(daminhvn.net) 08/09/2015
Kinh
thánh không phải chỉ nói đến Chúa từ bi lân tuất, mà còn nói đến Chúa giận dữ nữa.
Chúa có giận ai không?
Trong kinh nghiệm
hàng ngày, chúng ta thấy không có cảm tình gì với những người nóng giận. Khi ai
nổi cơn nóng giận thì không còn làm chủ được các cảm xúc của mình, như tục ngữ
đã nói: “No mất ngon giận mất khôn”, và rồi từ đó sẽ có những phản ứng dữ tợn.
Ngược lại, người đức độ thì điềm đạm bình tĩnh, không thay đổi sắc mặt, dù cho
tình thế bi đát thế nào chăng nữa. Tuy vậy cũng nên ghi nhận là cũng có người lại
nghĩ khác. Họ cho rằng sự nóng giận biểu lộ oai phong của họ. Vì thế để chứng tỏ
quyền hành, họ đập bàn đập ghế, la lối nạt nộ, để cho thiên hạ sợ vía của họ. Sự
nóng giận của họ là một phương thế thị uy.
Như vậy Chúa cũng giận ta để thị uy, có phải vậy không?
Chúng ta thấy rằng
Kinh thánh có nhiều lần nói đến việc Chúa nóng giận, nhưng không phải vì không
kiềm chế được cảm xúc hoặc vì muốn thị võ dương oai. Cơn giận được coi như sự
phát biểu của công bằng, nhưng dần dần được hướng về chỗ yêu thương. Nói cách
khác, chúng ta thấy có sự tiến triển trong quan điểm của mạc khải về cơn giận của
Chúa.
Thế nào là giận theo công bằng?
Chúng ta đừng
nên quên rằng các tác giả của Kinh thánh là những con người chịu ảnh hưởng của
những nền văn hóa cụ thể. Họ diễn tả Thiên Chúa dựa theo những hình ảnh tư tưởng
văn chương của thời đại. Và một điểm chung giữa văn chương của Kinh thánh với
nhiều tôn giáo cổ thời là họ hình dung các thiên tai như là cơn giận dữ của ông
Trời khi thấy con người vi phạm luật lệ luân lý. Thí dụ sấm sét được hình dung
như thiên lôi, tiếng nói của trời quở trách trừng phạt con người tội lỗi. Trong
bối cảnh ấy, chúng ta đọc thấy trong Cựu ước nhiều trang mô tả những thiên tai
(từ hạn hán lụt lội, dịch tễ, và nhất là chết chóc) như biểu lộ của cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa giáng xuống cá nhân hay một tập thể nào đã lỗi luật. Chúng ta có
thể trưng dẫn một đoạn văn điển hình sau đây, trích từ Isaia (30,27-33): “cơn
giận của Chúa cháy bừng như lửa, nộ khí của Ngài đè nặng sinh linh, môi Ngài
trào phẫn nộ, lưỡi Ngài như lửa thiêu.. Chúa sẽ cho nghe tiếng oai nghiêm của
Ngài, và cho thấy cánh tay Ngài đè nặng trong cơn thịnh nộ, trong ngọn lửa
thiêu, trong sấm chớp bão bùng, trong mưa rào mưa đá”. Những đoạn văn tương tự
có thể đọc thấy nhiều lần trong các sách Cựu ước, và dĩ nhiên là không thể nào
hiểu theo nghĩa đen được. Lý do là vì không có ai trông thấy nét mặt bừng bừng
của Chúa, môi miệng qúat tháo của Ngài. Tác giả chỉ hiểu theo nghĩa bóng là các
tai ương được ví như hình phạt mà Chúa giáng xuống trên người tội lỗi, dù đó là
cá nhân hay một tập thể.
Còn thế nào là giận theo tình yêu?
Như đã nói, văn
chương bình dân của nhiều dân tộc đã hình dung các thiên tai như là hình phạt
mà Trời giáng xuống khi con người bất tuân lệnh của Ngài. Nhưng dần dần các tác
giả Kinh thánh đi xa hơn lối hình dung ấy. Một đàng họ muốn cho thấy rằng Chúa
không có nổi giận kiểu như con người đâu, nghĩa là Thiên Chúa không lên cơn thịnh
nộ bởi vì bị chúng ta khiêu khích khi chúng ta bất tuân lệnh của Ngài! Điều này
chỉ xảy ra đối với con người mà thôi, khi mà họ không kiềm chế được cảm xúc của
mình. Đàng khác, các ngôn sứ muốn nêu bật rằng Chúa không giận chỉ vì thấy luật
lệ không được tôn trọng, và cần phải trừng trị kẻ vị pham luật pháp, nhưng cơn
giận của Ngài đượm thắm tình thương. Sự khác biệt giữa giận theo công bằng và
giận theo tình yêu nằm ở chỗ tìm hiểu ý nghĩa của hình phạt mà cơn giận biểu lộ.
Hình phạt theo công bằng nhằm lập lại trật tự đã bị xáo trộn. Đây là ý nghĩa của
các chế độ trừng phạt trong xã hội loài người. Còn hình phạt theo tình yêu thì
nhằm cải hoán tội nhân, muốn cho họ sửa đổi cải thiện. Các ngôn sứ Cựu ước đã
phát triển tư tưởng này. Thiên Chúa phạt dân Israel không phải vì muốn trút cơn
lôi đình cho hả giận, nhưng bởi vì Ngài quá yêu họ. Ngài đã ký kết một giao ước
với Israel. Khi Israel không tôn trọng giao ước thì Ngài giận không phải giống
như tâm trạng của một kẻ bị phản bội tình yêu, nhưng nhất là vì thấy Israel
đang lao đầu vào chỗ chết. Các ngôn sứ giải thích hình phạt như là tiếng cảnh tỉnh
nhằm giúp cho Israel biết trở về con đường sống. Chúa phạt Israel không phải chỉ
giận dữ nó nhưng mà vì quá yêu nó, mong cho nó trở về đường ngay nẻo chính. Có
thể ví cách nôm na với câu tục ngữ “thương con cho roi cho vọt”.
Đó là quan điểm của các ngôn sứ Cựu ước. Tân ước có thêm điểm gì
mới hay không?
Có chứ. Một điểm
quan trọng của Tân ước là Thiên Chúa đã biểu lộ khuôn mặt của Ngài nơi đức
Giêsu. Phúc âm có lần ghi lại cảnh giận của đức Giêsu. Thực vậy, đức Giêsu
không phải là một nhà quân tử mặt lạnh như tiền, không có phản ứng, không có cảm
xúc. Chúng ta đã chứng kiến cảnh Ngài khóc trước mồ của ông bạn Ladarô. Chúng
ta đã chứng kiến cảnh Ngài khóc khi thấy trước cảnh tàn phá Giêrusalem. Một
cách tương tự như vậy, Ngài đã quở mắng ma quỷ, xua đuổi chúng ra khỏi thế giới.
Ngài đã giận khi thấy luật của Thiên Chúa bị vi phạm, chẳng hạn như khi thấy đền
thờ trở thành nơi buôn bán họp chợ thì Ngài đã lấy dây thừng làm roi xua đuổi lật
đổ các gian hàng. Tuy nhiên, phản ứng của Ngài không phải do tính bồng bột thúc
đẩy, nhưng Ngài làm chủ được tình hình và đã giải thích được lý do hành động của
mình. Dù sao, một điểm mới của sứ mạng của Đức Giêsu ở chỗ Ngài đặt tình thương
của Thiên Chúa làm trọng tâm của các bài giảng. Chúng ta chỉ cần so sánh bài giảng
của Ngài với bài giảng của ông Gioan Tẩy giả thì đủ rõ. Ông Gioan loan báo rằng
thời Đấng Mêsia sẽ là thời của lửa thiêu đốt dành cho những kẻ tội lỗi. Nhưng đức
Giêsu khi đến gần các người tội lỗi (chẳng hạn như các người thu thuế chuyên
bóc lột dân lành, các cô gái mãi dâm) để mang tình thương của Thiên Chúa cho họ.
Ngài bộc lộ tâm tình của Thiên Chúa, Đấng vui sướng vì thấy người con lạc đường
trở về, chứ không phải là Đấng hả giận vì đã trừng phạt kẻ tội lỗi.
Nhưng mà Chúa Giêsu vẫn cảnh cáo những kẻ không hối cải là họ sẽ
bị trừng phạt đời đời đấy chứ?
Chúng ta nên
phân biệt sự tiến triển của các giai đoạn mặc khải. Như đã nói trên đây, quan
niệm bình dân cho rằng nếu mà chúng ta lỗi luật ông Trời thì ông Trời sẽ nổi giận
phạt liền. Các ngôn sứ tiến lên một cấp để cho thấy Thiên Chúa không phạt con
người cho hả giận, nhưng vì yêu thương con người và muốn cho nó sửa mình. Hình
phạt mang tính cách giáo hóa hơn là trừng trị. Đức Giêsu tiến thêm một cấp nữa,
khi nhấn mạnh rằng Thiên Chúa là người cha muốn cho con mình trở về nhà chứ
không phải là một thẩm phán thích xét xử các tội tình. Nhưng sứ điệp của Đức
Giêsu không phải chỉ có thế. Điều mới mẻ của công trình của Đức Giêsu được đào
sâu hơn ở nơi Phúc âm thánh Gioan và các thư thánh Phaolô. Cho đến nay dù cho
hình phạt được trình bày dưới khía cạnh công bằng hay dưới khía cạnh tình
thương, thì trọng tâm vẫn nhắm khuyến khích con người hãy cố gắng trung thành với
luật của Chúa. Thánh Gioan và thánh Phaolô tiến thêm một bước nữa khi nói rằng
trong tiến trình của con người trở về với Thiên Chúa, đức Giêsu đã tình nguyện
đồng hành với con người. Đức Kitô biểu lộ tình thương của Thiên Chúa dành cho
con người. Đồng thời đức Kitô cũng đồng hóa với con người để đáp lại tình
thương của Thiên Chúa. Theo thánh Gioan, Đức Kitô được ví như chiên hiến tế đền
tội thay cho con người. Còn nơi thánh Phaolô, thì đức Kitô xuất hiện như là Đấng
đến để cất đi sự nghĩa nộ của Thiên Chúa mà con người đã gây ra do tội lỗi. Tư
tưởng này được trình bày đặc biệt ở trong lá thư gửi giáo đoàn Rôma (chương 1,
câu18; chương 3 câu 21-26).
Như vậy, nếu ai nói rằng Chúa thịnh nộ trừng phạt con người là
nói bậy, có phải không?
Không phải là
nói bậy, nhưng cần phải dè dặt hơn. Một đàng, chúng ta cần phải vượt lên vài
quan điểm sai lầm về sự giải thích các hiện tượng thiên nhiên. Trước đây, các
thiên tai (hạn hán, lũ lụt, mất mùa, dịch tễ) đều được giải thích như là ông Trời
trút cơn lôi đình xuống trần gian để phạt con người. Ngày nay, chúng ta không
nên gắn liền các tai ương với tội lỗi cách đơn giản như vậy được nữa. Nguyên
nhân của chúng rất là phức tạp. Chúng ta không thể nào giải thích cơn lụt lội
hàng năm tại Bangladesh như là hình phạt trời giáng cho đám dân này; lý do là
vì không chắc gì họ đã phạm nhiều tội hơn là dân Hoa kỳ. Đàng khác, tuy rằng
Thiên Chúa từ bi nhân hậu nhưng không vì thế mà không còn hình phạt. Thiên Chúa
không ưa thích sự trừng phạt con người. Ngài cũng chẳng muốn trừng phạt con người
cho hả giận hay để thị uy. Hình phạt là hậu quả do chính con người tự chọn cho
mình mà thôi. Chẳng hạn như nếu tôi cầm dao chặt tay tôi thì tay tôi bị cụt
không phải tại vì Trời phạt mà là vì do tôi gây ra. Thiên Chúa sẽ không đày ải
người nào xuống hỏa ngục hết, và Ngài cũng chẳng hả hê gì khi thấy con người bị
trừng phạt đời đời. Hình phạt hỏa ngục là do chính con người tự ý chọn lựa, khi
mà nó cương quyết khước từ Thiên Chúa, không muốn đón nhận tình yêu của Ngài,
không muốn đội trời chung với Ngài. Một khi con người khước từ với Thiên Chúa
thì cũng đương nhiên khước từ chia sẻ hạnh phúc với Ngài. Và con người sẽ lãnh
nhận những hậu quả của sự lựa chọn ngông cuồng của mình, chứ Chúa chẳng cần phải
nổi cơn thịnh nộ trừng phạt con người. Phúc âm thánh Gioan đã nói rất rõ ở
chương 3, câu 17-21 và ở chương 12 câu 47-48, đó là: Thiên Chúa sẽ không xét xử
lên án ai hết; chính chúng ta tự xét xử lên án mình, bằng chính quyết định đón
nhận hay khước từ Ngài mà thôi.
(Giuse Phan Tấn
Thành, OP.)