SUY TƯ THẦN HỌC VỀ THÁNH GIUSE
Lm. Giuse Trần Đình Thụy
Đón Xuân Tân Sửu 2021
Đức Giám mục Christiani trong tác phẩm trứ danh của ngài
“Saint Joseph” (Paris, 1962) được Imprimatur bởi Đức Giám mục J. Hottot ký ngày
15-05-1962, đã suy luận rất thuyết phục khi xem cảnh sống tại Nazarét là thời
gian chuẩn bị cho Tin Mừng.
Khi nghĩ đến điều xảy ra trong cuộc đời công khai của
Chúa Giêsu, chúng ta được kêu mời tìm hiểu cuộc sống đã được chuẩn bị lâu dài
vào thời ẩn dật, với cuộc sống của người thợ mộc. Có thể nói: Phúc Âm và những
khuôn mẫu vàng được giới thiệu cho chúng ta khởi nguồn từ “bầu khí
thiêng liêng” bao trùm tại Nazarét trong “ngôi nhà nuôi sống”,
nơi mà Chúa Giêsu đã lớn lên. Qua đó, chúng ta biết rằng, Ngài không chỉ lớn
lên như những đứa trẻ khác, mà Ngài còn “nên khôn ngoan, đẹp lòng Chúa
và đẹp lòng mọi người”. Chúng ta cũng đã biết, cụm từ “lớn lên
trong khôn ngoan” mang ý nghĩa Thánh Kinh, với một nghĩa đặc biệt. Cụm
từ đó nói lên sự phát triển trong hiểu biết về Thiên Chúa và con người. Chính
tại Nazarét mà Phúc Âm đã được ươm mầm. Vì vậy, chúng ta không ngần ngại khi
gọi đời sống tại Nazarét là giai đoạn Tiền Phúc Âm (Pré- Évangile). Tất cả
những điều Chúa Giêsu sẽ nói cho con người đã được suy nghĩ, chiêm ngắm trong
môi trường của Thánh Giuse và Đức Maria. Ngài được gieo trồng những hạt mầm
trong nơi mà chúng ta đã gọi là “bầu khí thiêng liêng”. “Bầu
khí” này chính là bầu khí tại mái ấm Nazarét. Nếu Chúa Giêsu được coi
là “vâng phục” cha mẹ mình là thánh Giuse và Đức Maria, chính
là vì các vị đã cùng kết hợp với chính Ngài trong ánh sáng của Phúc Âm, trong
nét đẹp của sứ điệp trước khi công bố cho nhân loại.
Quả đúng như vậy, nhất là những giáo huấn đầu tiên của
Chúa Giêsu Kitô qua Bài Giảng Trên Núi (Sermon sur la Montagne).
Khi nghe Đức Giêsu tuyên bố những điều được coi như Bát
Phúc (Béatitudes), chúng ta liên tưởng ngay là Đức Giêsu diễn tả điều mà Ngài
đã sống trong suốt 30 năm gần Đức Maria và thánh Giuse.
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là
của họ.
Phúc thay ai hiền
lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu
khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát
khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho
thoả lòng.
Phúc thay ai xót
thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy
Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây
dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị
bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời
là của họ.” (Mt 5,3-12)
Vậy ai là những người có tinh thần nghèo khó, hiền lành, khát khao nên người công chính, xót thương
người, có tâm hồn trong
sạch, xây dựng hoà bình, bị
bách hại vì sống công chính, nếu không phải là thánh Giuse và
Mẹ Maria. Hai vị đã được thưởng công cho tâm hồn thanh sạch là họ đã được nhìn thấy Thiên Chúa trong
suốt thời gian Đức Giêsu ở với họ. Bát Phúc của Chúa Giêsu không nghi ngờ
gì: đó là một phần linh đạo của thánh Giuse. Chính vì sống gần kề với
thánh Giuse và Đức Mẹ, mà Chúa Giêsu cũng đã suy nghĩ trước những lời sau:
“Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống:
lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc…”
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không
thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại
chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà
kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo
lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học:
chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết:
ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một
bông hoa ấy…”
“Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò,
mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém
tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì
đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời
thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm
kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những
thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ
để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,25-34).
Cảm nghiệm trong đời sống tại Nazarét một “Khuôn vàng
thước ngọc”: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình,
thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các
ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Cũng tại đời sống bình dân tại Nazarét với họ hàng lối
xóm, với những người bình thường có tốt có xấu, Chúa Giêsu cũng nói đến những
nét tiêu cực của người dân, đặc biệt là giới Pharisêu: cốt để tìm tiếng khen.
Chúa Giêsu cũng nhìn thấy trong đời sống ẩn dật của ngài
về sự công chính – Giuse là người công chính. Theo Phúc Âm, ngài là người công
chính vì đón nhận Maria về nhà và nhận bà là hôn thê. Sự công chính của ngài đã
không ngừng phát triển từ lúc đó. Nó hoàn toàn khác với sự công chính bề ngoài
của Pharisêu:
“Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo
đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen.
Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí,
đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo.
Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,2-4).
Sau việc bố thí, Ngài lại nói đến sự cầu nguyện:
“Và khi cầu nguyện , anh em đừng làm như bọn đạo đức
giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã
ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng
rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu
nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng
thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,5-6).
Và Ngài còn nói thêm:
“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại;
họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhậm lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh
em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt 6,7-8).
Ngài cũng nói về sự ăn chay:
“Rồi khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo
đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy
bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên
rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại
trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt
những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,16-18).
Thật đúng với tinh thần Chúa Giêsu đã sống tại Nazarét,
ta có thể nói rằng Chúa Giêsu đã hoàn tất những gì Ngài bắt đầu, những điều mà
Ngài đã dạy: “…tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều
Người dạy…” (x.Cv 1,1).
Giuse và Maria đã biết từ ngày đầu tiên, biết về sự cao
trọng mang tính tiên tri của Giêsu – Con các ngài – qua xác nhận của thiên thần
và của ông già Simêon và bà “tiên tri” Anna. Bí ẩn đã kéo dài
suốt 30 năm hoặc với thánh Giuse khi còn sống. Không có lời cầu nguyện, sự bố
thí, ăn chay nào tốt hơn là cách mà Maria và Giuse đã sống. Hơn nữa, Gioan Tẩy
Giả đã đóng vai trò của mình, vì qua Dacaria là cha ngài, ngài đã nói lớn
tiếng, trước cả sự hiện diện của Mẹ Maria: “…Hài Nhi hỡi, con sẽ mang
tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho
Người…” (Lc 1,76). Chính trong đức tin, niềm hy vọng và tình yêu, họ
đã chờ đợi điều mà Chúa Giêsu sẽ nói: “Giờ của Người” chính là
giờ của Thiên Chúa. Thời giờ này đã được xướng lên trước cái chết của Tổ phụ
Giuse: “Thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em…” (x. St
50,25).
Dù là suy luận (argument), nhưng chúng ta cũng thấy nét
tương đồng giữa lời của Chúa Giêsu và đời sống của Thánh Cả. Khẳng định đời
sống tại Nazarét là thời gian Tiền-Phúc âm (un Pré-Evangile) cũng không sai gì.
Trong tập Kỷ
yếu 45 năm Ký Ức
& Ước Mơ (Vũng Tàu – tháng 06 năm 2012), tôi đã viết và
chia sẻ về ngôn ngữ của thánh Giuse là: Thinh lặng để Cầu nguyện – Yêu thương và
Phục vụ. Chính 4 đặc tính này gói trọn cuộc đời thánh Giuse trước ý định nhiệm
mầu của Thiên Chúa. Tôi cũng kết luận trong bài viết và chia sẻ đó: “Chỉ
xin gởi lại một chữ tình vì đó là ‘cả một tấm lòng’. Đối với
tôi, những chia sẻ này có thể được mô thức hóa (formulé) là: Kinh Tin
Kính của đời tôi”[1].
Năm nay (2020-2021), năm đặc biệt kính thánh Giuse, tôi
xin đóng góp một chút suy tư cá nhân với những trải nghiệm cuộc sống: Ngôn ngữ
thánh Giuse: Thinh lặng để cầu nguyện kết hợp – lắng nghe và thực hành ý Chúa.
1. Hai bản văn nền tảng để suy tư
- Huấn từ của ĐGH Phaolô VI tại Nazarét (05-01-1964)[2]:
“Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước chi nơi mỗi
chúng ta lại nảy sinh lòng quý trọng sự thinh lặng. Đây là điều kiện tuyệt vời
và cần thiết cho tinh thần, đang khi chúng ta bị quấy nhiễu vì bao tiếng la
hét, ồn ào và náo động của cuộc sống hiện đại, luôn ầm ĩ và quá căng thẳng. Ôi,
ước chi sự thinh lặng của Na-da-rét dạy chúng ta biết suy đi gẫm lại, biết trở
về nội tâm, sẵn sàng đón nhận những hướng dẫn âm thầm của Thiên Chúa và
lắng nghe những vị thầy chân chính dạy bảo. Ước chi sự thinh lặng đó dạy chúng
ta biết sự cần thiết và giá trị của việc chuẩn bị, nghiên cứu, suy niệm, của
nếp sống cá nhân và nội tâm, của lời cầu nguyện mà chỉ một mình Thiên Chúa nghe
thấy trong nơi bí ẩn.”
- Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục[3]:
“Theo mẫu gương thánh Giu-se, sự thinh lặng của linh mục
‘không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm, nhưng trái lại, là một đức tin tròn đầy
ngài mang trong tâm hồn, hướng dẫn mọi tư tưởng và hành động’[4]. Một sự thinh lặng, như của các tổ phụ xưa, ‘gìn giữ Lời
Chúa được biết qua Thánh Kinh, hằng đối chiếu Lời ấy với các sự kiện trong đời
Chúa Giê-su; một sự thinh lặng đan xen với lời cầu nguyện liên lỉ, lời kinh
chúc tụng của Chúa, tôn thờ thánh ý Người, và hoàn toàn phó thác cho sự quan
phòng của Thiên Chúa’[5].
Trong sự hiệp thông của Thánh Gia Na-da-rét, sự thinh
lặng của thánh Giu-se hoàn toàn hoà hợp với sự hồi tâm của Đức Maria, ‘hiện
thân hoàn hảo nhất’ của sự vâng phục đức tin[6], Người đã
‘giữ kỹ tất cả những kỳ công của Đấng Toàn Năng và suy gẫm trong lòng’”[7].
2. Suy niệm về ngôn ngữ thánh Giuse[8]
a. Thinh lặng
Đời sống đức tin của Kitô hữu, và nhất là các linh mục và
tu sĩ, sự thinh lặng phải là như “thời khắc ngưng nghỉ hoạt động bình
thường” rất cần thiết.
Thinh lặng có thể được coi là “bầu khí thiêng
liêng” bao phủ gần hết cuộc sống của thánh Giuse. “Trước hết
là bài học về thinh lặng. Ước chi mỗi người chúng ta lại nảy sinh lòng quý
trọng sự thinh lặng” (Huấn từ của ĐGH Phaolô VI). Kim Chỉ Nam Linh Mục
cũng nói: “Theo mẫu gương thánh Giu-se, sự thinh lặng của linh mục
‘không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm’” (Số 51).
Nói về sự thinh lặng, chúng ta có thể ghi lại nhiều tư
tưởng của các văn gia nổi tiếng:
“Tiếng ồn làm phân tán, tản mác, lãng phí. Sự im lặng
tiếp nhận, thâu hồi và cô đọng. Ai không biết dành một khoảnh khắc trong đời
cho những khu vực yên tĩnh, thì tâm hồn kẻ đó sẽ dần dần sống một cách hời hợt,
nông cạn” (G. Courtois).
“Thinh lặng là người bạn thân không bao giờ phản lại ta” (Tục ngữ Trung Hoa).
“Những người nào không biết nghe sự thinh lặng thì họ sẽ
không thể biết họ đã mất mát đến chừng nào” (M. Zuldel).
b. Trong thinh lặng, ta cầu nguyện và kết hợp
Cũng trong Huấn từ, chúng ta nhận ra tâm tình của ĐGH
Phaolô VI: “Ôi, ước chi sự thinh lặng của Nazarét dạy chúng ta biết suy
đời gẫm lại, biết trở về nội tâm, sẵn sàng đón nhận những hướng dẫn âm thầm của
Thiên Chúa”.
Kim Chỉ Nam cũng ghi rõ: “Theo mẫu gương thánh
Giu-se, … một sự thinh lặng đan xen với lời cầu nguyện liên lỉ, lời kinh chúc
tụng của Chúa”.
Thinh lặng để kết hợp. Tôi xin trích lại trong tập
viết “Tìm Nơi Thinh Lặng” (Paris,
1999, trang 20-24):
“Ngày 11.8.1999, một ngày đặc biệt của năm cuối cùng của
Thiên niên kỷ thứ hai: Nhật Thực. Tại Pháp, theo dự báo: khoảng 12g10-12g20,
trục thẳng từ Chesbourg-Strasbourg, sẽ thấy nhật thực toàn bộ.” …
“Người ta tưởng tượng đây là một cuộc ‘kết hôn’, một sự
‘giao phối hoàn hợp’ giữa mặt trăng và mặt trời… Cứ 270 năm mới có một lần (lần
trước đây tại Paris vào năm l724 lúc vua Louis XV mới 14 tuổi” (Cf. Famille chretienne N.24/29.7.99 trg 58). …
“Trong một góc hành lang: một tượng Đức Mẹ bằng gỗ mun,
với kỹ thuật bắt điện cũng thật ý nghĩa. Tượng thật và bóng tượng trên tường
cùng gọn trong một vầng sáng dịu như ẩn như hiện… và cũng hoàn toàn thinh lặng!
Âm thầm kết hợp… Âm thầm mà kết hợp… Âm thầm để kết hợp…
Bạn hiểu thế nào cũng được… Kết hợp, một sự kết hợp hài hòa trong thinh lặng.
Không một tiếng động mà dường như ta lại đang nghe thấy nhiều điều. Chỉ một
cảnh trong thinh lặng nhưng lại nói lên thật đầy ý nghĩa. Để lòng mình thinh
lặng mà như có sự đối thoại giữa trần thế với trời cao.”
Đúng thật: “Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy
âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân
trời góc biển” (Tv 19,4-5)
Thinh lặng “không biểu biểu lộ sự trống rỗng”.
Tôi rất thích vần thơ thật dễ thương nhưng sâu sắc:
“Nói bằng ánh mắt nhau thôi,
Chi bằng thinh lặng đầy vơi tấm lòng”.
Đúng thật, thinh lặng “không biểu lộ sự trống
rỗng nội tâm” mà là môi trường lắng nghe được nhiều âm thanh huyền bí
của Thiên Chúa, khác với sự “tràn ngập âm thanh và ánh sáng” khiến
chúng ta bị vong thân, lao vào những sự kiện trần thế.
Thánh Augustinô cũng cảm nghiệm được Chúa - được mình
trong thinh lặng nội tâm: “Lạy Chúa, Chúa biết con còn hơn con biết
con”; “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
P. Duret cũng nói: “Thầm lặng đích thực thì chan
chứa tình yêu: Đó là im lặng để cầu xin… im lặng để quan sát… im lặng để quên
đi”.
c. Trong thinh lặng, ta lắng nghe và thực thi ý Chúa
“Ước chi sự thinh lặng đó dạy chúng ta biết sự cần thiết
và giá trị của việc chuẩn bị, nghiên cứu, suy niệm, của nếp sống cá nhân và nội
tâm, của lời cầu nguyện mà chỉ một mình Thiên Chúa nghe thấy trong nơi
bí ẩn” (Huấn từ của ĐGH
Phaolô VI).
Kim Chỉ Nam Linh Mục cũng viết: “Theo mẫu gương
thánh Giuse … sự thinh lặng… là một đức tin tròn đầy ngài mang trong tâm hồn,
hướng dẫn mọi tư tưởng và hành động”.
Qua phần trình bày trên, ta thấy: Bước (1): Cần
sự thinh lặng để xóa đi những ồn ào không cần thiết, có khi bị khuấy
động; Bước (2): chính trong thinh lặng, nhất là thinh lặng nội
tâm, ta bước vào cầu nguyện để kết hợp với Chúa; Bây giờ đến bước (3): lắng
nghe được tiếng Chúa và thực hiện ý Chúa.
Trong đêm thanh vắng, Giuse nghe được lời Thiên sứ báo
mộng. Tỉnh dậy, ngài “lập tức” thực hiện điều Chúa đã soi
sáng.
Thời nay và nhất là hôm nay: quá nhiều lý thuyết gia mà
ít nhân chứng. Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Con người hôm
nay cần chứng nhân hơn thầy dạy”.
Noi gương thánh Giuse, hãy tìm những khoảnh khắc thinh
lặng nội tâm, tạm gác qua mọi lo âu sinh hoạt bên ngoài, dọn tâm thế sẵn sàng
để gặp Chúa (nhìn Chúa và để Chúa nhìn mình), rồi Chúa sẽ nói với ta. Đến phần
ta: hãy trở lại cuộc sống và thực thi ý Chúa soi sáng.
Dietrich Bonhoeffer rất sâu sắc khi nói về cầu nguyện,
cũng giống cách thế của thánh Giuse, ông nói: “Cầu nguyện là gác qua
mọi lo lắng, liên hệ thường nhật để tìm gặp Chúa. Sau giờ cầu nguyện, Chúa lại
sai chúng ta trở lại cũng với những con người, liên hệ và môi trường ta vẫn
sống; nhưng với tâm tình của Chúa”.
“Muốn trở thành con người, trong đời sống thường ngày,
bạn phải biết dành chút thời giờ cho thinh lặng. Bạn hãy học im đi để biết nói
lên” (ĐHY Joseph Leo Cardijn).
“Tâm hồn phải lắng xuống trong sự im lặng. Chính lúc đó,
Thiên Chúa sẽ tỏ hiện và nói với ta” (M.
Eckhart).
Tìm thinh lặng; trong thinh lặng ta cầu nguyện và kết
hợp; và chính lúc đó, ta nghe được tiếng Chúa và Ngài thúc dục ta ra đi thực
hiện. Đây chính là ngôn ngữ của thánh Giuse.
Bạn hãy tập đi! Tập đi
vào thinh lặng để gặp Chúa, nghe được lời Chúa và thi hành điều Chúa dạy. Chỉ
trong thinh lặng ta mới đạt được những sự ấy. Chẳng phải màu mè nhưng hành động
đạo đức của chúng ta chính là hoa trái của thinh lặng. Và đúng như thánh
Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống
trong tôi” (Gl 2, 20).
Trích sách: Để Hiểu và
Yêu Mến Thánh Cả Giuse Hơn
WHĐ
(30.1.2021)
[1] Kỷ yếu 45 năm Ký Ức
& Ước Mơ , trang 4-5.
[2] Trích Bài đọc 1, Kinh Sách lễ Thánh
Gia Thất
[3] Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam Về
Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, Nxb Tôn Giáo, 2013.
[4] ĐGH Biển-đức XVI, Kinh truyền
tin (18/12/2005): Enseignements I (2005), 1003.
[5] Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam Về
Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, Nxb Tôn Giáo, 2013.
[6] Giáo lý Giáo hội Công giáo, 144.
[7] Sđd., 2599.
[8] Thái Bạch, Tìm Nơi Thinh Lặng, Paris, 2000.