NHỮNG ĐIỀU PHẢI TIN … THEO CẤU TRÚC “BA
NGÔI”
(giaolyductin.net
06/07/12, 9:41 pm)
Dẫn vào
Không đi ngược với tự do của con người, đức
tin là một hành vi nhân linh của con người. Khi tin, con người sử dụng trí khôn
(wisdom)
để “hiểu biết” điều mình đang làm (mặc dù không thể hiểu hết được) và thực sự
tự do “ước muốn” (free will) làm điều ấy (có sự ưng thuận của ý chí).
Tự do là khả năng, bắt nguồn từ lý trí
và ý chí, có thể hành động hay không hành động, có thể làm việc này hoặc việc
khác; và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức. Nhờ có ý chí tự do,
mỗi người tự quyết định về chính bản thân mình. Trong con người, sự tự do là
một sức mạnh để tăng trưởng và trưởng thành trong chân lý và điều thiện. Sự tự
do đạt tới mức hoàn hảo, khi nó được quy hướng về Thiên Chúa, là vinh phúc của
chúng ta.
Thật ra, để đáp ứng những nhu cầu các
thời đại khác nhau, Giáo hội đã từng đưa ra nhiều tín biểu: những tín biểu thời
các tông đồ, tín biểu Quicumque, tín biểu Công đồng
Tôlêđô, tín biểu Công đồng
Latêranô, tín biểu Công đồng
Lyon, tín biểu Công đồng
Trentô, tín biểu của Ðức Giáo
hoàng Ðamaxiô, bản “Kinh Tin Kính của
dân Thiên Chúa” của Ðức Giáo hoàng Phaolô VI (1968). Vậy đâu là những điều
một tín hữu Công giáo cần tin; một tín hữu Công giáo thực sự phải tin những gì?
Những điều phải tin
Mặc dù sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo
có đến hai ngàn tám trăm sáu mươi lăm (2.865) số, người ta vẫn có thể
đắc dụng Tín biểu Công đồng Nicea-Constantinople để giải đáp cho câu hỏi “Một
tín hữu Công giáo thực sự phải tin những gì?”
Các tín hữu Công giáo nói chung phải tin
những điều được mạc khải trong Thánh kinh và Thánh truyền, những điều được
truyền dạy qua hành vi long trọng định tín của Giáo hội hoặc qua huấn quyền
thông thường và phổ quát. Trong ý thức đó, người ta cần nhận ra rằng Tín biểu
Công đồng Nicea-Constantinople bao hàm cách “tổng quát mà chi tiết” những điều
phải tin, cả những tín điều đã được định tín lẫn chưa được định tín, những giáo
huấn tỏ tường và vô ngộ của Giáo hội. Đó là những chân lý
phải được tin nhận bằng đức tin.
Vì thế, để tìm hiểu thêm về Tín biểu
Công đồng Nicea-Constantinople, chúng tôi đặt tín biểu này đối chiếu với Tín
biểu Các Tông Đồ. Với sự thêm vào phần Anh ngữ đặt phía dưới phần tiếng Việt
(trích dẫn từ số 184 trong Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo của Ủy ban Giáo lý Đức
tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam; Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2009), ý
nghĩa các từ ngữ tiếng Việt trong phần này như rõ rệt thêm hơn dẫu rằng có đôi
chỗ nên được sửa lại (khi thuận tiện).
Tín biểu Các Tông Đồ
Tôi tin kính Ðức Chúa Trời là Cha phép
tắc vô cùng dựng nên trời đất.
I believe in God the Father almighty,
creator of heaven and earth.
Tôi tin kính Ðức Chúa Giêsu Kitô là Con
Một Ðức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi. Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần mà Người
xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh, chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô,
chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày
thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời ngự bên hữu Ðức Chúa Cha phép
tắc vô cùng, ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
I believe in Jesus Christ, his only Son,
our Lord. He was conceived by the power of the Holy Spirit and born of the
Virgin Mary. Under Pontius Pilate He was crucified, died, and was buried. He
descended to the dead. On the third day he rose again. He ascended into heaven
and is seated at the right hand of the Father. He will come again to judge the
living and the dead.
Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh Thần. Tôi
tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các Thánh thông công. Tôi tin phép tha
tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
I believe in the Holy Spirit, the holy
catholic church, the communion of saints, the forgiveness of sins, the
resurrection of the body, and the life everlasting. Amen.
Tín biểu Công đồng Nicea-Constantinople
Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn
năng, Ðấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô
hình.
We believe in one God, the Father, the
Almighty, maker of heaven and earth, of all that is, seen and unseen.
Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con
Một Thiên Chúa, sinh bởi Ðức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa
bởi Thiên Chúa; Ánh sáng bởi Ánh sáng; Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật;
được sinh ra mà không phải được tạo thành; đồng bản thể với Ðức Chúa Cha: nhờ
Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta,
Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể
trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì
chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng. Ngày thứ
ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Ðức Chúa Cha,
và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người
sẽ không bao giờ cùng.
We believe in one Lord, Jesus Christ,
the only Son of God, eternally begotten of the Father, God from God, Light from
Light, true God from true God, begotten, not made, of one Being with the
Father. Through him all things were made. For us men and for our salvation, he
came down from heaven: by the power of the Holy Spirit he was born of the
Virgin Mary, and became man. For our sake he was crucified under Pontius
Pilate; he suffered died and was buried. On the third day he rose again in
fulfillment of the Scriptures; he ascended into heaven and is seated at the
right hand of the Father. He will come again in glory to judge the living and
the dead, and his kingdom will have no end.
Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh Thần là
Thiên Chúa và là Ðấng ban sự sống; Người bởi Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con mà
ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con.
Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
We believe in the Holy Spirit, the Lord,
the giver of life, who proceeds from the Father and the Son. With the Father
and the Son he is worshipped and glorified. He has spoken through the Prophets.
Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện,
công giáo và tông truyền. Tôi tuyên xưng có một Phép Rửa để tha tội. Tôi trông
đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. Amen.
We believe in one holy catholic and
apostolic Church. We acknowledge one baptism for the forgiveness of sins. We
look for the resurrection of the dead, and the life of the world to come. Amen.
So với Tín biểu nguyên thủy của Công
đồng Nicea (325) chống lại các điều nòng cốt của mậu thuyết Arianism, Tín biểu Công đồng
Nicea-Constantinople (381): (1) nói nhiều hơn về ngôi vị Chúa Kitô; (2) bỏ cụm
từ “từ bản thể của Đức Chúa Cha” sau từ homoousios; (3) nói nhiều hơn về Chúa
Thánh Thần; (4) bổ túc một số điều về Giáo hội, về nhiệm tích rửa tội, về sự
sống lại và cuộc sống đời đời; và (5) không có một án phạt tuyệt thông nào.
… theo cấu trúc “Ba Ngôi”
Vẽ nên những đường nét lớn về thần học Ba
Ngôi, Thánh Âutinh cho rằng, để có thể mon men tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa,
người ta cần phải có tâm hồn đạo đức, trong sạch, đầy ơn Chúa. Suy luận chỉ là
bước đầu để hướng tới chiêm niệm, yêu mến, rồi thực hành. Chính khi cử hành
thánh lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lúc Giáo hội muốn người Kitô hữu nhìn lại hình
ảnh của một Thiên Chúa duy nhất: Cha, Con và Thánh Thần. Sự duy nhất ấy nói lên
tình yêu Thiên Chúa. Vì vậy, để ứng với
“Ba chương của ấn tín rửa tội”, Tín biểu Công đồng
Nicea-Constantinople trước hết không chỉ nói về Thiên Chúa Ngôi Thứ Nhất và
công trình sáng tạo kỳ diệu; kế đến Thiên Chúa Ngôi Thứ Hai và mầu nhiệm cứu
chuộc con người; sau là Thiên Chúa Ngôi Thứ Ba, cội nguồn và nguyên lý thánh
hóa nhân loại, mà còn nói đến yếu tố thực hành của niềm tin này trong Giáo hội,
một giáo hội công giáo, duy nhất, thánh thiện và tông truyền.
Chính vì thế, Tín biểu Công đồng
Nicea-Constantinople gồm bốn phần: ba phần nói về các Ngôi Thiên Chúa —một phần
về Chúa Cha, một phần về Chúa Giêsu Kitô, một phần về Chúa
Thánh Thần— và phần cuối về Giáo
hội Công giáo duy nhất, thánh thiện và tông truyền. Những tín điều này là các
chân lý được Thiên Chúa mạc khải, những điều các tín hữu Công giáo phải tin
(tin = thái độ đáp ứng phù hợp với tín điều). Hơn nữa, liên quan
đến các điều một người Công giáo phải tin, ta không nên quên các chân lý “nền
tảng” mặc dù chưa bao giờ được định tín:
Bởi vì, nếu miệng bạn tuyên xưng Đức
Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi
chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên
công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ. Thánh kinh nói: “Mọi kẻ
tin vào Người sẽ không phải thất vọng.”
Ai khước từ Ta và không đón nhận lời Ta,
thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong
ngày sau hết. Thật vậy, không phải Ta tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha,
Đấng đã sai Ta, truyền lệnh cho Ta phải dạy gì hay nói gì.
Vì vậy, niềm tin Công giáo nói chung đòi
các tín hữu phải sống công bình và yêu thương, thành thật và can đảm, hòa thuận
và tha thứ. Những ai sống như vậy sẽ tìm được sự hướng dẫn cho mình trong Phúc
âm và giáo huấn của Giáo hội. Trên thực tế, người Công giáo phải làm tất cả
điều này chủ yếu dựa vào quyền giảng dạy của Giáo hội, được gọi là huấn quyền,
tức là quyền được thực thi cách long trọng như trong những tuyên bố chính thức
của các đức giáo hoàng, trong các công đồng chung gồm các giám mục được các đức
giáo hoàng chỉ định, hoặc qua cách bình thường với những phương thế quen hướng
dẫn cho các tín hữu.
Huấn quyền Giáo hội thi hành quyền bính
đã được Chúa Kitô ban cho đến mức độ đầy đủ nhất khi tuyên bố các tín điều, tức
là khi đưa ra các chân lý trong mạc khải thánh và buộc các Kitô hữu phải suy
phục bằng đức tin không thể đảo ngược, hoặc khi dứt khoát đưa ra các chân lý có
mối tương quan thiết yếu với những chân lý này.
Theo Công đồng Vaticanô I, mọi người
Công giáo buộc phải tin tất cả các tín điều của Giáo hội vì người ta không thể
đạt được ơn công chính hóa và phần rỗi đời đời nếu như không hoàn toàn tin nhận
đức tin tín lý đã được Giáo hội Công giáo Rôma xác định. Các tín điều của Giáo
hội là những chân lý liên quan đến đức tin và luân lý mà Thiên Chúa đã mạc
khải, được các tông đồ truyền lại trong Thánh kinh hoặc được Thánh truyền và
Giáo hội trình giải, được sự phán quyết trang trọng và được huấn quyền phổ quát
thông thường giảng dạy (which are truths concerning faith and morals revealed by God,
transmitted from the Apostles in the Scriptures or Tradition and proposed by
the Church, are taught by solemn judgment and by ordinary universal magisterium).
Phải tin bằng đức tin thần linh và Công
giáo tất cả những điều chứa đựng trong lời Chúa, được viết ra hoặc được lưu
truyền, và những điều được Giáo hội trình giải, hoặc bằng phán đoán long trọng
hoặc bằng nhiệm vụ giảng dạy thông thường và phổ quát, để được tin như đã được
Thiên Chúa mạc khải.
Ngoài các tín điều được công nhận cách
hiển nhiên trong Tín biểu Công đồng Nicea-Constantinople, các điều giáo lý Công
giáo trong tín biểu này chắc hẳn có liên quan đến nhiều giáo lý chính yếu khác
về đức tin Công giáo, Giáo hội Công giáo, và đời sống Công giáo. Tín biểu đem
đến cho người tín hữu Công giáo ánh sáng để hiểu biết các giáo lý khác: trung thành với giáo
huấn chung quyết, tôn trọng giáo huấn có thẩm quyền, chấp nhận giáo huấn được
chuẩn nhận mà không loại bỏ giáo huấn được cho phép (adhering to definitive
teaching, respecting authoritative teaching, accepting approved teaching, not
rejecting allowed teaching).Thực vậy, mặc dù phải
tin tất cả các tín điều, nhưng tín hữu Công giáo không buộc phải tin các giáo
lý bởi vì các giáo lý không được đoàn sủng vô ngộ bảo vệ. Rõ ràng mọi tín điều
đều là giáo lý, nhưng không phải giáo lý nào cũng là tín điều. Hơn nữa, “…
không có một danh mục các tín điều nào được toàn thể các tín hữu Công giáo chấp
nhận, kể cả các giám mục và các nhà thần học” bởi vì không phải lúc
nào cũng dễ dàng xác định được sự dị biệt giữa các giáo lý và các tín điều.
Tuy nhiên, với Kinh Tin Kính thì khác.
Francis A. Sullivan, trong tác phẩm Creative Fidelity: Weighing and Interpreting
Documents of the Magisterium, đã khẳng định: “không thể hoài nghi
rằng mỗi điều của Kinh Tin Kính đều là một tín điều”. Chẳng vậy mà vào mỗi
Chúa nhật, các tín hữu Công giáo công khai tuyên xưng đức tin của mình qua Kinh
Tin Kính (Tín biểu Công đồng Nicea-Constantinople).
Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn
năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô
hình. Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa
Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh
Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo
thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha: nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì
loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép
Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria, và đã làm
người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô
Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời
Thánh kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong
vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người
bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng
với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con: Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy. Tôi
tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Tôi tuyên xưng
có một Phép Rửa để tha tội. Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.
Amen.
Tạm kết
Tóm lại, vì lý trí không đủ để giúp
chúng ta biết về các sự thật siêu nhiên mà cần phải có đức tin như một ân huệ
của Thiên Chúa, người Công giáo buộc phải tin cả các tín điều đã được định tín
lẫn chưa được định tín. Họ phải tin Thánh kinh
và Thánh truyền, qua đó, các chân lý đã được truyền lại. Nghĩa là, họ phải tin
(credenda)
những điều đã được mạc khải trong Thánh kinh và Thánh truyền, những điều đã
được giảng dạy cách phổ quát qua việc định tín trang trọng hoặc qua huấn quyền
phổ quát và thông thường. Họ không được quên niềm tin Công giáo vào Chúa Giêsu
Kitô và các giáo huấn của Người. Đây là những điều tối cần thiết như phương thế
để được công chính hóa và được cứu độ: “Hễ ai tin và chịu phép Rửa thì sẽ được
cứu độ; còn kẻ nào không tin sẽ bị luận phạt”.
Qua các bản văn của mình, Thánh Gioan
nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tin vào Chúa Giêsu Kitô để có thể đạt đến phần
phúc muôn đời mà mọi người Công giáo đều mong ước.
Như ông Môsê đã treo con rắn trong sa
mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để
ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thương thế gian đến độ
đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên
án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào
Con của Người, thì không bị kết án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì
đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.
Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ
mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin tôi Hằng Hữu (I Am), các
ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết.
Để sở đắc niềm tin này, niềm tin “theo
cấu trúc Ba Ngôi”, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và sự trợ giúp
bên trong của Chúa Thánh Thần. Chính Ngài thúc đẩy và giúp quy hướng con tim
chúng ta về cùng Thiên Chúa là Cha yêu thương, mở mắt lý trí và ban sự dịu ngọt
cho những ai thành tâm đón nhận và tin theo chân lý mạc khải.
30-6-2012
Lm. Giuse Tạ Huy Hoàng
X. http://en.wikipedia.org/wiki/Free_will
(22-6-2012).
GLHTCG, số 1731, theo bản dịch của Ủy ban Giáo
lý Đức tin (HĐGMVN), Giáo lý của Hội thánh Công giáo (Catechismus Catholicae Ecclesiae)
(Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2009), 515.
Ngày 11 tháng
10 năm 1992, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành Tông hiến “Kho tàng đức
tin” (Constitutio Apostolica “Fidei Depositum”) công bố sách Giáo lý của Hội thánh
Công giáo (Catechismus Catholicae Ecclesiae).
Trong tất cả
các tín biểu, có hai tín biểu chiếm một địa vị rất đặc biệt: Tín biểu Các Tông
Đồ (tóm lược trung thành đức tin của các tông đồ) và Tín biểu Công đồng
Nicea-Constantinople (phát xuất từ hai công đồng đầu tiên, năm 325 và năm 381);
x. http://education.yahoo.com/reference/dictionary/entry/Nicene+Creed.
X. Francis A.
Sullivan, Creative
Fidelity: Weighing and Interpreting Documents of the Magisterium (
Thí dụ: Tôi
tin kính Ðức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có Hội thánh hằng có ở khắp thế này, các
Thánh thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống
lại. Tôi tin hằng sống vậy (I believe in the Holy Spirit, the holy catholic church, the communion of
saints, the forgiveness of sins, the resurrection of the body, and the life
everlasting).
“Tại Công
đồng Nicea (năm 325), Giáo hội tuyên bố một phong trào vào thế kỷ IV là rối đạo
vì chối bỏ thần tính thực sự của Chúa Kitô” (McBrien, The HarperCollins
Encyclopedia, 92-3).
“(1) has more about the
person of Christ; (2) omits the phrase ‘from the substance of the Father’
after homoousios; (3) says more about the Holy Spirit; (4) adds the articles on the
Church, baptism, the resurrection, and eternal life; and (5) contains no anathemas”
(Hardon, Pocket
Catholic Dictionary, 285).
Tác phẩm De Trinitate
của Thánh Âutinh kết thúc bằng lời cầu nguyện: “Xin cho con nhớ đến Chúa, hiểu
biết Chúa và yêu mến Chúa”.
Qua các thế
kỷ, có nhiều cuộc tranh luận liên quan đến Chúa Giêsu về những đặc tính phức
tạp và mầu nhiệm của Người. Người đồng thời vừa là Thiên Chúa vừa là con người,
có hai bản tính và hai ý chí riêng biệt.
Những vấn đề
liên quan đến nguồn gốc và các đặc tính của Chúa Thánh Thần cũng như quyền năng
sáng tạo của Thiên Chúa đã được giải đáp trong các tín điều được định tín.
X. Sullivan, Creative Fidelity,
41.
Tuy nhiên, về
mặt đức tin và luân lý, các chân lý linh thánh thường được các công đồng chung
hoặc đức giáo hoàng ngự tòa công bố để phi bác những giải thích sai lạc về đức
tin. Do đó, số tín điều ít hơn các giáo lý thuộc huấn quyền phổ quát và thông
thường (x. McBrien, The HarperCollins Encyclopedia, 425).
X. http://www.catholicculture.org/culture/library/view.cfm?recnum=6330
(22-6-2012).
DS 3011; ND 121; x. Karl Rahner, Foundations of Christian
Faith: An Introduction to the Idea of Christianity (
Chúng có liên
quan nhiều hơn đến sự hiện hữu của Thiên Chúa, bản tính của Thiên Chúa, mạc
khải của Thiên Chúa, tất cả các thánh, nhất là Đức Trinh nữ Maria (các tín điều
về Đức Mẹ đã được định tín liên quan đến sự cá biệt của Mẹ), đức giáo hoàng
(những cuộc tranh cãi về Giáo hội và quyền bính của các vị lãnh đạo Giáo hội
cũng dẫn đến việc thiết lập các tín điều), các nhiệm tích và phụ tích, sự sống
đời đời, thiên đàng, hỏa ngục, luyện ngục, lời cầu nguyện, kinh Tin Kính, các
giới răn, đức ái, hạnh phúc, đau khổ. Vì thế, trong số giáo lý này, cũng có thể
tìm được những tín điều khác nữa, đã được cũng như chưa được định tín.
X. http://www.the-pope.com/magchuco.html
(22-6-2012).
McBrien, The HarperCollins
Encyclopedia, 425.
X. Sullivan, Creative Fidelity,
96; x. Leo J. O’Donovan, “A Journey into Time: The Legacy of Karl Rahner’s Last
Years,” Theological
Studies 46 (1985), 621-44.
Đó cũng là
đoạn dài nhất trong công thức Tuyên xưng đức tin “được những người mà giáo luật
buộc phải tuyên xưng đức tin, sử dụng khi bắt đầu nhiệm kỳ một giáo vụ nào đó
trong Giáo hội” (“used by those who are obliged by canon law to make a profession of faith
at the beginning of their term of office in some responsible position in the
church”) (Sullivan, Creative Fidelity, 13).
Ủy ban Phụng
tự (HĐGMVN), Sách
lễ Rôma (Missale Romanum, Rôma: Nxb. Vaticanô, 1975) (Hà Nội: Nxb.
Tôn Giáo, 2010), 427-28.
“Nhiều điều
trong Kinh Tin Kính vẫn là những tín điều chưa được định tín, vì Giáo hội thấy
không cần phải định tín những điều ấy.” (Sullivan, Creative Fidelity, 57).
“Không phải
tất cả các chân lý như vậy đều có thể tìm được trong Thánh kinh cách rõ ràng,
nhưng chúng phải được Giáo hội nhìn nhận là thực sự tiềm ẩn trong kho tàng linh
thánh được ủy thác cho Giáo hội.” (Sullivan, Creative Fidelity, 13).