏ lòng tin cũng như lòng cậy trông vào Chúa. Nhưng về sau, ông sẽ ngạc nhiên vì không thếy Chúa Giêsu nhào mình vào cuộc thực hiện sứ mạng chinh phục hiển hách, để thiết lập vương quốc cuthé của Chúa; ông đâm ra hoài nghi, và sai mật sứ đến hỏi Chúa Giêsu xem Người có đúng là Đấng Cứu Thế từng được tiên báo không (x. Mt 11,3; Lc 7,19).

Mối hoài nghi của thánh Gioan Tẩy Giả đó làm ta hiểu rõ hơn sự thử thách lòng tin của Thánh Cả Giuse phải chịu đựng trong suốt những năm dài dặc, khi Ngài cứ mãi nhận thấy cậu nhỏ, rồi chàng thanh niên Giêsu Nazaret rất ít tương tự với chân dung của một Đấng Cứu Thế hiển vinh. Nhưng mặc dầu sự nhận thấy đó tạo nên cho Ngài một mầu nhiệm, Thánh Cả cũng không bao giờ nghi ngờ điều thiên thần đã báo cho Ngài, và cứ bền vững tin tưởng. Ngài chấp nhận tin vào một Đấng Cứu Thế khác hẳn với Đấng mà nhiều người Do Thái đã tưởng tượng ra.

Như vậy, lòng tin của Thánh Cả Giuse không phải là một lòng tin dễ dãi đã không bị cám dỗ thử thách. Thánh Cả phải luôn luôn hết sức cố gắng lặp đi lặp lại việc Ngài tuyên xưng lòng tin sâu xa vào Chúa Giêsu. Trong bóng tối che khuất Đấng Cứu Chuộc, Thánh Cả đã càng ngày càng nhiệt liệt tin vào ánh sáng sẽ chiếu soi trên khắp thế giới.

Căn cứ vào chính sự kiện, lòng tin của Thánh Cả Giuse đã càng ngày càng khám phá sâu sa hơn nhân vị Chúa Giêsu. Thánh Cả khám phá ra Chúa là Đấng sẽ cứu độ loài người, song cũng là Đấng mang lại ơn giải thoát ấy một cách khiêm hạ khác với niềm cậy trông cứu thế của dân tộc Do Thái trình bày ra trước. Ngài cũng khám phá ra Chúa là Con Thiên Chúa, và càng ngày càng kinh ngạc vì nhận thấy Thiên Chúa cao cả ẩn trong một cuộc sống con người rất tầm thường như vậy.

Trong tâm hồn Thánh Cả Giuse cũng như trong trái tim Đức Mẹ Maria, lúc ấy đã bắt đầu hình thành lòng tin của Hội Thánh. Thế nên, Thánh Cả Giuse vẫn tiếp tục lôi cuốn chúng ta vào đường lối của một lòng tin chủ động, can trường, tuyệt đối trung tín, và tập trung trên nhân vị Chúa Kitô.

Chương 13:

Niềm đau lạc mất Chúa Giêsu

Cuộc sống gia đình bình lặng ở Nazaret chỉ bị có một ngộ biến duy nhất làm xáo trộn. Quả vậy, khi Mẹ Maria thuật lại ký ức của Mẹ, Mẹ sẽ chỉ khơi lại biến cố ngoại thường độc nhất trong suốt ba-mươi năm trời, biến cố xảy ra vào lúc Chúa Giêsu lên mười-hai tuổi.

Biến cố đã dày vò Thánh Cả Giuse và Đức Mẹ Maria rất nhiều. Thánh Cả Giuse và Mẹ từng đã quen thuộc với sự khôn ngoan gương mẫu của Chúa Hài Nhi biết bao! Cả hai càng hốt hoảng khi nhận thấy Chúa đã lạc mất. Cho tới bấy giờ Chúa Giêsu chưa hề gây nên một bất ngờ nào làm Cha Mẹ phải mất lòng cả. Đôi thân vẫn vững lòng về Chúa và tin tưởng vào Chúa.

Chính vì thế mà khi không thấy Chúa đi bên cạnh mình trên đường trẩy lễ từ Giêrusalem trở về, Thánh Cả và Mẹ đã không cảm thấy một áy náy nào; cả hai cùng nghĩ rằng Chúa phải đi vào một nhóm nào đó trong đoàn giáo lữ đông đảo cùng đi một lộ trình. Ở nơi hai người dừng chân để qua đêm, Thánh Cả và Mẹ cũng vẫn tưởng là sẽ gặp lại được Chúa ngay. Nhưng khi thấy rõ là Chúa không đến, cả hai mới thật kinh ngạc hãi hùng. Đôi thân phải chứng kiến một sự kiện hiển nhiên: Chúa Giêsu không có mặt ở đó và không ai có thể cung cấp cho hai người một tin tức nhỏ mọn nào về Chúa, không ai gặp Chúa đâu cả.

Ta đoán ra được Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria phải áy náy xâu xé chừng nào, cũng như tất cả các giả thuyết Thánh Cả và Mẹ tìm cách phác tả ra, mà cũng không cảm thấy có một lý do hợp lẽ nào để giải thích được sự Chúa vắng mặt ấy. Cả hai cùng tự trách mình vì đã không coi sóc cẩn thận đủ; Thánh Cả Giuse còn tự xét là mình trực tiếp có trách nhiệm nặng hơn, vì Ngài là chủ gia đình. Trước đây, Chúa Hài Nhi đã được uỷ thác cho Ngài, khi sứ thần kêu mời Ngài cưới Đức Maria về nhà. Thánh Cả đã chịu trách nhiệm về Chúa Hài Nhi trước mặt Thiên Chúa. Nên Ngài rầu rĩ phiền khổ hơn về sự vắng mặt của Chúa Hài Nhi.

Lúc đó, tâm trí Thánh Cả Giuse làm sao tránh khỏi nhớ lại lời tiên tri của ông già Simêon? Thánh Cả tự hỏi không biết giờ này có phải là giờ gươm sắc đau khổ xuyên qua tâm hồn không? Đó lại chẳng là khởi sự của thử thách lớn lao được tiên báo đó ư? Cứ xét theo lời tiên tri ấy, thì Thánh Cả có thể lo sợ những tai nạn lớn lao nhất đã đến.

Vì thế, ngay sáng sớm hôm sau, sau một đêm dài không được một phút an giấc, Thánh Cả cùng với Đức Maria trở lại con đường Giêrusalem, mang theo một trái tim quặn thắt vì ưu phiền. Mặc dầu bị đau khổ giày vò, Thánh Cả cũng hối hả đi, nhưng con đường lần này thật là dài kinh khủng. Ngài hy vọng tìm lại Chúa Giêsu trong các đoàn giáo lữ Ngài gặp trên đường, nhưng hy vọng ấy cũng lại là thất vọng. Từ xa, Ngài đã cố gắng tìm tòi trong những người Ngài sắp bắt gặp, nhưng lần nào cũng phải cay đắng ngậm ngùi vì bóng dáng Chúa Hài Nhi vẫn biệt vời tăm tích.

Khi Thánh Cả trở lại tới Thành Thánh thì bóng chiều đã ngả. Ngài lại phải hoãn cuộc tìm kiếm đến hôm sau. Nỗi phiền muộn càng lúc càng da diết Ngài lại lần nữa thao thức suốt đêm trường. Ngày vừa rạng, Ngài quyết định, cùng với Đức Maria, lên Đền Thờ, trước là để cầu nguyện và sau là để tìm Chúa Giêsu tại đó: nếu Chúa Hài Nhi ở lại Giêrusalem, thì rất có thể Thánh Cả và Mẹ sẽ may mắn tìm lại được Chúa ở Đền Thờ nhất.

Và thực là sửng sốt lạ lùng biết bao khi thấy Chúa đang ngồi giữa các nhà tiến sĩ. Nhìn thấy Chúa, Thánh Cả Giuse và Đức Maria tiến lại gần, quan sát quang cảnh đó. Hai Ngài kinh ngạc bỡ ngỡ vì thếy Chúa Giêsu đóng một vai mà hai Ngài đã không biết là Chúa có thể: Chúa hoàn toàn bình thản ở giữa các vị tiến sĩ, đặt ra cho họ nhiều câu hỏi và trả lời lại những lời làm họ phải ngạc nhiên.

Trong tâm hồn Thánh Cả Giuse cũng như trong tâm hồn Mẹ Maria, nỗi đau phiền đã nhường chỗ cho niềm hoan hỉ. Trong phút chốc, những tư tưởng đen tối từng dằn vặt hai Ngài đã biến tan. Không những hai Ngài tìm lại được Chúa Giêsu, mà còn tìm lại được trong một hoàn cảnh tôn vinh Chúa, và gây niềm hãnh diện cho Cha Mẹ.

Quan sát cách cư xử của Chúa Giêsu một lúc rồi, khi Mẹ Maria hỏi Chúa tại sao lại làm cho Cha Mẹ phải buồn sầu như vậy, thì Thánh Cả Giuse đem con mắt thán phục ngắm nhìn Chúa Hài Nhi. Sau khi gây cho Cha Mẹ một mối sầu sâu sắc, Chúa lại cũng cho Cha Mẹ một sự kinh ngạc khiến lòng càng khoan khoái hơn nữa.

Qua ngộ biến đặc biệt này, Thánh Cả Giuse vừa mới cảm nghieệm được những vui buồn lẫn lộn hàm chứa trong cuộc sống thân mật với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế. Như ông Simêon đã nói rõ, đau khổ phải chiếm một chỗ quan trọng trong sứ mạng của Người; những ai sống đoàn tụ với Người cũng phải sẵn sàng đón chờ những giờ phút đau thương, mặc dầu hoàn toàn chắc chắn rằng những giờ phút cam go đó sẽ chấm dứt bằng một nguồn vui lai láng.

Đặc biệt hơn nữa, Thánh Cả Giuse đã rơi vào tâm rạng của những người có cảm thưởng mình đánh mất sự hiện diện của Thầy chí thánh, và bàng hoàng về sự mất đi đó. Trong biến cố Chúa Giêsu lạc mất trong đền thờ, có tỏ hiện một tấn bi kịch Chúa vắng mặt, một tấn bi kịch sẽ vò xé tâm hồn những ai lưu luyến Chúa Giêsu nhất. Cũng như trong trường hợp của Thánh Cả Giuse, bỗng dưng ta cảm thấy Chúa vắng mặt, một cách sững sờ, mà không khám được tại lý do nào. Người nào chịu thử thách ấy, thường bị cám dỗ ngờ mình phải mang trách nhiệm, trong khi thực tế thì là chính Thiên Chúa muốn định như vậy để đem linh hồn vào sâu hơn trong viễn tượng Cứu Chuộc, và đặt hy sinh ấy vào trong tâm tình mật thiết với Chúa Cứu Thế.

Những người đau khổ cực lòng vì sự Chúa vắng mặt ấy là những người, cũng như Thánh Cả Giuse, được sống trong tình yêu Chúa Kitô, và coi việc hợp nhất với Chúa làm lý tưởng. Họ đã nếm hưởng nguồn vui của mối tình mật thiết độc nhất ấy ở thế gian, họ hiểu ra đó là hạnh phúc thâm thuý nhất, và họ đau đớn kinh ngạc khi coi như hạnh phúc sâu chìm ấy vụt thoát khỏi họ, và khi coi như Chúa Kitô đã xa rời họ. Cũng như Thánh Cả Giuse bỗng nhiên cảm thấy mình trơ trọi, khi thấy Chúa Giêsu lạc mất, và nhận ra là cả một phần hữu thể mình bị tước đoạt, thì họ cũng ý thức là họ bị cô độc não nề, thiếu đi tất cả những gì họ quý yêu nhất.

Biến cố Thánh Cả Giuse đã trải qua đó mang lại một lợi ích là cho thấy rõ, ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã cố ý muốn như vậy. Chính Chúa Giêsu đã tự tình muốn Cha Mẹ Người phải phiền sầu. Chúa làm như thế vì ở đây Người không cư xử với tư cách một người con tuân phục Cha Mẹ, mà với tư cách một Đấng Cứu Chuộc. Để xác nhận lời tiên tri Simêon, và để liên kết trước Mẹ Maria vào hy sinh cứu chuộc, Chúa đã để Mẹ phải trải qua một thử thách làm hình dung trước thử thách ở núi Canvê sau này: đó là lạc mất Chúa Hài Nhi suốt ba ngày dai đặc, vì Ngài ở lại trong nhà của Cha. Thánh Cả Giuse thì không được chỉ định để tham dự vào thảm kịch núi Canvê, nhưng cũng phải nếm mùi tiền vị của thảm kịch ấy trong ngộ biến lạc mất Chúa đây.

Ngoài ra, đối với Thánh Cả, lời Chúa Giêsu đáp lại câu hỏi Đức Mẹ Maria đặt ra, đã là một lời hiển nhiên hơn nữa kêu mời Thánh Cả dấn thân vào sự hy sinh chịu xoá mờ. Quả thật, Đức Maria đã rõ ràng nói đến Thánh Cả Giuse trong câu hỏi ấy: “Cha Con và Mẹ khổ sở đi tìm con”. Và Chúa Hài Nhi thì lại đem Cha trên trời đặt đối lập với người Cha dưới đất đó của Người mà trả lời: “Sao Cha Mẹ lại phải tìm Con? Cha Mẹ không biết rằng Con phải ở trong nhà Cha con ư?” (Lc 2,46-49). Nghĩa là Chúa đã gợi ra ý Thánh Cả Giuse phải mờ xoá đi trước mọt người Cha còn cao cả hơn Thánh Cả.

Bằng cách đó, Thánh Cả Giuse đã luỵ phục luật từ bỏ vĩ đại mà Chúa Kitô lập ra để những ai lưu luyến Người đều phải tuân theo. Nếu Thánh Cả đã không thể chứng dự cuộc hành quyết trên Thánh Giá, thì Ngài cũng đã tham phần mật thiết vào hy lễ, một thánh giá ẩn khuất hơn, song chẳng kém thực tế. Từ khi lạc mất Chúa Giêsu lên mười-hai tuổi, Thánh Cả hiểu ra càng ngày càng rõ hơn là: Chúa Giêsu Hài Nhi đã thoát khỏi tầm tay Ngài. Trong mầu nhiệm của một câu trả lời mà Ngài chưa hiểu ra ý nghĩa ngay, Thánh Cả đã thoáng thấy rằng, với tư cách làm Cha, một ngày kia Ngài sẽ phải thoái lui khuất dạng, để một mình Cha trên trời xuất hiện với tư cách là Cha Chúa Giêsu.

Thánh Cả tình nguyện chấp nhận sự bị xoá nhoà đó. Trong tình yêu, Ngài còn hoan hỉ vì thấy Chúa Kitô lớn lên trong khi Ngài sắp được giảm nhỏ lại. Vì Thánh Cả Giuse đã không tìm mình: tất cả nguồn vui của Ngài là được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc phát triển, Đấng Cứu Chuộc mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho Ngài.

Chương 14:

Nhà giáo dục

Biến cố Chúa Giêsu mười-hai tuổi lạc mất chỉ làm một dấu ngoặc trong tuổi niên thiếu của Chúa Cứu Chuộc. Ngay sau ngộ biến ấy, Chúa lại bắt đầu học theo Cha Mẹ: “Cùng với Cha Mẹ, Chúa ra khỏi thành và trở về Nazaret. Và Chúa đã vâng phục Cha Mẹ” (Lc 2,51).

Lời Phúc Âm nói rõ: “Chúa đã vâng phục Cha Mẹ”, diễn tả ấn tượng chủ yếu mà Đức Mẹ Maria lưu giữ được về thái độ của Chúa Giêsu trong suốt cuộc sống của Người ở Nazaret; lời đó càng tương phản với cách cư xử của Chúa vừa được thuật lại ở giai đoạn trước, thì càng có giá trị quan trọng. Chúa Giêsu vừa mới tự thoát ly khỏi sự tuân phục đó, và vừa mới hành động bắt thình lình với tư cách Đấng Cứu Chuộc ý thức được sứ mạng của mình. Nhưng đó chỉ là một miễn lệ lạ thường, do Cha trên trời muốn mà ra. Thường xuyên thỉ Chúa Hài Nhi vẫn vâng phục Cha Mẹ một cách đặc biệt.

Sự vâng phục này, không những Chúa Giêsu tỏ lộ với Đức Maria, mà còn cả với Thánh Cả Giuse. Chính do đó mà Thánh Cả có thể thực sự thi hành nhiệm vụ người Cha đã được lựa chọn cho Ngài, và hoàn tất sứ mạng một nhà giáo dục của Ngài.

Là nhà giáo dục, đó là danh nghĩa tạo nên cho Thánh Cả Giuse danh dự cao cả nhất, chức vụ quý trọng nhất của Ngài. Phàm đối với người cha nào trong gia đình, danh dự cũng là làm nhiệm vụ giáo hoá, là thấy mình được uỷ phó những mầm xanh để chuẩn bị cho định mệnh của chúng. Bằng việc giáo hoá ấy, họ tạo một ảnh hưởng trên tâm hồn con cái họ; thật không có gì cao quý hơn là cộng tác vào việc nặn đúc một tâm trí, một trái tim, một tính tình. Đó là một dấu hiệu tin cậy lớn nhất mà Thiên Chúa có thể làm cho con người.

Đối với Thánh Cả Giuse, dấu hiệu tin cậy ấy còn thực lớn lao hơn nữa, vì, liên kết Đức Maria, Thánh Cả được uỷ thác việc giáo dục Con Thiên Chúa. Linh hồn mà Thánh Cả sẽ tạo cho một ảnh hưởng là linh hồn của Ngôi Lời Nhập Thể; tâm hồn mà Thánh Cả phải chuẩn bị một sứ mạng cao cả là tâm hồn của Đấng Cứu Chuộc muôn dân.

Ta sẽ kinh ngạc mãi mãi vì Thiên Chúa mà lại muốn học tập một chút kiến thức nơi loài người. Một số người vẫn còn bắt nhẫn khi phải thừa nhận rằng Chúa Kitô, trên thực tế, đã có thể mở mang trí óc vì được tiếp xúc với loài người; rằng do những tiếp xúc ấy mà Chúa đã được huấn luyện bổ túc thêm. Họ coi như việc Chúa có thể hái lượm nơi người khác một cách làm giàu cho linh hồn là bất xứng với tư cách Con Thiên Chúa của Chúa. Nhưng nói cho đúng thì việc Chúa Nhập Thể còn hoàn toàn ở dưới phẩm chức của Chúa hơn nữa. mầu nhiệm Nhập Thể mang theo một chân lý bất ngờ như sét đánh là: Một Ngôi Vị Thiên Chúa đã quyết mặc lấy bản tính nhân loại và một hiện hữu nhân loại, trong điều kiện thông thường của bản tính và hiện hữu ấy. Để nhập thể hoàn toàn, thì Ngôi Lời đã trở nên con trẻ, chấp nhận tình trạng một con trẻ được huấn luyện dần dần, chịu ảnh hưởng sâu xa của cảnh vực, nhất là cảnh vực gia đình, và tiếp nhận sự giáo hoá từ Cha Mẹ Chúa.

Thánh Cả Giuse không phải chỉ là một nhà giáo dục bề ngoài, Ngài còn phải chu toàn một sứ mệnh rất thực tế, và có một tầm quan trọng rất cao. Chúa Giêsu thì cũng không thể chỉ cư xử dường như để ch Thánh Cả giáo dục Người; Thánh Cả Giuse đã cộng tác vào việc làm triển nở nhân cách của Chúa.

Thực ra, còn có Mẹ Maria ở đó để làm nhiệm vụ giáo dục này, Mẹ còn có nhiều thế lực trên tâm hồn Chúa Hài Nhi hơn nữa, và Mẹ còn tạo nên một ảnh hưởng sâu chìm hơn nữa. Mẹ có một linh hồn cực kỳ phú quý với những đức tính hết sức tinh tế, những tình cảm cao cả khôn sánh, và một sức chiếu toả rất mực linh diệu, để đưa một nhiệm vụ tế nhị như vậy đến thành công. Nhưng đối lực của một ảnh hưởng nam giới cũng thật hữu ích, và do đó mà nhiệm vụ của Thánh Cả Giuse, không ai có thể thay thế vào được; Thánh Cả đã đặt nổi đặc tính tu mi trong việc giáo dục cho Chúa Giêsu vậy.

Tuy nhiên, ta rất có thể đặt một câu hỏi: Thánh Cả Giuse đã dạy dỗ Chúa Giêsu những gì? Thánh Cả đã không dạy Chúa học; và kiến thức của Thánh Cả cũng chỉ giới hạn ở những kiến thức mà các thợ thủ công nơi thôn ổ có thôi. Nhưng cho công bằng thì ta phải nhìn nhận rõ hơn, qua tấm gương của Thánh Cả, là: bản chất của việc giáo dục hệ ở nhân cách người giáo dục, hơn là ở những kiến thức đặc biệt. Trước hết, giáo dục là truyền thụ, là chia sẻ những thái độ thiết yếu của tâm hồn.

Như vậy đúng là bằng đức tính tâm hồn Ngài, mà Thánh Cả Giuse nắm giữ địa vị nhà giáo dục, và đã chu toàn trách nhiệm của Ngài. Có thể nói được rằng, một phần nào tâm hồn của Thánh Cả đã chuyển thông sang và nhập hiệp vào tâm hồn Chúa Giêsu. Lời thắc mắc kinh ngạc của người xóm Nazaret: “Lại không phải là con ông  Giuse đấy ư?” (Lc 4,22) có chứa một sự thật rất căn bản mà họ không nghĩ tới, đó là: Chúa Giêsu đã để mình thấm nhập sự tiếp xúc với Thánh Cả Giuse, cho tới tầng sâu của tư tưởng và tâm tình Người.

Ở đây hơn ở bất cứ nơi đâu khác, nhieệm vụ của nhà giáo dục phải được thực thi một cách tế nhị. Cứ nói ngay theo cách thông thường, công việc của nhà giáo dục cũng đã không phải là buộc trẻ em phải chịu ảnh hưởng của họ đến độ lấy họ thay thế vào sự phát huy nhân cách đặc thù của chúng. Chắc chắn là việc giáo dục phải cung xuất một khung cảnh, một môi trường cho sự phát huy ấy, nhưng phải nhắm tới chỗ làm cho trẻ em càng ngày càng trở nên chính nó, theo những nguyên lý phát triển mà trẻ em có sẵn nơi mình. Giáo dục là cốt đúc nặn trẻ em bằng cách để cho trẻ em tự đúc nặn lấy mình, theo một chiều hướng tốt.

Thế mà hơn bất cứ một trẻ em nào, Chúa Giêsu đã sẵn có nơi mình những yếu tố để tự đúc nặn và tự phát huy. Lời sứ thần nói về xuất xứ lạ lùng của Chúa Hài Nhi và về định mệnh của Chúa đã tỏ ra cho Thánh Cả Giuse thấy rằng: nhân cách Chúa Giêsu cao vượt hơn Ngài rất xa. Nơi Chúa Hài Nhi, Ngài luôn phải tôn trọng một mầu nhiệm khôn dò. Vì thế, Thánh Cả Giuse đã hiểu rõ nhiệm vụ giáo dục của Thánh Cả hệ ở chỗ là trao cho Chúa Hài Nhi tất cả những gì Chúa cần có để làm triển nở nhân cách mầu nhiệm ấy.

Nhiệm vụ đó trở nên dễ dàng vì sự hoàn thiện của Chúa sẵn có, sự hoàn thiện loại bỏ bất cứ một sửa sai nào. Thánh Cả Giuse chỉ phải luôn luôn hiệp trợ và khuyến khích cho các đức tính của Chúa Giêsu triển nở, chứ không phải quở trách một khuyết điểm nào.

Nhưng ta cũng đoán ra được rằng: mặc dầu về khía cạnh đó mọi sự đều rất dễ dàng, thì nhiệm vụ uỷ thác cho Thánh Cả Giuse, về phía Ngài, lại cần có một hoàn thiện luân lý ở một mức độ rất cao. Thánh Cả phải là một gương mẫu xứng đáng cho Đấng đích thân là thánh thiện bắt chước.

Trong sư trao đổi tâm hồn giữa Thánh Cả Giuse và Chúa Giêsu, ta có thể đoán ra được nét nào trong nhân cách của Thánh Cả đã in dấu rất sâu đậm trên Chúa Hài Nhi không? Nếu chỗ tiềm mật nhất của linh hồn Chúa Kitô được mạc khải cho ta trong Phúc Âm qua những quan hệ yêu đương của Chúa với Cha trên trời, thì ta có thể phỏng đoán hợp lý rằng: chính trong lãnh vực đó, đồng thời với Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse cũng đã có thể để lại dấu vết đáng chú ý nhất trong tâm tình của Chúa Hài Nhi.

Quả thật, Chúa Giêsu luôn hihụ trong một tình trạng ngoại thường đối với Cha trên trời, và duy mình Chúa có thể tìm ra cung điệu hoà hợp đúng với những quan hệ của Chúa với Cha. Nhưng, điều Chúa quan sát thấy noơi Thánh Cả Giuse, đó là cách thức nhân loại Chúa cư xử với Thiên Chúa, tỏ lòng tin thờ và mến yêu Ngài, phó thác cho thánh ý Người, qua muôn nghìn trạng huống bày xoá trong cuộc sống hằng ngày. Thánh Cả Giuse đã không phải dạy cho Chúa Hài Nhi biết tình yêu Cha trên trời, nhưng Thánh Cả có thể khai tâm cho Chúa về cách thức nhân loại thỏ thẻ với Cha, tôn kính Cha, tỏ cho Cha những hình thức tôn thờ và sùng bái cụ thể. Vì trót cả cuộc đời của Thánh Cả Giuse đã tận hiến để phụng sự Thiên Chúa, nên tâm tình nền tảng từng linh ứng tất cả các việc Thánh Cả làm, để thấm nhập vào Chúa Giêsu, và cũng để Chúa dễ dàng chứng tỏ với Cha sự tùng phục và tình yêu của Ngài bằng ngôn từ nhân loại, ngôn từ của đạo tâm Do Thái. Do đó, Thánh Cả Giuse cộng tác vào việc hình thành những gì quý hoá nhất nơi Chúa Giêsu, tức là niềm phấn khởi đem bản tính nhân loại của Chúa băng về Cha trên trời.

Là nhà giáo dục hoàn toàn, Thánh Cả Giuse đặt ra trước mặt chúng ta vẻ đẹp lạ lùng của bất cứ nhiệm vụ giáo dục nào. Và gương mẫu của Thánh Cả tỏ rõ cho ta thấy rằng không có nhiệm vụ nào trọng đại hơn là làm cho một tâm hồn trẻ đi lên với Thiên Chúa.

Chương 15:

Môn đệ đầu tiên của Thầy

Lúc Thánh Cả Giuse tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thờ giữa các nhà tiến sĩ, Chúa có thái độ một người lắng nghe, mà cũng có thái độ một người chất vấn. Chúa lắng nghe với tư cách môn đệ, nhưng khi đặt ra những câu hỏi, hay khi trả lời những câu hỏi, thì Người đã tỏ mình là một bậc Thầy. Trí óc cao vượt của Chúa đã làm kinh ngạc thính giả.

Đối với Thánh Cả Giuse, thái độ của Chúa Giêsu quả thực khác với thái độ Chúa tạm thời tỏ ra với các tiến sĩ lề luật Do Thái. Nhưng thái độ ấy cũng mạc khải hai khía cạnh: Chúa Hài Nhi lắng nghe Thánh Cả Giuse, chịu để Ngài chỉ dạy và huấn luyện; và mặt khác, Chúa lại biết đặt ra những câu hỏi  mang theo cả một giáo huấn, hay thưa những câu trả lời tỏ bày những viễn tượng tân kỳ. Ngay từ tuổi còn rất thơ ấu, Chúa đã tỏ mình là một bậc thầy rất cao trọng.

Vì thế, mặc dầu là nhà giáo dục được Chúa Giêsu mến yêu, Thánh Cả Giuse cũng đã trở nên môn đệ đầu tiên của Chúa.

Ta hãy ghi nhận, trong bất cứ cuộc giáo dục nào, cũng xảy ra một trao đổi tương tự như vậy, mặc dầu xét theo bản chất thì phàm trẻ em nào cũng phải được chỉ dạy khi tiếp xúc với phụ huynh, nhưng trẻ em cũng dạy lại phụ huynh một cái gì. Trẻ mời gọi họ nhìni vũ trụ với cặp mắt mới; trẻ làm cho họ khám phá ra một số khía cạnh thú vị của một thực tại vẫn bị coi là quá tần thường không đáng để tâm suy nghĩ tới; trẻ dùng những câu hỏi tại sao lại thế này, tại sao lại thế nọ, để xin họ đào sâu suy tư về tất cả những gì bao quanh họ.

Trong trường hợp của Chúa Giêsu, không phải chỉ là ánh nhìn mới mẻ và trí năng tinh nhuệ của một trẻ em soi sáng cho cha mẹ, về nhiều khía cạnh của vũ trụ. Một cái nhìn siêu nhiên trên mọi sự vậg đã biểu lộ trong lời nói hoặc thái độ rất thông thường của Chúa. Sứ điệp Chúa mang lại cho nhân loại được phác hoạ trong bất cứ cách hành động nào của Chúa. Nghệ thuật toát yếu cả một giáo lý vào một lời ngắn gọn mà Thầy sẽ tỏ ra sau này, trong cuộc đời công khai, Chúa đã có ngay từ sơ khởi. Và trong những tiếp bập bẻ trẻ thơ của Chúa, những tiếng dầu sao cũng thực sự là lời nói của trẻ em, đơn sơ, trong sáng, đã tỏ hiện một giáo huấn kín đáo nhưng thâm trầm.

Chúa Giêsu càng lớn lên thì sự khôn ngoan siêu nhiên ấy càng triển nở và tạo nên những cuộc hàn huyên khuyến dụ. Phúc Âm còn lưu lại cho chúng ta một bằng chứng về cảm tưởng mà sự Chúa Hài Nhi phát triển ấy gây ra nơi Đức Mẹ Maria. Điều Mẹ thấy lạ lùng nhất, đó là sự khôn ngoan ấy càng ngày càng được củng cố, vì khi thuật lại sự tăng trưởng của Chúa Giêsu, Mẹ đã nhắc đến sự khôn ngoan ấy trước hết: “Chúa Giêsu đã lớn lên về khôn ngoan, về tầm vóc và về ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt loài người” (Lc 2,52).

Thánh Cả Giuse cũng không kém thán phục sự khôn ngoan tăng tiến ấy. Trong âm thầm, Thánh Cả bắt đầu học hỏi Chúa Hài Nhi, rồi vào trường của Chúa khi Ngài thanh niên. Như vậy, nếu qua quyền bính làm cha và nhiệm vụ giáo dục của mình, Thánh Cả tạo được một ảnh hưởng nơi Chúa Giêsu, thì đến lượt Ngài, Ngài cũng chịu ảnh hưởng của Chúa một cách sâu sắc.

Tại Nazaret, không phải là Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc giáo huấn mà sau này, trong suốt cuộc sống công khai, Chúa sẽ dấn thân vào. Cả khi đã tới tuổi trưởng thành, Chúa cũng không bao giờ biến nên một nhà giảng thuyết dạy dỗ cha mẹ, cũng không trình bày với cha mẹ nền giáo thuyết mà Chúa có ý định mạc khải cho thế giới. Chỉ tuỳ trường hợp, theo những ngộ biến xảy ra trong đời, sống trong gia đình hay thôn xóm, Chúa mới diễn giải rộng rãi tư tưởng này hay tư tưởng nọ.

Nhất là sự hiện diện của Chúa Giêsu, đời sống gương mẫu của Người, mới làm nên giáo lý Người dạy. Chúa Giêsu còn là Thầy hơn thế nữa, do bản chất của Người hơn là do điều Người nói. Trong cuộc đời công khai, Chúa sẽ nói với những người ước ao trở nên môn đệ của Chúa rằng: “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39). Chúa mời họ đến chia sẻ kinh nghiệm tình mật thiết của Người. Khi Người kêu gọi các tông đồ, thì trước hết là cốt để họ “ở lại với Người” (Mc 3,14); vì trước hết họ phải sống chung với Chúa, để thấm nhiễm ánh toả sáng của nhân vị Người đã.

Đối với Thánh Cả Giuse cũng xảy ra y như thế. Khác với các tông đồ, Thánh Cả không phải lắng nghe giáo lý của Đấng Cứu Thế; nhưng như các tông đồ, Thánh Cả cũng phải học hỏi bản chất của sứ điệp Chúa dạy, bằng cách ở liền mọi lúc bên Chúa Giêsu.

Cho dầu việc đó có thể coi như kỳ dị, Thánh Cả Giuse cũng không phải vất vả mấy để hoà hợp quyền gia trưởng của Ngài vào với tính cách ngoan ngoãn của môn đệ. Vì khi truyền khiến, thì Ngài chỉ truyền khiến ở phạm vi những việc bề ngoài, trong khi Ngài vẫn để mình chịu ảnh hưởng của Chúa Giêsu trong lãnh vực nội tâm và thiêng liêng.

Vì sẵn có một linh hồn mở rộng không nghi ngại, nên đối với Chúa Giêsu, Thánh Cả Giuse đã là một môn đệ lý tưởng, trước khi chia sẻ kinh nghiệm mà dụ ngôn người gieo giống ám chỉ đến sau này, kinh nghiệm về đất đai khô cằn hay sỏi đá không để hạt giống rơi vào, hay chỉ để nó mọc lên còi kĩnh, Chúa Giêsu đã gặp thấy nơi Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse một thứ đất cực kỳ dễ đón hạt, sẵn sàng kết quả mỗi hạt gấp trăm. Thánh Cả Giuse đã không để hư phí mất chút gì sinh ra bởi sự khôn ngoan của Bậc Thầy như thế lúc Người còn mai danh ẩn tích.

Cùng với Chúa Giêsu, Thánh Cả Giuse đã chấp nhận nhìn vũ trụ bằng một cái nhìn mới. Trên thực tế, Thánh Cả là người thuộc vào một chế độ sắp sửa bị bỏ qua: Ngài đã được huấn luyện theo tâm thức của Cựu Ước. Nhưng trước tâm thức mới mẻ của Chúa Giêsu, Thánh Cả Giuse đã không có phản ứng thủ cựu hẹp hòi của các biệt-sĩ sau này, trước lời Thầy giảng giáo. Thánh Cả đã đón nhận tư tưởng khoáng đãng của Tân Ước với một hứng thú âm thầm.

Thực ra, đã có sự đối lập giữa hai tâm thức đó, sự đối lập mà một ngày kia Chúa Giêsu sẽ xác nhận khi tuyên bố: “Các ông từng biết lời phán với người xưa thế này…, nhưng tôi, tôi bảo các ông thế này…” (Mt 5,21,22). Nhưng điều mà Thầy sẽ trình bày đó, chỉ là kết quả, là tuyệt mức tất cả những gì tốt đẹp trong truyền thống Do Thái. Vì thế, khi được nghe những suy niệm của Chúa Giêsu, Thánh Cả Giuse đã tự nhận đó là của mình, vì Thánh Cả cảm thấy những suy tư ấy, đến một mức độ nào đó, phù hợp với những khát vọng tôn giáo sâu xa nhất.

Ta nhận thấy tầm mở rộng đặc biệt trong phạm vi lòng yêu tha nhân. Tất cả những thái độ của Chúa Giêsu đối với những người ở luôn bên cạnh Chúa, những người Chúa gặp gỡ và những người Chúa nghe nói tới, đều là những thái độ hoàn toàn thấm nhiễm đức từ tâm. Trong cách nói và làm của Chúa, ta thấy rõ tình yêu của Ngài không muốn có một giới hạn nào, Người không chấp nhận, cũng không tham dự một cừu oán nào; Người tỏ thiện cảm với hết mọi người, cả với những người ngoại quốc, Người gìn giữ tấm lòng không vương một hiềm khích nào, và Người tha ngay những tổn thiệt Người phải chịu. Người vượt cao trên những căm hờn, những tranh chấp quốc gia, và đem lòng từ ái nhìn binh sĩ của quân đội đương thời chiếm đóng nước trần gian của Người.

Thánh Cả đã từng nghe biết những lời xưa trong luật cũ: “Mắt đền mắt, răng đền răng” cũng như một huấn giới Đức ái rất hạn hẹp: “Hãy thuy thân nhân ngươi, và hãy ghét kẻ thu 2ng00” (Mt 5,38-43; Xh 21,24; Đnl 19,21; Lv 14,20; 19,18), hẳn Thánh Cả sẽ nghiệm thấy một cuộc giải thoát thực sự khi hiểu biết trong tâm hồn Đấng Cứu Chuộc có một tình yêu bao la ngự trị. Thánh Cả chỉ cầu mong được thích dụng cùng một tình yêu đại đồng ấy, vì chính Ngài cũng không muốn loại ai ra khỏi lòng từ tầm của mình, và mong được tiếp xúc với hết mọi mối thân tình. Hạnh phúc biết bao khi Thánh Cả thoáng nhìn thấy tình yêu vĩ đại ấy từ nay sắp hợp nhất mọi người lại với nhau, theoý chí của Chúa Giêsu.

Chính như vậy mà trong cuộc sống thường nhật cánh sát cánh, giáo lý và tình yêu phong phú gồm chứa trong tâm hồn Thầy đã dần dà chuyển sang tâm hồn môn đệ đầu tiên của Thầy. Thánh Cả Giuse hoàn toàn rộng mở trước ảnh hưởng ấy, nên càng ngày càng biến đổi, và linh hồn Ngài càng tràn đầy sự hoàn thiện chân chính nhất của Kitô giáo. 

Chương 16:

Người lao công

Thánh Cả Giuse đã có một định mệnh ngoại thường. Nhưng khi tự hỏi cuộc đời Thánh Cả nuôi kỳ vọng nào, thì ta lại nhận ra rằng cuộc đời ấy đã hiến cho một công việc rất thông thường, công việc làm một nghề chẳng mang theo một giá trị đặc biệt nào cả.

“Bác thợ mộc”, đó là danh hiệu mà dân làng Nazaret đặt ra để gọi Thánh Cả. Danh hiệu đó có nghĩa là Thánh Cả Giuse làm nghề đẽo gỗ vậy. Ngài là một thợ tiểu công. Trong thôn xóm Ngài, nghề đó quả thật đã làm Thánh Cả không đáng được tôn trọng hay chú ý đặc biệt, vì người ta đã gọi ra để phủ nhận những sở vọng cứu thế của Chúa Giêsu: “Đó lại chẳng phải là con bác thợ mộc ư?” (Mt 13,55). Và vì chính Chúa Giêsu cũng lại nối tiếp Thánh Cả trong nghề đó, nên người ta cũng nói về Chúa một cách khinh miệt y như thế: “Ông ta chẳng là bác thợ mộc đó ư?” (Mc 6,3).

Giá người Cha của Đấng Cứu Thế là một nhà trí thức, một người thông tháo Thánh Kinh, một vị tiến sĩ luật, thì người ta sẽ còn dễ hiểu được hơn nhiều. Nhờ có học vấn rộng, Ngài đã có thể chuẩn bị cho Con của Ngài làm sứ mạng giáo huấn và sứ mạng này rất có thể được quần chúng dễ tin hơn. Chứ nghề thợ mộc thì chỉ làm cho ngua không tin Thánh Cả Giuse cũng như không tin cả chính Chúa Giêsu nữa.

Trên thực tế, một lần nữa, ta lại thấy chứng nghiệm ở đây lời thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Corintô: “Cái điên dại của Thiên Chúa còn khôn ngoan hơn loài người” (1Cr 1,25). Với một minh tiết làm đảo lộn mọi định giá của nhân loại. Thiên Chúa đã muốn Người sẽ giáo dục Đấng Cứu Thế là người làm cái nghề thợ mộc đó. Những danh hiệu quý tộc có giá trị trước mặt Thiên Chúa hoàn toàn khác biệt với những danh hiệu loài người tạo ra, mà nghề làm thợ mộc là một trong những danh hiệu quý tộc ấy.

Từ đó lại hiện lên giá trị mà Thiên Chúa quy định cho việc làm của con người, dầu là một việc làm đơn sơ nhất, tầm thường nhất. Khi muốn cho Thánh Cả Giuse và Chúa Giêsu làm một việc thủ công, Thiên Chúa đã rất có thể ước mong phục hồi giá trị cho công việc đó, một loại công việc dễ bị khinh miệt hơn cả. Người tỏ lòng quý trọng những công việc hết sức thường hèn, dù chúng thế nào đi nữa.

Như vậy là nơi Thánh Cả Giuse, bất cứ việc làm nào cũng được tán tụng. Đặc biệt hơn nữa là người thợ mộc xóm Nazaret ấy đã nâng rất cao chức phẩm của tất cả những thợ tiểu công nghệ và tất cả mọi người lao động, tất cả những ai dùng đôi tay của mình mà lam làm vất vả.

Hội Thánh đã công nhận chân lý ấy khi đặt lễ Thánh Giuse Lao Công trùng với ngày lễ Lao động quốc tế, một lễ lập ra để tôn trọng giới thợ thuyền. Bằng việc đó, Hội Thánh đã trả lại cho Thánh Cả Giuse danh vị phù hợp với Ngài. Trong chương trình của Thiên Chúa, việc thủ công của Thánh Cả Giuse, một việc tập luyện cho việc thủ công của Chúa Giêsu, đã ở ngay nguồn gốc tính cách cao quý mới của sức lao động.

Cũng chẳng kém ý nghĩa sự kiện là công việc Thánh Cả Giuse chu toàn không phải có một tài năng ngoại lệ, hay sự hiểu biết vượt mức trung bình. Thánh Cả Giuse đã đem hết lương tâm nghề nghiệp để chu toàn tốt đẹp phận vụ mình, mà không cần chứng tỏ một tài khéo rất có thể được người đời chú ý, Thánh Cả làm một ông thợ mộc y như các ông thợ mộc khác, và cứ bề ngoài thì công việc Ngài làm cũng tương tự việc các ông thợ mộc khác làm. Ta có thể nói rằng nơi Thánh Cả Giuse, điều đáng chú ý là công việc Ngài làm, cứ theo kết quả bề ngoài, thì chẳng có gì đáng chú ý đặc biệt cả.

Vì thế, nơi Thánh Cả, yếu tố nên lớn lao và tôn quý, đó là việc việc làm của tất cả những ai hết sức cố gắng làm nhiệm vụ mình mà không cần phải được phú bẩm những phẩm tính đặc biệt; việc làm của những ai nỗ lực chăm chỉ mà cũng chỉ kết quả khiêm tốn; việc làm không gợi lên được một lời ca tụng, thán phục nào; việc làm của quảng đại quần chúng lao động; việc làm coi như hoàn toàn bình thường, vô vị hoặc hoặc ai biết đến. Thánh Cả Giuse đại diện cho mỗi công tác của đám quần chúng vô danh bao la đó, đám quần chúng lấy lao động làm cho lịch sử nhân loại tiến lên, đẩy cho nền văn hoá của nhân loại tiến bộ dần dần, đám quần chúng nâng cao lên từng chút từng chút những điều kiện của một cuộc sống dễ chịu.

Thật vậy, bên cạnh những tên tuổi vĩ đại mà ký ức loài người còn ghi nhớ, tên tuổi của những người đã đóng một vai trò hàng đầu trong lịch sử hay được thời danh vì những phát minh mới lạ, còn có một số lớn vô hạn những tên tuổi vẫn âm thầm trong bóng tối, những người không phát minh được cái gì, vì họ không có khả năng hoặc cơ hội, nhưng lại vẫn lao động để cộng tác vào lợi ích của xã hội. Thánh Cả Giuse là mô phạm về điểm này, và Thánh Cả vẫn còn đó để cổ võ niềm hãnh diện khiêm tốn của giới lao công.

Nếu cứ xét theo bề ngoài, thì việc làm của Thánh Cả Giuse chẳng có gì nổi bật đáng chú ý, nhưng việc làm ấy lại có một giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa vì dự kiện tâm hồn mà Thánh Cả đặt vào khi chu toàn bổn phận. Dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, cái đáng giá không phải là việc ta làm cho bằng cách ta làm việc. Một công việc có giá trị trước hết là do ý hướng ta đặt vào cũng như do những phẩm tính sâu xa xui khiến ta dấn thân hành động.

Điều xác thực chắc chắn là đối tượng trực tiếp nhất Thánh Cả Giuse theo đuổi khi làm việc là cung cấp nhu cầu cho gia đình. Thánh Cả phải làm việc để đảm bảo cuộc sống. Thiên Chúa đã không muốn đặt Thánh Cả vào số những người được ưu đãi không cần phải làm việc. Thánh Cả thuộc và thân phận chung của loài người, Ngài phải đem đôi tay hoạt động để mưu cuộc sống còn cho Đức Maria và Chúa Giêsu.

Nhưng cũng vì phải làm việc như vậy mà Thánh Cả đã có thể đặt vào công việc hăng hay của Ngài tình yêu mãnh liệt Ngài muốn yêu Chúa và Mẹ. Đối với Ngài, sự tự nhận mình làm việc cho Chúa và Mẹ đó, thật là một nguồn vui, một an ủi. Trong tình yêu nồng nhiệt của Thánh Cả đối với gia đình, một thứ tình yêu gợi hứng vì thấm nhuần toàn thể hoạt động của một bác thợ mộc như Ngài, Thánh Giuse là gương mẫu của toàn thể giới lao công, lớp người đã nâng cao công việc, biến chúng thành một tặng vật yêu đương dâng hiến cho gia đình mà họ có trách nhiệm duy trì.

Ngoài ra, Thánh Cả còn muốn phục vụ thôn xóm mình. Không phải Thánh Cả chỉ miệt mài với việc làm tuỳ theo mức độ cần thiết để mưu kế sinh nhai và nuôi sống gia đình. Thánh Cả còn đem tất cả tinh xảo và tận tâm làm việc để hết sức có thể giúp đỡ những người đến nhờ Ngài. Ngài ân cần lo sao cho phận vụ được thực hiện tốt. Ai biết được những lao công đã đem một nhiệt tâm thực sự để chu toàn trọn hảo hết mức công việc họ làm, vì họ muốn đáp ứng yêu sách mà người ta chờ đợi ở họ? Bằng việc Ngài làm, Thánh Cả Giuse từng ước mong làm hài lòng tha nhân, trở nên hữu ích nhất cho tha nhân mà Ngài yêu mến.

Trên hết cả là Thánh Cả Giuse ước ao làm đẹp lòng chính Thiên Chúa. Việc Thánh Cả làm là một việc kính tôn Thiên Chúa, là một lòng phụng thờ từng chiếm đoạt hoạt động mọi ngày của Ngài. Vì khi lao tác, Thánh Cả luôn ý thức là mình chu toàn thánh ý Thiên Chúa.

Nhìn công việc mình làm như được Thiên Chúa muốn. Thánh Cả đã không thể coi đó là một hậu quả của tội lỗi. Thánh Cả cũng từng biết là Thiên Chúa truyền phán với Adong sau khi ông sa ngã: “Trán ngươi phải chảy mồ hôi, ngươi mới có miếng ăn” (St 3,19). Nhưng Thánh Cả đã không thể coi việc làm là một cái gì đáng chán, cả trong lúc Ngài phải lao đao vất vả. Đó là một cách làm tôn quý cuộc sống của Ngài. Và Chúa Giêsu lại không ở đó, ngay bên cạnh Thánh Cả, học tập làm việc, để xác nhận là việc Thánh Cả làm có giá trị làm tôn quý đó ư? Đấng sẽ cứu chuộc loài người, khi ham mê công việc thợ mộc, đã chẳng tỏ rằng lao động, có thể trở nên một phương tiện cứu chuộc và độ phúc đó ư? Nếu công việc đó có mang theo đau khổ và chán ngại, thì chỉ là chuẩn bị tốt hơn cho tấn bi kịch vĩ đại ông già Simêon tiên báo, và chỉ nhằm đạt một tính chất cao quý mới.

Chính trong viễn tượng cứu độ loài người đó mà Thánh Cả Giuse đã ham muốn lao động. Đôi khi có người vẽ hình Thánh Cả làm việc thợ mộc đang đóng một cây Thánh Giá. Trên thực tế, rất có thể Ngài đã chẳng đóng một cây Thánh Giá thật sự. Nhưng hình ảnh thì vẫn thiết thực một cách sâu xa: công việc Thánh Cả làm thực sự chuẩn bị cho cây Thánh Giá, vì nó đã là một hiến lễ được hoàn thành nhằm cứu độ loài người, một việc tham dự đầu tiên vào hy sinh cứu chuộc rồi.

Thánh Cả Giuse nêu rõ sự cao trọng tiếp nhận được bởi tất cả những đau khổ của lao động nhân loại; những đau khổ ấy góp công vào việc lập công trạng để xây dựng một nhân loại tốt lành hơn.

Chương 17:

Nhà chiêm niệm

Lao động và chiêm niệm, mới thoạt nhìn thì coi như đối lập nhau. Vì thế danh từ chiêm niệm dễ gợi cho ta thấy đời sống của những người lìa xa hoạt động trần gian, để hiến thân trong việc cầu nguyện. Thế mà Thánh Cả Giuse đâu có rút lui khỏi xã hội loài người để ôm ấp một cuộc sống tách biệt. Thánh Cả không bao giờ vào nơi rừng vắng để sống gần Thiên Chúa hơn, như Thánh Gioan Tẩy Giả và môn đệ ông đã làm. Chúng ta sẽ thấy đời sống bận rộn là đời sống lao động của Thánh Cả, một lao động cần thiết để Thánh Cả cũng như gia đình Ngài tồn tại. Cuộc sống hằng ngày của Thánh Cả, trong khung cảnh xóm nghèo Nazaret, cũng y hệt như cuộc sống của những người lân bang hàng xóm.

Như vậy thì có thể không một ai đã nghĩ Thánh Cả Giuse là một nhà chiêm niệm. Cả đến ngày nay chúng ta cũng vẫn nghi ngại không dám áp dụng cho Thánh Cả một danh từ xem ra thích hợp nhiều hơn với một Thánh Gioan Thánh Giá hay một Thánh Nữ Têrêsa Avia chẳng hạn.

Tuy nhiên Thánh Cả Giuse đã là một nhà chiêm niệm thực sự. Ngài chiêm niệm tự đáy sâu tâm hồn, hơn là bằng thái độ bên ngoài. Ngài chiêm niệm trong công việc Ngài làm dưới mái ấm gia đình đoàn tụ với thê nhi, trong một nếp sống luôn luôn pha lẫn vào nếp sống của những người khác. Cư ngụ trong một xóm thôn nhỏ bé có đồi núi vây quanh, nhưng Thánh Cả Giuse vẫn không để cái nhìn của Ngài lại vít kín trong thôn xóm đó; cái nhìn của Thánh Cả đã xa thoát lên cao. Ở chỗ nào Thánh Cả cũng tìm Thiên Chúa và hoàn toàn chú ý vào Thiên Chúa.

Không hề đối lập với cái nhìn chiêm niệm ấy, lao động còn để cho nó phát triển thêm. Trong lúc đem đôi tay làm việc, Thánh Cả Giuse vẫn có thể dễ dàng nâng tư tưởng của Ngài lên Thiên Chúa, dâng hiến Chúa công việc Ngài làm tỏ lộ lòng Ngài yêu mến Chúa; hoặc nói cho đơn giản hơn, Thánh Cả lao động trong sự hiện diện của Thiên Chúa, vì ý thức được là mình ở trước mặt Thiên Chúa.

Thật vậy, chiêm niệm không đòi tâm trí phải cố gắng; đúng ra thì nó là một cái nhìn đơn sơ tràn đầy trong Thiên Chúa. Nó không đòi phải có những tư tưởng muôn hình nghìn vẻ, những tâm tình thiên si vạn thù được diễn tả ra thành công thức; chỉ cần có tâm cảm linh động hoặc ẩn áo về sự hiện diện xâm chiếm của Thiên Chúa là đủ. Chiêm niệm là bình thản phó thác cho sự hiện diện ấy, là trầm lặng đi vào tình thắm thiết kết hợp với Thiên Chúa.

Sáng kiến chiêm niệm bao giờ cũng từ Thiên Chúa ban ra, nên Người đã tặng cho Thánh Cả Giuse mối tình thắm thiết ấy. Thánh Cả thì để cho mối tình đó chiếm đoạt mình, và nếm hưởng tất cả những gì khôn tả trong mối tình ấy. Ngài quyết định xe kết bền chặt với mối tình ấy, một cách vừa êm dịu vừa vững bền.

Tự nó, danh từ chiêm niệm có ý nghĩa là một hoạt động của tư tưởng. Nhưng ở đây, ta phải hiểu nó theo một ý nghĩa rộng rãi hơn, như người ta vẫn quen hiểu trong đời sống thiêng liêng. Nhà chiêm niệm là người đem trót cả hữu thể mình kết hợp với Thiên Chúa trong một tiếp xúc kéo dài. Không những nhà chiêm niệm đem trí năng, mà còn cả ý chí và tâm hồn, cũng như nghị lực tưởng tượng và tình cảm vào tiếp xúc đó. Sự chiêm niệm của Thánh Cả Giuse không phải là sự chiêm niệm đặc biệt hướng về một nỗ lực trí năng, nên nó chủ yếu có tính cách tâm cảm khăng khít với Thiên Chúa, Đấng chiếm đoạt Ngài mỗi ngày trọn vẹn hơn, và thấm nhập vào toàn thể hiện hữu của Ngài hơn mãi.

Thái độ chiêm niệm ấy không phân ly Thánh Cả khỏi hoạt động và lao tác của Ngài. Thận trọng tưởng nghĩ đến Thánh Cả, để cho sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa thu hút mình, đó không phải là sự kiện có thể ngăn cản không cho Thánh Cả chu toàn tốt đẹp những phận vụ đã uỷ thác cho Ngài. Trái lại, sự chiêm niệm ấy cũng nhóm lên một hứng thú nội tâm, giúp Thánh Cả thực thi những phận vụ đó một cách hăng nồng nữa. Chiêm niệm bản chất vẫn là phấn khích một hứng thú thâm trầm biến đổi việc làm nên nhẹ nhàng hơn, và luôn luôn đổi mới chí can trường. Thắm thiết với sự hiện diện của Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse phú thác trót mình cho Thiên Chúa toàn năng, Đấng làm cho Ngài hân hoan đương đầu với hết mọi thứ gian khổ. Hoạt động của Thánh Cả chỉ nhằm nên hoàn thiện hơn nhờ tiếp xúc với Thiên Chúa, và giá trị lao động của Thánh Cả vì đó mà trở nên tốt đẹp hơn.

Như vậy, những ai ước mong trở nên những nhà chiêm niệm trong hoạt động, có thể nhận Thánh Cả Giuse làm gương mẫu. Gương sáng Thánh Cả phải nhắc nhớ lại nhu cầu nền tảng nhất của con người, nhu cầu chiêm niệm âm thầm tiếp xúc với Thiên Chúa ngay giữa khi con người làm mọi phận vụ. Nhu cầu của từng cá nhân này còn phải là nhu cầu cấp thiết hơn nữa của một thế giới đầy náo động, đầy bận rộn thu thút con người: thế giới này phải có những con người như Thánh Cả Giuse, tỏ ra một đời sống cao thượng hơn, bình lặng hơn, đời sống mà linh hồn gặp gỡ và kết hợp với Thiên Chúa.

Nếu được phép gợi lại ở đây một vài cảnh trong Cựu Ước, thì ta có thể nói rằng, nơi Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria, đã tái diễn cuộc sống thân mật với Thiên Chúa của Adong Evà ngày trước: “Thiên Chúa đi dạo trong vườn dưới gió chiều hiu hiu thổi” (St 3,8), để gặp gỡ hai ông bà, đàm đạo với ông bà, đem sự hiện diện của mình hoà trộn vào hoạt động cũng như nghỉ ngơi của ông bà. Đó chính là cảnh tượng đã diễn ra trong nhà Nazaret, khu vườn mới, nơi Thiên Chúa thoả tình, và nhất là trong linh hồn của những người cư ngụ trong ngôi nhà ấy. Thánh Cả Giuse đã quyết chí đáp ứng sự hiện diện ấy của Thiên Chúa; với hết tâm hồn mình, với cùng một tấm lòng vô tội, và cùng một tấm lòng thanh sạch như Adong trước khi ông bị cám dỗ.

Hơn nữa, sự chiêm niệm củ Thánh Cả Giuse có thể mặc một hình thức mới mẻ hơn và cụ thể hơn, vì Thiên Chúa hiện diện với Thánh Cả trực tiếp hơn, hữu hình hơn, trong Ngôi Vị Chúa Giêsu. Thiên Chúa trong Cựu Ước còn giữ một quãng xa, một sự cách biệt nào đó. Nhưng giờ đây qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân sống giữa loài người, và một cách hữu hình hơn, lạ lùng hơn, thực hiện điều trước kia chỉ là hình ảnh, là tượng trưng trong đoạn miêu tả cuộc sống của Adong Evà. Như vậy, cái nhìn chiêm niệm của Thánh Cả Giuse, cái nhìn trước hết đã khăng khít với một Thiên Chúa trừu tượng, lại càng ngày càng gắn chặt hơn vào thần tính nơi Chúa Giêsu bên cạnh Thánh Cả.

Nhiều thế kỷ về sau, các nhà thần bí sẽ đặt ra vấn đề địa vị Chúa Kitô trên tuyệt đỉnh chiêm niệm. Một số các nhà ấy sẽ tự hỏi không biết vào giai đoạn cuối cùng, sự hợp nhất thần bí với Thiên Chúa có còn cần phải nương tựa vào nhân tính Ngôi Lời Nhập Thể nữa không, và sự chiêm niệm tối cao, thoát ly khỏi bất cứ lưu luyến giác cảm nào, có khỏi quy về thần tính ở trạng thái thuần tuý, vượt trên cả mầu nhiệm Nhập Thể không? Thánh Nữ Têrêsa Avia sẽ trả lời vấn đề này, bằng cách quả quyết là bao giờ cũng cần thiết phải chiêm niệm gương mặt của Chúa Giêsu, con đường độc đạo để gặp lại Thiên Chúa.

Đối với Thánh Cả Giuse, vấn đề lại được trình bày một cách khác hẳn. Sau khi quyết định liên kết với Thiên Chúa mà Thánh Cả từng nhận biết qua truyền thống Do Thái và Thánh Kinh, sự chiêm niệm của Thánh Cả đã tươi nở bằng cách khám phá ra Thiên Chúa ấy trên gương mặt nhân loại của Hài Nhi Nazaret, cái nhìn chiêm niệm cũng như sự hợp nhất thần bí với Thiên Chúa của Thánh Cả đã đạt tới tuyệt đỉnh trong sự hoà tan giữa mối tình lôi cuốn Ngài về Thiên Chúa và mối tình Ngài say yêu Chúa Giêsu.

Trong kinh nghiệm nội tâm, Thánh Cả Giuse đã sống chân lý chủ yếu mà sau này Chúa Giêsu sẽ nêu lên, khi một trong các môn đệ hỏi Chúa về đặc ân xem thấy Cha. Sao con lại có thể hỏi: “Xin tỏ cho chúng con thấy Cha? Thế con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy hay sao?” (Ga 14,9-10). Qua những lời dó, Chúa Giêsu tỏ ra rõ rệt rằng chỉ phải tìm Cha nơi Chúa, nơi một mình Chúa thôi. Trước các môn đệ, Thánh Cả Giuse đã tìm gặp Cha, và đã gặp được Cha. Trong những năm trường đằng đẵng luôn luôn nhìn ngắm Chúa Giêsu ở ngay bên cạnh, Thánh Cả đã nhìn thấy Cha rồi vậy.

Sự lạ lùng cao cả trong linh hồn chiêm niệm của Thánh Cả Giuse, đó là: nhận ra trong Chúa Giêsu mà Thánh Cả yêu dấu một cách rất thắm thiết, nhận ra trong Chúa sự hiện diện mà Thánh Cả cảm nghiệm một cách khác trong thẳm sâu linh hồn Ngài. Vì thế Thánh Cả Giuse mời gọi chúng ta đừng bao giờ rời xa Chúa Kitô để đi tìm gặp Thiên Chúa, song phải tìm gương mặt thần linh của Cha trên gương mặt nhân loại của Chúa Giêsu, Thánh Cả sẽ tỏ cho chúng ta thấy phải nhìn ngắm Chúa Cứu Thế lâu dài và mật thiết chừng nào, để khám phá ra cách cụ thể hơn sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta. Nhờ có Thánh Cả, chúng ta mới hiểu rõ hơn rằng việc chiêm niệm, tức việc làm cho cái nhìn của ta biến mất trong Thiên Chúa, phải là việc làm cho cái nhìn của ta mất hút trong Chúa Giêsu.

Chương 18:

Người công chính

“Công chính”, đó là tính từ mà Phúc Âm minh nhiên quy cho Thánh Cả Giuse; tính từ ấy phải là nét cá biệt của nhân cách Thánh Cả. Khi nói về quyết định mà Thánh Cả đang toan tính chọn lựa khi nhận thấy Đức Maria sắp có con, Thánh Matthêu nhận định: “Vì Thánh Cả Giuse là người công chính” (Mt 1,19). Đức tính công chính này giải thích rõ quyết định của Thánh Cả.

Trong Cựu Ước, đó chính là đức tính từng định nghĩa những người nỗ lực chu toàn thánh ý Thiên Chúa mà làm đẹp lòng Người. Đức tính ấy có nghĩa là sự thánh đức cá nhân, xét trong trật tự đức tính luân lý. Những người công chính là những người làm điều thiện; Thánh Kinh xếp họ đối lập với tội nhân.

Thông thường thì người ta căn cứ vào sự nắm giữ lề luật mà định rõ ai là người công chính. Cho nên ta đọc thấy ở đầu Phúc Âm theo Thánh Luca, lời ca tụng ông Giacaria và bà Isave: “Cả hai cùng là người công chính trước mặt Thiên Chúa và sống hết sức hoàn thiện theo mọi huấn giới cùng quy luật của Chúa” (Lc 1,6).

Khi giới thiệu với ta Thánh Cả Giuse là “người công chính”, Thánh Matthêu không phải chỉ nhằm đến cách thế chu toàn lề luật, mà còn nhằm một sự kiện đặc biệt hơn nữa. Lề luật đã rất có thể cho phép Thánh Cả Giuse, hoặc còn phải thúc đẩy Thánh Cả phải công khai tố giác vị-hôn-thê của Ngài. Nhưng gì là người công chính, nên Thánh Cả đã xét là Ngài không có thể công khai tố giác Đức Maria, vì, mặc dầu có những vẻ bên ngoài ấy, Ngài cũng xét là Mẹ vô tội; mặt khác, Thánh Cả không nhận là mình có quyền cưới Mẹ về nhà để làm Bạn đường của mình, vì Mẹ đã có một người con không phải do Ngài mà ra. Như vậy, sự “công chính” của Thánh Cả Giuse không hệ ở việc chỉ thực thi các mệnh lệnh của lề luật, nhưng hệ ở sự rất sâu xa tôn kính quyền lợi và thanh danh của tha nhân. Sự công chính đó là lòng chính trực vượt xa trên những đòi hỏi bên ngoài của lề luật.

Ta rất có thể diễn tả đức tính công chính đó bằng cách nói rằng Thánh Cả Giuse là một người hành động theo lương tâm. Như vậy Thánh Cả đối lập với nhiều biệt sĩ, những người cũng tự nhận là công chính, và hơn nữa còn là những người công chính nhất vì họ đã giữ bất cứ một mệnh lệnh tỉ mỉ nào của lề luật đòi hỏi, trong khi đó họ lại tự cho phép phạm vào những thiếu sót nặng nề về đức công chính và đức ái mà không e ngại gì. Nơi họ, sự công chính pháp lý ấy đã là một cái mặt nạ che khuất một lương tâm hư thối. Ta đã biết tất cả những lời mắng trách mà Chúa Kitô ném vào thói giả hình ấy của họ.

Chúa sẽ tuyên bố với những môn đệ Ngài: “Thầy nói với các con rằng: nếu sự công chính của các con không vượt trên sự công chính của các luật sĩ và biệt sĩ, thì các con sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Chúa Giêsu muốn các ông có một sự công chính cao vượt hơn, không căn cứ vào số cách mệnh lệnh đã tuân giữ, nhưng vào sự thuận hợp với tinh thần lề luật, tinh thần ngự trị trong tình yêu thiết yếu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Đó đã là đức công chính Thánh Cả Giuse từng thực hiện. Dưới mắt Thánh Cả, lề luật không bao giờ là một lý do để giới hạn tình yêu, để nhốt kín tình yêu trong một số những biểu lộ bên ngoài; sự công chính ấy là kêu mời phó thác cho Thiên Chúa tận đáy sâu linh hồn Thánh Cả, là nhìn nhận giá trị của nhân vị tha nhân, cũng như những danh nghĩa phải tôn kính và yêu thương họ.

Vì thế, đối với Thánh Cả Giuse, nên công chính có nghĩa là có một lương tâm hết sức tế nhị. Sự tế nhị Thánh Cả chứng tỏ khi quyết định kín đáo từ bỏ Đức Maria không phải có một ngoại trừ trong cuộc đời Ngài. Thánh Cả đã hiểu là Ngài phải nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Thánh Cả không muốn đặt một giới hạn nào cho việc thực hành sự thiện: Ngài ước mong nhận được trót sự thánh thiện mà Thiên Chúa muốn đổ ngập đầy linh hồn Ngài, bằng cách in sâu vào Ngài sự trở nên giống Thiên Chúa.

Thế nên, khi áp dụng từ công chính vào Thánh Cả Giuse, ta phải ý tứ kẻo roi vào ấn tượng giả dối mà từ ấy rất có thể khơi lên: tức là công chính do một hạnh kiểm luân lý có tính cách pháp lý, và hẹp hòi ước lượng bằng các quy luật, mà không có sự hăng hái nội tâm nào hướng về đích trọn lành, không có sự phát khởi sâu xa nào của tình yêu.

Sự công chính của Thánh Cả Giuse, ta còn có thể gọi là một sự trung thành tuyệt đối. Đó là sự trung thành của một người không những không muốn đánh lừa người khác, mà còn tránh để khỏi đánh lừa chính mình, và không hành động dường như là mình có thể đánh lừa được cả Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse đã có thể nào thì Ngài đã muốn bộc lộ y như thế.

Con người ta rất dễ đi tìm sự tán tụng của người đời; họ bị mê hoặc hành động theo dư luận mà người đời tạo nên về cách cư xử của họ, và lấy sự được người đời ưng thuận làm mục tiêu phải đuổi theo. Đó là con đường vạy vò mà các biệt sĩ đã đi vào, và Thầy suyễn đẩy các môn đệ tránh xa: “Các con hãy ý tứ đừng thi hành việc công chính của các con trước mặt người ta, để kéo họ chú ý tới các con; nếu không, các con sẽ không được phần thưởng bên cạnh Cha các con đang ngự trên trời đâu” (Mt 6,1).

Thánh Cả Giuse đã không bao giờ mong ước được người khác chú ý, và vì thế mà nhân đức của Thánh Cả vẫn cứ mai danh ẩn tích trong bóng tối, chẳng một ai biết đến, ngoài Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Người ta chẳng nhận ra nơi Thánh Cả có cái gì ngoại thường, vì Thánh Cả chỉ lo một điều duy nhất là làm đẹp lòng Thiên Chúa, và dửng dưng đối với những điều loài người thẩm giá, ca tụng hay phê bình. Thánh Cả biết rằng những thẩm giá đó chẳng có thể thêm được gì, mà chẳng cắt xén mất gì khỏi sự hoàn thiện của một linh hồn. Không phải là sự đánh giá của lân bang hàng xóm, cũng không phải dư luận quần chúng góp thêm được vào giá trị đích thực của một ai. Giá trị ấy được ghi khắc trong hữu thể sâu chìm của chúng ta, và chỉ có sự định giá trước mặt Thiên Chúa mới có tầm quan trọng.

Vì thế, Thánh Cả Giuse đã bảo tồn được một linh hồn hoàn toàn trong suốt. Nơi Thánh Cả không hề có những điều phiền tạp do lòng tự ái xui nên, lòng tự ái mà cả nơi một nhân cách tốt đẹp, cũng đòi quyền được thoả mãn, và tìm cách chiếm đoạt thoả mãn đó. Cũng không hề có một vận động nào để tăng tiến hay bảo vệ thanh danh mình. Thanh danh này, Thánh Cả ý thức là nó ở trong tay Thiên Chúa; nếu dám bắt người khác phải tôn trọng mình, thì đó là đã muốn cướp giật thanh danh ấy khỏi bàn tay Thiên Chúa vậy.

Từ đó ta nhận ra tất cả những yếu tố mà đức công chính bao hàm: đó là một đức ngay thẳng nội tâm tương ứng với đức ngay thẳng của cách ăn nết ở bên ngoài. Ai muốn ngừng lại để chiêm ngưỡng Thánh Cả Giuse cho rõ, sẽ nhận ra là, từ tầng sâu hữu thể Ngài, Thánh Cả là con người đức hạnh và thánh thiện y như Ngài xuất hiện bên ngoài cho ta thấy. Nơi Thánh Cả không có một chút sai lệch nào, muột uẩn khúc nào. Linh hồn Thánh Cả là linh hồn trong sáng và chân thật.

Thánh Cả phải có đúng một linh hồn như thế, để liên tục sống trong tình mật thiêt với Chúa Giêsu. Trong tình mật thiết này, hễ thiếu sự ngay thẳng tất sẽ gặp phải chướng ngại cực nhọc. Ánh nhìn của Chúa Cứu Thế, ánh nhìn thấu suốt vào tận đáy linh hồn người ta, đã hoan hỉ vì vẻ trong suốt hoàn bị của Thánh Cả Giuse. Sự trong suốt của các linh hồn đoàn tụ dưới mái nhà Nazaret đã là một trong những nguồn vui của gia đình ấy. Nơi đây không hề có một bóng mờ ẩn ý nào, và sự cởi mở tâm hồn với nhau đã nêu rõ tình hợp nhất của Gia đình Thánh.

Thánh Cả Giuse, người công chính đã xuất hiện trước mắt chúng ta, ở ngay ngưỡng cửa vào Tân Ước, như một tiếng gợi đến lòng thành thực hoàn hảo mà Chúa Kitô ước mong tìm thấy nơi môn đệ Người. Với sự thành thật ấy, Thánh Cả Giuse đã là một chứng nhân trong cuộc giao chiến của ánh sáng vinh thắng bóng tối; vì sự trong suốt và trung thành của một linh hồn là gì, nếu không phải là ánh sáng của Thiên Chúa đã khải hoàn trong linh hồn, ánh sáng soi rõ hết mọi xó góc kín đáo nhất của linh hồn ấy?

Thánh Cả Giuse muốn dẫn chúng ta đi đúng vào con đường khải hoàn này. Thánh Cả sẽ giúp chúng ta huỷ bỏ nơi chúng ta bất cứ cái gì ngăn chặn ánh sáng, bất cứ vỏ mã nào mà chúng ta tìm kiếm dưới mắt tha nhân, cũng như thất cả những cái trí trá, dầu vô ý thức, mà chúng ta bị mê hoặc dùng đến, để làm cho con mắt cá nhân của chúng ta nhìni thấy chúng ta tốt hơn bản chất của mình. Thánh Cả sẽ gợi cho chúng ta hứng thú chân thành đặt mình dưới mắt Thiên Chúa, gợi cho chúng ta ước vọng hiến dâng Thiên Chúa một linhò trong sáng, với một sự cởi mở không che đậy, một vẻ ngay thẳng hoà hợp được với ánh nhìn tuyệt đối ngay thẳng của Chúa Giêsu.

Chương 19:

Người gia trưởng

Trong gia đình Do Thái, quyền hành của người cha là quyền hành được đặc biệt chú ý. Mặt khác, cuộc hôn nhân cũng bắt đầu bằng một hành vi quyền hành, vì vị-hôn-phu có quyền cưới lấy vị-hôn-thê về nhà mình. Mà chúng ta cũng biết trước là, nếu trước Thánh Cả Giuse đã lùi lại trước quyền hành này vì lòng tôn kính đối với mầu nhiệm làm Mẹ của Đức Maria, thì, về sau Thánh Cả đã được lệnh Thiên Thần truyền phải thi hành quyền đó. Qua lệnh truyền này, chính Thiên Chúa đã trao cho Thánh Cả Giuse quyền làm Cha trong gia đình Thánh Cả vậy.

Thật ra, ta rất có thể tự hỏi không biết vì quan hệ làm Mẹ của Đức Maria là quan hệ từ trời cao ban xuống, thuyền Mẹ có phải tùn gphục Thánh Gia không? Mẹ đã lãnh nhận tràn đầy ân sủng, thứ ân sủng nâng Mẹ vượt lên cao trên hết mọi thụ tạo, cốt để nhận quan hệ làm mẹ ấy. Sự hoàn thiện của Mẹ lại vượt xa sự hoàn thiện của đức phu quân mình. Đức Nữ Vương tương lai của vũ trụ mà lại có thể bị đặt dưới quyền hành của một ai đó không thể cao trọng bằng Mẹ được ư? Khi xin Thánh Cả Giuse cưới Đức Maria về nhà, sứ thần đã giải đáp vấn đề ấy. Thánh Cả Giuse phải xử sự với tư cách người chồng và tư cách gia trưởng. Quyền hành gia trưởng là quyền thuộc riêng Thánh Cả.

Từ đó ta hiểu ra chức vị vô biên của thcg và quyền hành đó còn xuất hiện rất lạ lùng hơn nữa, do sự kiện là nó được trao cho thc, để Ngài quản cai cả chhnh là chính Thiên Chúa, là Đấng sẽ thiết lập vương quyền Người cả dưới đất cả trên trời. Ta có thể so sánh giữa sự thánh thiện của Thánh Cả Giuse và sự thánh thiện của Đức Maria, nhưng ta không thể so sánh được sự thánh thiện giữa Thánh Cả Giuse và Chúa Giêsu. Chúa Cứu Thế chiếm hữu một hoàn thiện khôn sánh, và sự cao trọng thần linh của Người đặt ra giữa Người và người cha trần thế của Người một quãng cách xa vô cùng. Thế mà quãng cách xa vô cùng này đã không ngăn cản Thánh Cả Giuse thực hiện quyền hành của Ngài trên Chúa Hài Nhi. Ơn nhập thể phải trải rộng ra mãi đến cùng mầu nhiệm từng làm ta choáng váng của nó.

Và vì mầu nhiệm này lại được thể hiện trong sự thật, nên Thánh Cả Giuse không phải chỉ là gia trưởng ở mặt ngoài, trước con mắt của những người bàng quan. Thánh Cả quả thật là phu quân của Đức Maria và là Cha đồng trinh của Chúa Giêsu. Thánh Cả nắm giữ một quyền hành chân xác, đòi cả hai nhân vật cao trọng hơn Thánh Cả kia phải thực sự tùng phục Thánh Cả.

Mặt khác, Thánh Cả Giuse lại có một tính khí phái nam, đầy cương quyết rắn rỏi, rất thánh thiện để thi hành quyền bính. Chúng tôi đã từng nói rằng không được gán cho Thánh Cả một nhân cách nhạt nhoà không cứng cát, một nhân cách chỉ là yếu tố trang trí cho gia đình thánh. Nếu Thánh Cả Giuse không có một tính tình hùng tráng thì Ngài không có khả năng thi hành sứ mạng của Ngài. Thánh Cả biết mình muốn gì, và ý chí vững mạnh kiên cố của Ngài đã giúp Ngài bảo tồn được nhân cách hoàn hảo của Ngài, mặc dầu có những xui khiến trái chiều Ngài gặp thấy trong môi trường Ngài sống. Rất có thể Thánh Cả đã không có được lòng trinh bạch và lòng chính trực hoàn hảo, nếu ý chí của Ngài đã không có nghị lực đó.

Như vậy là bình thản nhưng chắc chắn, Thánh Cả Giuse đã hướng dẫn gia đình mà Thiên Chúa uỷ thác cho Ngài. Chính Thánh Cả đã nắm giữ những quyết định quan trọng, chẳng hạn quyết định trở về Belem, có Đức Maria đi theo, mặc dầu có những e ngại có thể xảy ra xét theo tình trạng của Mẹ bấy giờ, đối với thai nhi Mẹ cưu mang. Chính Thánh Cả cũng theo lối thông thường quyết định cho Chúa Giêsu học một nghề nghiệp, sau khi đã xét đến sở thích của Chúa Con. Chính Thánh Cả lại quyd5i về những công việc nho nhỏ về dosgid2 thường phải có.

Quyền hành Ngài thi hành ấy, Thánh Cả Giuse đã ý thức là chỉ do Thiên Chúa ban cho Ngài. Thánh Cả biết rất rõ là quyền hành đó, nhân đức Ngài không lập công mà đáng được, và vai trò gia trưởng của Ngài không biểu hiện một sự trổi vượt trong trật tự hoàn thiện luân lý. Thường xảy ra là một thủ lãnh bị mê hoặc nghĩ họ cao hơn những người mà họ được quyền đòi phải tùng phục họ. Đó không phải là trường hợp của Thánh Cả Giuse. Thánh Cả nhìn nhận mình ở dưới Đức Maria và Chúa Giêsu; Ngài thành thực thán phục Chúa và Mẹ hết sức, không thể nào muốn đặt mình lên trên Chúa và Mẹ. Như vậy là Ngài coi quyền hành của Ngài là một hồng ân Thiên Chúa ban cho, mặc dầu Ngài thua kém thẳm sâu như vậy. Khi hành động với tư cách gia trưởng, Thánh Cả lại càng vì thế mà khiêm nhượng hơn, vì Ngài nghĩ mình bất xứng không đáng được danh dự đó. Từ đáy sâu của tâm hồn Thánh Cả Giuse tự đặt mình xuống hàng cuối rốt.

Sự khiêm hạ ấy chuẩn bị cho Thánh Cả Giuse thi hành quyền hành một cách hết sức tế nhị, một cách hết sức nhân từ. Ta không thể nào quan niệm được Thánh Cả lại thi hành quyền hành ấy một cách thô bạo hoặc nghiêm khắc.

Thánh Cả Giuse có một niềm tin kính sâu xa đối với nhân cách của Đấng Hiền Thê Ngài, cũng như đối với nhân cách đang tăng trưởng của Chúa Giêsu. Trong những điều Thánh Cả quyết định, thì mối lo lắng đầu tiên của Ngài là phải biết rõ quan điểm của Mẹ và Chúa Giêsu. Thánh Cả tìm cách đáp ứng tốt hết sức có thể những nhu cầu và khát vọng của Mẹ.

Hơn bất cứ quyền bính nào khác, quyền gia trưởng còn phải được thực hiện trong một bầu không khí hiểu biết lẫn nhau. Thánh Cả Giuse đã hành động tốt lành đến nỗi các quyết định của Ngài đều là kết quả của mối hoà thuận phi thường Ngài chung sống với Đức thánh Trinh Nữ. Cứ chiếu theo mối tình ràng buộc hai người lại với nhau, thì không hề có một nguy hiểm nào có thể đưa đến bất thuận. Người này đều lấy việc làm thoả mãn những ước nguyện của người kia làm mối bận tâm trước hết của mình, cho nên không phải khó khăn gì để hoà hợp quan điểm của nhau cả. Cả hai cùng tự do phát biểu ý kiến, nhưng lại kèm theo ý muốn là được thuận hợp với ước muốn và quan điểm người kia. Khi Chúa Giêsu đã lớn lên, Chúa cũng góp thêm tiếng nói của Ngài vào tiếng nói của cha mẹ. Cho nên cả ba cùng nhau tìm đường vạch lối để theo, và quyết định của Thánh Cả Giuse vẫn là kết quả của sự tìm được vạch lối ấy, kết luận thường do quyết định của Ngài đúc kết. Tất cả gia đình đều thuận theo kết luận ấy.

Cứ theo cách đó thì quyền hành của Thánh Cả Giuse không hề đào ra một cái hố nào giữa gia đình Ngài và Ngài, hoặc khơi lên một e ngại nào, song đem Ngài lại gần Đức Maria và Chúa Giêsu hơn. Quyền hành ấy đóng vai trò dành riêng cho Thánh Cả, đó là: cố kết mối dây duy nhất. Ở đây không những là sự duy nhất bề ngoài sản ra từ sự tương ứng giữa quyền bính và tùng phục, mà còn là sự duy nhất sâu xa hơn trong các linh hồn hiện diện, một sự duy nhất sản ra từ mối ý hợp tâm đầu.

Thánh Cả Giuse đã muốn thi hành quyền bằng cách biểu lộ tình yêu liên kết cộng đồng gia đình nhỏ bé của Ngài. Thánh Cả hướng dẫn các gia trưởng để họ cố gắng sử dụng quyền hành của họ một cách tế nhị, bằng cách đảm bảo cho mối đồng tâm và làm thuận kiện cho mối đồng tâm ấy nhờ sự ân cần bảo đảm cho niềm khát vọng của mỗi phần tử trong gia đình.

Quyền bính có thể là yếu tố mà người ta có xu hướng lạm dụng hơn hết. Người có quyền thường bị thúc đẩy trương rộng thế lực của nó ra quá giới hạn, thi hành nó một cách qua sai khiến, có khi chuyên quyền nữa. Họ rơi vào nguy hiểm là để mình bị lòng tự ái kéo lôi, vì nó muốn bắt người khác luỵ phục mình. Khát vọng thống trị là một bản năng làm khổ tâm lý con người thật sâu sắc. Đó là lý do để bất cứ bậc gia trưởng nào cũng phải thức tỉnh, phải chỉ muốn hành động vì lý do yêu thương, với danh nghĩa là đại diện Thiên Chúa mà thôi.

Thánh Cả Giuse đã hành động như vậy. Ngài nhận biết mình là đại diện của Cha trên trời, và Ngài chỉ muốn có thể. Cho nên Ngài luôn đặt trước mắt mình cách thức mà Thiên Chúa dùng để thi hành quyền toàn năng của Người. Đấng có chủ quyền tối cao trên trời dưới đất đã làm bừng sáng quyền năng cực độ của Người lên trong sự bày tỏ chói lọi lòng nhân từ của Người. Với dân tộc Israel, Đức Giavê đã không chỉ cư xử với tư cách một vị vương đế tuyệt đối ban bố huấn lệnh; Người còn tỏ ra dấu ân cần của một mục chủ và tình dấu ái của một lương quân. Nghĩa là Đức Giavê đã quan niệm quyền bính của Người là cách biểu lộ tình yêu, và ước mong cho người ta chấp nhận quyền bính ấy bằng những dự kiện của ái tình. Thánh Cả Giuse cũng chỉ một niềm làm cho cách cư xử của Ngài phù hợp với khuôn vàng thước ngọc cao vời đó.

Cho nên Thánh Cả coi quyền hành của Ngài như một đặc ân để chứng tỏ cho tha nhân một lòng từ ái cao vượt hơn hết. Phàm quyền bính nào được uỷ cho để quản cai người khác rốt cuộc cũng chỉ có thể là quyền yêu thương. Với tư cách gia trưởng, Thánh Cả đã hết sức hân hoan và có thể yêu mến Đức Maria và Chúa Giêsu một cách thắm thiết hơn lên mãi.

Nếu qua tình yêu cao cả đó, Thánh Cả Giuse là mô phạm của các bậc gia trưởng thì Ngài cũng còn làm cho tất cả những ai được Thiên Chúa ban cho một quyền bính lãnh hội được ý nghĩa nền tảng của hồng ân ấy, và Thánh Cả mời gọi họ chu toàn trách nhiệm mình với một lòng nhân từ kiên vững nhưng khiêm nhu.

Chương 20:

Người đầy tớ

Thánh Cả Giuse nhìn nhận quyền gia trưởng của Ngài là một dịch vụ. Từ tầng thẳm sâu của linh hồn Ngài, điều Thánh Cả ước muốn không phải là được cai trị song là được phục vụ tha nhân.

Cựu Ước từnt tán dương những người tự nhận mình là đầy tớ Thiên Chúa. Trong sách Isaia, không những dân tộc Israel được Thiên Chúa gọi là đầy tớ Người, mà cả Đấng Cứu Thế cũng được tiên báo dưới danh hiệu là đầy tớ Thiên Chúa ấy (Is 40,55; 43,10; 42,1). Như vậy, làm đầy tớ, đó là một lý tưởng mà Thánh Cả Giuse muốn phục vụ Thiên Chúa phục vụ Người trong chính mình bằng việc tôn thờ Người và kính dâng Người sự sống mình, phục vụ Người trong tha nhân với hết lòng cúc cung tận tuỵ.

Chúa Thánh Thần, Đấng từng đặc biệt chuẩn bị Thánh Cả Giuse cho xứng địa vị của Ngài trong gia đình Nazaret bằng cách hoà hợp trước linh hồn Thánh Cả với linh hồn Đức Maria và Chúa Giêsu, đã không quên in sâu vào Thánh Cả lý tưởng đó, không quên gợi cho Thánh Cả một sở thích đặc biệt đối với thái độ một tôi trung. Chân dung của Đức thánh Trinh Nữ và Chúa Cứu Thế cũng quả thực thể hiện ra qua thái độ đó.

Thánh Cả Giuse phải là đầy tớ để trở nên lương quân của Đấng Nương Tử vừa thốt lên trong ngày Truyền Tin: “Nữ tỳ của Chúa đây!” (Lc 1,38). Cách chấp nhận thiên chức làm Mẹ Chúa Cứu Thế ấy là đặc trưng của một tâm thức: trong quan hệ của Mẹ với Thiên Chúa, Mẹ Maria luôn luôn muốn cư xử như một nữ tỳ. Mẹ cư xử như một nữ ty không phải với tinh thần sợ hãi, nhưng với tinh thần mến yêu, để tiếp nhận trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa. Và liền ngay sau phút truyền tin, Mẹ đã rất đặc biệt diễn dịch sự phục vụ hiến dâng Thiên Chúa ấy thành một sự phục vụ tha nhân, khi Mẹ vội vã đến nhà bà dì Isave để giúp đỡ bà, với tư cách là một con sen, trong những công việc bếp núc.

Làm sao Thánh Cả Giuse lại có thể có được một linh hồn rung lên hợp âm với linh hồn Đức Maria, nếu Thánh Cả không chia sẻ tâm thức ấy với Mẹ? Thật ra, ta suy luận được rằng Đức Mẹ đã muốn làm nữ tỳ hầu hạ lương quân mình, vì đó chính là thông tục nơi dân Israel. Nhưng để giữa hai linh hồn có một hoà điệu hài hoà, thì cả hai cùng phải khát vọng phục vụ Thiên Chúa, khiêm nhu và chu toàn cách hoàn hảo thánh ý Thiên Chúa, hoặc chu toàn mong ước đơn thuần của Thiên Chúa. Chính khát vọng chung này đã gắn liền hai linh hồn lại với nhau. Hơn nữa, mối hợp nhất còn được thắm thiết hơn, nhờ sự kiện là: Thánh Cả Giuse, mặc dầu là gia trưởng, cũngm1 là đầy tớ của hiền thê mình theo cách thức của Ngài. Thánh Cả cung cho Mẹ một sự giúp đỡ tận tâm chăn chú và mau mắn.

Chúa Giêsu lớn lên; Người cũng không cư xử cách khác. Người được chỉ định làm người đầy tớ vô song. Trong cuộc sống công khai của Người, Chúa Giêsu sẽ tuyên bố: “Con Người không đến được phục vụ nhưng để phục vụ” (Mt 20,28; Mc 10,45) hay “Thầy ở giữa các con như người phục vụ” (Lc 20,27), Người sẽ tiên báo cả lễ hy sinh cứu chuộc loài người, (Mt 20,28; Mc 20,45); và trước lễ hy sinh ấy, Người thực hiện một cảnh tượng trưng là rửa chân cho môn đệ: trong cử chỉ thông thường của đầy tớ ấy; Người biểu lộ đức khiêm hạ sắp dẫn Người đi chịu cực hình khổ giá.

Vì Chúa Giêsu được cha mẹ giáo hoá, nên điều quan trọng là Người luôn để mắt nhìn tâm ý chính yếu của người bầy tôi trong cách cư xử của Thánh Cả Giuse. Đặc biệt là về điểm này, Thánh Cả Giuse phải là một gương mẫu còn đáng nghiền ngẫm và bắt chước hơn nữa. Thánh Cả đã chuẩn bị cho Chúa Giêsu làm sứ mạng của Người và Thánh Cả đã thực hành sự chuẩn bị ấy một cách giản dị là: Thánh Cả ở giữa gia đình Người như một đầy tớ phục vụ.

Cho nên thái độ của đầy tớ đã đưa Thánh Cả Giuse vào mầu nhiệm Cứu Chuộc và góp công vào việc làm cho gia đình Nazaret trở thành một cảnh vực đặc ân tạo nên những tâm ý sẽ gieo hứng gây nên lễ hy sinh trên Thánh Giá.

Có thể là Thánh Cả Giuse đã không nhìn ra rõ ràng kết quả thái độ của Ngài. Thánh Cả có thái độ của Ngài. Thánh Cả có thái độ ấy vì Ngài biết nó ứng với thánh ý Thiên Chúa. Lúc thiên thần đến giục Ngài cưới Đức Maria, Thánh Cả Giuse đã không tuyên bố rõ như Đức thánh Trinh Nữ khi nghe Truyền Tin, là Ngài muốn làm đầy tớ Thiên Chúa. Nhưng trong tâm trí Ngài, Thánh Cả đã tuyên bố tương tự như Đức Kitô: “Đầy tớ Chúa đây”. Vì sứ điệp của thiên thần, khi thình lình tỏ cho Thánh Cả biết sự cao cả của Người Con và phẩm tước của Người Mẹ, đã khuyến giục Thánh Cả hiến mình phục vụ hai Mẹ Con, trong ý hướng phục vụ chính Thiên Chúa. Thế nên, đúng là với tư cách đầy tớ mà Thánh Cả Giuse đã lập gia đình, và đúng là với tư cách đó mà Thánh Cả tiếp tục lãnh đạo gia đình ấy.

Tiếng đầy tớ có thể gợi lên một tinh thần sợ hãi nào đó trong sự phục tùng. Nhưng ngay trong Cựu Ước, tiếng đó đã được dùng theo nghĩa văn mạch là yêu mến. Trong sách An Ủi của Israel, người Do Thái được đặc biệt gọi là đầy tớ, vì Thiên Chúa đã lựa chọn họ do một tâm tình ưu ái (Is 43,10); Đấng Cứu Thế cũng là đầy tớ mà Đức Giavê tuyển chọn và hài lòng như vậy (Is 42,1). Cho nên, người Do Thái là đầy tớ Thiên Chúa vì được tình yêu Thiên Chúa kêu gọi. Do đó, sự phục vụ chỉ có thể là tiếng đáp trả tình yêu ấy, và chính nó cũng là một tình yêu.

Thánh Cả Giuse được tình yêu Thiên Chúa đặc biệt tuyển chọn để làm đầy tớ, nên Ngài cũng quyết tâm phục vụ để yêu mến Thiên Chúa cho đến cùng. Thiên Chúa có thể nói về Thánh Cả rằng: “Đó là đầy tớ Ta đã tuyển chọn”, và trước tình ưu ái mà Ngài là đối tượng ấy, Thánh Cả chỉ còn nghĩ tới có việc tự hạ thẳm sâu chứ không hề hãnh diện tự nâng cao. Để chứng tỏ nhiều tình tri ân, nhiều lòng yêu mến hơn. Thánh Cả muốn trở nên bé nhỏ hết sức có thể.

Đó quả thực là bí quyết hết sức sâu xa của thái độ làm đầy tớ. Ai đã mến yêu thì không dám cai trị người họ yêu; họ hân hoan vì được trở nên bé nhỏ hơn. Họ sung sướng được mờ biến mất, vì họ chỉ nghĩ đến người yêu, và muốn lợi ích cho người yêu hơn lợi ích riêng mình. Họ thích được quên mình hơn, và người yêu đã ước muốn thì dầu trăm sự họ cũng chẳng nề.

Trước mặt Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng, thái độ ấy còn được chứng thực nhiều hơn nữa. Thánh Cả Giuse hiểu rằng được làm đầy tớ Thiên Chúa, đó là một đặc ân. Thiên Chúa có thể chẳng cần thụ tạo phải phục vụ Người; nếu Người cần đến và đòi hỏi những phục vụ ấy, thì đó chỉ là một chứng cớ Người tỏ lòng nhân từ với thụ tạo. Thánh Cả Giuse khát mong trả lại Thiên Chúa tất cả tâm thành yêu mến ấy, và đặt cả tâm hồn Ngài vào việc phục vụ Thiên Chúa. Ngài tìm cách chăm chút đến những ước muốn tóc tơ của Thiên Chúa để làm cho trọn vẹn.

Là đầy tớ Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse biểu lộ một đức tính ngoan ngoãn hoàn toàn. Đối với Ngài, hiến mình phục vụ Thiên Chúa, rồi khi thánh ý Chúa đặt ra một thử tách hoặc một việc làm khổ công, lại kháng cự với thánh ý ấy, đó là trí trá. Thánh Cả Giuse không có một lý tưởng nào khác ngoài lý tưởng làm đẹp lòng Thầy. Vì thế, Thánh Cả không hề phàn nàn vì đời sống của Ngài có thể mang nhiều vất vả khó khăn; Ngài đem niềm vui tươi thành thực đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa muốn để xảy ra trong cuộc đời tôi tớ của Ngài. Thánh Cả không ngừng hiến thân để mặc thánh ý Thiên Chúa hoàn toàn tự ý sử dụng Ngài.

Được nuôi dưỡng trong tinh thần yêu mến đó, tâm lý đầy tớ không thể nào thắt hẹp linh hồn Thánh Cả Giuse, không thể nào đập vỡ hay uốn cong được linh hồn Ngài lại. Linh hồn Ngài vẫn luôn nở giãn trong đức hối hả phục vụ.

Tất cả những ai sống gần Thánh Cả Giuse đều đồng thời được hưởng thụ đức nhiệt thành ấy của Ngài. Đối với tha nhân, bất cứ là ai, Thánh Cả Giuse cũng đều chỉ có thể tỏ một thái độ phục vụ yêu thương đặt nổi đặc tính những mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa. Lòng ngoan nguỳ Thánh Cả đối với Thiên Chúa, Ngài diễn dịch ra bằng sự ôn tồn làm cho người khác được toại ý, thoả lòng. Để được thận trọng, đức dễ giúp tha nhân của Thánh Cả cũng chẳng kém vẻ đáng yêu; nó sẵn sàng phục vụ với một lòng tận tâm to lớn nhất.

Thánh Cả Giuse đã biết nếm hưởng hương vị ngọt ngào của phục vụ, và làm cho người khác nếm hưởng được hương vị ngọt ngào của tình yêu Ngài đem ra phục vụ họ vậy.

Chương 21:

Người trầm lặng

Khi nín lặng về Thánh Cả Giuse, và chỉ kể về Ngài một tối thiểu hạn hẹp cần thiết cho trình thuật về việc đản sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu, Phúc Âm đã nương theo một nét cao vượt của nhân cách Thánh Cả: Thánh Giuse là một người trầm lặng.

Chúng ta không có được một lời nào Thánh Cả đã thốt ra, đó là một sự kiện ý nghĩa. Của Mẹ Maria, chúng ta còn lượm được một vài lời ngắn gọn, mang nặng nhiều ý nghĩa. Nhưng Phúc Âm không bao giờ tỏ cho ta thấy Thánh Cả Giuse mở miệng nói lời nào, và tất cả những điều Phúc Âm nói với ta về Thánh Cả đều cốt để ta nhớ rằng, một cách thường xuyên, Thánh Cả Giuse đã tự xoá nhoà trong im lặng.

Chính trong im lặng, Thánh Cả Giuse đã âm thầm chịu nỗi đau khổ gây ra do sự kiện Ngài nhận thấy Đức Maria sắp sinh một người con. Thánh Cả không vào số những người tìm cách tránh trút nhay những đau khổ nặng nề họ phải chịu bằng cách đem kể lể với người khác. Ngài biết chịu khổ mà không thốt ra nửa lời, không tỏ lộ ra phân nét.

Trong cớn túng rối Ngài chịu dằn vặt về quyết định phải làm, Thánh Cả chỉ tranh luận với chính mình. Ngài đã không muốn tiết lộ lý do cuộc xâu xé nội tâm Ngài đang trải; có im lặng Ngài mới bảo vệ được thanh danh của Đức Nữ Trinh.

Rồi cũng bằng một im lặng đầy niềm tin và ngoan ngoãn, Thánh Cả tiếp nhận mạc khải về sự xuống thai kỳ diệu của Chúa Giêsu, cũng như tiếp nhận lời kêu mời Ngài cư xử như cha của con trẻ lạ lùng ấy. Thiên Thần báo cho Thánh Cả một tín điệp hết sức kinh ngạc như vậy, mà Ngài không đáp lại câu nào. Hay đúng hơn, câu trả lời của Thánh Cả là liền ngay sau đó làm trọn vẹn yêu cầu mà sứ giả của Thiên Chúa xin Ngài làm. Có thể nói Thánh Cả Giuse thấy lời nói là vô ích: Ngài cứ đem cách xử sự chứng tỏ tâm tình của Ngài mà lại hùng hồn hơn nhiều.

Cũng lại trong im lặng, Ngài chứng dự vào biến cố vĩ đại ở Belem. Lúc thánh Gioan Tẩy Giả sinh ra, ta thấy cha của thánh nhân là ông Giacaria hát lên một thánh vịnh tri ân, chúc tụng và tán dương Thiên Chúa về ân huệ Thiên Chúa mới ban cho toàn thể dân tộc. Nhưng đã linh ứng cho ông Giacaria bài thánh ca đó, Chúa Thánh Thần lại chẳng đặt trên môi miệng Thánh Cả Giuse một câu ca nào khi Chúa Giêsu sinh hạ. Thánh Cả Giuse đã đón tiếp Chúa Hài Nhi trong một im lặng say sưa trầm tư mặc tưởng: niềm hân hoan và tình tri ân của Chúa Con chôn vùi sâu trong tận đáy linh hồn, nhưng không vì thế mà cản ngăn Ngài kính dâng hân hoan và tri ân lên Thiên Chúa với niềm tin kính âm thầm. Mặc dầu lặng câm như vậy, bài ca Thánh Cả Giuse hát lên cũng chẳng kém đẹp lòng Thiên Chúa.

Mặt khác, ta chẳng phải im lặng mới thích thuận để đón nghe Đấng là Lời Thiên Chúa đích thân đó ư? Ngôi Lời hoá nên nhục thể. Đấng Lời đã xuống giữa thế giới chúng ta, lại chẳng đòi phải có các linh hồn trầm lặng để lắng nghe người đó ư? Thái độ trầm lặng của Thánh Cả Giuse thật là đặc biệt hoà điệu với mầu nhiệm Nhập Thể vậy.

Ta cần ghi nhớ điều này: sự trầm lặng đó của Thánh Cả Giuse không phải là vắng thiếu tâm tình. Cùng với Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse đã xiết bao kinh ngạc tán dương khi nghe câu chuyện kể lại của các mục tử mà thiên thần dẫn tới máng có. Nhưng những sự lạ lùng mà Thánh Cả chứng kiến đó còn thúc đẩy Ngài lặng im hơn nữa; Người im lặng là người hoàn toàn không dằn nổi được cảm xúc mãnh liệt. Đối với Thánh Cả Giuse, trầm lặng là cách linh động nhất để tán dương các mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Sự trầm lặng của Thánh Cả, khi cùng với Mẹ Maria đem Chúa Giêsu Hài Nhi hiến dâng trong Đền Thánh, không phải chỉ là một trần lặng tôn thờ. Sự trầm lặng ấy chất nặng giá trị đau khổ mà lời tiên tri Simêon gồm chứa. Rụng rời trước viễn tượng hy sinh bỗng dưng mở toang ra trước mắt Ngài đó, Thánh Cả Giuse cũng không nói một lời nào với ông già tiên tri. Ngài muốn để lời tiên tri ấy thấm sâu vào linh hồn, muốn giữ lại vang âm của nó để thực hiện cử chỉ hiến dâng Ngài phải chu toàn. Thánh Cả ước mong đồng thời với Chúa Hài Nhi dâng tế lời kinh hoàng Ngài vừa được nghe ấy.

Sau cùng khi tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, một lần nữa cũng trong trầm lặng mà Thánh Cả phải qua từ ảo não sang hân hoan. Thánh Cả để Đức Maria tiết lộ mối xúc cảm của cả hai người; đành rằng, với tư cách gia trưởng, Thánh Cả có thể trao lời cho Chúa Hài Nhi và đòi Chúa giải thích cách xử sự đó, nhưng Ngài thích được xoá nhoà đi hơn, và chính Đức Maria đã lên tiếng.

Nếu tìm cách tưởng tượng ra Thánh Cả Giuse trong đời sống hằng ngày ở Nazaret, thì ta cũng chỉ có thể hình dung ra Ngài trong cùng một thái độ trầm lặng đó. Thật ra, trong khi hàn huyên chuyện vãn, Thánh Cả Giuse cũng biết nói lên đúng lúc, và diễn tả được tư tưởng của Ngài. Nhưng Ngài nói rất ít. Ngài nói ít để hoà mình vào cách sống của Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Đức thánh Trinh Nữ không nói lên một lời nào vô ích hay phù phiếm, và những lời Mẹ nói được thuật lại trong Phúc Âm đều là những lời hàm súc, ý nghĩa phong phú sâu đầy. Chúa Giêsu cũng thế, khi công khai giảng đạo, Chúa cũng chỉ nói những lời chất chứa đầy giá trị, và trong những hoàn cảnh như hoàn cảnh vụ án xử Người, Chúa sẽ chứng tỏ rằng Chúa biết giữ im lặng một cách anh hùng.

Là người trầm lặng, Thánh Cả Giuse trở thành một bài học sống động cho thời đại chúng ta và cho thế giới chúng ta. Đã đành im lặng là một giá trị cho bất cứ thời đại nào. Nhưng thời đại chúng ta có đặc tính là ồn ào xáo động và nói quá nhiều, nhờ kỹ thuật truyền thông phát triển. Nhờ những kỹ thuật đó, lời nói của con người tràn vang ra rất dễ dàng, và người ta trao đổi với nhau nhiều hơn. Tiến bộ đó có nhiều ích lợi, nhưng nó lại làm ta rơi vào nguy hiểm giảm bớt đời sống nội tâm. Nhiều cuộng sống đã liều bị trở thành mây khói trong những thoả mãn ngoài mặt mà những phát minh của thế giới hiện đại phung phí cho trí năng và giác cảm.

Thánh Cả Giuse nhắc lại nhờ trầm lặng ta mới có thể tiếp đón Chúa Kitô và mầu nhiệm của Người. Chính sự trầm lặng ấy đã cho phép Thánh Cả, đồng thời với Mẹ Maria, “giữ lại trong tâm hồn” và suy niệm mầu nhiệm mà Thánh Cả được chứng kiến (x. Lc 2,19-51). Nếu Thánh Cả đã làm tán loạn chú tâm của Ngài vào những lời nói không đâu, thì hẳn Ngài đã không thể giữ được cho ánh nhìn chiêm niệm của Ngài dán mãi vào Chúa Giêsu.

Có những người sợ trầm lặng, vì họ e rằng sẽ thấy mình phải đối diện với chính mình. Thánh Cả Giuse đã yêu trầm lặng vì Ngài ước mong được đối diện với Thiên Chúa. Thánh Cả không sợ sự vắng lặng chán phiền, vì sự vắng lặng nào đối với Ngài cũng có Chúa hiện diện rất hiện thực.

Thánh Cả Giuse chứng tỏ rằng, để giữ mình trong trầm lặng, không cần nhốt mình vào một đan viện. Thánh Cả mang theo đan phòng riêng trong linh hồn kín ẩn của Ngài. Ngài kêu mời bất cứ Kitô hữu nào cũng làm như vậy, cố gắng bảo vệ một ẩn viện tịch mịch ngay trong linh hồn mình. Cuộc đời nào càng náo động ngổn ngang, thì càng có nơi ẩn cư thanh vắng ấy để linh hồn tìm lại được mình trong định mệnh chân thực của nó, trước thánh nhan Thiên Chúa.

Thánh Cả đã từng sống mãnh liệt trong tình đoàn tụ với Chúa Giêsu, Ngài muốn lôi kéo chúng ta trầm lặng đi vào nếm hưởng nhiều hơn tình đoàn tụ với Thầy, Đấng muốn ngụ lại trong chúng ta. Ta phải thủ thỉ với Thầy quá, thường là ta liều bót ngẹt tiếng nói của Thầy, liều lảng tránh ra ngoài tình trạng có thể lắng nghe Thầy. Thánh Cả Giuse ý thức được là phải học hỏi tất cả, và Ngài giúp chúng ta đạt được sự trầm lặng để mở rộng tâm hồn và ngoan ngoãn nghe lời một Thiên Chúa đã nhập thể.

Giữ được trầm lặng, ta mới có thể thâm tín dễ dàng hơn rằng: một cuộc đời quá bề bộn không phải là một cuộc đời phong phú. Sự trầm lặng làm cho đời sống bớt bề bộn, sẽ giúp phong phú hoá đời nội tâm. Tôn thờ, tán tụng, mến yêu, đau khổ, vui mừng, đó là những tâm tình chìm sâu hơn trong linh hồn Thánh Cả Giuse nhờ độ đậm đặc mà sự trầm lặng của Ngài tặng cho các tâm tình ấy. Thay vì làm sinh lực thiếu đi, trầm lặng đó hiệp trở  nhiệt lực của một đời sống thiêng liêng nóng cháy.

Đó chính là điểm mà thế giới phải nhìn ra nơi nhân vị Thánh Cả Giuse: trầm lặng là dấu chỉ có một sức sống cao vượt, một trật tự khác hẳn. Con người rất ít nói đó đã có thể suy tư một cách hết sức sáng suốt; Ngài đã cảm thấy, đã chiêm niệm với một tâm trí rất tự do; Ngài đã không hề xáo động, để lắng nghe Đấng Ngôi Lời lên tiếng, và đã tiếp nhận nền minh triết của Thiên Chúa thông trao cho; Ngài đã mến yêu bằng một tình yêu thật vàng đá, thật cứng bền, vì hơn cả lời nói, sự trầm lặng có thể giãi tỏ tình yêu hiến thân, kính dâng yếu tố khôn tả trong hữu thể mình, yếu tố không thể tả ra bằng ngôn từ được. Thánh Cả Giuse có thể dạy cho loài người biết nín lặng để mến yêu hơn lên mãi.

Chương 22:

Người nghèo

Nghề của Thánh Cả Giuse, một ông thợ mộc xóm quê, làm ta đoán chắc được là Thánh Cả chẳng giàu có gì. Phúc Âm còn để lại một dấu chỉ chính xác để ta biết là Thánh Cả nghèo, khi thuật lại rằng khi dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thờ, Thánh Cả đã dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu, trong khi những người giàu thì dâng một con chiên.

Chỉ có cái nghèo vật chất là có thể thích hợp với Đấng Cứu Thế, với Đấng “vốn giàu sang đã tự trở nên nghèo” để đem sự nghèo nàn của Người làm chúng ta nên phú quý (2Cr 8,9). Chính sự nghèo hèn của Thánh Cả Giuse đã mang lại cho chúng ta máng cỏ Belem; cho nên Thiên Chúa đã muốn cho cái nghèo ấy trở nên cái nghèo của Chúa Giêsu.

Vượt trên cái nghèo của cải đó, Thánh Cả Giuse còn có một tâm hồn nghèo. Trong Cựu Ước, con người nghèo được coi là đã hưởng thụ một ân huệ đặc biệt hơn mà Thiên Chúa ban cho. Sự kiện đó không phải chỉ là thái độ xothu của Thiên Chúa ghé về những người khổ sở với nhiều nâng niu hơn, mà còn vì ý hướng của linh hồn mà cái nghèo xui nên, một ý hướng hết sức đẹp lòng Thiên Chúa.

Linh hồn nghèo này hệ tại đâu? Trong khi giàu sang đem lại thế lực và danh vọng, thúc đẩy con người tự đóng kín trong cái kiêu căng hợm hĩnh của mình, ỷ lại vào tài sản vật chất, thì sự nghèo nàn khích lệ con người nâng cao cái nhìn lên Thiên Chúa, đặt trót niềm hy vọng vào Chúa, và chờ đợi Chúa ban xuống mọi sự cứu trợ cần thiết. Người nghèo thiếu thốn về vật chất, vì thế họ ý thức rõ được tình trạng yếu hèn của con người, và chỉ đặt tin tưởng ở quyền toàn năng của Thiên Chúa.

Như vậy sự nghèo nàn phù hợp với đức tin, đức khiêm nhượng  và đức hiền từ. Nó hỗ trợ niềm tin phấn khởi nơi một mình Thiên Chúa cao vượt trên thế giới, có thể cứu trợ hết mọi cảnh khốn cùng. Nó luyện tập đức khiêm nhượng của người cảm thấy mình chỉ có hai bàn tay trắng, không có một cái gì, và nghiệm ra mình thực sự tuỳ thuộc Thiên Chúa sáng tạo. Nó hướng tới đức hiền từ, vì người nào thấy rõ mình bị tước đoạt thì chả còn gì mà tỏ ra ngạo mạn hay tàn nhẫn với tha nhân. Tin, khiêm nhượng, hiền từ, đó thực là những nét đặc trưng của linh hồn nghèo mà Thánh Cả Giuse là một.

Từng đọc qua nhiều đoạn Thánh Kinh Cựu Ước, Thánh Cả Giuse đã lãnh hội được đặc ân mà sự nghèo nàn thực tế tạo nên. Ngài hoàn toàn chấp nhận cái nghèo đó, cái nghèo mà Ngài không thèm đem đổi lấy sự giàu sang nào. Giới nghèo có thể nổi loạn chống lại số phận mình, hoặc ghen tỵ với người giàu: lúc đó thì óc ham giàu, óc ham mê của cải trần gian đã xâm chiếm họ. Thánh Cả Giuse không bao giờ phản ứng như vậy. Cái nghèo của Ngài, Ngài chấp nhận nó như một hồng ân Thiên Chúa ban, như một phương tiện để sống hợp nhất với Thiên Chúa hơn.

Có thể là sự chấp nhận nghèo nàn làm một lý tưởng đó gây cho chúng ta một vài ấn tượng khó chịu. Vấn đề xã hội về tình trạng phân chia tài sản không đều đã được đặt ra một cách thực là gay gắt. Không thể không nhìn nhận rằng; trong viễn tượng đó, sự nhẫn nhục chấp nhận cái nghèo xem ra tương phản với nhiều nỗ lực phải nắm vững để phân chia tài sản nhân loại cho công bằng hơn. Nhưng thái độ của Thánh Cả Giuse không liên quan đến vấn đề xã hội, thái độ ấy chỉ nhắm có vấn đề tôn giáo cá nhân mà cái nghèo xui nên. Mà vấn đề này thì bao giờ cũng vẫn giữ nguyên tính cách thời sự của nó. Dẫu người ta có hoạt động hết khả năng để xoá bỏ cái nghèo trên thế giới, thì trong xã hội loài người bao giờ cũng vẫn còn những người xấu số: “Các con sẽ luôn luôn có người nghèo ở giữa các con” (Mt 26,11; Mc 14,7). Sẽ không bao giờ san bằng được tình trạng bất quân bình về tài sản, và người ta chỉ có thể tránh cho một số người khỏi bị bạc đãi thôi. Nhưng đối với những người này thì đó lại là vấn đề cá nhân. Họ sẽ chấp nhận số phận thấp kém hay sẽ nổi loạn đả đảo nó? Thánh Cả Giuse đã chấp nhận, không phải chấp nhận một cách trái ý, nhưng là chấp nhận vì nhận ra đó là một lời mời gọi của Thiên Chúa để vượt qua.

Thánh Cả thấu hiểu được ý nghĩa siêu nhiên cái nghèo của Ngài. Chấp nhận siêu thoát tài sản trần gian, Thánh Cả đã chỉ được dẫn đi tìm lợi ích của Ngài nơi Thiên Chúa. Cái nghèo đã giải thoát Ngài khỏi lòng ham hố từng thúc đẩy biết bao người chạy theo tiền bạc và tiện nghi; cái nghèo ấy hướng ước vọng của Ngài lên cao thẳm.

“Phúc cho người có tinh thần nghèo, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Khi tuyên bố mối phúc ấy, Chúa Kitô đã mạc khải kết quả của tất cả truyền thống ca tụng người nghèo trong Cựu Ước. Thiên Chúa đã muốn dùng cái nghèo để chuẩn bị một tâm thức có khả năng lãnh nhận Nước mà Người muốn thành lập. Và giờ đây, Người đem Nước đó tặng cho những người nghèo. Nước Trời từ nay là của những ai chối bỏ chiếm hữu trần gian vậy.

Thánh Cả Giuse đã sống phúc thật này trước khi nó được Chúa Giêsu công bố. Thánh Cả là một người có tinh thần nghèo khó tuyệt mức. Trong nước Israel đương thời, có thể có nhiều người còn nghèo hơn Thánh Cả, Thánh Cả không bị rơi vào hoàn cảnh hoàn toàn túng thiếu mà người ta gọi là cùng cực. Ngài chỉ có một ít phương tiện sinh nhai hết sức thô nghèo, một mức sống vừa đủ để duy trì gia đạo. Nhưng trừ Mẹ Maria thì không một ai đã có nhiều tinh thần nghèo hơn Ngài.

Tới đây, ta hãy nhận định quãng cách đã được trải qua từ thời các tổ phụ. Thực ra, Thánh Cả Giuse là vị tổ phụ cuối cùng, nhưng trên thực tế, vì nghèo, nên Thánh Cả vượt rất cao trên những vị tổ phụ từng giàu sang vĩ đại, và được Thánh Kinh trình bày cái giàu có ấy như là một dấu hiệu Thiên Chúa chúc phúc cho. Dưới dấu hiệu cái nghèo, ơn chúc phúc Thiên Chúa ban trên Thánh Cả Giuse còn lớn lao hơn nữa. Vì lý do trùng danh hiệu, mà người ta thường so sánh Đấng phu quân của Đức Maria với ông Giuse trước kia là tể tướng của vua Ai Cập. Ông Giuse ngày trước đã tỏ ra khôn khéo đặc biệt để sắm được một địa vị lợi ích và để xử lý công việc; người ta đã nhìn ra được ở đó một dấu chỉ là sự khôn ngoan của Thiên Chúa hướng dẫn ông. Trong địa vị khiêm tốn Ngài chiếm được ở Nazaret, Đấng lương quân của Đức Maria không có tài để chiếm được của cải vật chất, nhưng lại được thiên bẩm một minh triết cao vượt hơn vì Ngài đã được tràn đầy phú quý của Thiên Chúa trong sự nghèo nàn của Ngài. Giữa hai ông Giuse, có một dị biệt bao la về lý tưởng, sự tương phản đó làm nổi bật toàn thể cuộc tiến bộ được thực hiện, để một ông không thèm đến việc tìm tòi của cải nhằm ôm ấp lấy cảnh bần hàn. Ở mức chót của cuộc tiến bộ ấy, Thánh Cả Giuse đã vượt rất xa ông Giuse ngày trước.

Nước Trời đã được ban cho Thánh Cả Giuse một cách ngoại thường. Nước Trời này, đó là sản nghiệp của Thiên Chúa. Mà Thiên Chúa đã tặng cho Thánh Cả Giuse cái sỡ hữu Người quý yêu nhất, đó là Con của Ngài. Lãnh nhận Thiên Chúa làm sản nghiệp: phần thưởng của đứng nghèo từng hiện ra như một hình bóng hay một thí dụ này, đã trở nên một thực tại chính trực trong cuộc đời Thánh Cả Giuse.

Ta thẩm định được giá trị của cái nghèo khi ta nghĩ rằng Thánh Cả Giuse, nhờ có sự nghèo nàn này đã có thể được Chúa Giêsu ngự vào gia đình Ngài. Nghèo và có tinh thần nghèo, đó là làm cho mình có khả năng chiếm hữu được Thiên Chúa. Vì thế nếu Thánh Cả Giuse đã nếm hưởng mùi vị thần linh sự bần hàn của Ngài trước khi kết bạn, thì Ngài còn quý chuộng nó hơn nữa khi có Chúa Hài Nhi kỳ diệu, hồng ân tối cao Thiên Chúa ban cho Ngài, ở ngay trước mặt, Ngài thấu hiểu kỹ hơn chừng nào Ngài có lý khi bỏ lại bất cứ cuộc rượt theo của cải trần gian nào; những của cải này thật quá bần tiện sánh với sự hiện diện của Chúa Cứu Thế.

“Kho báu ngươi ở đâu, tâm hồn ngươi cũng ở đó” (Lc 12,34). Thánh Cả Giuse đã nắm vững chỉ có một kho báu duy nhất có thể làm tâm hồn con người thoả mãn, đó là Thiên Chúa. Thánh Cả nghèo nàn để chiếm hữu được Thiên Chúa. Trong phúc thật đề cao đức nghèo, Thánh Cả không những chiếm được Nước Trời, mà còn chiếm được cả Vua Trời nữa.

Niềm hân hoan vì nghèo của Thánh Cả, niềm hân hoan cảm thấy mình ly thoát những lưu luyến trần tục của Thánh Cả, đã vững mạnh thêm vì hạnh phúc ghì xiết trong vòng tay của Ngài một người Con là chính Thiên Chúa.

Chương 23:

Một tâm hồn trong sạch

Đức thanh tịnh của Thánh Cả Giuse chứa chất cả một mầu nhiệm ân sủng. Thiên Chúa đã ban một ân sủng ngoại thường cho Đấng đã trở nên Phu Quân đồng trinh của Đức Maria, để biến Ngài nên một người trong sạch hoàn toàn, cả nơi tâm hồn cả nơi cách cư xử. Không bao giờ Thánh Cả Giuse tỏ một mảy may khiếm nhã nào xúc phạm đến những tâm tình rất trong trắng của Đức thánh Trinh Nữ, vì linh hồn Thánh Cả đã được thánh hiến sâu xa.

Chúng ta đã thấy rằng người ta có thể so sánh cuộc Thánh Cả Giuse gặp gỡ Đức Maria với cuộc Adong gặp gỡ Evà lần đầu tiên. Cuộc gặp gỡ giữa hai nguyên tổ này xảy ra trước khi tội lỗi đã để ngọn lửa tình dục lẻn vào tâm hồn con người. Thánh Cả Giuse và Đức Maria đã tìm lại được cái nhìn trong trắng nguyên thuỷ của người nam trên người nữ đầu tiên ấy; Thánh Cả và Mẹ không bị xao xuyến do những ước muốn mất trật tự của một thể xác khởi loạn chống tinh thần. Trong cuộc đời Thánh Cả và Mẹ, thể xác đã trở lại định mệnh chân xác của nó, và chỉ còn được dùng để giãi sáng vẻ mỹ lệ của linh hồn. Thân xác phải yên phận ở chỗ của nó trong bóng tối, vì nó được chú ý tới không phải chỉ vì nó nữa.

Vì thế yếu tố ta coi như không bình thường hay ngoại thường, thì Thánh Cả Giuse đã Đức Maria lại coi là tất nhiên, như là hoàn tất những khát vọng căn bản của Thánh Cả và Mẹ. Đó là sự phối hợp trinh khiết, thăng bằng với ân sủng mà Thiên Chúa đã đặt Thánh Cả và Mẹ vào; sự phối hợp ấy được hai người nhìn nhận là sự diễn tả cao cả nhất của tình yêu trong hôn nhân.

Thánh Cả Giuse tán thưởng vẻ mỹ lệ trinh khiết của Đức Maria, nên Ngài quan tâm hết sức để tôn trọng vẻ mỹ lệ ấy; không có gì ở đời này có thể làm cho Thánh Cả lấy đi bất cứ chút gì khỏi vẻ tươi dịu trong sự trinh khiết của Mẹ. Kể từ ngày gặp gỡ Mẹ, Thánh Cả Giuse đã khám phá ra rằng để được sống đoàn tụ với Đức Maria, phải kiêntrì với đức trắng trong trinh khiết, và sự khám phá đó đã làm cho Ngài thực hứng thú. Khi thiên thần đến xin Ngài cưới Đức Maria làm nội trợ, Thánh Cả liền biết rất minh bạch là cuộc phối hợp trinh khiết ấy ứng đáp thánh ý Thiên Chúa. Trong cuộc phối hợp này, Thiên Chúa đã uỷ phó đức trinh khiết của Đức Maria cho Thánh Cả.

Thánh Cả không phải thất vọng về điều Ngài chờ đoợi ở cuộc hôn nhân này. Trái lại, thực tế còn vượt trên hy vọng của Thánh Cả. Tình yêu trinh khiết nuôi sống ngọnlửa mối tình đầu của Ngài dễ dàng hơn. Thánh Cả không hề làm giảm giá nó, không hề để mình phải tùng phục việc chạy tìm những điều thoả mãn ít cao thượng. Thể xác có thể là nguồn sinh thất vọng chán chường, nó còn là nguồn sinh thất vọng không thể tránh, khi những người có một định mệnh căn bản là thiêng liêng, lại hướng về nó một ước muốn quá hấp tấp. Luôn vượt cao trên những ham muốn trần tục rất có thể ngăn cản hay bót nghẹt tình yêu chân chính nó, Thánh Cả Giuse vẫn duy trì và làm lớn mạnh hạnh phúc rất bền chặt trong cuộc hôn phối của hai linh hồn.

Nếu sự trinh khiết của Đức Maria đã được trao phó cho Thánh Cả coi sóc, thì ta phải nói rằng: sự trinh khiết ấy cũng thể hiện một ảnh hưởng bao la trên Thánh Cả. Nơi Đức Maria trinh khiết có mãnh lực đặc biệt của một lý tưởng toả chiếu. Niềm thâm tín mà cô thiếu nữ Nazaret ấy đã vịn vào để tuyên bố với sứ thần sự quyết định không biết đến người nam của cô, làm ta đoán ra được chí kiên quyết mà cô nuôi giữ để theo đuổi lý tưởng trinh khiết. Quyết định ở đồng trinh của Mẹ, một quyết định ngoại lệ trong môi trường xứ Galilê, nơi Mẹ sinh trưởng, đã được đảm bảo hoàn toàn. Mẹ tìm được một sự hộ vệ là lòng hăng hái của Thánh Cả Giuse sẽ cung xuất để thực hiện một lý tưởng mà chỉ Thánh Cả mới hiểu đợi. Cho nên Thánh Cả Giuse phải rất cảm động trước thế lực mà lý tưởng đó chiếm hữu trong tâm hồn Đức Maria.

Cuộc sống của Thánh Cả càng dần dần trôi qua bên cạnh cuộc sống của Mẹ là Đức Nữ Trinh vượt trên mọi trinh nữ, thì Thánh Cả càng để mình thấm nhiễm lý tưởng trinh khiết mỗi lúc một hơn lên. Ngài càng ngày càng hiểu rõ hơn giá trị của lý tưởng ấy. Nếu Thánh Cả đã được Đức Maria làm say lòng, thì càng ngày Thánh Cả lại càng được lôi cuốn cùng với Mẹ vào đường lối của một tình yêu thiêng liêng trinh khiết. Thánh Cả học hỏi các nếm hưởng vẻ thanh bình phẳng lặng của tình yêu ấy, một tình yêu không hề có một gợn sóng, một dao động nào của đam mê đe doạ; Thánh Cả thẩm giá được độ thâm thuý của mối dây phối hợp Ngài lại với một vị Nữ Trinh trong trắng nhường kia.

Trong kinh nghiệm ấy của Thánh Cả Giuse, đã sửa soạn nếp sống của những người sẽ chấp nhận lý tưởng trinh khiết trong Hội Thánh. Thực ra, Thánh Cả Giuse đề ra một tình trạng ngoại thường mà chương trình Thiên Chúa đòi phải có do nhu cầu cung cấp một mái gia đình cho Con Thiên Chúa trở nên hài nhi bé mọn. Nhưng từ trường hợp ngoại lệ mà cuộc hôn phối đồng trinh ấy tạo nên, ta suy ra được một chân lý rất chung, đó là ảnh hưởng Đức Maria gây nên để giúp cho ta nhìn thấy vẻ đẹp của tình yêu khiết trinh, và để lôi cuốn linh hồn vào con đường ấy. Tiếp xúc với Đức thánh Trinh Nữ, lý tưởng trinh khiết không thể còn là một lý tưởng lạnh lùng và xa xăm nữa, nó mặc lấy duyên nhị toát ra từ sự hiện diện của Đức Maria, và làm hiện lộ tất cả nhiệt lực của tình yêu nó gồm chứa. Thánh Cả Giuse mời gọi ta nhìn cắm vào đôi mắt trinh trong của Đức Maria để hấp thụ nhiệt lực ấy từ nơi Mẹ.

Đối với những người không được gọi sống đời trinh khiết, đức thanh tịnh của Thánh Cả Giuse cũng chẳng kém năng lực kêu mời, mặc dầu người ta không thể mô phỏng được đức ấy cách vẹn toàn. Đức thanh tịnh ấy tỏ rõ rằng việc hôn phối phải hết sức cố gắng trở nên một cuộc phối hợp thiêng liêng, nó khiến ta làm chủ được những yêu sách của bản năng một cách rất to lớn. Nó giúp ta cảm thấy vẻ mỹ lệ của một tình yêu đi tìm linh hồn một cách thanh thản và sâu xa. Cuộc phối hợp của Đức Maria và Thánh Cả Giuse xuất hiện như một giới hạn tột cùng, không dễ đạt tới nhưng rất quyến rũ, mà tình yêu trong hôn nhân phải cố gắng hướng về.

Khía cạnh đáng tin tưởng hơn hết trong cuộc hôn phối đồng trinh giữa Thánh Cả Giuse và Đức Maria là tính cách phong phú của nó. Do một ân tứ diệu kỳ Thiên Chúa ban, đức thanh tịnh của Thánh Cả Giuse đã mang lại cho Ngài quan hệ làm cha đẹp đẽ nhất.

Ở đây sự gợi đến các tổ phụ ngày xưa lại làm ta hiểu ra tầm cao cả của lý tưởng Thánh Cả Giuse đã thực hiện. Chúng ta đã ghi nhận sự tương phản giữa các tổ phụ và Thánh Cả Giuse trong phạm vi đức nghèo. Lý tưởng bảo tồn một đức thanh tịnh đồng trinh thật hết sức xa lạ đối với tâm thức các tổ phụ. Sự kiện đáng kể dưới mắt các tổ phụ, là đảm bảo được đầy sân lan quế, là con đàn cháu đống mà các vị đó mong sao được đông đúc hết sức có thể. Như vậy, các tổ phụ không thể quan niệm được một đức thanh tịnh đồng trinh, vì nó trái với mục đích trên. Nói cho đúng thi ngay trong trình thuật của Thánh Kinh về đời sống các tổ phụ, ta cũng thấy xuất hiện nguyên tắc vĩ đại là: con chcáu được Thiên Chúa ban cho, có khi cả bằng phép lạ như truyện bà Sara son sẻ chứng tỏ: bà đã được Thiên Chúa can thiệp mà sinh con. Nhưng không bao giờ Cựu Ước lại cho ta thấy xuất hiện lý tưởng tình nguyện từ bỏ có miêu duệ đông đầy cả. Cho nên khi Thánh Cả Giuse quyết định giữ một đức thanh tịnh tuyệt đối, và do đó phó mặc bàn tay Thiên Chúa định đoạt về sản năng của đời mình, thì Thiên Chúa đã có một thái độ hoàn toàn mới mẻ, vượt rất xa trên quan niệm mà người Do Thái từng coi là lý tưởng cho đến bây giờ.

Theo tâm lý các tổ phụ, thì bằng lòng chấp nhận việc từ bỏ khó khăn nhất, đó là hoàn thành một hy sinh cao cả. Đáp lại hy sinh chứng tỏ một lòng quảng đại rất lớn lao ấy, Thiên Chúa sẽ đảm bảo cho với một lòng quảng đại còn lớn lao hơn nữa. Thánh Cả Giuse tiếp nhận một Người Con, một Người Con dầu là hoàn toàn độc nhất, cũng trở nên một miêu duệ đông đảo hơn miêu duệ mà Abraham được Thiên Chúa hứa cho.

Tâm hồn Thánh Cả Giuse là tâm hồn đồng trinh, nên đủ khả năng yêu mến Người Con là chính sự thánh thiện vô nhiễm, bằng một tình cha yêu thương rất trong sạch. Sự thanh tịnh đã năng tiey của đức phu quân nơi Thánh Cả lên rất cao, thì cũng lại nâng cao tình yêu từ phụ của Chúa Con. Sự thanh tịnh ấy để cho Thánh Cả tặng trao đi nhiều hơn nữa tầng sâu tâm hồn Thánh Cả, với nhiều cao quý và vị tha hơn.

Nhờ quan hệ làm cha, Thánh Cả Giuse chứng tỏ rằng: phàm sự hy sinh tâm hồn nào cũng được Thiên Chúa ban cho một sản năng ở một trật tự cao hơn, và những ai biết tự nhận từ bỏ để phó mặc cho Chúa hoàn toàn hơn, thì chắc chắn sẽ lãnh nhận được một kết quả cao vượt. Thánh Cả cũng chứng thực rằng một tâm hồn càng trong sạch, thì càng có một tình yêu từ phụ chân chính hơn, tương tự hơn với tình yêu của Cha trên trời.

Một mối phúc được Chúa Giêsu tuyên bố đã soi sáng rõ cho ta ý nghĩa sự trong trắng đồng trinh của Thánh Cả Giuse: “Phúc cho những tâm hồn trong trắng, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Qua ánh nhìn mà đức thanh tịnh dành giữ cho Ngài, Thánh Cả Giuse đã nhìn thấy Thiên Chúa; Thánh Cả nhìn thấy Chúa trong mối tình mật thiết cao cả, và có thể chiêm ngưỡng tuỳ thích, gần ngay bên. Nơi Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa hiện diện ngay đó, và ban mình cho Thánh Cả là người có tâm hồn không bao giờ để cho đức trong trắng của mình bị lu mờ.

Chương 24:

Một tâm hồn đơn giản

Đời sống của Thánh Cả Giuse là đời sống thật đơn sơ giản dị. Đúng ra, cũng có một vài biến cố ngoại thường trong đời Ngài, chẳng hạn thiên thần thông báo sứ điệp, các mục tử đến kính viếng Chúa Hài Nhi ở Belem, ông tiên tri Simêon tiên báo tương lai Con Trẻ và bà Anna ca tụng Chúa Hài Nhi trong đền thờ, ngộ biến đánh dấu tuổi mười hai của Chúa Giêsu. Nhưng ngoài những việc phụ thuộc ấy mà Thánh Cả Giuse nhận ra được những việc kỳ diệu của Thiên Chúa, cuộc đời của Thánh Cả từ chầm chậm trôi đi một cách đơn điệu, mà đặc tính trổi vượt của nó là nó chẳng có gì đáng chú ý.

Việc làm chủa Thánh Cả cũng đơn giản, vì nó chỉ là những công việc hết sức thông thường, chẳng có gì đặc biệt mà cũng chẳng có gì ngoạn mục. Đời sống gia đình của Thánh Cả đơn giản, vì không thể có những phiền phức rắc rối hay những gay go trong khi tiếp xúc với Đức Maria và Chúa Giêsu. Đời sống tôn giáo của Thánh Cả cũng đơn giản, đơn giản như người ta có thể sống đạo trong một thôn xóm nhỏ. Ta không tưởng tượng ra được là đời sống tôn giáo ấy ngổn ngang những thực hành phụ thuộc, hay những quy định tỉ mỉ mà đảng biệt phái truyền bá ra.

Vượt trên tất cả, thì yếu tố đơn giản nhất nơi Thánh Cả Giuse, đó là linh hồn Ngài. Ngài đi tới Thiên Chúa cũng như tới tha nhân, với một linh hồn thẳng thắn và sáng suốt hiếm mình đi hoàn toàn. Ngài rất trung hậu, không muốn biết đến uẩn khúc nào và không chịu nhượng bộ những động cảm của tự ái, nên những điều phức tạp không thể len lỏi vào cuộc sống của Ngài. Quả thật, nơi cuộc sống của nhiều người, những điều phức tạp rắc rối đều xuất ra do lòng tự ái muốn tìm thoả mãn, muốn bắt người khác phải nhìn nhận quyền lợi mình, và không chịu được những thất bại bất ngờ nhục nhã, hoặc toan tính để cho tham vọng của mình thắng thế. Vẫn có tập quán tự xoá nhoà để vứt bỏ mình, Thánh Cả Giuse không hề biết đến tất cả những thủ đoạn quá phàm tục phô bày tính ích kỷ và kiêu căng đó.

Ta hãy chiêm ngắm Thánh Cả Giuse chẳng hạn trong tình trạng lúng túng ưu tư, lúc mới đính hôn mà đã thấy Đức Maria chờ đợi khai hoa nở nhuỵ. Nếu nghe theo những xui xiểm của tính tự ái, thì hẳn Thánh Cả cứ làm cho tình trạng đó nên rắc rối hơn nữa, do những phản ứng của một tính tình dễ cảm bị tổn thương. Thánh Cả đã có thể tỏ một chút bất bình với Đức Maria mà tăng thêm đau khổ và náo động cho Mẹ. Nhưng trái lại, tất cả đều trở thành giản dị, vì Thánh Cả Giuse đã quên bỏ chính mình trong quyết định Thánh Cả muốn thi hành. Thánh Cả không lộ ra một vẻ bất bình nào, không hề bi thảm hoá sự trạng. Trong khi quyết định, Thánh Cả chỉ lo đến lợi ích của tha nhân, lợi ích của Đức Maria và Con của Mẹ. Thánh Cả xét rằng xuất xứ bí mật của thai nhi đó đòi Thánh Cả phải tôn trọng mầu nhiệm và cấm Thánh Cả không được có một quan hệ làm cha nào đối với thai nhi đó, nhưng mặt khác thanh danh của Đức Maria lại đòi Thánh Cả phải âm thầm từ biệt Mẹ.

Vì vốn tính đơn giản như thế, đơn giản vì ý hướng ngay thẳng và tình yêu chân thành, nên chỉ cần thiên thần đến báo một tiếng là đủ để tình trạng đã dàn xếp kia được ổn định không khó khăn gì. Nếu Thánh Cả Giuse đã để tính tự ái  nói lên điều gì gây thiệt hại đến Đức Maria, thì hẳn Ngài còn gây ra nhiều phiền toái làm cho mọi cuộc tiếp xúc với người vợ chưa cưới của Ngài khó xử hơn, và rồi rất có thể còn phải vất vả lắm mới có thể phá tan bầu khí hiểu lầm với Mẹ nữa; nhưng những phiền toái đó đã không xảy ra, và sau khi nhận được thông báo của thiên sứ, Thánh Cả đã cưới Đức Maria về nhà mình.

Thí dụ đó cho ta thấy rõ đức đơn giản Thánh Cả thường xuyên có trong cách cư xử: đó là đức đơn giản của một tâm hồn khiêm nhường, một tâm hồn tự xoá bỏ để tránh xa những chướng ngại liều mình làm trở ngại đường lối sống của Ngài hoặc làm cho đường lối ấy trở nên khúc khuỷu.

Như vậy, nơi Thánh Cả Giuse, đơn giản là một dấu hiệu của tình yêu. Nói cho đúng có nhiều cách đơn giản. Ở đây ta đừng nói đến cái đơn giản có tên là ngây ngô, là quá tin, quá ít sáng suốt, không nhìn ra được những vấn đề, hoặc những nguy hiểm và để bị kéo lôi vào ảo tưởng. Nhưng ngoài cái đơn giản ngây ngô đó, còn có sự đơon giản của người biết đem lương tri giải quyết ngay những vấn đề của cuộc sống hằng ngày một cách thoả đáng. Lại có sự đơn giản cao vượt của người lấy cái nhìn mà bao quát được cả cuộc đời mình, vì họ có một tâm hồn đã nên thuần nhất trong Thiên Chúa. Ở đây ta chỉ nói đến sự đơn giản sau cùng tạo nên bằng ân sủng siêu nhiên này.

Thánh Cả Giuse đã không đơn giản một cách chuyên nhất vì tính khí hay vì phán đoán quân bình, song trước hết Ngài đơn giản vì linh hồn Ngài sống hợp nhất với một tình yêu cao cả. Tình yêu này giải quyết tất cả mọi vấn đề và thắng vượt mọi trở ngại. Trong bất cứ cảnh huống nào, Thánh Cả cũng luôn luôn có thể mến yêu Thiên Chúa, có thể phó trót mình cho Người. Những ai không nhận thức được tình yêu này, hoặc không muốn toàn vẹn sống tình yêu này, đều làm cho cuộc đời họ nên phức tạp, vì họ để mình bị lôi cuốn theo những đam mê và đòi hỏi mà họ không thể nào làm chúng thoả mãn và no nê được. Nếu họ luôn luôn có thể cho đi, luôn luôn có thể thí bỏ mình, thì họ lại chẳng bao giờ có thể chịu chấp nhận như thế. Và chính sự ước muốn điều mà họ không muốn chấp nhận ấy đã làm cho linh hồn họ nên bề bộn cồng kềnh, vì tức giận, vì chua chát, vì hiềm thù hay nổi loạn. Thánh Cả Giuse chỉ khát vọng có một điều là thí bỏ mình, nên con đường Ngài noi theo là con đường thật đơn giản.

Vì thế mà Thánh Cả đã vạch đường chỉ lối cho những linh hồn tìm kiếm đức đơn giản: đường lối của tình yêu từ bỏ mình đến tuyệt mức. Một linh hồn càng khăng khít với Chúa thì tâm ý bề trong của họ cũng nên giản dị. Thực ra, trong khi đuổi tìm đức đơn giản, một số người đã đi tới một kết quả trái ngược và làm cho tình trạng linh hồn họ nên phiền phức ra hơn nữa. Lý do là tại họ quá nhìn về chính mình, và người ta chỉ có thể nên đơn giản bằng cách nhìn đến người khác, quên mình để chỉ nhìn có Thiên Chúa.

Đặc biệt là lời cầu nguyện của Thánh Cả Giuse cũng thật đơn giản. Chúa Giêsu đã từng ca tụng những ai không nại vào bất cứ thứ công thức cầu nguyện nào để làm lời cầu nguyện của họ nên rắc rối; đã từng ca tụng những người chỉ dâng lên Thiên Chúa tâm hồn thành thực hứng thú của họ; Chúa từng tuyên bố rằng không cần phải “nói nhiều” (Mt 6,7). Vốn là người trầm lặng, Thánh Cả Giuse cũng trầm lặng khi cầu nguyện. Đó cũng lại là một cách tỏ lòng mến yêu và tự xoá bỏ mình; ai nói thường rơi vào nguy hiểm là cứ nghe mình nói và tìm một toại ý nào đó trong điều mình nói, trong khi người im lặng thì chỉ ngắm nhìn có Thiên Chúa, tự mờ xoá đi trước thánh nhan Người. Thánh Cả Giuse từng đã “cầu nguyện bằng cái nhìn đơn giản”, cách cầu nguyện làm nên đặc điểm cho lời cầu chiêm niệm này.

Khi gặp đau khổ, Thánh Cả Giuse cũng không đánh mất tâm hồn đơn giản. Cả đến chính vào lúc phải thử thách, Thánh Cả cũng tỏ lộ tâm hồn đơn giản ấy ra cách sống động hơn. Thường thường thì thử thách hay gợi lên náo loạn trong cuộc sống, làm nó nặng nề và phiền toái ra. Nhưng Thánh Cả Giuse thì lại biết cách bảo vệ cho tâm hồn khỏi năn nỉ phàn nàn, khỏi tiếc nuối dư thừa, khỏi buần rầu ám ảnh. Tất cả mọi nghị lực của Thánh Cả đều hợp nhất lại trong một thái độ hiến dâng gạn lọc mọi sự cho trọn vẹn. Đối với Thánh Cả Giuse, một biến cố càng đau thương thì Ngài càng nỗ lực để hiến dâng nó không mảy may rùi rắng, với một tình yêu hứng khởi muốn phá bỏ bất cứ một giới hạn nào. Những trở ngại dù có cam go đến đâu, cũng phải tan biến trong thái độ đơn sơ quảng đại ấy.

Thánh Cả Giuse đã mang trong mình ánh phản quang của Thiên Chúa qua tâm hồn đơn giản của Ngài. Vì đơn giản là một thuộc tính của Thiên Chúa; đó là một trong những đặc tính nền tảng nhất của Hữu Thể Thiên Chúa. Thiên Chúa là hữu thể vô cùng giàu sang mà cũng là hữu thể vô cùng đơn giản khi thông ban sự giàu sang của Người ra, Người cũng muốn thông ban cả tính đơn giản của Người. Linh hồn Thánh Cả Giuse được đặc biệt nên giàu sang vì sự sống Thiên Chúa, nên cũng hợp nhất với tính đơn giản của Thiên Chúa một cách rất thầm trầm.

Nhờ đó linh hồn Thánh Cả mới có thể hoà hợp được với linh hồn Chúa Giêsu. Yếu tố đập mạnh vào ta hơn hết trong chân dung cũng như trong giáo thuyết của Thầy, như đã đã thấy trong Phúc Âm, đó là tính cách đơn giản của chân dung và giáo thuyết ấy. Toàn thể mầu nhiệm thần linh mà Chúa Giêsu gồm chứa trong Người, đã không ngăn cản Người khỏi sống đơn giản, đơn giản trong tâm tình, trong niềm nở tiếp đón, trong toàn thể cách Người cư xử, cả trong việc Người làm các phép lạ. Và khi lên tiếng Người cũng diễn tả những thực tại uyên thâm nhất bằng những lời giản dị nhất. Như vậy, trong suốt cuộc ký ngụ dài của Chúa Giêsu ở Nazaret, cùng một tâm hồn đơn giản đó đã đem Chúa lại gần Thánh Cả Giuse. Và Thánh Cả Giuse nhờ được noi gương và tiếp xúc với Chúa Giêsu, đã giúp đỡ Chúa phiên tả tính đơn giản thần linh của Người sang tính đơn giản nhân loại.

Chương 25:

Một tinh thần khôn ngoan

Chúng ta đã từng biến tâm hồn đơn giản của Thánh Cả Giuse không có nghĩa là Thánh Cả không thể nhìn ra những vấn đề và những trở ngại bày ra trong cuộc đời Ngài với tính cách phiền toái của nó. Những vấn đề ấy, Ngài biết cách giáp mặt nó một cách quả quyết, và giải quyết nó một cách phân minh. Cái nhìn thuần hậu của Ngài trên sự vật là một ánh nét của sự khôn ngoan mà Ngài có được.

Làm sao Thánh Cả Giuse có thể hướng dẫn gia đình Thiên Chúa trao phó cho Ngài, nếu Ngài đã không được Thiên Chúa phú bẩm cho sự khôn ngoan ấy? Tiền định Thánh Cả giữ địa vị gia trưởng của gia đình đó, Thiên Chúa đã cho Thánh Cả thấm nhuần sự khôn ngoan của việc Chúa Quan Phòng. Người thông ban cho Thánh Cả một khả năng thẩm định được tất cả mỗi sự việc đúng theo giá trị chân thực của nó, phán đoán được phương diện tốt nhất để noi theo, và hành động một cách thận trọng lành mạnh trong những trường hợp tế nhị.

Dưới mái gia đình Nazaret, Thánh Cả Giuse lại chẳng phải là một hình ảnh sống động sự khôn ngoan của Cha trên trời, Đấng chi phối hết mọi nếp sống con người bằng cách hướng dẫn từng nếp sống ấy nhằm lợi ích riêng của nó, và trào lẫn các nếp sống ấy vào với nhau cốt mưu lợi cho tất cả đó ư? Thánh Cả Giuse đã phải lưu ý tới những nhu cầu tơ tóc của Đức Maria và Chúa Giêsu, và phải đưa cộng đồng bé nhỏ của Ngài vào con đường tốt nhất để mưu ích lợi cho mọi người, bằng cách trào lẫn cuộc sống của mình vào cuộc sống của họ.

Hơn nữa, Thánh Cả còn phải chuẩn bị cho sứ mạng của Đấng sắp tỏ mình cho thế giới với tư cách là Bậc Thầy độc nhất vô nhị. Chúa Thánh Thần sắp sửa biểu lộ sự hiện diện và hoạt động của Ngài ra trong sự giảng giáo của Chúa Kitô; trước hết Chúa Thánh Thần đã nhào nặn tâm hồn Thánh Cả Giuse, đồng thời với tâm hồn Đức Maria, in sâu vào đó một sự khôn ngoan mà Chúa Giêsu có thể lợi dụng, để chuyển trao sứ điệp của Người cho nhân loại.

Chúa Kitô đích thực là chính sự khôn ngoan, Người không phải chỉ được khôn ngoan mà thôi. Người là sự Khôn Ngoan, vì tư tưởng là đặc trưng minh bạch của ngôi vị thần linh Người. Xét là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu là tử tưởng của Cha, là Khôn Ngoan ngôi vị hoá của Cha. Cho nên, sự Khôn Ngoan tạo nên nền tảng của Ngôi Vị Người ấy, Chúa Giêsu đã không thể lãnh nhận từ Thánh Cả Giuse. Nhưng Thánh Cả Giuse sẽ để cho sự khôn ngoan thần linh được nhập thể hơn lên, được ăn rễ sâu hơn trong môi trường nhân loại, nơi sự khôn ngoan ấy phải toả chiếu.

Đầy nguồn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, Người Cha đồng trinh của Chúa Giêsu từng có những suy tư chứng tỏ một cách nhìn vừa siêu nhiên, vừa rất thực tế. Thánh Cả Giuse không vào số những người bị ý tưởng hoặc lý tưởng lôi cuốn đến nỗi để hỏng chân lên, không chú ý gì đến những thực tại trần gian nữa. Thánh Cả nhìn lên cao thẳm, nhưng Ngài cũng không bỏ việc quan sát nhân vật và sự vật ở đời này, không quên lãng nghe cuộc đời chung quanh Ngài. Thánh Cả là người rất thuận hợp với thời đại Ngài, môi trường Ngài, ở vào đúng địa vị Ngài chiếm giữ trong thôn xóm Ngài. Vì thế khi tiếp xúc với Thánh Cả, Chúa Giêsu đã có thể nên giàu có bằng một kinh nghiệm loài người: lời Thánh Cả Giuse nói, tư tưởng Thánh Cả Giuse nghĩ, đó là kết quả của sự khôn ngoan đương đầu với thiên nhiên, với con người, với hàng nghìn biến cố xảy ra trong cuộc sống. Nhờ có kinh nghiệm tích luỹ đó, Chúa Giêsu sẽ có thể diễn giảng sứ điệp của Người bằng những ngôn từ mà ngày nay chúng ta vẫn còn thấy rất gần gũi với trần gian và với cảnh vực tạo nên nó. Lời nói của Thầy chứa đầy những nhận xét rút ra từ khung cảnh cuộc sống hằng ngày ở Palestina. Thánh Cả Giuse lại đã không tập cho Chúa Giêsu quen với cái nhìn thực tế ấy, quen chú ý tới những sự vật hết sức tầm thường ấy đấy ư?

Tuy nhiên, mặc dầu giáo dục cho chhnhi chú ý itếp nhận sự vật, và in sâu vào Chúa một phán đoán quân bình, Thánh Cả Giuse cũng cảm thấy Ngài mau chóng bị vượt qua về sự khôn ngoan mà Ngài nhìn thấy tăng trưởng lên nơi Chúa. Trình thuật Phúc Âm còn cho ta đoán ra được những kinh ngạc kín đáo của d, và Thánh Cả Giuse trước sự tăng triển sự khôn ngoan ấy của Chúa Giêsu (Lc 2,40-52). Chúng tôi đã chú nhận rằng sự khôn ngoan trổi vượt ấy từng soi sáng trí năng Thánh Cả Giuse bằng một ánh sáng mớ, và dẫn Ngài ngày càng đi sâu hơn vào những mầu nhiệm của mạc khải.

Chính sự khôn ngoan cao vượt đó sẽ xui nên những thắc mắc kinh ngạc của người thôn Nazaret, khi họ nghe Chúa giảng trong hội đường của họ: “Tại đâu ông ta khôn ngoan đếnthế nhỉ?… Ông ta lại chẳng phải là con bác thợ mộc đó ư? (Mt 13,54-55). Những thính giả đó sẽ hiểu rõ rằng: sự khôn ngoan của Chúa Giêsu còn vượt xa cái mà họ có thể hy vọng ở nơi người con bác thợ mộc. Họ sẽ có lý để nhận định như vậy; sự khôn ngoan ấy rất có thể đã đưa họ vào nhận ơn đức tin, nếu họ có một tinh thần khá ngoan ngoãn và ân cần tiếp nhận, vì chỉ có sự khôn ngoan bắt nguồn từ Thiên Chúa mới có thể giải thích được lời Chúa Giêsu thôi.

Tuy nhiên, ngay trong cách ban bố sự khôn ngoan thần linh ấy, Chúa Giêsu cũng vẫn còn là con của một bác thợ mộc, mặc dầu thính giả không biết được như thế, thì họ cũng cảm thấy có ảnh hưởng của Thánh Cả Giuse và những thẩm giá khôn ngoan của Ngài. Một chút gì đó của Thánh Cả Giuse trong cách nhìn, cách phán đoán và cách phản ứng thực sự vẫn phảng phất trong cách giảng dạy của Thầy. Xét cho đúng hơn, sự khôn ngoan của Thánh Cả Giuse hệ tại đâu? Người ta đặc biệt căn cứ vào khía cạnh tuệ trí mà nhắc lại một vị mang cùng tên như Thánh Cả trong lịch sử các tổ phụ. Người con tổ phụ Giacóp, mà sách Sáng Thế thuật lại kỹ càng hành trạng (St 37,50), đã tỏ ra khôn ngoan, một sự khôn ngoan càng đặc biệt hơn nữa vì ông tỏ lộ trong một nước nổi danh về những truyền thống khôn ngoan là nước Ai Cập. Không những ông trổi vượt về cách giải thích các giấc chiêm bao, mà nhờ trí tinh anh sắc xảo, ông còn thắng được những cảnh huống cực kỳ khúc mắc hoặc cực kỳ nguy hiểm. Ông đã thành công trong việc đạt tới và đảm bảo được một địa vị có ảnh hưởng lớn lao, sáng giãi sự khôn ngoan của một nhà cai trị ở nơi ông. Người thợ mộc xóm nghèo Nazaret thì có một cuộc sống ít sôi động hơn, ít đẹp mắt hơn. Sự khôn ngoan của Ngài không tỏ hiện trong những thành công rực rỡ và chẳng đem lại cho Ngài một tiếng tăm hay một vinh quang trần thế nào. Sự khôn ngoan ấy không có cùng một đối tượng, không theo đuổi cùng một mục đích với đối tượng và mục đích của ngài Giuse tể tướng.

Khác với ông Giuse ở Ai Cập, Thánh Cả Giuse ở Galilê không trổi vượt về cách xử sự thành công nào trong những sự việc trần gian; sự khôn ngoan ấy của Thánh Cả không thúc giục Ngài đi chinh phục tài sản, danh vọng, hay một địa vị có ảnh hưởng nào. Đúng ra, nó còn dẫn Ngài tránh xa những thứ đó; nó quy hướng lợi ích của Ngài về những giá trị của Nước Thiên Chúa. Nếu Thánh Cả Giuse vào số những nhà hiền triết ở thế gian này thì Ngài cũng suyễn là người bị Cha trên trời giấu kín, không cho biết mạc khải của Cha (Mt 9,25; Lc 10,21).

Như vậy, khi so sánh với tổ tiên Ngài, ta thấy Thánh Cả Giuse đã cho ta được tham dự vào sự khôn ngoan Thiên Chúa đánh đổ cái khôn ngoan con người. Dưới mắt Thiên Chúa, sự khôn ngoan thuần tuý nhân loại chỉ là khờ dại, vì nó bám víu vào những tài vật hữu hình, những tài vật chỉ là phù du, là khói mỏng. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa làm cho con người khát vọng những tài lợi cao vượt hơn, và đưahọ tới chỗ từ bỏ lý tưởng tìm những thoả mãn và hoan lạc trần tục.

Chính sự khôn ngoan ấy đã dun dủi Thánh Cả Giuse chọn Đức Maria làm bạn đường; dầu chỉ cốt để lựa chọn một việc đó, Thánh Cả Giuse cũng xứng danh là bậc hiền triết. Đó là chính sự khôn ngoan Thánh Cả đã sử dụng để chối bỏ việc theo đuổi cái mà những ai khác tìm tòi khi kết bạn, vì Thánh Cả đã có can đảm khát vọng một mối tình trinh khiết trong hôn nhân.

Cũng chính sự khôn ngoan ấy đã giục Thánh Cả Giuse chấp nhận quan hệ làm che, mặc dầu Thánh Cả sẽ là người cuối rốt xét về chức vị trong gia đình mà Thánh Cả làm gia trưởng. Thánh Cả hoan hỉ vì có thể khiêm hạ phục vụ nước cứu chuộc đã được loan báo cho Thánh Cả, đã được uỷ thác cho Thánh Cả trong chhnhi. Thánh Cả hiểu rõ ràng sự khôn ngoan chân thực là trở nên bé nhỏ để chuẩn bị cho nước ấy.

Cùng với Đức Maria, Thánh Gia được đặt ra đầu tiên trước viễn cảnh của hy lễ cứu chuộc, Thánh Cả đã có cái khôn ngoan là im lặng và chấp nhận. Khi nghe lời tiên báo của tiên tri Simêon, Thánh Cả không có cái động cảm kích loạn và bất tín trong tâm hồn, như các tông đồ sau này, khi nghe Chúa Giêsu tiên báo cuộc tử nạn Người sắp phải chịu. Thánh Cả không vùng lên chống lại, như thánh Phêrô sau này sẽ làm trong lúc yêu mến Thầy một cách ít sáng suốt, Thánh Cả cũng không có ý tưởng cản ngăn: “Xin Thầy chớ chịu như vậy” (Mt 16,22). Không một lúc nào Thánh Cả nghi ngại dấn mình vào viễn tượng đau thương và kinh hoàng nhường kia vừa được tiết lộ cho Ngài, và Ngài đã theo tinh thần khôn ngoan mà tiến dâng hy lễ của Ngài.

Đơn bạch và kín ẩn, nhưng sự khôn ngoan của Thánh Cả Giuse lại có một tầm cao cả là thích ứng được với mầu nhiệm bao la mà Ngài là chứng nhân; sự khôn ngoan ấy hoàn toàn được Thiên Chúa linh ứng, nên nó biết lối đi vào chỗ ý định cứu độ vừa làm kinh hoàng vừa đáng tán tụng của Thiên Chúa.

Chương 26:

Một tình yêu trung tín

Tình yêu nhen nhúm đã là đẹp, nhưng còn có một yếu tố đẹp hơn nữa: đó là tình yêu trung tín đá vàng.

Thoạt vừa chớm nở, tình yêu đã thấm nhuần một niềm xúc cảm thơ mộng làm dễ dàng hiến thân. Nhưng niềm xúc cảm ấy có thể hao mòn với thời gian. Một khi đã qua đi những giây phút hăng say hứng thủ thuở ban đầu, khách tình mới thấy mình chạn trán với một thực tại ít thú vị như họ ngờ là đã nắm được; họ đo lường những đòi hỏi của hy sinh nhiều hơn là chịu hiến thân mình. Lúc ấy vấn đề trung tín hay chung tình mới được đặt ra cho họ: họ có nguyện hiến thân được đến răng long đầu bạc không, lúc không còn thấy thấy gì quyến rũ, và khi cảm tình lôi cuốn họ đã phai mờ? Thánh Cả Giuse là người không đặt lại vấn đề hiến thân. Tình yêu vừa thành thực vừa nồng nàn của Ngài đã trọn đời vẹn thề trung tín. Thánh Cả Giuse trung tín với Thiên Chúa: Ngài chấp nhận trọn vẹn thánh ý Chúa trong hết mọi hoàn cảnh. Thánh Cả trung tín với Đức Maria, trong cuộc sống phối hợp mà, dầu hết sức tôn trọng mahị cá nhân của Hiền Thê mình, Ngài cũng vẫn tâm đầy ý hợp với Mẹ, không một bóng mờ, không một rủi rắng. Thánh Cả trung tín với Chúa Giêsu, đem trọn tâm tình người cha hiền yêu thương Chúa, không hề so đo tính toán, bao giờ cũng chỉ nhằm có lợi ích của Chúa Hài Nhi.

Mặt khác tình trung tính với Đức Maria và Chúa Giêsu ấy, lại là một hậu quả của tình Thánh Cả tín trung với Thiên Chúa. Tình mến yêu Thiên Chúa này là tình có nền tảng nhất trong tâm hồn Thánh Cả Giuse, tình ấy chi phối tất cả những gì còn lại. Nếu cuộc hôn nhân của Ngài đặc biệt vì trung tín thì lý do tối hậu của nó là: Đức Maria và Ngài, cả hai cùng đều tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa; tình trung tín với Thiên Chúa này đã làm cho Mẹ và Thánh Cả trung tín với nhau.

Lịch sử dân tộc Israel chứng thực đầy đủ giá trị mà Thiên Chúa liên kết vào mối tình trung tín. Thật ra, lịch sử đó đã bị đánh dấu bằng một thảm kịch, thảm kịch một người vợ phụ tình. Thiên Chúa từng muốn là một Đấng Phu Quân đối với dân tộc ưu tuyển ấy; Người đã là một Đấng Phu Quân lý tưởng, tỏ với họ mối tình tươi đẹp nhất, mối tình tín trung son sắt bất chấp mọi chướng ngại. Nhưng về phía Israel thì lại có những tội bất trung trắng trợn nhiều lần tái phạm, cho nên dân tộc đó thường bị sánh ví với một người vợ ngoại tình.

Thánh Cả Giuse đã nhận thức được những lời trách móc mà các nhà tiên tri nói lên nhân danh một Đấng Lương Quân bị thương tích trong tình ái. Tình trung tín Thiên Chúa đòi hỏi ở dân Người, Người đã quyết chí ôm ấp nó trong cách cư xử riêng của Người. Đó không phải chỉ là bền vững chu toàn các huấn lệnh của lề luật Chúa ban bố; song đặc biệt đó là sự quảng đại kiên trung của một tâm hồn nhất định chu toàn tất cả vì yêu. Thánh Cả Giuse biết rõ Thiên Chúa ao ước mối tình trung tín sâu bền ấy.

Cùng với tình trung tín của Đức Maria, tình yêu trung tín của Thánh Cả Giuse sẽ đánh dấu một khúc ngoặt trong lịch sử nhân loại. Đối ngược với quá khứ của Israel, tình trung tín ấy làm cho ta thấy trước được tình trung tín tuyệt đối của Hội Thánh, tình trung tín không gì có thể cắt xén hay làm tổn thương được.

Như vậy trong linh hồn trung tín của Thánh Cả Giuse, Thiên Chúa đã tìm thấy sự kiện Người đi tìm nơi loài người. Chúa đã nhận được câu trả lời cho tình Người yêu thương mà Người luôn luôn chờ đợi, một câu trả lời quảng đại, quyết đáp, bền dai. Người có một tình yêu vĩnh cửu, mà Người không thể toại nguyện, nếu gặp thấy nơi những kẻ Người yêu thương chỉ có một tình yêu mỏnh manh, giăng mắc những lần đổi dạy thay lòng, thoạt một trở ngại vừa mọc lên đã vội vàng tan vỡ. Nơi Thánh Cả Giuse, Thiên Chúa đã hân hoan vì gặp được một tình yêu trọng nghĩa thuỷ chung, một tình yêu vàng đá âm thầm hiến dâng tất cả.

Do đó, nếu đồng thời nơi Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse đã bồi thường được những bất trung của dân tộc Israel, thì Thánh Cả cũng bồi thường được tất cả sự bất trung đầu tiên, sự bất trung của đôi bạn nguyên tổ. Nơi Thánh Cả Giuse và nơi Mẹ Maria, Thiên Chúa đã báo phục được sự kiện xảy ra từ khởi sơ nhân loại, khi Adong Evà phản bội niềm tin tưởng mà mối tình thắm thiết Thiên Chúa kết ước với ông bà. Cuộc chiến thắng của ân sủng đã vượt xa trên tội sa ngã ấy. Vì nếu chỉ cần một giây lát để trở thành bất trung thì, để trung tín mãi, cần phải có cả một cuộc sống con người dài dặc. Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria đã kính hiến Thiên Chúa một niềm trung tín trọn đời, cũng như từng giây phút. Sự kiện Thiên Chúa chờ đợi ở ông bà nguyên tổ mà không được, thì cuối cùng Người đã tìm thấy nơi đôi bạn thánh ở Nazaret, một cách hoàn hảo không suy suyển. Ở đây, Thiên Chúa đã chiến thắng, nhờ việc hiến dâng mà hai tâm hồn cùng đem một tình yêu toàn vẹn, tín trung bất di bất dịch kính tiến Người.

Điều xác thực là chính Thiên Chúa đã là tác giả đầu tiên của niềm trung tín ấy.

Con người thường yếu đuối và đổi thay: tự họ, họ không có khả năng trung tín toàn vẹn được. Trong cách cư xử, họ liều mình phải chịu những tâm cảm riêng tư thiên hình vạn trạng phản kích lại. Ta đã từng thấy rằng khi tình yêu mất đi những xúc cảm nâng đỡ nhiệt hứng của nó, thì nó liền tàn lụi. Cho nên ai chỉ tin vào sức tín trung riêng mình mà dấn thân vào tiey, thì họ liều mình sẽ bất thình lình nghiệm ra chỗ yếu đuối của mình. Biết bao người từng tin là tình yêu của họ sẽ vĩnh tồn, mà rồi phút chốc về sau đã nhận ra đó chỉ là ảo tưởng.

Thánh Cả Giuse vững tin là tình yêu của Ngài sẽ bền vững, nhưng Ngài chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa để đảm bảo sự bền vững ấy. Mạc khải Cựu Ước đã cho Ngài thấy rằng, đối diện với một tình trung tính nhân loại lung lay, và có thể bị xa lạc dài dài, thì sự trung tín của Thiên Chúa vẫn vững vàng như núi đá. Trong khi Thiên Chúa vẫn luôn phải thất vọng vì cách cư xử của loài người, thì loài người lại có thể kinh ngạc vì tình yêu bền dai của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ chán nản vì những đáp ứng hững hờ hoặc thù nghịch mà Người phải hứng chịu. Dẫu loài người xúc phạm man vàn Thiên Chúa cũng không ngớt ban mình cho họ. Tình yêu của Thiên Chúa lúc nào cũng sẵn sàng đỡ nâng thiện chí con người, nên Thánh Cả Giuse đã đặt tất cả niềm tín trung của Ngài nơi Thiên Chúa. Thánh Cả mở rộng lòng mình trước năng lực tín trung thần linh để khi đã thấm thía về sự bất lực của chính mình, niềm tin tưởng của Ngài trở nên niềm trung tín nhân loại.

Mặt khác, Thánh Cả lại biết rằng vào thời gian cứu thế, Thiên Chúa đã minh nhiên đoan hứa chính Người sẽ đảm bảo sự tín trung của những ai được Người đón nhận vào giao ước vĩnh cửu. Đó sẽ là một khía cạnh của sứ mạng trao cho Chúa Cứu Chuộc. Thế nên, Thánh Cả Giuse hẳn đã hiểu ra rằng sự trung tín của Ngài, sự trung tín được Thiên Chúa ban cho, đã tham gia vào ân tứ trung tín cao cả mà Chúa Giêsu sẽ tặng cho loài người.

Được thiết lập trên nền tảng thần linh ấy, sự trung tín của Thánh Cả Giuse trải qua tất cả các biến cố của đời Ngài mà vẫn còn nguyên vẹn. Dầu cho cuộc đời của Ngài có bị xáo trộn vì những rung chuyển, thử thách thế nào đi nữa, Thánh Cả Giuse cũng vẫn duy trì được sự hiến thân quảng đại của Ngài. Trong những giờ phút tối tăm và chán nản mà linh hồn không còn cảm thấy chút hứng thú nào, và còn hoài nghi tất cả, Thánh Cả vẫn không để mình đi trệch đường lối của Ngài, Thánh Cả vẫn vững vàng, không hề nghi ngại. Khi gặp phải thử thách, Thánh Cả hằng tỏ ra cương nghị, không hề chiều theo sự dữ muốn lôi cuốn Ngài. Thánh Cả biết rằng lúc đó không cần phải biện luận, song hết sức đơn giản là phả muốn trung thành, và dứt khoát quyết liệt khử trừ lập tức những xui xiểm của tà thần.

Thánh Cả Giuse đã biết trung tín cả trong những sự kiện to lớn cũng như những sự kiện nhỏ bé. Quả thật, trong những chi tiết mọn mạy nhất của cuộc sống hằng ngày, Ngài đã sống vì một tình yêu cao cả. Cho nên Thánh Cả không để mình chiều theo tính khí tự nhiên, những phán ứng của bản năng, tức những yếu tố rất có thể khiến Ngài thay đổi cách cư xử. Tất cả, Thánh Cả đều ứng đáp thánh ý Thiên Chúa mà không kể gì đến những ấn tượng, những xúc cảm của từng lúc. Xét theo bản chất thì cuộc đời của Thánh Cả đã không dệt nên bằng sự chú ý hướng về bản ngã riêng và những tình trạng muôn hình nghìn vẻ của nó, nhưng bằng sự trung tín với sự tín trung của Thiên Chúa. Để hành động, Thánh Cả chỉ nhìn có một mình Thiên Chúa.

Yêu mến và đáp ứng tình yêu, đó là sự trung tín của Thánh Cả Giuse. Rất có thể đôi khi ta nghĩ tín trung là một cái gì độc điệu, chán phiền, mất sinh khí. Nhưng nơi Thánh Cả Giuse, đó lại là một sự sống hăng mạnh, sự sống của một tình yêu bùng lên không ngừng, tự đổi mới trong những hoàn cảnh luôn luôn bày xoá, vững chí anh hùng trong sự vừa thầm lặng hiến ình, vừa đẩy sự hiến mình ấy lên tới đích cao.

Chương 27:

Con người cậy trông

Thánh Cả Giuse đã hết sức sửng sốt khi sứ thần đến báo tin cho Ngài biết Hài Nhi Đức Maria mang thai sẽ là Đấng Cứu Chuộc dân Ngài. Nhưng khi báo tin đó, sứ thần gặp thấy tâm hồn Thánh Cả đã chuẩn bị sẵn sàng. Đấng Cứu Thế, đó là Đấng Thánh Cả Giuse từng mong đợi với tất cả nhiệt tâm linh hồn Do Thái của Thánh Cả.

Yếu tố làm nổi bật linh hồn đạo hạnh Do Thái là niềm cậy trông vào Đấng Cứu Thế. Lòng đạo nhiệt thành của họ hướng về tương lai, một tương lai kỳ diệu khi Chúa Cứu Chuộc mang ơn giải thoát cho dân Người, và thiết lập một vương quốc có Thiên Chúa làm Vua. Thánh Cả Giuse từng thấn nhiễm sâu xa niềm cậy trông đó; và hơn hết mọi người, Thánh Cả đã thao thức chờ mong kỷ nguyên mới mẻ này.

Nhiều người đương thời chỉ chờ đợi Đấng Cứu Thế đến để tái tạo một chế độ chính trị, một chính quyền quốc gia. Việc người Rôma chiếm đóng xứ Palestina bấy giờ càng làm người Do Thái nhớ nhung tự do và độc lập. Họ coi Đấng Cứu Thế là người đến giải phóng dân tộc họ, một việc giải phóng mà, tự họ, rất có thể không đủ khả năng thực hiện được. Thánh Cả Giuse cũng cảm nghiệm lòng khát mong giải phóng quốc gia ấy, nhưng niềm cậy trông của Thánh Cả lại vượt cao trên những khát vọng chính trị. Thánh Cả nhớ tới những lời tiên tri từng báo trước một giao ước mới, giao ước làm dân tộc thực sự thuộc về Thiên Chúa mình, với một tinh thần mới và một tâm hồn mới (x. Gr 31,31-33; Ed 36,25-29). Dân tộc lý tưởng trong tương lai sẽ được tràn đầy sự thánh thiện thần linh. Thánh Cả Giuse chỉ đợi chờ chính việc canh tân tinh thần ấy.

Qua sứ điệp của thiên thần, niềm cậy trông của Thánh Cả Giuse lại tiếp nhận một đàn tiến mới. Niềm cậy trông này đã mãn toại ở một điểm thiết yếu, đó là: từ nay Đấng Cứu Thế đã hiện diện đây rồi; Người hiện diện giữa loài người, và sự hiện diện ấy có nghĩa là giờ phút giải phóng và canh tân các tâm hồn chắc chắn đã gần điểm.

Từng được sống sát cạnh Chúa Giêsu, làm sao niềm cậy trông ấy của Thánh Cả lại không càng ngày càng nẩy nở? Từ Chúa Hài Nhi giãi ra một vẻ thanh sự trong ngời, đến nỗi Thánh Cả nhìn thoáng được sự thanh tẩy mà Thiên Chúa đoan hứa cho các tội nhân. Nơi Chúa có sự thánh thiện tuyệt vời, đến nỗi Thánh Cả Giuse có thể nhận định ra đó chính là sự thánh thiện sắp sửa tràn đổ xuống cho loài người. Nơi Chúa, Thánh Cả khám phá ra tinh thần mới và tâm hồn mới sắp sửa phấn khích nhân loại mới trong một sinh khí mới. Cho nên, luôn luôn Thánh Cả mỗi ngày một ước mong cuộc tái tạo của Giao Ước Mới ấy. Càng nhìn Chúa Hài Nhi lớn lên, Thánh Cả càng cảm thấy ân sủng Người ban ra càng ngày càng toả rộng, và càng gấp rút hối thúc những người khác hưởng nhờ ân sủng ấy. Vì được đặc ân sống ngay trước mặt tấm gương hoàn thiện mà loài người phải noi theo, nên Thánh Cả Giuse càng phút càng khát khao cho loài người được tái tạo theo gương mẫu ấy, và càng phút càng mạnh mẽ khát khao hơn.

Được tiếp xúc với Chúa Giêsu, niềm cậy trông của Thánh Cả trở nên siêu nhiên một cách chuyên hữu hơn. Thánh Cả Giuse hiểu rằng Chúa Hài Nhi mà cuộc đời trôi đi một cách hết sức thông thường đó, không chuẩn bị để đóng một vai trò chính trị. Sự hoàn thiện của Chúa ở một trật tự khác, và sự khôn ngoan phát triển ở nơi Chúa không hướng Chúa về một chức vụ của một nhà lãnh đạo quần chúng, một tổng tư lệnh quân đội, hay một lãnh Chúa. Đó là một sự khôn ngoan chỉ lo tới những công việc của Thiên Chúa, chỉ lo tới sự loài người tiến bộ trên đường thiêng liêng: Chúa Giêsu từng tỏ ra Người chỉ đến để lập một vương quốc thần linh, không có một phương cách nào chung với các vương quốc trần gian cả. Mặc dầu Thánh Cả Giuse không bao giờ nghe Chúa nói tới những dự định của Người, nhưng Thánh Cả cũng đoán ra được thân thế của Hài Nhi và ý hướng siêu nhiên của Thanh Niên đó. Cho nên niềm cậy trông của Thánh Cả càng ngày càng chỉ hướng về phương diện thiêng liêng của công cuộc phục hưng mà Chúa Cứu Thế sẽ hoàn thành.

Chính như vậy mà cuộc đời của Thánh Cả Giuse, một cuộc đời được liên kết mật thiết với sự tăng trưởng của Chúa Cứu Chuộc, đã là một niềm cậy trông không ngừng lớn lên. Cùng với Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse đã tỏ cho Chúa Giêsu thấy tang chứng của lòng nhân loại khát mong một thế giới tốt đẹp hơn. Quả thật, Thiên Chúa chỉ có thể ban những ân tứ đầy ngập của Người cho những ai mở rộng cõi lòng cho Người bằng sự khát mong lãnh nhận các ân tứ ấy. Nhân danh tất cả những người khát khao cho các linh hồn được giải thoát và nâng cao, Thánh Cả Giuse đã tỏ cho Chúa Giêsu biết sự đợi chờ nhiệt liệt của Ngài. Niềm trông cậy của Thánh Cả là một lời than van xin nài Chúa Cứu Thế đừng trì hoãn công cuộc Người sẽ quyết định thi hành.

Thánh Cả Giuse cho ta thấy tầm quan trọng của việc cộng tác mà ta được kêu gọi đem lòng trông cậy góp vào công việc Thiên Chúa thực hiện. Thái độ trông cậy này, Thiên Chúa đang xin ở chúng ta như Người đã xin ở Thánh Cả Giuse, để hết sức có thể trải rộng cho loài người những hồng ân cứu độ. Thiên Chúa yêu thương những ai quy hướng về Người với nỗi đợi chờ đầy khao khát. Thánh Cả Giuse, Đấng đã không trực tiếp làm việc một cách hữu hình cho công cuộc tạo lập vương quốc Chúa Kitô ở trần gian, đã dạy cho ta biết đem lòng nhiệt thành cộng tác vào công cuộc khuếch trương vương quốc ấy. Thánh Cả có thể gắng sức làm cho lòng ta cậy trông trở thành một kinh nguyện lôi cuốn ân sủng Thiên Chúa ban xuống cho loài người.

Thánh Cả nêu cho ta kiểm mẫu về một chân trời rất khoáng đãng trong niềm cậy trông. Đôi khi một số người có xu hướng chỉ nhìn có khía cạnh cá nhân trong khi trông cậy. Mặt khác, điều xác thực là mỗi người đều phải hy vọng mình được cứu độ, phải cậy trông vào ân sủng cùng phương tiện cho họ vào hưởng mưu hạnh phúc đời đời, và phải chờ mong một cuộc sống đời sau tốt đẹp hơn cuộc sống ở cõi đời này. Nhưng lòng cậy trông không chỉ giới hạn ở tương lai cá nhân ấy, cứ xét ngay thoạt kỳ thuỷ, nó cũng không phải chỉ là như vậy: trước hết nó là sự chờ mong cho toàn thể loài người được cứu độ, và giới hạn của nó là toàn thể thế giới này. Trong cuộc sống bình lặng và lu mờ ở Nazaret, Thánh Cả Giuse từng được hưng phấn vì những khát mong vô bờ bếnđó. Định mệnh của dân tộc Do Thái, và của toàn thể cộng đồng nhân loại, đã là đối tượng thiết yếu niềm trông cậy của Ngài.

Như vậy, Thánh Cả Giuse đã lôi cuốn chúng ta khuếch triển những niềm khát vọng của chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta đừng bao giờ bó chặt lòng ta cậy trông vào định mệnh riêng mình, hay định mệnh của một phe nhóm, song phải làm cho lòng cậy trông ấy nhằm tới việc khuếch triển toàn thể vương quốc của Thiên Chúa ra khắp vũ hoàn.

Thánh Cả cũng khuyên giục chúng ta duy trì lòng ta cậy trông ở mức độ siêu nhiên. Thật ra, những điều thiện họ khát mong cho được hạnh phúc, được phát huy văn hoá, được cai trị xã hội dân sự cách tốt lành, đều là những khát mong hợp pháp và phải được cổ võ. Nhưng đối tượng lòng cậy trông của Kitô hữu còn cao cả hơn: nó nhằm tới lợi ích của các linh hồn, tới sự sống thần linh được phú ban cho họ, tới định mệnh đời đời được quyết định cho họ ở đời này. Thánh Cả Giuse, Đấng từng nổi nổi vượt hơn đồng bào của Ngài về bản chất thiêng liêng của lòng Ngài trông cậy, lại kéo chú ý của chúng ta về những giá trị thiêng liêng mà chúng ta phải chờ đợi và hy vọng. Những lợi ích khác chỉ là một giá trị mau qua; trong một số trường hợp, những lợi ích ấy có thể bị tiêu huỷ hoặc phải hy sinh đi. Nhưng ta không bao giờ được chán ngán lòng cậy trọng ơn cứu độ đời đời, một lợi ích tối cao mà chỉ có nó mới có thể làm thoả mãnh những khát vọng của con người. Cho nên Thánh Cả Giuse mới didõ chúng ta hướng những điều chúng ta khát mong về trời cao.

Sau cùng, Thánh Cả Giuse khuyến khích chúng ta tự mình khắng khít với Chúa Kitô, Đấng hằng khích lệ và duy trì lòng trông cậy. Chắc là Thánh Cả vẫn luôn luôn trông cậy nhiệt thành; nhưng lòng trông cậy của Ngài đã thay hình đổi dạng từ lúc Ngài sống trong tình yêu mật thiết với Chúa Giêsu. Sự nhìn thấy Chúa Cứu Thế đã làm cho Thánh Cả vững vàng trông cậy là đã chiếm hữu được điều lòng cậy trông đó tìm tòi rồi. Sự xác tín đó cũng có nơi lòng cậy trông theo tinh thần Kitô giáo của chúng ta, vì lẽ chúng ta cũng đã chiếm hữu được Đấng sẽ là hạnh phúc của chúng ta đời đời. Chúng ta càng mật thei61t với Người, chúng ta càng sống trong Người, thì lòng cậy trông đó càng hăng hái vững vàng và chắc chắn.

Đặc biệt là khi trầm tư mặc tưởng chiêm niệm với Chúa Giêsu, Thánh Cả Giuse đã hiểu ra rằng sự thánh thiện và tình yêu của Chúa có khả năng chiến thắng sự dữ lan tràn trên khắp thế giới. Nếu có đôi lần Thánh Cả kinh hãi vì gặp thấy nơi một số người sự hung bạo kinh hoàng hay sự xấu xa ngoan cố, nhưng Ngài cũng vững dạ vì có một Chúa Hài Nhi đang hứa hẹn một quyền năng thiêng liêng rất mạnh mẽ. Thánh Cả tin vào cuộc khải hoàn của Chúa Cứu Thế, mặc dầu đã nghe ông già Simêon tiên báo sẽ có nhiều phản kháng. Thánh Cả Giuse thúc giục chúng ta cứ trông cậy bất chấp tất cả mọi lầm lỗi của loài người, và, vì chúng ta đã có hạnh phúc được biết Chúa Kitô phục sinh đã chiến thắng, nên Thánh Cả lại thúc giục chúng ta cứ luôn lạc quan trong hết mọi thử thách mà Hội Thánh sẽ phải chịu. Nương tựa vào Chúa Cứu Chuộc, lòng trông cậy của chúng ta chỉ có thể sẽ khải hoàn cùng với Chúa.

Chương 28:

Vị tông đồ ẩn khuất

Trong lòng cậy trông của Thánh Cả, chúng ta còn khám phá ra tâm hồn tông đồ của Ngài nữa. Thánh Cả Giuse đã sống cho ơn cứu độ thế giới: tư tưởng và tâm tình của Thánh Cả hằng quy hướng về đối tượng tạo nên khát vọng rất thiết tha ấy của Ngài.

Là tông đồ, nhưng Thánh Cả Giuse không là như các môn đệ Chúa Giêsu sau này, được sai đi thi hành sứ mạng trên khắp thế giới để loan báo Tin Mừng và thiết lập Hội Thánh. Chúa Con không biết đến biến cố Ngũ Tuần, lúc Chúa Thánh Thần cải hoá các ngư phủ xứ Galilê thành những nhà giảng thuyết hăng nồng và linh nghiệm. Thánh Cả cũng không chứng dự cuộc phát triển thật cảm kích của Hội Thánh ở những năm đầu tiên. Và cũng không tham phần vào sự khuếch triển của Hội Thánh.

Thánh Cả Giuse đã là tông đồ một cách khác, mà không phải ra khỏi làng Nazaret. Ngài là tông đồ trước khi thiết lập Hội Thánh, để chuẩn bị việc thiết lập ấy, và để cộng tác vào việc dẫn đưa các linh hồn vào Hội Thánh.

Nếu Thánh Cả Giuse đã không có cơ hội để bành trướng hoạt động tông đồ, thì Ngài lại có một tâm hồn rất thâm thuý. Mối lo lắng trổi vượt của Thánh Cả là lo đến các liòh sống xa Thiên Chúa và liều hư mất. Sự băn khoăn đến cứu giúp tội nhân, sự băn khoăn mà ta cảm thấy một cách thật rõ ràng nơi Chúa Kitô trong cuộc đời công khai của Người, sự băn khoăn ấy đã từng chiếm đoạt tâm hồn Thánh Cả Giuse. Thánh Cả từng cảm kích vì sự khổ thống tinh thần ngự trị quanh Ngài Ngài từng khổ sở vì sựl ầm lạc của những người đáng lẽ cần phải có một mục tử để soi sáng và hướng dẫn. Ngài từng nghiệm thấy rằng: tội lỗi của dân Ngài, tội lỗi mà các tiên tri đã bao lần cực lực bài xích; tội lỗi ấy vẫn chưa biến khỏi. Thánh Cả Giuse không vào số những người nắm mắt lại để tránh nhìn xem một tình trạng khốnquẫn và để giữ một vẻ bình thản trong lòng. Thánh Cả đã từng sống trong nguồn vui của tình yêu Thiên Chúa, nên Ngài vẫn quan tâm đến bao người khác: Ngài cảm nghiệm một tình thương xót to lón đối với tình trạng nghèo cực tinh thần mà Ngài thấy số đông nhân loại lâm phải.

Nhưng Thánh Cả Giuse đã có thể làm gì để điều trị tình trạng đó? Lòng thiện cảm của Thánh Cả đối với các linh hồn gặp cam go hay nguy hiểm có thể hiệu nghiệm, và mang cho các linh hồn ấy một cứu trợ thực tế không? Thánh Cả Giuse đã không thể hoàn tất được công việc Chúa Giêsu sẽ làm sau này. Mặt khác, Ngài không được gọi để hoàn tất công việc đó. Ngài tự cảm thấy mình hoàn toàn bất lực, nếu không tin vào giá trị việc cầu nguyện.

Vì không thể dùng những phương tiện nhân loại để cứu trợ nỗi thống khổ ấy của các linh hồn, nên Thánh Cả Giuse càng hăng hái tìm cách cậy trông Thiên Chúa hơn và nài xin Thiên Chúa can thiệp vào. Khi Thánh Cả Giuse thấy ai có vẻ chán nản thất vọng, Ngài liền phó thác tình trạng của họ cho Thiên Chúa, và tin vững chắc vào quyền toàn năng của Thiên Chúa, quyền toàn năng không bao giờ bị bắt chợt thình lình, song luôn chuẩn bị những phương tiện tối cao. Quyền toàn năng ấy có thể cứu độ tất cả. Thánh Cả biết mãnh lực kín ẩn mà lời cầu nguyện thành thực và sốt sắng xúc động tâm hồn Thiên Chúa; Ngài thâm tín rằng không một lời khẩn nài nào của Ngài không đem lại hiệu quả. Càng nghiệm thấy mình bất lực trước cảnh tượng quái ác tràn lan, và trước cảnh tượng tội lỗi tăng bội, Thánh Cả Giuse càng tin tưởng rằng tình thương xót của Thiên Chúa sẽ mủi lòng vì lời Ngài khẩn nguyện.

Vì không thể dùng những phương tiện nhân loại để cứu trợ nỗi thống khổ ấy của các linhò, nên Thánh Cả Giuse càng hăng hái tìm cách cậy trông Thiên Chúa hơn và nài xin Thiên Chúa can thiệp vào. Khi Thánh Cả Giuse thấy ai có vẻ chán nản thất vọng, Ngài liền phó thác tình trạng của họ cho Thiên Chúa, và tin vững chắc vào quyền toàn năng của Thiên Chúa, quyền toàn năng không bao giờ bị bắt chợt thình lình, song luôn chuẩn bị những phương tiện tối cao. Quyền toàn năng ấy có thể cứu độ tất cả. Thánh Cả biết mãnh lực kín ẩn mà lời cầu nguyện thành thực và sốt sắng xúc động tâm hồn Thiên Chúa; Ngài thâm tín rằng không một lời khẩn nài nào của Ngài không đem lại hiệu quả. Càng nghiệm thấy mình bất lực trước cảnh tượng quái ác tràn lan, và trước cảnh tượng tội lỗi tăng bội, Thánh Cả Giuse càng tin tưởng rằng tình thương xót của Thiên Chúa sẽ mủi lòng vì lời Ngài khẩn nguyện.

Thánh Cả Giuse cầu nguyện cho từng trường hợp cá nhân mà Ngài ý thức: biết bao người nhờ Ngài đã được hưởng ân sủng canh tân hoặc biến đổi cuộc đời mình, mà không nhận ra, Thánh Cả còn cầu nguyện nhiều hơn nữa cho ơn cứu độ được ban xuống, để vương quốc Chúa Giêsu sắp thiết lập có thể hết sức mau chóng lan rộng với một số rất đông các linh hồn. Thánh Cả lại không thấy rằng, mặc dầu có ý ban ơn cứu chuộc ấy xuống, nhưng Thiên Chúa cũng vẫn đòi phải có lời nài xin, để ban rộng rãi hơn hồng ân của Người cho loài người đó ư? Như vậy dầu có tính cách chiêm niệm, thì lời cầu nguyện của Thánh Cả Giuse cũng chẳng kém có tính cách tông đồ, vì lời cầu nguyện đó đã có ý muốn hoà hợp với ý chí cứu độ của Thiên Chúa.

Do đó cùng với Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse đã khởi đầu một hình thức tông đồ sẽ không ngớt có những người diễn lại trong Hội Thánh: đó là việc tông đồ cầu nguyện. Thánh Cả lôi cuốn chúng ta lưu tâm đến vẻ ưu tiên của lời cầu nguyện trong việc khuếch triển Nước Thiên Chúa ở trần gian. Chúng ta phải chuẩn bị hoạt động tông đồ bằng cầu nguyện. Và sự Hội Thánh mở rộng trước hết lệ thuộc ở tất cả lời cầu nguyện kín ẩn trong tâm hồn các chi thể của Hội Thánh. Một số người được Thiên Chúa đặc biệt kêu gọi dâng cuộc đời để chu toàn nhiệm vụ cầu nguyện này; cách riêng đời sống tu trì chiêm niệm còn là thí dụ tuyệt mức của một nếp sống chỉ nhờ cầu nguyện mà làm cho việc tông đồ nên phong phú. Đó từng là chính chiều hướng mà đời sống của Thánh Cả Giuse đã noi theo trong khung cảnh của một nghề thủ công đơn sơ.

Ngoài ra, Thánh Cả Giuse còn khiêm nhường, hiến dâng tất cả các biến cố của đời Ngài để thúc đẩy đà tiến của lời cầu nguyện tông đồ ấy. Bên cạnh lời cầu nguyện thực sự ta dùng để thưa lên với Thiên Chúa, cũng có hàng ngàn sự kiện xảy ra trong đời sống thường nhật, có thể biến thành một kinh nguyện có mãnh lực, khi ta hái lấy những sự kiện ấy – với một tâm ý mến yêu mà dâng lên Thiên Chúa. Như vậy, không những bằng cách hướng ánh nhìn lên Thiên Chúa qua những lời xin trình bày với Chúa, song còn bằng hoạt động và tất cả những cử chỉ của mình mà Thánh Cả Giuse đã xin được nhiều ân sủng cho tha nhân. Thánh Cả nài xin Thiên Chúa bằng cách dâng lên Thiên Chúa công việc Ngài làm, nỗi khổ Ngài chịu và niềm vui Ngài hưởng. Trong việc tông đồ kín ẩn của Ngài, Thánh Cả đã đem vào tất cả những gì dệt nên cuộc sống của Ngài. Ngài ý thức rằng hiến vật đơn bạch nhất cũng làm cho Thiên Chúa xúc động và lãnh nhận được từ tay Chúa một hành vi tông đồ phong phú.

Trong lễ hiến tế hằng ngày, Thánh Cả Giuse đã nhận thức rằng đau khổ rất đẹp lòng Thiên Chúa và có thể cộng tác nhiều nhất vào việc cứu trợ vô hình mà Thánh Cả ước ao mang lại cho các linh hồn. Trong phụng tự Do Thái giáo, lễ hy sinh lại chẳng đã chiếm một chỗ cao nhất, được coi là phương tiện cao cả để xin ơn Chúa đoái thương, nài xin ơn tha thứ vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa và trả lại niềm trong sạch cho tội nhân đó ư? Cũng như các vị tiên tri từng giảng cho dân biết, Thánh Cả Giuse hiểu rằng lễ hy sinh chân xác nhất của một tâm hồn là dâng hiến trót mình cho Thánh ý Người. Những đau khổ Thánh Cả Giuse thâu thái được trong cuộc sống của Ngài, Ngài đều chỉ định để tham gia vào hy sinh nền tảng, và để tăng giá trị của lễ hy sinh ấy.

Hơn nữa, lời tiên tri Simêon hằng soi sáng Thánh Cả rất đặc biệt về giá trị đau khổ mà cơn cứu chuộc mang theo. Lời tiên tri ấy miễn xá cách rieêng cho Thánh Cả khỏi chịu vì ông già Simêon chỉ tiên báo cho Hiền Thê của Thánh Cả biết Mẹ phải chịu một mũi gươm đau khổ xuyên qua linh hồn. Nhưng Thánh Cả Giuse đã muốn được liên đới với nỗi thống khổ sắp sử đổ xuống trên Chúa Giêsu và trên Mẹ Maria. Thánh Cả Giuse chỉ có một ước nguyện là được đem hết khả năng để cộng tác vào công trình Chúa Cứu Chuộc đã chấp nhận thi hành. Với mục tiêu đó, Thánh Cả sẵn sàng đón chịu hết mọi hy sinh.

Nhiệt tâm nung nấu khiến Thánh Cả Giuse khao khát cho nhân loại được giải thoát khỏi tội lỗi, đã nâng đỡ lòng can đảm của Thánh Cả Giuse trong những giây phút mà trọng trách cuộc đời Ngài trở nên quá nặng nề. Giáp mặt với những đau khổ nặng đến cho Ngài, Thánh Cả chỉ chú trọng đến sự đau khổ lớn lao ông Simêon đã tiên báo Chúa Cứu Thế và Mẹ của Người phải chịu. Thánh Cả thấy những nỗi ưu phiền đau khổ của Ngài chẳng là gì so với hy sinh lớn lao đang chờ Mẹ và Con Chí Thánh kia, và thấy rằng Ngài phải cố gắng đem những ưu phiền đau khổ của Ngài, quảng đại liên kết một cách xứng đáng với hy sinh lớn lao ấy. Không bao giờ Ngài chau mặt khó chịu; Ngài đem tất cả tâm hồn để dâng hiến những đau khổ Ngài chịu, dầu to tát hay nhỏ bé.

Thánh Cả Giuse còn dâng lên Thiên Chúa lễ hy sinh của Ngài với một niềm vui sâu xa. Ngài không nghĩ đến nỗi khổ sở Ngài phải chịu, song đến lợi ích lễ hy sinh ấy đem lại cho tha nhân. Tinh thần tông đồ của Thánh Cả đã làm Ngài vui tươi chịu đựng tất cả những gì là nặng nhọc, phiền chán, nhức nhối, cam go trong cuộc đời Ngài.

Thánh Cả vẫn luôn ở đó, ngay trước mặt chúng ta, để nhắc nhở chúng ta biết có một việc tông đồ kín đáo, công hiệu chẳng kém những hoạt động tông đồ công khai. Thánh Cả kêu mời chúng ta tin vào tính cách phong phú vô hình mà những hành vi nhỏ mọn chúng ta làm có thể đạt được để mưu phần rỗi cho các linh hồn khác, và nhất là thêm vào ơn ích thiêng liêng Thiên Chúa ban cho những hy sinh của chúng ta. Không phải mọi người đều có thể thực hiện một hành vi tông đồ vĩ đại, nhưng tất cả mọi người đều có thể dâng mình cho Chúa với ý hướng tông đồ như thế. Như thế Thánh Cả Giuse, họ có thể luôn luôn dâng hiến bản thân họ và những việc họ làm, kèm theo những đau khổ họ chịu và cả sự bất lực của họ. Tất cả những yếu tố đó nhất định đều được biến đổi để làm Nước Chúa Kitô ở trần gian tiến bộ hơn

Chương 29:

Thánh Cả Giuse qua đời

Phúc Âm không kể lại cho ta biết về cái chết của Thánh Cả Giuse, cũng như đã không nói gì về cái chết của Mẹ Maria. Như vậy, chúng ta không biết gì về ngày tháng và những hoàn cảnh cái chết của Thánh Cả.

Tuy nhiên, trình thuật Phúc Âm có nhiều bằng chứng cho ta nghĩ được là Thánh Cả Giuse đã qua đời trước khi Chúa Giêsu bắt đầu đời sống công khai của Người. Thánh Cả Giuse đã không bao giờ xuất hiện trong cuộc đời công khai ấy; đặc biệt là không thấy nói đến Thánh Cả ở trong đám bà con có lần đến gặp Chúa Kitô, khi Chúa khởi sự thi hành sứ mạng của Người: những người mà Phúc Âm gọi là “anh em của Chúa Giêsu” đến tìm gặp Người, có Mẹ Maria cũng đi với họ (Mt 12,46; Mc 3,31; Lc 8,19). Sự Thánh Cả Giuse vắng mặt ấy làm ta đoán được là Ngài đã qua đời rồi. Theo Phúc Âm thánh Marcô, người làng Nazaret gọi Chúa Giêsu là “bác thợ mộc, người con trai bà Maria” (Mc 6,3), sự kiện đó cho ta hiểu họ có ý nói Chúa là con trai một quả phụ và tiếp tục Thánh Cả Giuse làm nghề thợ mộc. Trong cuộc hội họp tại nhà Tiệc Ly đợi chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống cũng vắng mặt Thánh Cả Giuse; nếu Thánh Cả Giuse còn sống, thì rất có thể những cuộc vắng mặt của Ngài nói trên không thể xác thực được: như vậy, tất cả những điều nói trên đều giúp ta chứng tỏ là Thánh Cả Giuse đã ly trần trước khi Chúa Cứu Thế bắt đầu sứ mạng giảng giáo của Người.

Mặt khác, chúng ta hiểu ra lý do cái chết ấy của Thánh Cả trong chương trình của Chúa Quan Phòng. Ở Nazaret, Thánh Cả Giuse là người giữ địa vị làm cha Chúa Giêsu, và những ai được chứng kiến Chúa Hài Nhi lớn lên cũng phải nhìn nhận Thánh Cả là Cha của Chúa như vậy. Nhưng khi Chúa Kitô muốn tỏ mình ra cho loài người, thì phải cất bỏ tấm màn là Thánh Cả Giuse, đã được dùng để tạm che xuất xứ xác thực của Chúa. Chúa Giêsu sẽ phải chứng minh Người có chính Thiên Chúa là Cha, mà Thánh Cả Giuse thì lại rất có thể là một chướng ngại cho việc mạc khải ấy. Ít nhất là rất có thể sự có mặt của Thánh Cả sẽ khơi lên những hiểu lầm, và rất có thể Chúa Cứu Chuộc không nói lời “Cha của Ta” mà không liều mình bị coi là nói hàm hồ tối nghĩa. Cho nên điều hợp lẽ là Thánh Cả Giuse phải bị xoá mờ, để người ta nhìn nhận Cha trên trời là Cha Chúa Giêsu rõ ràng hơn.

Trong suốt cuộc sống của người thợ thủ công khiêm tốn ở Nazaret, Thánh Cả Giuse cũng đã từng tự xoá mờ như vậy rồi. Sự xoá mờ ấy thích hợp với lý tưởng của Thánh Cả, lý tưởng là khiêm hạ phục vụ Chúa ở chỗ đã chỉ định cho Ngài. Một khi đã chu toàn việc phục vụ đó, Thánh Cả Giuse tự nguyện rút lui, trao phó sự chết cũng như sự sống của Ngài vào tay Thiên Chúa.

Quả thật, mất Chúa Giêsu và Mẹ Maria là một hy sinh cho Thánh Cả: Thánh Cả đã từng sống rất lâu dài với Chúa và Mẹ, trong một tình hoà thuận không gì có thể làm suy giảm được. Tình mật thiết đó thật là khó quên. Mẹ Maria là một bà nội trợ hoàn thiện, từng sưởi ấm gia đình vì nụ cười bất tuyệt của Mẹ. Mẹ vẫn âu yếm duy trì tất cả những ước hẹn thuở ban đầu, và vẫn biểu lộ một lối sống đẹp đẽ còn hơn Thánh Cả Giuse dự tưởng. Phần Chúa Giêsu, thì Người đã xuất hiện vĩ đại và lạ lùng hơn sứ điệp thiên thần có thể báo trước cho Thánh Cả. Chúa thật là một phát hiện kinh ngạc của Thánh Cả Giuse. Thánh Cả từng sửng sốt thán phục sự tăng trưởng của Chúa, cũng như tất cả những thiên tư nẩy nở tuyệt vời nơi Chúa. Ấy thế mà giờ đây phải từ biệt cả hai Đấng ấy, hai Đấng mà cứ nhìn thấy là đời sống của Thánh Cả nên hứng thú, hai Đấng mà Thánh Cả đã xuất hết tâm tình tận tuỵ mến yêu, thì thật là một khổ đau sâu sắc.

Đau khổ đó càng sâu hơn khi Thánh Cả Giuse phải từ biệt cõi đời trước khi Chúa Giêsu bắt đầu công trình cứu chuộc vĩ đại loài người. Nhìn thấy Chúa Hài Nhi lớn lên, Thánh Cả đã hoan hỉ vì thấy giờ cứu độ gần tới. Ngài nhiệt liệt chờ đợi giờ phút mà sự thánh thiện và khôn ngoan từng phát huy rực rỡ nơi Chúa Giêsu sẽ trào đổ ra ngoài để thay đổi bộ mặt hoàn vũ. Thế mà giây phút đợi chờ đó sắp tới, thì Thánh Cả lại phải vĩnh biệt không được nhìn thấy nó ở đời này. Thánh Cả sẽ không còn ở lại trần gian để tham dự và hoan hô cuộc khải hoàn cứu thế ấy, một cuộc khải hoàn đã sắp gần kề. Thánh Cả sẽ không còn đem đôi mắt thể chất để nhìn nhân loại sung sướng vì được giải thoát, và niềm vui khi thấy định mệnh của loài người được cải tiến và đảm bảo, một niềm vui cao cả và đẹp đẽ hơn trước nhiều.

Do đó, đối với Thánh Cả Giuse, cái chết đã là một hy sinh khổ đau thấm thía. Thường tình đối với con người, cái chết đã là một hy sinh thì đối với Thánh Cả, nó thực sự là một xé rách, một phân ly hẳn với những người Ngài hết sức yêu quý, một khước từ không được chứng kiến những cố gắng của mình thành tựu.

Rất có thể Thánh Cả Giuse đã coi như Ngài phải chết quá sớm, cái chết đã cắt đứt một cuộc đời có thể còn phục vụ được rất nhiều. Nhưng Thánh Cả đã từng quen vui tươi tiếpnhận mọi sự từ bàn tay Thiên Chúa, nên Ngài đã hân hoan nhìn nhận từ bàn tay âu yếm ấy lễ hy sinh cuối cùng mà Thiên Chúa yêu sách nơi Ngài. Môi miệng Thánh Cả đã không hề hé một lời phàn nàn, cả một nuối tiếc, vì Thánh Cả đã thâm tín rằng giờ phút Thiên Chúa chọn lực bao giờ cũng là giờ phút tốt nhất. Sự đau khổ mà Thiên Chúa cảm nghiệm khi phải từ bỏ Chúa Giêsu và Mẹ Maria ấy, Thánh Cả đã yêu mến dâng lên, cũng như dâng lên tất cả những đau khổ khác của cuộc đời Ngài. Thánh Cả cũng chẳng tìm hiểu làm gì: Ngài chỉ tin tưởng ở Thiên Chúa, và phó thác mình cho một người Cha đang ước mong tiếp đón Ngài.

Cái chết của Thánh Cả Giuse còn có những hoàn cảnh nâng đỡ Ngài vui vẻ hy sinh. Thánh Cả Giuse có đặc ân là vào giờ phút cuối cùng, được có Chúa và Mẹ Maria ở bên cạnh. Chính vì thế Ngài là gương mẫu cái chết của Kitô hữu.

Vào lúc sắp ra khỏi thế gian này, Thánh Cả đã nhìn thấy bên cạnh Ngài hai gương mặt thiên quóc. Mẹ Maria ở ngay đó, với cặp mắt trong sạch và đầy ân sủng, mà Thánh Cả đã từng biết rõ Mẹ đã dằn cảm xúc của Mẹ xuống, Thánh Cả Giuse thì đoán được là Mẹ đã hết sức cho đôi mắt khỏi lệ lưng tròng. Mẹ đặc biệt tìm cách xoa dịu những đau thương Thánh Cả phải chịu. Mẹ đã từng là Hiền Thê lý tưởng của Thánh Cả, lúc Thánh Cả lâm chung, Mẹ lại trở nên một Bà Mẹ đầy ân cần săn sóc cho Thánh Cả. Mẹ đã tận tâm chiều chuộng Thánh Cả mọi cách dào dạt thiết tha. Chính vì vậy mà, từ đó, Mẹ sẽ cúi mình xuống trên những ai sắp chết, tỏ với họ một tình từ mẫu mặn mà.

Sự Chúa Giêsu có mặt ngay bên thật là khích lệ lớn lao nhất của Thánh Cả Giuse. Trước khi nhắm lại, đôi mắt hấp hối của Thánh Cả đã nhìn cắm vào người thanh niên bẩm sinh có một hoàn thiện tột bậc sẽ là thầy dạy và là Chúa Cứu Chuộc ngày mai. Thánh Cả lao động là đã lao động cho Người. Người là mục đích của cuộc đời Thánh Cả. Người là hãnh diện và hân hoan của Thánh Cả. Thánh Cả Giuse biết rằng những mối liên hệ nối kết cuộc đời Ngài với cuộc đời Chúa không bao giờ có thể bị bẻ gẫy. Trong ánh nhìn của Chúa Giêsu lúc ấy, sáng lên những lời ước hẹn vượt sang bên kia sự chết; “Con sẽ ở với Cha trên Thiên Quóc” (Lc 23,43): Lời mà sau này Chúa Giêsu đã tuyên phán với người đạo tặc sám hối đó, giờ đây, Người lại chẳng nói lên, qua sự hiện diện của Người, với Đấng mà Người đã từng yêu mến như Cha hay sao? Tình mật thiết hằng nối kết rất bền chặt trong Chúa Giêsu và Thánh Cả Giuse dưới mái nhà Nazaret, rất có thể sẽ tái diễn tretro một cách khác.

Thánh Cả Giuse đã tiếp rước Chúa Giêsu vào nhà mình, nên cũng được Chúa Giêsu tiếp rước mãi mãi vào nhà Cha Thiên Quốc.

Một lần sau cùng, Thánh Cả Giuse nhận ra rõ rệt sự hiện diện của Chúa Giêsu là đặc ân vĩ đại của đời Ngài; sự hiện diện ấy sẽ còn là chiếm đoạt được Người ở đời sau. Thánh Cả lại chẳng có thể lặp lại một cách mạnh mẽ hơn nữa những lời ông già Simêon ư? “Lạy Chúa, giờ đây Chúa có thể để cho tôi tớ Chúa ra đi bằng an theo lời Chúa hứa, vì mắt con đã nhìn thấy ơn Chúa cứu độ, ơn mà Chúa đã chuẩn bị trước mặt hết mọi dân tộc, làm ánh sáng soi cho các quốc gia và làm vinh quang cho dân tộc Israel” (Lc 2,29-32). Thánh Cả đã từng tận mắt nhìn thấy ơn Chúa cứu độ ấy trong suốt nhiều năm dài đằng đẵng; giờ đây, mang theo ánh nhìn ấy trên Chúa Giêsu, Thánh Cả đã có thể ra đi bình an.

Thánh Cả đi sang thế giới bên kia không một chút e sợ. Ta đoán ra được cuộc tiếp đón đầy nhân ái mà Cha trên trời dành cho Thánh Cả. Thánh Cả được đặt lên hàng đầu những người đang đợi chờ Chúa Cứu Thế ở thế giới bên kia, để cùng với Chúa vào hoan hưởng phúc hưởng kiến đời đời.

Kitô hữu thật đã có lý khi cầu xin Thánh Cả Giuse để họ được chết tương tự như Thánh Cả, và đặc biệt là được Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu đến đón chờ. Nhưng để được như thế, thì trước hết họ phải cầu xin Thánh Cả Giuse làm thế nào cho cuộc đời họ qua đi trong tình mật thiết với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, những ai sống hợp nhất với Chúa Kitô và Mẹ Maria như Thánh Cả Giuse, thì sẽ được chết trong tình hợp nhất ấy.

Chương 30:

Đấng cầu bầu

Cái chết không chấm dứt sự sống và hoạt động của con người. Vai trò của mỗi người phải đóng xong trong định mệnh của nhân loại vẫn còn tiếp diễn ở đời sau. Thánh Cả Giuse từng đem hết tâm hồn cộng tác vào công cuộc cứu độ loài người, cũng vẫn tiếp tục việc cộng tác ấy từ khi Ngài bước vào thế giới bên kia. Việc cộng tác ấy còn được khuếch trương, tăng bội nữa.

Ở tretro, hơn bao giờ hết, Thánh Cả Giuse vẫn hoạt động với tư cách một Đấng cầu bầu cho ta. Ngài chia sẻ tư cách cầu bầu ấy với nhiều vị khác, với tất cả các thánh. Quả thật, tất cả các thánh đều giữ địa vị cộng tác với các Kitô hữu còn tại thế để giúp họ đạt tới đích sau cùng của họ. Tất cả các thánh đều nài xin Thiên Chúa cho ta, đều can thiệp cầu bầu cho ta.

Tuy nhiên, Thánh Cả Giuse có tư cách cầu bầu với một danh nghĩa rất đặc biệt. Thánh Cả không phải là trung gian ban phát hết mọi ân sủng như Mẹ Maria, và không đòi Thánh Cả phải cầu bầu để ban phát các ơn lành cho nhân loại như trường hợp của Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ trung gian tuyệt cao. Nhưng vì Thánh Cả có liên hệ thắm thiết với Mẹ Maria và với Chúa Giêsu Cứu Thế, nên sự can thiệp cầu bầu của Ngài có một giá trị độc nhất.

Ở trên trời, Thánh Cả Giuse cũng vẫn còn là lương quân của Mẹ Maria, y như ở dưới đất. Khi còn tại thế cuộc phối hiệp giữa Mẹ và Thánh Cả đã nên hoàn hảo tới chỗ cả hai cùng cố gắng làm cho nhau toại nguyện; ngày nay ở trên trời cũng vẫn còn y như thế: Thánh Cả Giuse ước muốn thế nào thì lập tức Mẹ Maria Nữ Vương Thiên Đàng cũng ước muốn như vậy. Cho nên những ai cầu xin Thánh Cả Giuse đều tin vững là sẽ làm cho tâm hồn Mẹ Maria xúc động và lay chuyển được quyền toàn năng cầu khẩn của Mẹ. Những lời cầu khẩn chúng ta dâng lên Thánh Cả Giuse, vì thế, có một hiệu quả càng đặc biệt hơn.

Những lời cầu xin đó cũng hết sức đặc biệt làm hài lòng Đấng đã từng làm Con Thánh Cả Giuse, và vẫn một lòng kính yêu tri ân Thánh Cả như con đối với Cha. Kéo dài mãi trong hạnh phúc Thiên Đàng, tình mật thiết giữa Thánh Cả Giuse với Chúa Giêsu đi tới kết quả là hoàn tất tất cả những điều Thánh Cả xaxi. Chúa Giêsu vội vã vâng nghe những lời van nài Thánh Cả Giuse đến xin Chúa. Đáp lại lòng tín trung gương mẫu Thánh Cả Giuse đã tỏ ra suốt cuộc đời trần gian của Ngài, và lòng tận tuỵ Thánh Cả hoàn toàn kính hiến cho lợi ích Con của Ngài, ngày nay Chúa Giêsu cũng trung tín thực hiện tất cả những gì Thánh Cả ước muốn, và tận tuỵ đem cả quyền năng thần linh của Người mà phục vụ Thánh Cả.

Như vậy, Thánh Cả Giuse là một Đấng cầu cầu có quyền ưu tiên, là Đấng cầu bầu đảm bảo được Thiên Chúa đoái nghe nhất sau Mẹ Maria. Đó chính là lý do làm cho sự tôn sùng Thánh Cả càng ngày càng khuếch triển trong Hội Thánh. Sau một thời gian dài chìm trong bóng tối, gương mặt Thánh Cả lại được Hội Thánh tìm ra. Quả thật, cần phải qua nhiều thế kỷ, giáo hữu mới nhìn nhận địa vị trung gian tuyệt cao của Thánh Cả Giuse, và tôn kính Ngài với vinh dự Ngài đáng được. Khi còn sống ở thế gian, Thánh Cả đã ẩn khuất nhiều trong đức đơn bạch của Ngài, và Phúc Âm cũng chỉ nói rất ít đến Ngài, đến nỗi thời Hội Thánh sơ khai, người không mấy chú ý đến Thánh Cả. Có thể nói Thánh Cả Giuse đã bị mờ xoá ở đợi này trước mặt Mẹ Maria và Chúa Giêsu, thì Thánh Cả cũng bị mờ xoá trong lịch sử Hội Thánh, để người ta tôn thờ Chúa Giêsu và tôn kính Mẹ Maria đã. nhưng từ khi bắt đầu nhìn lên Thánh Cả Giuse, thì người ta đã hiểu ra giá trị đặc biệt sự thánh thiện của Ngài, cũng như địa vị đặc biệt Ngài chiếm hữu trong công trình thánh hoá trần gian.

Mặt khác, không bao giờ địa vị ta tôn nhận nơi Thánh Cả Giuse lại có thể cản ngăn địa vị mà Kitô hữu phải nhìn nhận trước hết nơi Chúa Kitô, rồi noơi Mẹ Maria. Lòng chân thành sùng kính Thánh Cả Giuse là lòng sùng kính hỗ trợ sự ta phải tán tụng Mẹ Đồng Trinh và tình yêu tuyệt đối mà Chúa Cứu Chuộc đòi hỏi. Ở đây, không thể có vấn đề ganh đua hay tranh cạnh; trong gia đình Nazaret đã không bao giờ có sự đua tranh ấy, mà lòng tôn sùng của Hội Thánh cũng không thể tạo nên sự đua tranh. Lòng tôn sùng Thánh Cả Giuse cũng phải tránh xa tất cả những gì có thể gợi lên một đòi hỏi cho có đặc ân bằng nhau giữa Thánh Cả và Đức Mẹ: những đặc ân vô nhiễm đầu thai, đồng công cứu chuộc, lên trời hồn xác, trung gian hết mọi ân sủng vẫn là những đặc ân chuyên hữu của Đức Mẹ Thiên Chúa. Tuyên dương rằng Thánh Cả thua kém Mẹ Maria cũng chẳng có gì là giảm giá Thánh Cả; đó chính là nhìn Thánh Cả theo mức hoàn thiện mà Thiên Chúa tặng ban cho Ngài, và mặt khác nữa thì dầu có thua kém Mẹ, sự hoàn thiện ấy cũng thật rất cao cả.

Bất khả phân ly với Chúa Kitô và Mẹ Maria trong vinh quang thiên quốc, Thánh Cả Giuse cũng không thể phân lý như vậy trong tâm hồn Kitô hữu, sao cho khi mến yêu Ngài, cầu xin Ngài, ta vẫn có thể sống hơn mãi lên trong tình thân mật giữa Chúa và Mẹ, mến yêu Chúa và Mẹ càng tha thiết hơn.

Trong những ân sủng mà Thánh Cả Giuse cầu bầu để xin cho chúng ta, thì trước hết có ơn được hợp nhất bền chặt hơn với Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Thánh Cả Giuse giúp đời sống nội tâm của các linh hồn triển nở để kết hợp với Mẹ Maria trong tình hợp nhất với Chúa Giêsu. Ta có thể xin Thánh Cả ban ơn trong sạch cần thiết cho sự kết hợp ấy, vì đức thanh tịnh đồng trinh đã tặng cho Thánh Cả một tình yêu cao cả nhất. Cả những điều kiện trầm lặng giúp cho việc kết hợp trên, ta cũng có thể đến xin ơn Thánh Cả có quyền ban cho cuộc đời chúng ta sự bình an từng ngự trị trong gia đình Ngài ở Nazaret, và dầu ta bận bịu công việc, Thánh Cả cũng dạy chúng ta cách duy trì một dự kiện trầm tư chiêm niệm.

Lối sống mà Thánh Cả Giuse đã noi theo đặc biệt làm cho Ngài có khả năng phát huy tất cả mọi giá trị nột tâm trong đời sống kitô hữu. Ngài khuyến khích tình yêu khiêm hạ thích ẩn mình trong bóng tối để hục vụ tốt hơn, cũng như tự quên mình để trở nên tình yêu chân xác hơn. Ngài nâng đỡ lời cầu nguyện dâng lên Cha trên trời trong thầm kín, và dạy ta cách đem toàn thể những tầng sâu xa của hữu thể để dấn mình vào lời cầu nguyện ấy. Ngài tưởng lệ lòng tận tuỵ giấu mình trong một việc làm khiêm hạ tầm thường. Ngài thông trao một tinh thần dâng hiến, khiến ta âm thầm đón nhận đau khổ, để dâng lên làm lễ vật cho Chúa cách tốt hơn. Ngài cộng tác vào việc làm nẩy nở một niềm vui thâm trầm, tăng bội nhiệt tâm và quảng đại, lòng tin tưởng thắng vượt hết mọi cam go bằng cách nương tựa vào tình yêu bất bại của Thiên Chúa. Ngài giáo hoá Kitô hữu cho họ có một tâm hồn rộng lớn cả trong những công việc tầm thường nhất của cuộc đời họ.

Kitô hữu còn sùng kính Thánh Cả Giuse để xin những ân huệ có tính cách vật chất nữa. Quả thật, lòng sùng kính ấy đã nhận ra phận vụ mà một gia trưởng như Thánh Cả đảm nhận: đó là cung ứng nhu cầu vật chất trong gia đình. Thánh Cả lại nghèo, nên phận vụ đó đã không dễ dàng thực hiện. Ta đoán được nhiều lần Thánh Cả Giuse đã phải tự hỏi làm thế nào để có cơm bánh cho ngày hôm sau. Ngài đã cảm nghiệm nỗi áy náy âm thầm của người mang trách nhiệm nuôi dưỡng gia đình mà phải nghi ngại bất lực không lo liệu được. Thực ra, Ngài tin vào Chúa Quan Phòng, nhưng Ngài cũng biết thế nào là lo lắng, là bối rối, sự lo lắng bối rối đã làm Ngài nung lại một niềm tin sống động hơn.

Biết được kinh nghiệm đó, Thánh Cả Giuse rất có uy tín trong việc hiểu biết tình trạng ngặt nghèo mà nhiều người hay nhiều gia đình thường gặp phải. Có lẽ nào Thánh Cả lại không có thiệm cảm với tất cả những ai phải khổ sở vì miếng cơm manh áo, hoặc những bất thình lình vướng phải những mối lo phiền về vật chất. Ngài biết tình cảnh đó có thể hạ giá con người biết bao, và những mối lo như vậy có thể ám ảnh người ta biết mấy. Cho nên Thánh Cả tình nguyện can thiệp giúp đỡ những ai cầu xin Ngài khi gặp phải những tai bay vạ gió ấy. Làm như vậy cho họ là Ngài tặng trao những gì Ngài đã trao tặng Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Thế nên ta đừng ngạc nhiên khi có nhiều người có thể xin được Thánh Cả Giuse cầu bầu, cho những ơn lạ lùng trong lãnh vực vật chất này.

Từ tâm đối với những nhu cầu vật chất ấy của loài người chứng tỏ sự can thiệp của Thánh Cả Giuse có một tầm độ rất rộng rãi. Vẫn luôn khiêm tốn, Thánh Cả Giuse tự nhận lo liệu cho anh em Ngài ở trần gian cả những sự việc nhỏ bé nhất. Những ước muốn hết sức tầm thường cũng có tiếng vang vào tâm hồn Thánh Cả. Nếu ta phải xin Ngài ban trước hết những ân sủng cần thiêt cho sự sống linh hồn, thì ta cũng đừng e ngại kêu cứu Ngài giúp ta bất cứ nhu cầu nào. Và do đó, ta còn làm vinh dự cho Chúa Quan Phòng, Đấng đã muốn Thánh Cả Giuse làm đại diện Người trong nhà thánh Nazaret, và vẫn tiếp tục tin dùng Thiên Chúa một cách ưu tiên, để phân phát cho nhân loại nguồn ân sủng của Người.

Chương 31:

Bổn mạng Hội Thánh

Ngày mồng 8 tháng 12 năm 1870, Thánh Cả Giuse đã được long trọng tuyên nhận làm Bổn Mạng toàn thể Hội Thánh.

Có nhiều phương diện của địa vị Thánh Cả Giuse đã giữ ở trần gian giúp thúc đẩy Hội Thánh thừa nhận chức vụ Bổn Mạng này. Đó là những danh nghĩa thiết yếu của Thánh Cả Giuse như lương quân của Đức Maria, cha Chúa Giêsu, gia trưởng của thánh gia.

Là lương quân của Đức Maria, Thánh Cả Giuse xem ra phải là vị cộng tác cách nào đó vào quan hệ làm Mẹ mà Mẹ Maria thi hành đối với  Hội Thánh. Chắc chắn là Thánh Cả không thể có cùng một ảnh hưởng như MẸ, vì Ngài không có một địa vị ngang hàng với địa vị của Mẹ các Kitô hữu. Nhưng ta lại không được chờ mong nhìn thấy Thánh Cả liên kết vào niềm ân cần săn sóc của Mẹ Đồng Trinh để Hội Thánh phát triển ư? Thánh Cả lại chẳng ở bên cạnh Mẹ để cộng tác với Mẹ trong việc khuếch trương Nước Chúa Kitô hay sao?

Là Cha Chúa Giêsu, Thánh Cả Giuse coi như đã được chỉ định để duy trì quan hệ làm Cha trên nhiệm thể nối dài của chính Ngôi vị Chúa Cứu Thế. Nếu ngày xưa Thánh Cả Giuse đã có sứ mạng giúp Chúa Hài Nhi trưởng thành cũng như phát triển về phương diện khôn ngoan và ân sủng, thì hẳn Thánh Cả cũng đã được chỉ định để giúp Nhiệm Thể Chúa tăng trưởng, sự tăng trưởng về khôn ngoan và ân sủng của Chúa Kitô còn đang tác dụng trong các chi thể của Người.

Là Gia Trưởng, Thánh Cả Giuse cũng có danh nghĩa để tham gia vào việc quản trị gia đình bao la mà Hội Thánh tạo nên. Đó là một gia đình hết sức rộng lớn, nhưng nó vẫn phải mô phỏng gia đình Nazaret mà sống hợp nhất với Chúa Kitô. Thật thua kém Mẹ Maria và Chúa Giêsu về chức vị, nhưng Thánh Cả Giuse không thua kém về trách vụ hướng dẫn gia đình thánh. Địa vị thứ yếu mà Thánh Cả chiếm giữ đối với Chúa Cứu Thế và Mẹ Đồng Trinh, ngày nay cũng không ngăn cản Thánh Cả đeo đuổi một sứ mạng bảo hộ đối với Hội Thánh mà Ngài cộng tác để hướng dẫn tới mục đích. Những phẩm tính Thánh Cả được Thiên Chúa phú ban để quản cai gia đình thánh cũng vẫn còn được sử dụng trong sứ mạng ấy hiện tại. Thánh Cả Giuse có thể đặc biệt sử dụng đức khôn ngoan và lòng nhân ái từ phụ của Ngài vào sứ mạng ấy.

Ngoài ra, địa vị Bổn Mang Hội Thánh còn phù hợp với những tương quan của Thánh Cả Giuse với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Chúng ta biết rằng, ở Nazaret, Thánh Cả Giuse là một đại diện của Cha trên trời ngay cả dưới mắt Chúa Hài Nhi Giêsu. Việc đó giả thiết là Cha đã rất đặc biệt tạo linh hồn Thánh Cả Giuse theo hình ảnh Cha, và đã in rất rõ hình ảnh của Cha nơi Thánh Cả. Chúa Giêsu đã sung sướng gặp lại ánh phản chiếu ấy của Cha trên gương mặt Cha Giuse của Người. Như vậy thì Kitô hữu lại không phải nghiệm thấy tương tự, và lại không được hân hoan khi tìm thấy nơi Thánh Cả Giuse một hình ảnh rõ rệt gương mặt vô hình của Cha hay sao?

Cha làm chủ tối cao định mệnh Hội Thánh và tất cả những giai đoạn tiến triển của Hội Thánh. Chính Cha, và chỉ một mình Cha, đã đem quyền bính riêng Cha mà xác định “Thời gian và giờ phút” khuếch triển Nước Cha (Cv 1,7). Tuy nhiên, mặc dầu tự mình có thể hoàn tất mọi sự không cần ai giúp đỡ, Cha lại thích được loài người cộng tác. Sau khi chính Cha hướng dẫn gia đình Nazaret qua trung gian của Thánh Cả Giuse, Cha lại vẫn tiếp tục sử dụng Thánh Cả để hướng dẫn Hội Thánh, và đặt Thánh Cả làm đại diện tình từ phụ ân cần săn sóc của Cha.

Trong phận vụ Thánh Cả Giuse được liên hợp với chức phận làm Cha cao cả nhất ấy cũng đồng thời hiện lên sự Thánh Cả liên hệ mật thiết với Chúa Thánh Thần. Vì sự khôn ngoan, cần cho Thánh Cả để chu toàn địa vị của Ngài là Bổn Mạng Hội Thánh, không thể chỉ là sự khôn ngoan loài người. Ngay để hướng dẫn gia đình thánh của Ngài, lương tri và lý trí cũng không đủ: Thánh Cả phải luôn hằng được Chúa Thánh Thần soi sáng, và ngoan ngoãn noi theo tất cả những soi động của Người. Phúc Âm không nói cho ta hết tất cả những ơn soi sáng bề trong ấy, vì chỉ thuật lại những sự việc bên ngoài; nhưng khi nhấn mạnh nhiều lần rằng ông Simêon được Chúa Thánh Thần dẫn tới để xin gặp Chúa Cứu Thế, thì Phúc Âm đã để ta đoán ra được Thánh Cả Giuse cần được Chúa Thánh Thần đưa dẫn tới mức nào, để dẫn dắt và giáo dục Chúa Hài Nhi. Chính sự ngoan ngoãn ấy đối với Chúa Thánh Thần đã làm cho Thánh Cả nên một gia trưởng hoàn thiện. Cho nên khi đã hoàn toàn đạt được, thì cũng chính sự ngoan ngoãn ấy giúp Thánh Cả tham dự vào việc cai trị Hội Thánh cách vô hình, can thiệp cầu bầu cho Hội Thánh theo những chỉ thị khôn ngoan của Chúa.

Sau cùng, trong những quan hệ giữa Thánh Cả Giuse và Con Thiên Chúa Phục Sinh, có một điểm đáng nêu cao như lý do của việc Thánh Cả làm Bổn Mạng Hội Thánh. Thánh Cả Giuse đã khuất đi trước khi xảy ra thảm kịch cứu chuộc. Chúng ta đã nhận định sự hy sinh khổ sở của Ngài là: phải từ bỏ không được xem thấy Chúa Cứu Thế khải hoàn ở đời này. Hy sinh ấy, Chúa Cứu Thế muốn thưởng công cho ở trên trời khi mời Thánh Cả cộng tác vào việc giúp cuộc khải hoàn đó càng hiển hách lớn lao hơn bằng cách đồng lao cho Hội Thánh được phát triển. Phần thưởng sự từ bỏ đó ở ngay trong việc nhiệm tuyển làm phong phú hy lễ cứu chuộc của Chúa. Được liên kết trước việc hy sinh này, Thánh Cả Giuse đã tham dự vào cuộc khải hoàn của Chúa Kitô và vào cuộc mở rộng quyền bính của Ngài giữa nhân loại.

Như vậy, không phải chỉ với danh nghĩa gia trưởng của thánh gia mà Thánh Cả Giuse có thể thi hành chức vụ bổn mạng của Ngài, nhưng còn vì lý do Ngài có những quan hệ mật thiết với Cha và với Chúa Thánh Thần y như với chính Chúa Kitô. Thánh Cả Giuse đã có thể vào rất sâu trong tình yêu của thánh gia tiên khởi là gia đình Chúa Ba Ngôi, khuôn mẫu của gia đình Nazaret và gia đình Hội Thánh.

Hoàn cảnh lúc Thánh Cả Giuse được được tuyên nhận làm bổn mạng Hội Thánh xem ra khá nguy ngập. Đó là lúc Đức Giáo Hoàng bị tước đoạt những lãnh thổ từ bao thế kỷ đã làm nên quốc gia giáo hoàng. Ta hiểu ra mối xúc động mà sự chịu thiệt thòi đó có thể gây ra; nhưng ngày nay thì ta lại phải ca ngợi sự khôn ngoan của Chúa Quan Phòng đã thực hiện cuộc tước đoạt ấy, để vị thủ lãnh Hội Thánh chỉ hiến mình chuyên lo có những lợi ích thiêng liêng. Trong hoàn cảnh ấy, Thánh Cả Giuse lại đã chẳng xuất hiện như dụng cụ của Chúa Quan Phòng và của sự thượng trí Người ư? Thánh Cả lại chẳng ước mong Hội Thánh nên hình ảnh của Thánh Gia; và chỉ có một tối thiểu tài sản vật chất cách chính đáng cần phải có để khuếch triển đời sống thiêng liêng thôi ư? Hành vi đầu tiên việc bảo hộ của Thánh Cả Giuse, cứ bề ngoài, đã là góp công vào việc tạo lập dứt khoát trong Hội Thánh một chế độ vật chất không vượt quá mức tối thiểu ấy, và đem Hội Thánh tránh xa tất cả những tranh giành về đất đai, mà vẫn bảo vệ được quyền độc lập về tinh thần.

Nhưng nếu Thiên Chúa muốn dùng quyền Bổn Mạng của Thánh Cả Giuse mà điều chỉnh vấn đề vật chất nói trên, thì ta phải suy đoán là Người còn có những ý hướng khác. Nếu Chúa muốn tất cả tương lai của Hội Thánh được đặc biệt trao phó cho Thánh Cả Giuse, thì đó là vì còn có nhiều đối tượng khác quan trọng hơn nhiều, mà ta chỉ đạt tới nhờ có Thánh Cả cộng tác.

Trong những đối tượng này, có một đối tượng ngày nay hiện lên rất rõ rệt: đó là việc hợp nhất anh em Kitô hữu ly khai. Mối hợp nhất của Hội Thánh càng ngày càng trở  nên một ám ảnh trong lời cầu nguyện của Kitô hữu. Cố gắng tái tạo sự hợp nhất đã bị xé rách do ly giáo hay lạc giáo, phong trào đạt kết đã không ngừng mở rộng và tạo nên một cuộc xích lại gần nhau đáng chú ý. Tất cả các Kitô hữu đã bắt đầu ý thức là mình có trách nhiệm với mối duy nhất mà Chúa Kitô đã kiến tạo, nhưng Chúa còn đòi hỏi mọi người đều phải cộng tác vào việc làm hợp nhất ấy.

Phải chăng là táo bạo khi nghĩ rằng, trong ý hướng Thiên Chúa, việc Thánh Cả Giuse làm bổn mạng Hội Thánh đã đặc biệt được lập nên để cổ động mối duy nhất ấy? khi Chúa Thánh Thần sois áng một bước đi cho vị Thủ Lãnh của Hội Thánh, như việc tuyển nhận Chúa Giêsu làm Bổn Mạng Hội Thánh Người chẳng hạn, thì ý muốn của Người còn đi xa hơn ý tưởng của Đức Giáo Hoàng lúc đó nữa. Thánh Cả Giuse thật rất xứng đáng được tôn làm Bổn Mạng cho sự hợp nhất các Kitô hữu ấy biết bao! Chính Thánh Cả từng đã hướng dẫn Thánh Gia trong một tinh thần thân ái liên kết nhau hoàn toàn, nênN, cũng ước mong tạo lập cùng một tinh thần đó trong Hội Thánh. Việc Đức Gioan XXIII quyết định đặt Công Đồng chung Vatican II dưới sự bảo trợ của Thánh Cả Giuse đã khởi hứng từ chân lý ấy.

Thế nên, việc Hội Thánh hiện đại có thể đợi chờ một sự cứu giúp đặc biệt nơi Thánh Cả Giuse để hỗ trợ sự hợp nhất hết mọi Kitô hữu là một việc hợp lý. Khó khan càng to lớn thì sự cứu giúp đó càng cần thiết: bức tường chia rẽ, mặc dầu đã có hao mòn sứt mẻ, nhưng cũng vẫn còn thật cứng thật đầy, vì nó đã từng được củng cố qua nhiều thế kỷ. Thánh Cả Giuse sẽ giúp cho các trí óc tỏ ra hoà hoãn hơn, và các tâm hồn mở rộng ra hơn với nhau trong mối hiệp thông cùng một đức tin và cùng một đức mến. Thánh Cả Giuse sẽ giúp cho Kitô hữu quên đi những sai lầm, những hiểu lầm trong dĩ vãng, để chỉ mong muốn trong tương lai có sự đồng tâm liên kết với ngôi vị Chúa Kitô nối dài trong Nhiệm Thể của Người.

MAGNIFICAT ANIMA MEA DOMINUM

 


Năm Thánh Giuse