THẦN HỌC TẠI
VIỆT
(giaolyductin.net - 06/04/14,
6:25 pm)
CHUYÊN ĐỀ THẦN HỌC BỐI CẢNH
Suy
tư thần học tại Việt nam hôm nay đối thoại như thế nào với những vấn đề nóng
bỏng của xã hội? Nó chi phối làm sao cho việc đào tạo giáo lý
viên cũng như nó có tác động thế nào đến việc huấn luyện những người dấn thân
chuyên nghiệp cho huấn giáo?
Nhập
Ông John Kerry, một một
cựu binh trong cuộc chiến Việt Nam, lần đầu tiên trở lại đây trong cương vị
ngoại trưởng Mỹ vào ngày 14-12-2013 đã thốt lên: “Điều gây ấn tượng nhất với
tôi là Việt Nam đã thay đổi nhiều thế nào trong suốt 5 thập kỉ qua,”[1] Vâng, bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đang đàn thay da đổi thịt, đang
là một nước chậm phát triển, nay vị thế Việt Nam được thế giới đánh giá cao
trên trường quốc tế, như ông Đại sứ Ngô Quang Xuân, đại sứ Việt Nam tại Liên
Hiệp Quốc nhận định: “Việt Nam đang ngày càng được đánh giá là một trong
những thành viên nòng cốt của tập thể cộng đồng các quốc gia ASEAN. Có thể nói, Việt
Trong
chiều hướng đó, câu hỏi được đặt ra la suy tư thần học tại Việt nam hôm nay đối
thoại như thế nào với những vấn đề nóng bỏng của xã hội? Nó
chi phối làm sao cho việc đào tạo giáo lý viên cũng như nó có tác động thế nào
đến việc huấn luyện những người dấn thân chuyên nghiệp cho huấn giáo?
1- Đâu là những vấn đề nóng bỏng của xã hội Việt
1.1 Việt Nam – Mảnh đất đa tôn giáo: đạo nào cũng tốt
Việt Nam là một đất
nước đa tôn giáo và tín ngưỡng, có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin
Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, và các tôn giáo khác bao gồm: Tịnh độ Cư sĩ
Phật hội Việt Nam, Cộng đồng Tôn giáo Baha’i Việt Nam, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, Minh Sư đạo, Minh Lý đạo, Bàlamôn ngoài ra, còn có khoảng 20 tổ
chức Cao đài độc lập, khoảng 40 nhóm, hệ phái Tin lành… Và có thể nói 95% dân
số gắn bó với đời sống tôn giáo hay tín ngưỡng. Hằng năm có khoảng 8.000 lễ hội
tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được tổ chức[5].
Một đất nước với niềm
tự hào 4000 năm văn hiến đã mở rộng tấm lòng hiếu khách sãn sàng đón nhận các
tôn giáo ở ngoài du nhập vào. Chính sự hiếu khách này đã trở thành mảnh đất mầu
mỡ để nhiều tín ngưỡng và tôn giáo đâm rễ sâu, và trở thành nền văn hóa truyền
thống của dân tộc chẳng hạn như đạo hiếu, và để thể hiện lòng hiếu đễ, người ta
phải tuân giữ một số nghi lễ bị chi phối bởi Nho giáo và Phật giáo, và các nghi
lễ đó được coi như là truyền thống văn hóa của dân tộc.[6] Ngoài ra, Phật giáo cũng đã để lại một ảnh hưởng rất lớn trong các
sinh hoạt mang tính nhân văn của dân Việt, việc cúng bái đã trở thành một nếp
văn hóa không thể thiếu trong đời sống: người ta cúng vái để cầu xin mưa thuận
gió hòa, cúng bái trong dịp đầu năm mới, động thổ khi chuẩn bi xây cất, khi sắp
xuất hành, dịp cưới hỏi, khi nhà có tang, khi mua xe mới, khi khai trương công
việc làm ăn, v.v…
Có thể nói được rằng,
người dân Việt rất nhạy cảm về các lãnh vực thuộc tâm linh, vì thế, họ sẵn sàng
biểu lộ niềm tin dưới mọi hình thức, miễn sao họ cảm thấy sẽ nhận được sự che
chở, phù trì của các vị thần linh mà họ tin tưởng với một tâm thức: có thờ có
thiêng, có kiêng có lành. Hiện tượng tâm linh ngày càng phát
triển mạnh, và ngày càng được nhiều người quan tâm cổ vũ qua các lễ hội.
Theo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ
hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn
giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là
lễ hội khác (chiếm 0,5%), và các lễ hội này bao giờ cũng hướng tới một đối
tượng thiêng liêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần[7]. Điều này chứng tỏ
rằng, phần đông người Việt vẫn không lấy khoa học là đối tượng của niềm tin, có
nghĩa là không cậy dựa vào khoa học để cắt nghĩa cho mọi chiều kích của cuộc
sống, và qua đó họ vẫn minh định rằng, con người vẫn là một hữu thể có nhiều
giới hạn, và vẫn phải cậy nhờ đến một vị thần linh ngoài thế giới hữu hình nầy
can thiệp vào cuộc sống của họ.
Với tâm thức này, niềm
tin vào một vị thần linh không hẳn là hướng tới một cuộc sống mai sau, nhưng là
ngay cuộc sống hiện tại, và do đó, niềm tin tôn giáo mang chiều kích cứu chuộc
cho một cuộc sống vĩnh hằng ở ngoài thế giới này ít được quan tâm hơn niềm tin
vào một tôn giáo cho họ một niềm hy vọng vào những thực tại trần thế như: sức
khỏe, thành đạt trong công ăn việc làm,một cuộc sống an bình, ấm no… Và do đó,
cứu cánh của niềm tin tôn giáo không quan trọng cho bằng “sự hữu dụng” của niềm
tin, vì thế, quan niệm “đạo nào cũng tốt” trở thành cách thế biểu tỏ sự kiên
vững niềm tin của mình.
1.2 Thái độ loại trừ niềm tin nơi các bạn trẻ
Bên
cạnh sự phát triển các nghi lễ biểu tỏ niềm tin vào các vị Thần linh, là thái
độ sống thực dụng của các bạn trẻ Việt
Từ
chủ nghĩa vị lợi, các bạn trẻ đương đại đã hình thành một trào lưu hưởng thụ
khoái lạc và coi đó là cứu cánh của cuộc sống. Với trào lưu này, các
bạn trẻ không còn quan tâm đến có Thiên Chúa hay không, điều quan trọng là làm
sao tôi tìm thấy được hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại của tôi, và vì thế
những nền tảng luân lý tôn giáo được coi là rào chắn ngăn cản tôi đi tìm hạnh
phúc cho tôi, cần phải phá bỏ.
Vơi
chủ trương như thế, các bạn trẻ dễ dàng rơi vào cơn lốc của một cuộc sống hưởng
thụ ích kỷ và thiếu trách nhiệm. Điều đó được bộc lộc qua các chủ trương liên
quan đến đời sống luân lý như việc nam nữ tự do sống thử trước hôn nhân, phá
thai, ly dị và kết hôn đồng tính, hôi chứng “không cho yêu thì giết”, sống buông thả, cụ thể như trong ngày lễ Valentine
14-2-2014 vừa qua, hầu như tất cả các khách sạn và nhà nghỉ đều không đủ phòng
để cho các đôi bạn trẻ thuê[9]. Trước lối sống đó, một tờ báo trong nước đưa ra nhận định:“Theo những nhà tâm lý quan tâm về giới trẻ thì các bạn trẻ
ngày nay thường coi trọng giá trị thể xác hơn là giá trị về tâm hồn. Chỉ cần
ngộ nhận đó là tình yêu, các bạn trẻ lao vào nhau như
những cơn lốc điên cuồng. Đây là lối sống thiếu đi sự tinh tế, không còn những
giá trị tâm hồn, cảm xúc trong sáng. Tất cả chỉ là mong tình dục sẽ thắp lửa
cho những tình yêu sau này”.[10]
2- Suy tư thần học trước bối cảnh này
Trước
tiên, dựa vào tư tưởng của Công Đồng Vat. trong hiến chế Lumen Gentium để suy
tư về một Giáo Hội hiệp thông. Chính trong chiều kích hiệp thông này suy tư
thần học dãn đưa chúng ta đến một cuộc gặp gỡ với mọi người trong những niềm
tin tôn giáo khác nhau, để từ đó chúng ta cùng nhau hướng về một chân lý cứu độ
duy nhất. Qua hiến chế Lumen gentium, có thể nhận ra ba yếu tố cảm nghiệm về
Giáo hội hiệp thông
a) Như là “Dân Chúa” lữ
hành, Giáo hội là một cộng đoàn hiệp thông trong tình huynh đệ với những khác,
những người “được Chúa thương”, cùng nắm tay nhau nhịp bước tiến về Nước Chúa
hứa. Thật vậy, trên đường lữ hành về nhà Cha, Giáo Hôi Việt
Sư gặp gỡ nầy được cụ
thể hóa qua những cuộc trao đổi không bằng những bài nói chuyện trau chuốt,
những diễn từ mang nặng tính kỹ thuật, nhưng bằng ngôn từ bình dị phát xuất từ
trái tim, thứ ngôn ngữ mà Đức Thánh Cha Phanxicô xử dụng khi ngài ngỏ lời tới
hàng trăm các tín hữu Tin Lành thuộc phái Ngũ Tuần qua vịGiám Mục của họ là
Tony Palmer, trong cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Phanxicô hôm 14/1/2-014: “Xin
lỗi anh chị em vì đôi khi tôi nói bằng tiếng Ý. Nhưng tôi nói chẳng bằng tiếng
Anh hay tiếng Ý, nhưng bằng tiếng nói con tim. Đó là thứ ngôn ngữ đơn giản và
chân thật hơn, và thứ ngôn ngữ này có từ vựng và văn phạm của nó. Một văn phạm
đơn giản với hai luật: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân
vì họ là anh chị em của chúng ta. Với hai luật ấy, chúng ta có thể tiến về phía
trước”[12]. Chính với thứ
ngôn ngữ nầy Đức Thánh Cha đã chỉ ra con đường gặp gỡ để cùng nhau đạt tới chân
lý: “Thánh Kinh đã đề cập đến gia đình của anh em Giuse khi nạn đói xảy ra họ
trẩy sang Ai cập để mua cái gì đó để ăn. Họ có tiền nhưng họ không ăn tiền được. Nhưng ở đó họ gặp được cái còn quý hơn thực
phẩm: đó là người anh em của mình. Tất cả chúng ta đều có tiền là văn hóa, là
lịch sử của chúng ta. Chúng ta giầu có về văn hóa, tôn giáo và chúng ta có
những truyền thống dị biệt. Nhưng chúng ta phải gặp gỡ người
khác như những anh chị em của mình. Chúng ta phải khóc
cùng nhau như Giuse đã từng khóc. Những giọt nước mắt
này hiệp nhất chúng ta. Những giọt lệ của yêu thương”[13].
b) Giáo hội cũng cảm
nghiệm rằng, trong mọi lãnh vực của cuộc sống, Giáo Hội cũng là công đoàn của những người tội lỗi. Thật vậy, các Kitô hữu cùng biểu lộ hình ảnh
Giáo hội trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của họ, họ trình bày chiều kích thiêng
liêng và nhân tính của Giáo hội, họ làm nên cơ cấu của Giáo Hội và cùng thực
thi bổn phận của Giáo hội. Dưới tác động của ân sủng
họ hoạt động một cách mạnh mẽ ngược lại với bản tính yếu đưối tội lỗi để mang
lại sự thánh thiện cho Giáo hội. Người Kitô hữu sẽ chỉ cho những người khác
nhận ra rằng, con người không chỉ hành động và sống theo bản năng của sinh vật
cấp thấp, nhưng con người là sinh vật có lý trí và ý chí, nhờ đó con người nhận
ra lý do và cứu cánh của sự hiện hữu mình, Vơi sự nhận thức này, con người sẽ
can đảm vượt qua sự yếu hèn để hướng tới sự toàn thiện. Chính khi ý thức về
thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, Giáo Hôi Việt Nam sẽ làm cho dân Việt cảm
nghiệm được về chính mình qua việc biểu tỏ một Giáo Hội Việt Nam khiêm nhu,
luôn sẵn sàng lắng nghe người khác nói về mình, cũng như chính mình tự kiểm
điểm việc thị hành sứ vụ của mình. Qua thái độ khiêm nhu Giáo Hội sẽ thể hiện
sự bao dung, và cảm thông hơn, sẽ bớt đi những kết án
và loai trừ. Chỉ có kẻ ý thức về sự hèn kém của mình mới cảm thông chó sự
yếu hèn của người khác.Chẳng hạn đối với vấn đề đồng tính, thay vì gay gắt lên
án, loại trừ, Đức Phanxicô cũng nhẹ nhàng trả lời khi được hỏi về vấn đề này:
“Nếu một người là người đồng tính và đang kiếm tìm Thiên Chúa và có thiện chí,
thì tôi là ai mà tự cho mình quyền phán xét người ấy?”[14] Câu trả lời dĩ nhiên không hủy bỏ Giáo huấn của Giáo Hội về người
đồng tính, nhưng hướng tới sự cảm thông, loại bỏ sự kỳ thị. Đức Phanxicô trong
Tong Huấn Evangelii gaudium đã khơi mở một suy tư thần học trong việc thể hiện
Hội Thánh như người mẹ đầy lòng khoan dung: “Hội Thánh được mời gọi để luôn
luôn là ngôi nhà mở cửa của Chúa Cha. Một dấu chỉ cụ thể của
việc mở cửa này là phải có tất cả các nhà thờ với cửa mở rộng. Để nếu
bất cứ ai muốn theo tác động của Chúa Thánh Thần mà
đến đó tìm Thiên Chúa, thì người ấy không gặp sự lạnh lùng của một cánh cửa
đóng kín. Nhưng có những cánh cửa khác cũng không được đóng
kín. Tất cả mọi người có thể tham gia vào đời sống Hội Thánh một cách
nào đó, tất cả mọi người có thể là một phần tử của cộng đồng, và ngay cả các
cửa của các Bí Tích cũng không được đóng lại vì bất cứ lý do nào. Điều này đặc biệt đúng đối với Bí Tích là “cánh cửa”, Bí Tích Rửa
Tội. Bí Tích Thánh Thể, mặc dù là sự viên mãn của đời sống bí tích,
nhưng không phải là một giải thưởng cho những người hoàn hảo, mà là thần dược
và lương thực cho những người yếu đuối. Những xác tín này cũng có ý nghĩa mục
vụ mà chúng ta được mời gọi cân nhắc cách thận trọng và mạnh dạn. Chúng ta
thường hành xử như những người ban phát ân sủng chứ
không như những người giúp người khác dễ dàng lãnh nhận ân sủng. Nhưng Hội
Thánh không phải là một hải quan, mà là ngôi nhà của Chúa Cha, ở đó có chỗ cho
tất cả mọi người, với tất cả những khó khăn trong cuộc sống của họ”[15]
c) Đặc biệt, Giáo hội
Việt
2- Suy tư thần học chi phối làm sao cho việc đào tạo giáo lý viên cũng như nó có tác
động thế nào đến việc huấn luyện những người dấn thân chuyên nghiệp cho huấn
giáo?
2.1 Suy tư thần học giúp các giảng viên giáo lý xác tín điều mình
dạy
Đối diện với bối cảnh
xã hội Việt Nam hôm nay, người giảng viên dạy giáo lý nhiều lúc cảm thấy băn
khoăn, không biết phải trình bày giáo lý như thế nào, khi mà não trạng của phần
đông người Việt đều cho rằng: đạo nào cũng tốt! Và thật không dễ dàng
chút nào khi truyền giảng về Đức Giêsu, Đấng mang ơn cứu độ duy nhất, khi mà
gần 2/3 dân chúng tin rằng, Đức Phật cũng là Đấng mang lại cho họ sự cứu sanh.
Có khi tự bản thân người giảng viên dạy giáo lý cũng đang rơi vào rơi vào lối
“giải nghi học” (casuistry), có nghĩa là, những kitô hữu vãn khẳng định mình có
đức tin, nhưng thực ra họ chỉ biết nội dung của đức tin mà thôi. Do đó, khi ta
gặp “một Kitô hữu lên tiếng hỏi ‘có được phép làm điều này hay không, hay liệu
Giáo Hội có làm điều này hay không’ thì có nghĩa ‘họ không có đức tin, hay đức
tin của họ quá yếu’”[17].
Suy tư thần học sẽ giúp
giảng viên dạy giáo lý minh định lại lập trường đức tin của mình, không chỉ là
nôi dung đức tin, nhưng còn phương cách truyền đạt đức tin, một đức tin không
đóng khung trong các công thức, nhưng sống động qua một hành trình cảm nghiệm
về một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Kitô. Trong tông huấnEvangelii Gaudium, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở: “Trên miệng của giáo lý viên phải luôn luôn
vang đi vọng lại lời loan báo ban đầu: ‘Đức Chúa Giêsu Kitô yêu thương chúng
ta, Người đã ban mạng sống của Người để cứu chúng ta, và giờ đây Người đang ở
bên chúng ta mỗi ngày, để soi sáng, củng cố và giải thoát chúng ta’.”[18] “Đây là lời loan báo đáp ứng khát vọng về sự vô cùng trong mỗi tâm
hồn con người”[19]. . Suy tư thần
học dẫn đưa giảng viên giáo lý vượt qua cái không gian chật hẹp của kiến thức
đức tin được gói gọn trong các định tín để bước vào một vùng trời hân hoan chan
chứa niềm hy vọng qua cuộc gặp gỡ với Đấng mà chúng ta tin. Cuộc gặp gở nầy
được Đức Phanxicô gọi là “ ‘con đường thẩm mỹ’
(via pulchritudinis). Loan báo Đức Kitô có nghĩa là tin vào Người và theo Người
không những chỉ như một điều gì thực tế và đúng, mà còn như một điều gì đẹp đẽ,
có khả năng đổ đầy đời sống bằng một sự huy hoàng mới và một niềm vui sâu thẳm,
ngay cả giữa những thử thách. Theo quan điểm này, tất cả các cách diễn tả về
thẩm mỹ thực sự có thể được công nhận là một con đường giúp người ta gặp gỡ
Chúa Giêsu. Điều này không có nghĩa là cổ võ cho một thuyết tương đối về thẩm
mỹ, là điều có thể che khuất mối dây liên kết bất khả phân ly giữa chân, thiện,
mỹ, nhưng để khôi phục lại lòng ngưỡng mộ vẻ đẹp để có thể chạm đến quả tim con
người và để sáng tỏa trong ấy chân lý và sự tốt lành của Đấng Phục Sinh. Như
Thánh Augustinô nói, nếu chúng ta chỉ có thể yêu những gì đẹp, thì Chúa Con làm
người, mặc khải của sự mỹ miều vô hạn, vô cùng đáng yêu, và Người lôi kéo chúng
ta về với mình bằng những liên hệ yêu thương. Do đó, điều cần thiết là việc đào
luyện trong via pulchritudinis phải được tháp nhập vào việc thông truyền đức
tin”[20].
2.2 Suy tư thần học như là động lực giúp giảng viên giáo lý biến
đổi chính mình để biến đỏi người khác.
Từ việc minh định rõ
thái độ đối với điều mình tin, giảng viên giáo lý tiến tới phương pháp chuyển
tải đức tin sao cho người nghe có thể đón nhận dễ dàng, là điều quan trọng
trong việc giảng dạy Giáo lý. Có thể noi, suy tư thần học đưa ra những chỉ dẫn
giúp giảng viên giáo lý không thu hẹp việc giảng dạy
vào những học thuyết, nhưng mở ra con đường tái khám phá giá trị đích thật của
cuộc sống. Trong cuộc sống thường ngày có biết bao là dấu chỉ được biểu lộ về
sự khao khát Thiên Chúa, về ý nghĩa tối hậu của cuộc đời, sự biểu lộ ấy còn đọc
thấy ngay cả trong thái độ tiêu cực.
Đối
thoại là cách thế đạt hiệu quả nhất trong việc thông truyền đức tin. Nhưng
đối thoại như thế nào để người giảng viên giáo lý không rơi vào hoặc là thái độ
tôn giáo quá khích, hoặc là chủ nghĩa tương đối hóa tôn giáo? Suy tư thần học sẽ là câu trả lời cho vấn nạn nầy. Chẳng
hạn, qua việc tư duy thần học, Giáo Hội sẽ đưa ra những tiêu chí của việc đối
thoại với các tôn giáo khác: “phải khôn ngoan tiếp xúc với người ngoài Kitô
giáo ‘trong Chúa Thánh thần, trong Đức ái không gỉa dối, trong lời chân thật’
(2 Cor 6, 6-7). Phải cố gắng tỏa ánh sáng sự sống với tất cả lòng tin tưởng
vững chắc, và lòng can đảm của người tông đồ, cho dù phải đổ máu” (DH 14). Vì
thê, khi đối thoại với các tôn giáo khác người
giảng viên giáo lý phải thấu hiểu vững chắc chân lý mà mình đã lãnh nhận,
và trung thành loan truyền chân lý đó. Phải loại khỏi tinh thần độc tôn tôn
giáo, bởi tinh thần đó chỉ đưa đến một thái độ qúa kích, coi thường các tôn
giáo bạn, thay vì đối thoại để hiểu nhau, tinh thần đó sẽ dẫn tới những cuộc
tranh luận gay gắt, đưa tới những hiềm khích, hiểu lầm và thú oán. Giáo
hội công giáo không còn được nhìn như là một Giáo hội độc tôn chiếm hữu chân lý, nhưng là một Giáo hội bao gồm, có nghĩa là Giáo hội công giáo được tiềm ẩn trong các tôn giáo
khác, bởi vì Giáo hội xem tất cả những gì là chân thiện nơi các tôn giáo khác
như là để chuẩn bị họ nhận lãnh Phúc âm (LG 16). Để có thể
thực hiện được các cuộc đối thoại như thế, giảng viên giáo lý cũng được đòi hỏi
phải có cảm nghiệm tôn giáo của mình một cách sâu xa.
Dựa trên nền tảng này,
giảng viên giáo lý được đòi hỏi phải thực hiện những giờ chiêm niệm đích thật,
những kinh nghiệm về các cuộc gặp gở thân mật với Chúa là ngôn ngữ thiết yếu để
đối thoại với anh chị em thuộc các tôn giáo bạn. Cảm nghiệm
tu đức đích thật đòi hỏi phải quên đi chính mình và quan tâm đến ngưới khác.
Linh đạo Kitô giáo là một câu đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, Đấng qua “Lời” đã đến với con người. Qua biến cố Nhập thể,
Đức Kitô đã thiết lập nền tảng sự hợp nhất giữa Thiên Chúa với con người. Vì
vậy linh đạo Kitô giáo của đối thoại chính là nhập thể, có nghĩa là giảng viên
giáo lý cố gắng biến đối cuộc sống của mình theo gương
của Đức Giêsu. Gương mẫu của họ sẽ dần dần biến đổi xã hội.
Điều đó chỉ có thể xảy ra khi người giáo dân kliên kết với
các thành phần tín hữu của các tôn giáo khác trong xã hội để đạt tới mục đích
là cùng nhau hành động cho chân lý.
Kết:
Hàng năm vào đêm vọng
Phục sinh, con số các Tân Tòng lãnh nhận Bí tích Rửa tội mang lại niềm hy vọng
và vui mừng lớn lao cho Giáo Hội Việt Nam nói riêng và Giáo Hội toàn cầu nói
chung. Nhưng trong niềm vui đó cũng gợi lên nhiều ưu tư,vì
nếu đi tìm nguyên nhân dẫn đưa những người tân tòng này gia nhập Giáo Hội Công
Giáo có lẽ chúng ta sẽ vơi đi sự hồ hởi, bởi phần nhiều là do kết hôn với người
Công Giáo, và cuộc trở lại có vẻ phần nào miễn cưởng. Nhưng điều đáng nói ở đây
là sau khi kết hôn đa phần là không giữ đức tin, như câu ca dao đã chua chát:
Lạy Đức Chúa Trời Ba Ngôi
Tôi lấy được vợ, tôi thôi Chúa Trời.
Tại
sao?
Có thể nói phần nhiều do giảng viên dạy giáo lý. Nói như thế
có cường điệu quá chăng? Nếu đi khảo sát các giảng viên dạy giáo lý cho
người dự tòng, một thực tế được ghi nhận là phần đông chỉ truyền dạy những tín
điều phải tin và những luật – Thiên luật cũng như Giáo luật – phải giữ, còn để
thông truyền một đức tin sống động cho những người dự tòng thì quả thật hiếm
quá. Người ta chỉ tiếp thu được những kiến thức đức tin qua những công thức khô
cứng, xa lạ với truyền thống văn hóa, và có vẻ dửng dưng với các vấn nạn của
thời đại, hầu như trong suốt thời gian “học giáo lý” người dự tòng không một
lần được hướng đẫn đến gặp gỡ được một Đức Kitô, đối tượng cúa đức tin, một Đức
Kitô nhập thể và nhập thế, nhập thể để cùng chia sể thân phận với con người,
nhập thế để đưa ra những lời giải đáp cho các vấn nạn của con người trong bất
cứ thời đại nào, vì Người là Lời yêu thương của Thiên Chúa được mạc khải cho
con người cho mọi nơi và mọi lúc.
Thiếu
sót này có thể là các giảng viên dạy giáo lý ít cơ hội tiếp xúc với các suy tư
thần học. Nhiệm vụ cúa các nhà Thần học là giúp huấn quyền đưa ra những giáo
huấn một mặt luôn trung thành với chân lý Mạc khải, đàng khác giáo huấn được
trình bày với não trạng, tâm thức của người thời đại. Vì thế, để việc giảng dạy
giáo lý có thể đạt hiệu quả theo như Giáo Hội mong muốn, giảng viên giáo lý cần
phải tiếp cận với các suy tư thần học, để nhờ đó, ho “luôn luôn tìm cách truyền
thụ chân lý của Tin Mừng cách hiệu quả hơn trong một bối cảnh cụ thể, mà không
từ bỏ chân lý, sự tốt lành và ánh sáng mà người ấy có thể mang lại, cho dù sự
hoàn hảo là điều không thể được. Một quả tim truyền
giáo ý thức được những hạn giới này và biến mình thành ‘người yếu đuối với
những kẻ yếu đuối [...], mọi sự cho mọi người, (1 Cor 9: 22). Họ không bao giờ
tự đóng lòng mình, không bao giờ rút lui về chỗ an
toàn của mình, không bao giờ chọn cách tự vệ cứng rắn. Họ ý thức rằng
mình phải lớn lên trong sự hiểu biết về Tin Mừng và trong sự phân biệt những
con đường của Chúa Thánh Thần, và như thế, họ luôn luôn làm những điều gì tốt
mình có thể làm, mặc dù có nguy cơ bị lấm bùn đường”.[21]
LM Antôn Hà văn Minh
TTMV
[1] Nguồn: http://tuoitre.vn/Pages/Printview.aspx?ArticleID=585320
[2] Thế mạnh của Việt
[3] Bản tuyên ngôn về việc rao giảng Tin Mừng của
FABC I, cuộc họp đầu tiên của các Giám mục Á châu, 1974.
[4]Giáo Hội Địa Phương:
Suy Tư Thần Học Trong Bối Cảnh Á Châu, trích từ các "Luận đề về Giáo Hội
Địa Phương" do Ủy Ban Cố Vấn Thần Học của Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) soạn thảo ra. Các Luận đề
này là thành quả của cuộc nghiên cứu và bàn thảo mà các thành viên
của Ủy Ban và các nhà thần học khác đã tiến hành suốt trong năm năm, và
cuối cùng đã được chấp thuận trong lần Ủy Ban họp tại Hồng Kông hồi
tháng tư năm 1990. Ngo Minh SJ chuyển ngữ. Nguồn:
http://catechesis.net/news/THAN-HOC-61/Giao-Hoi-Dia-Phuong-Suy-Tu-Than-Hoc-Trong-Boi-Canh-A-Chau-828/
[5] Tín ngưỡng và Tôn giáo tại Việt
[6] Lịch sử truyền giáo tại Việt Nam cũng đã ghi đậm lại kinh nghiệm
đau thương về các cuộc bách hại đãm máu, mà một trong những nguyên nhân đưa đến
cuộc bách hại đạo Công giáo, chính là việc các nhà thừa sai lên án các nghi lễ
thờ cúng ông bà tổ tiên, coi đó là mê tín và thờ ngẫu tượng, và ra lệnh cấm
những kitô hữu không được thắp nhang cúng bái trước bàn thờ tổ tiên, ông
bà, cũng như trước linh cữu người quá cố. Việc làm này
gây phẫn nộ trong xã hội Việt
[7]Lễ hội Việt
[8] Chủ nghĩa vị lơi (utilitarianism) coi sự vui sướng hay thỏa mãn ước
muốn như là sự thiện duy nhất của con người và coi luân lý tính của các hành
đọng hoàn toàn lệ thuộc vào các hậu quả hay kết quả cho sự hạnh phúc khả giác
của con người. X. Hành trình cùng triết học, do Ted Hondẻich chủ biên, Lưu văn
Hy biên dịch snag Việt ngữ, NXB Văn Hóa Thông Tin Hà Nội 2002, tr.1127.
[9]X.Quý Thông, Nhà nghỉ
'cháy' phòng đêm Valentine,
nguồn:http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/nha-nghi-chay-phong-dem-valentine-2187771.html
[10]Lễ tình nhân: “Cháy”
khách sạn, nhà nghỉ, trích trong báo An ninh Thủ đô,
nguồn: http://vtc.vn/kinh-te/le-tinh-nhan-chay-khach-san-nha-nghi-288223.html
[11]X. Giám mục W. Kempf,
Fuer euch und fuer alle. Fastenhirtenbrief 1981,
[12] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp gởi tới anh em Tin lành phái Ngũ tuần thông qua Giám mục phái ngũ tuần, Tony Palmer, ngày
14-1-2014, nguồn: http://vietcatholic.com/News/Html/121722.htm
[14]Đức Phanxicô, trả lời
phỏng vấn trên chuyến bay từ Ba Tây về lại Giáo Đô Rôma ngày 28/7/2013, nguồn
http://tailieuthanhmau.net/TL-01-ABC/D/DTC%20Phanxico%20bat%20ngo%20tra%20loi%20phong%20van%20tren%20chuyen%20bay.htm
[15] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 47.
[16]M. Kehl, Eschatologie,
Wuerzburg, 1988, 135 tt.
[17] Đức Phanxicô, Bài giảng tại nhà nguyện
[18] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 164.
[20] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, sô 167.
[21] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii gaudium, số 45.