Dẫn Nhập Vắn Tắt Thần Học Thánh Thomas d’Aquin
(catechesis.net)
Tác giả: Herbert McCabe, O.P.
Chuyển ngữ: Lm. Giuse Nguyễn Tất Trung,
O.P.
I. VỀ MẠC KHẢI
Một người bạn của tôi kể rằng có lần, trong tiệm cao lâu,
anh thoáng nghe được một người hầu bàn nói với một người hầu bàn khác rằng: “Ông ta đang bị ăn”. Khi bạn nghe lõm
bõm được mỗi một câu trong cuộc đàm thoại như thế, ắt bạn sẽ bối rối vì không
biết bối cảnh của câu nói đó là gì. Những gì tôi trình bày tiếp theo đây cũng
có phần giông giống như thế. Chúng ta đang nghe những câu được câu chăng của
cuộc nói chuyện, và tôi sẽ cố đưa nó vào trong một văn mạch cho có thứ tự đầu
đuôi.
Hãy tưởng tượng bạn
đang đi qua một cái cửa sổ mở của một phòng học trong Đại Học Paris vào một mùa
thu thế kỷ thứ mười ba. Phòng chật ních những con người trẻ tuổi. Họ là giáo sư
hoặc là những người giảng thuyết (hoặc là
cả hai), và vị đang thuyết giảng của họ là một tu sĩ Đaminh tên là
Thomas d’Aquin, đang khởi sự loạt các bài giảng bằng cách kể cho họ nghe rằng
nếu họ đang dạy hay đang giảng thuyết thì chính bản thân họ trước hết phải được
Thiên Chúa dạy đã.
Thiên Chúa đã nhằm cho chúng ta đi tới một mục đích vượt
quá tầm nắm bắt của lý trí – không có con mắt nào đã nhìn thấy điều Ngài đã
chuẩn bị cho những người yêu mến Ngài – và vì chúng ta phải đặt chính bản thân
chúng ta vào mục đích này và theo đuổi, nên chúng ta cần học biết về nó trước
đã. Chúng ta còn cần giáo huấn đã được mặc khải trong những điều lý trí có thể
học biết về Thiên Chúa. Nếu những chân lý như thế đã được để lại cho chúng ta
để chúng ta khám phá, chúng ta sẽ phải được học từng chút một suốt những giai
đoạn dài và sẽ pha lẫn với nhiều sai lầm; nhưng toàn thể hạnh phúc của chúng ta
được tập trung vào Thiên Chúa và phụ thuộc vào việc biết những chân lý ấy. Cho
nên, nhằm để cho càng nhiều người trong chúng ta có thể đạt tới Người an toàn
hơn, chúng ta cần học biết những điều chính Thiên Chúa đã mặc khải.[1]
Vị Thánh quê thành Aquin bàn về thần học như là một vấn đề
thực hành. Thánh Nhân không chủ tâm trình bày đầu đuôi những lý thuyết về các
thiên thần và về những điểm then chốt. Vấn đề người quan tâm là hạnh phúc của
con người. Đằng sau những gì Thánh Nhân nói là hình ảnh của một đoàn người đang
tiến đến một nơi chốn: chúng ta có một “mục
đích”, và nhiệm mầu hơn nữa, một mục đích “vượt quá tầm nắm bắt của lý trí”.
Thánh Nhân cho rằng hạnh phúc của con người là một thứ hành trình, nhưng là một
cuộc hành trình đi vào trong điều chúng ta không biết, hướng tới một điểm đến
chúng ta chỉ nhận thức lờ mờ nhờ đức tin. Viết đến đây, tôi lại liên tưởng đến
một câu chuyện dân gian thời Trung cổ kể về một chàng thanh niên đi tìm vận
may. Tôi hay nghĩ rằng chàng đi tìm một vận may, tức là một kho tàng đầy tiền
vàng, nhưng không phải như thế, anh chàng đi tìm fortuna, tức hạnh phúc của
anh.
Đối với vị Thánh quê thành Aquin, mục đích một phần nào
đang ở với chúng ta trong chính cuộc hành trình này rồi. Theo Thánh Nhân, thế
giới này là tốt đẹp – nhưng không tốt đủ. Theo Thánh Nhân, không có sự dữ trong
công trình sáng tạo vật chất này. Mọi cái đang hiện hữu đều là tốt. Mỗi hiện
hữu đều có Thiên Chúa ở trong mình để gìn giữ mình trong hiện hữu. Chỉ có những
điều tốt này to lớn hơn những điều tốt kia thôi. Sự dữ đi vào khi chúng ta lơ
là một điều tốt nào đó để tìm đạt được một điều tốt không đáng kể: chẳng hạn
khi chúng ta tế lễ, nghĩa là chỉ sống và yêu thương để làm sao cho mình được
giàu có. Theo vị Thánh thành Aquin, sự dữ là một điều thuần túy thuộc tinh
thần. Nó thuộc về thế giới của các suy nghĩ, những kế sách và quyết định – và
ngay cả ở đó nó cũng không phải là một điều tích cực nhưng là một thất bại, một
sự thiếu thốn, một thất bại vì không ước muốn điều tốt đầy đủ. Tuy nhiên, thế
giới vật chất là vô tư vô tội, và còn hơn cả vô tư vô tội, thế giới vật chất
chính là sự biểu lộ lấp lánh tình yêu của Thiên Chúa.
II. VỀ SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA
Thánh Thomas d’Aquin cho rằng các nhà thần học không biết
họ đang nói về cái gì. Họ đang cố gắng nói về Thiên Chúa, nhưng Thánh Nhân cứ
khăng khăng cho rằng họ không làm như thế, và không thể biết Thiên Chúa là gì.
Tôi giả thiết Thánh Nhân là nhà thần học hạng nhất thuộc phải vô tri của truyền
thống Kitô giáo Tây phương – không phải là thứ vô tri hiểu theo nghĩa nghi ngờ
không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay không, nhưng vô tri hiểu theo nghĩa là
xác nhận cách hoàn toàn rõ ràng và chắc chắn rằng Thiên Chúa là mộtmầu nhiệm
vượt quá bất kỳ sự hiểu biết nào chúng ta có thể đang có.
Thánh Nhân đoan chắc rằng Thiên Chúa hiện hữu bởi vì Thánh
Nhân nghĩ rằng phải có một câu trả lời cho vấn nạn sâu xa nhất và quay quắt
nhất: “Tại sao lại có mọi sự thay
vì không có gì cả?”. Nhưng Thánh Nhân cũng đoan chắc rằng chúng ta
không biết câu trả lời là thế nào. Bảo Thiên Chúa là Đấng đã làm ra toàn thể vũ
trụ, và liên tục giữ cho chúng hiện hữu từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc kia (như ca sĩ giữ cho bài hát được hiện hữu từ khoảnh
khắc này sang khoảnh khắc kia vậy), không phải là giải thích vũ trụ
đã đi đến hiện hữu như thế nào. Vì khi chúng ta nói “Thiên Chúa” thì chúng ta không biết nghĩa là gì.
Chúng ta dùng từ này chỉ như là một nhãn hiệu có tính cách ước lệ để chỉ một
điều gì chúng ta không hiểu được thôi. Đối với vị Thánh quê thành Aquin, chỉ có
Thiên Chúa hiểu Thiên Chúa là gì. Thánh Nhân cho rằng trong Kinh Thánh, Thiên
Chúa đã hứa với chúng ta là một ngày kia Người sẽ cho chúng ta chia sẻ sự
hiểu-biết-của-Thiên-Chúa-về-chính-mình, nhưng nay thì chưa. Cho tới ngày ấy,
cho dẫu Thiên Chúa đã bắt đầu mặc khải chính Người trong Lời của Người đã trở
thành xác phảm, chúng ta có được sự hiểu-biết-của-Thiên-Chúa-về-chính-mình
không phải bằng cách hiểu biết, nhưng chỉ bằng đức tin. Đức tin là một sự soi
sáng xuất hiện cũng tương tự như bóng tối: chúng ta đi tới chỗ biết rằng chúng
ta không biết.
Vị Thánh quê thành Aquin nghĩ rằng chúng ta biết về Thiên
Chúa chỉ bằng cách cố gắng hiểu những điều Người đã làm và vẫn đang làm cho
chúng ta – các công trình kỳ diệu trong công trình sáng tạo của Người, các công
trình kỳ diệu hơn nữa trong công trình cứu chuộc của Người, tình yêu của chính
Thiên Chúa đối với các thọ tạo đã từng khước từ Người vì phạm tội – toàn thể
câu chuyện mà Người kể cho chúng ta trong Kinh Thánh. Nhưng không có công trình
nào trong những công trình trên tương ứng để bày tỏ cho chúng ta chính bản thân
Thiên Chúa – không hơn chuyện bạn có thể đi tới chỗ hiểu tâm trí của
Shakespeare hoặc Beethoven nhờ nghe lời các ông mời bạn đến ngồi chung một
chiếu với các ông:
“Sự hiểu biết theo bản tính của chúng ta khởi đi từ nhận
thức của giác quan và chỉ đạt tới tùy theo các sự vật đã được quan niệm như thế
có thể dẫn dắt chúng ta, là điều không xa đủ để thấy chính Thiên Chúa. Đối với
các vật chúng ta cảm nhận, dù là các hiệu quả của Thiên Chúa, không phải là
những hiệu quả diễn tả đầy đủ quyền năng của Người, chúng có thể dẫn chúng ta
đến chỗ biết rằng Người đang hiện hữu, và bộc lộ cho chúng ta điều gì là sự
thật về Người, xét như là nguyên nhân đầu tiên của muôn vật như thế, hoàn toàn
vượt hẳn tất cả các vật ấy... Mặc khải đầy tình thương của Thiên Chúa... củng
cố ánh sáng theo bản tính của trí khôn chúng ta... Cho dẫu trong cuộc đời này,
mặc khải không thể tỏ bày cho chúng ta biết Thiên Chúa là thế nào trong chính
Người, nhưng nối kết chúng ta với Người như là Đấng không thể hiểu được, tuy
nhiên giúp chúng ta biết Người tốt hơn, tỏ bày cho chúng ta những công trình
của Người nhiều hơn và lớn lao hơn”.[2]
Đối với thánh Thomas d’Aquin, câu trả lời đặc trưng và hợp
lý về Thiên Chúa không phải là một phân tích chính xác nhưng là cầu nguyện.
Những người nghĩ mình không tín ngưỡng thường có lý mà nói rằng họ muốn cầu
nguyện nhưng không biết cầu nguyện với ai và cầu xin điều gì. Vị Thánh quê
thành Aquin có lẽ sẽ không bảo những người như thế rằng: “Này nhá, nếu bạn trở thành một người tin, một Kitô
hữu, thì mọi sự sẽ có thể thay đổi. Bạn có thể đi tới chỗ hiểu Đấng bạn đang
cầu nguyện”. Không hề! Có lẽ Thánh Nhân sẽ nói với những người như
thế rằng: “Nếu bạn
trở thành một Kitô hữu, bạn có thể thôi không ngạc nhiên hoặc xấu hổ vì hoàn
cảnh của bạn nữa. Bạn sẽ hạnh phúc với điều đó. Vì đức tin có thể bảo đảm với
bạn rằng bạn không thể biết Thiên Chúa là gì cho tới khi Người mặc khải chính
Người cho chúng ta một cách công khai minh bạch”. Đối với một Kitô
hữu, cầu nguyện mà không biết, hoặc chờ đợi để biết, Đấng mà bạn đang cầu
nguyện là con đường bình thường và thuộc về bản tính. Vì hiện giờ, vấn đề quan
trọng không phải là tri thức; vấn đề quan trọng là đức tin và lòng tin tưởng
phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và lòng can đảm để chia
sẻ và chuyển thông tình yêu ấy cho những người khác – cho tới lúc lời hứa của
Thiên Chúa được hoàn thành. “Vì hiện
giờ chúng ta nhìn trong một tấm gương, mờ mờ, nhưng bấy giờ chúng ta sẽ nhìn
diện đối diện. Hiện giờ tôi chỉ biết một phần nào; nhưng bấy giờ tôi sẽ biết
đầy đủ, thậm chí như tôi được biết đầy đủ vậy” (1Cr 13,12).
III. VỀ THIÊN CHÚA TỰ HỮU
Theo thánh Thomas d’Aquin, nếu Thiên Chúa là căn nguyên
của muôn vật muôn loài đang hiện hữu, thì chúng ta ít nhất có thể tin chắc rằng
không gì có thể là căn nguyên của Thiên Chúa được. Điều này, vị Thánh thành
Aquin nói, tạo nên một sự dị biệt triệt để giữa cách thế chúng ta yêu mến và
cách thế Thiên Chúa yêu mến. Vì lòng yêu mến của chúng ta được khơi lên bởi sự
tốt lành của Thiên Chúa và sự lôi cuốn của những gì chúng ta yêu mến, nhưng
điều ấy không thể là trường hợp đúng với Thiên Chúa được. Người không yêu
thương vật này vật kia hoặc con người bởi vì chúng tốt lành; trái lại, chúng
tốt lành và lôi cuốn bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng. Tình yêu của Thiên
Chúa có tính cách sáng tạo, tình yêu ấy làm nảy sinh sự tốt lành của những gì
Người yêu thương. Khi, như được nói trong phần đầu của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa nhìn mọi vật Người đã làm ra, và quả
thật, chúng rất đẹp” (St 1,31), Thiên Chúa đã không khám phá ra vẻ
đẹp của chúng. Người không bị choáng ngợp do kinh ngạc vì vẻ đẹp của chúng. Sự
tốt lành và vẻ đẹp của chúng là những gì Người làm ra, là công trình của tình
yêu của Người. Đối với vị Thánh quê thành Aquin, toàn thể vũ trụ, từ một hạt
mưa cho tới những giải thiên hà xa xăm nhất, đều đang hiện hữu vì mỗi khoảnh
khắc chúng đều được Thiên Chúa biết tới và yêu thương. Lý do tại sao Thiên Chúa
không yêu mến tội và sự dữ đơn giản là vì “tội” và “sự dữ” không phải là tên của các sự vật.
Chúng là những khiếm khuyết, đổ vỡ, không hiện hữu như nơi các vật tốt lành.
Nếu như tôi có tội, đó là vì tôi thất bại không sống được điều mà nhân tính của
tôi đòi hỏi tôi. Tôi thất bại không sống công minh, nhân ái, tử tế hoặc mến
yêu. Tôi thất bại vì không có cái tình yêu mạnh mẽ, nồng nàn đối với công trình
sáng tạo của Thiên Chúa và chính Thiên Chúa là Đấng làm cho tôi thành một sinh
linh con người được phát triển sung mãn. Vậy nên Thiên Chúa không hề làm ra tội
và sự dữ còn hơn là Người làm ra con voi hiện đang không ở trong vườn của tôi.
Người làm ra muôn vật muôn loài đang hiện hữu, và làm ra do lòng yêu mến của
Người:
“Mỗi vật đang hiện hữu, xét nguyên nó, là tốt lành, và có
Thiên Chúa là căn nguyên của nó. Vậy rõ là Thiên Chúa yêu thương muôn vật, muốn
cho chúng chính điều tốt lành chúng đang sở hữu; không giống như chúng ta. Tình
yêu của chúng ta không tạo ra sự tốt lành của sự vật; đúng hơn sự tốt lành, có
thật hoặc do tưởng tượng, của sự vật khơi lên lòng yêu mến của chúng ta. Nhưng
tình yêu của Thiên Chúa khơi lên và sáng tạo ra sự tốt lành nơi các sự vật...
Thiên Chúa yêu thương các tội nhân như là những sinh linh Người đã sáng tạo,
nhưng Người ghét việc phạm tội của họ, là một cách thế của cái không hiện hữu
và không phải là cách hành động của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương mọi vật
với cùng một hành vi của ý chí thuần túy đồng nhất; nhưng cũng như chúng ta yêu
mến con người này nhiều hơn, chúng ta muốn cho họ điều tốt lành lớn hơn, thậm
chí chúng ta muốn nhưng không mãnh liệt nhiều hơn, thì đối với Thiên Chúa cũng
thế. Thiên Chúa tạo nên sự tốt lành nơi các sự vật, và sự vật này sẽ không tốt
hơn sự vật khác trừ phi Thiên Chúa yêu thương nó nhiều hơn”.[3]
Như vậy, tình yêu của Thiên Chúa ở chính giữa mỗi vật mỗi
loài đang hiện hữu, là thực tại sâu xa nhất trong mỗi vật mỗi loài đang hiện
hữu. Tuy nhiên, điểm loại biệt liên quan đến các sinh linh con người mà thú vật
khác không được chia sẻ, là chúng ta có thể tập trung vào chính bản thân chúng
ta, vào trung tâm của hiện hữu chúng ta, bởi tri thức và lòng yêu mến. Dĩ
nhiên, các thú vật khác cũng có thể biết và yêu mến, nhưng không theo cái cảm
thức sâu xa nhờ đó chúng ta có thể làm như thế do bởi khả năng của chúng ta để
biểu tượng hóa hoặc trình bày thế giới chúng ta bằng ngôn ngữ. Bởi vì chúng ta
có khả năng này để hiểu biết và yêu mến, cho nên Thiên Chúa có thể cho chúng ta
khả năng để đáp lại lòng yêu thương của Người ở ngay chính giữa hiện hữu của
chúng ta. Thiên Chúa củng cố khả năng hiểu biết của chúng ta bởi quà tặng là
đức tin và củng cố khả năng yêu mến của chúng ta bởi quà tặng là đức mến, để
chúng ta có thể chia sẻ sự hiểu-biết-của-Thiên-Chúa-về-chính-mình của Người và
lòng yêu thương của Người. Đúng là sự chia sẻ của chúng ta vào sự hiểu-biết-của-Thiên-Chúa-về-chính-mình
không làm cho Thiên Chúa thành rõ rệt đối với chúng ta – đó là một cái gì chúng
ta được hứa cho tương lai. Còn đối với hiện tại, đức tin lại giống như một sự
tối tăm hơn. Nhưng chúng ta bước đi cách tin tưởng trong sự tối tăm này, bởi vì
chúng ta đã học để biết không đặt niềm tín thác của chúng ta vào những ánh sáng
chỉ có cái mã bề ngoài và lừa dối là những cái cắt xén chân lý của Thiên Chúa.
Đức tin chỉ là khởi đầu của việc chúng ta chia sẻ sự hiểu
biết-của-Thiên-Chúa-về-chính-mình, trong Lời của Thiên Chúa, và, như thánh
Phaolô bảo chúng ta, đức tin sẽ qua đi khi nó được biến đổi thành sự ngắm nhìn
Thiên Chúa (1Cr
13,8-12). Nhưng sự chia sẻ của chúng ta vào lòng yêu thương của
Thiên Chúa, trong tình yêu thương có tính cách sáng tạo nhờ đó Người làm nên
muôn vật muôn loài, tức là đức mến của chúng ta, thì sẽ không qua đi. Sức mạnh
để yêu thương như Thiên Chúa yêu thương, sức mạnh để chia sẻ vào sự sáng tạo
của Người là sự sống chúng ta sẽ chia sẻ cho đến vĩnh cửu.
IV. VỀ THIÊN CHÚA LÀ CĂN NGUYÊN VẠN VẬT
Thánh Thomas d’Aquin nghĩ rằng, Thiên Chúa đã sáng tạo một
thế giới với trật tự riêng của nó, với những nguyên nhân theo bản tính riêng
của chúng ở trong thế giới ấy. Cho nên chúng ta có thể giải thích tính năng đặc
nét của mỗi loại sự vật bằng cách qui chiếu với tính năng của một loại sự vật
khác cũng bên trong công trình sáng tạo này. Các kim nam châm chỉ về hướng Bắc
bởi vì từ trường của trái đất, và trong vòng quay của nó, một từ trường được
tạo nên bởi tính năng của các hạ phân tử hạt.
Dĩ nhiên đấy không
phải là những ví dụ riêng của vị Thánh quê thành Aquin, nhưng cũng giống như
hầu hết trong chúng ta, Thánh Nhân nghĩ rằng có những nguyên nhân trong thế
giới này, và nguyên nhân của mọi nguyên nhân – một loại trật tự phẩm trật của
các nguyên nhân (giống
như một chuỗi lệnh truyền). Và Thánh Nhân nghĩ toàn thể trật tự có
lớp lang này được Thiên Chúa sáng tạo và nâng đỡ để hiện hữu. Thánh Nhân cũng
cho rằng công việc của các khoa học về thiên nhiên là vạch ra trật tự của những
lớp lang theo bản tính (là cho
thấy vũ trụ này giải thích tính cách riêng của nó như thế nào). Vì
lẽ đó, Thánh Nhân cho rằng không cần các nhà khoa học phải mang Thiên Chúa vào
trong những trình bày, những giải thích của mình. Chỉ cần giả thiết Thiên Chúa
đang hiện hữu ở giữa hiện hữu của toàn thể thế giới mà thôi. Hoàn toàn đúng là
Thiên Chúa làm cho cái ấm nước sôi, vì Người là nguyên nhân làm nên mọi sự,
nhưng nhà khoa học chú ý vào những nguyên nhân theo bản tính được sáng tạo mà
Thiên Chúa dùng để tạo ra hiệu quả này. Các nhà vật lý có thể đưa ra câu hỏi
rất đúng:“Việc trình bày vấn đề có mọi sự thay vì không có gì cả là gì?”.
Nhưng nếu họ hỏi như thế, họ không còn là những người làm việc nghiên cứu vật
lý nữa. Vị Thánh thành Aquin có lẽ sẽ ngạc nhiên và buồn cười về ý tưởng cho
rằng khi nghiên cứu cái ra như đã xảy ra vào những khoảnh khắc đầu tiên của vụ
nổ Big Bang, thì cách nào đó chúng ta cũng đang nghiên cứu hành động sáng tạo.
Hành động sáng tạo của Thiên Chúa, đối với Thánh Nhân, không phải là một cái gì
độc nhất cho lúc khởi đầu (nếu như
thật sự có một sự khởi đầu), nhưng cho việc hiện hữu đang diễn tiến
của bất cứ vật gì vào bất cứ lúc nào. Thật ra, Thánh Nhân nghĩ rằng Thiên Chúa
có thể sáng tạo cách dễ dàng một thế giới không bao giờ có một lúc khởi đầu.
Đối với Thánh Nhân, hành động sáng tạo của Thiên Chúa đang vận hành bên trong
sự vận hành của mỗi thụ tạo trong mọi lúc.
Vậy, Thánh Nhân nghĩ gì về các phép lạ? Thánh Nhân nói
rằng hoạt động của Thiên Chúa ở sâu bên trong mỗi vật và các hoạt động của bản
tính đó được gán cho việc Thiên Chúa đang hoạt động bên trong bản tính. Nhưng
vị Thánh quê thành Aquin cũng nghĩ rằng Thiên Chúa, nếu như Người muốn, có thể
vượt qua các nguyên nhân thọ tạo để chính Người làm phát sinh những hiệu quả
bình thường của chúng hoặc những hiệu quả vượt quá năng lực của chúng.[4] Thế nên, Thánh Nhân không coi các phép
lạ như thể là Thiên Chúa đang can thiệp vào tiến trình bình thường Người đã ban
cho thế giới này. Thiên Chúa, vị Thánh thành Aquin nghĩ, không thể can thiệp,
hiểu theo sát nghĩa chữ, vào trong vũ trụ này bởi vì Người vẫn luôn đang hiện
hữu ở đấy – như trong diễn tiến bình thường, sự vận hành theo bản tính của các
sự vật như trong cuộc phục sinh của Đức Kitô hoặc trong bất kỳ một biến cố lạ
lùng nào khác. Theo vị Thánh thành Aquin, phép lạ không phải là một sự hiện
diện đặc loại của Thiên Chúa; đó là một sự khiếm diện đặc biệt của các nguyên
nhân theo bản tính – một sự khiếm diện đặc biệt khiến cho sự hiện diện thường
tồn của Thiên Chúa trở nên khả thị hơn đối với chúng ta. Bởi vì Thiên Chúa hiện
hữu ở đó mọi lúc, và vì Người không cần phải được nhắc đến khi chúng ta nghiên
cứu vật lý học hoặc sinh học, hoặc đi chợ, chúng ta có thể rơi vào nguy cơ quên
mất Người. Cho nên một phép lạ, theo quan điểm của vị Thánh thành Aquin, là một
cử chỉ quá ư nồng nhiệt, giống như một cái ôm hoặc một cái hôn, tựa như nói: “Này, Ta đang ở đây này; Ta yêu mến con”,
để khi chúng ta chiêm ngưỡng các việc trong công trình sáng tạo của Người và
vui thích, khâm phục thì chúng ta đừng quên rằng tất cả những gì chúng ta đang
có và tất cả những gì chúng ta đang là đều là tia phản chiếu rạng rỡ tình yêu
của Người dành cho chúng ta.
V. VỀ LUÂN LÝ
Là một người tốt là gì? Tại sao sống tốt lành thì hơn đồi
bại? Chúng ta có thể trả lời: “Đó là hành động hợp với một số qui tắc luân lý
chân thật nào đó”. Nếu chúng ta là Kitô hữu hoặc là người Do thái, chúng ta
phải nhắc đến bộ luật luân lý là Mười Điều Răn. Tuy nhiên, nếu nói như thế,
chúng ta sẽ gặp ít nhất là một người không đồng ý với chúng ta và người đó là
thánh Thomas d’Aquin. Thánh Nhân không cho rằng sống tốt lành hệ tại hành động
phù hợp với các điều răn. Đây không phải vì Thánh Nhân nghĩ (như một số Kitô hữu hiện đại chủ trương) rằng các điều răn đã được vượt quá bởi
luật yêu thương. Thánh Nhân nghĩ Mười Điều Răn quả là một điều thuộc về cảm
thức chung để cho thấy thái độ yêu thương giống như cái gì (và nhất là không giống như cái gì).
Thánh Nhân nghĩ rằng bất cứ xã hội nào dửng dưng đối với câu hỏi bạn có phá vỡ
các điều răn hay không đều không thể nào là một cộng đoàn của những người bạn
hữu được. Thánh Nhân nghĩ những điều răn này là một trong những điều được Thiên
Chúa ban cho chúng ta trong mặc khải của Người; chúng ta có thể đưa ra thực
hành cho chính bản thân chúng ta, nếu chúng chịu khó suy nghĩ và lương thiện đủ
để thấy một xã hội đặt nền tảng trên tình huynh đệ thì sẽ phải cư xử như thế
nào.
Nhưng cho dẫu vị Thánh quê thành Aquin coi trọng bộ luật
luân lý là Mười Điều Răn, thì Thánh Nhân vẫn không đồng ý với bạn nếu bạn bảo
rằng sống tốt lành đơn giản là hành động phù hợp với các điều răn. Tai sao? Tại
vì, Thánh Nhân nói, sống tốt lành không phải chỉ là chuyện làm những điều tốt
thay vì những điều xấu. Vấn đề là làm những điều tốt một cách tốt, và điều đó
có nghĩa là làm những điều tốt từ những cõi sâu thẳm của tính cách thực hữu của
bạn.
Bạn có thể làm một hành vi diễn tả lòng tử tế, bạn có thể
gửi một quà tặng để chia sẻ với những người đang bị nạn đói, ở châu Phi chẳng
hạn, bởi vì bạn đã có lúc thấy truyền hình tường thuật hoặc cách nào đó, và dĩ
nhiên đó là điều tốt cần phải làm. Bạn có thể làm bởi vì bạn đã được nói cho
biết rằng đó là chuyện đúng mà một Kitô hữu phải làm. Bạn có thể làm bởi vì bạn
sợ Thiên Chúa sẽ phạt bạn nếu bạn không làm, và đó vẫn là điều tốt cần phải
làm. Nhưng vị Thánh thành Aquin sẽ nói rằng điều đó vẫn không có nghĩa là sống
tốt lành. Sống tốt lành có nghĩa là làm điều tốt bởi vì bạn muốn làm điều tốt,
bởi vì bạn đã trở thành điều tử tế của bạn mà chỉ theo bản tính là muốn làm
điều đó. Lúc ấy, bạn không còn chỉ làm những hành vi tử tế nữa. Bạn là một con
người tử tế:
“Sống tốt lành không phải là chỉ làm những điều tốt lành,
nhưng làm những điều tốt lành một cách tốt lành, chọn những điều tốt lành theo
một cách thức đúng chứ không chỉ hành động theo sự thúc đẩy hoặc cảm xúc. Chọn
cách đúng bao hàm có mục đích đúng và hành động cách thích hợp để đạt được mục
đích đó. Những điều kiện để có những mục đích đúng là những nhân đức luân lý
trong những tham dục; những điều kiện để hành động cách thích hợp nhằm đạt tới
mục đích phải chỉnh bị lý trí để thiết kế và quyết định cách tốt lành, và đó là
nhân đức khôn ngoan. Làm một điều gì tốt theo lời khuyên của người khác hơn là
theo sự phán đoán của chính mình chưa phải là một hoạt động hoàn hảo của lý
luận và ước muốn của bản thân mình. Người ta làm điều tốt nhưng chưa hẳn là một
cách tốt, như phải có. Suy nghĩ theo cách lý thuyết nhằm làm cho tâm trí thực
sự đối diện với các sự vật... Suy nghĩ theo cách thực hành nhằm làm cho sự đối
diện thực sự với tham dục đúng đắn, và điều đó chỉ có thể xảy ra trong... những
vấn đề chúng ta có sức mạnh để ảnh hưởng tới... Vậy các nhân đức liên hệ với
những vấn đề bất tất là những điều kiện của suy nghĩ thực hành: khả năng để
làm, sự khôn ngoan thận trọng để làm. Trong trường hợp làm, lý luận thực hành
của con người đưa ra những kế hoạch và những quyết định như lý luận lý thuyết
khai phá và đạt tới những kết luận, nhưng như vậy tiếp tục đi tới những mệnh
lệnh phải thực hiện những việc đó, và đó là vai trò đặc loại của nó. Nếu người
ta đã đưa ra được những quyết định tốt và rồi không hoàn thành những quyết định
đó cách đúng nghĩa, thì hoạt động của lý trí sẽ là bất toàn”.[5]
Vậy vị Thánh quê thành Aquin cho rằng chúng ta trở thành
tốt, chúng ta sống tốt, nhờ thủ đắc một tính cách, một bộ khung phức tạp gồm
các điều kiện thúc đẩy chúng ta trước hết hướng tới chỗ muốn những điều tốt (và muốn những điều tốt nhiều hơn hơn là những điều
ít tốt hơn), và rồi suy nghĩ tốt theo cách thực hành (khôn ngoan) liên quan đến việc làm thế nào để hoàn
thành những điều tốt ấy. Những điều kiện này là các nhân đức, và chúng ta thủ
đắc các nhân đức bình thường bằng cách thực hành. Trước hết, chúng ta làm những
điều tốt vì chúng ta muốn theo một bộ luật luân lý nào đó. Nhưng dần dà thái độ
như thế trở thành bản tính thứ hai cho chúng ta, và sau đó, và chỉ sau đó,
chúng ta mới có các nhân đức. Như thế chúng ta đang lớn lên. Vậy, khi chúng ta
làm những hành động tốt, thì những hành động ấy là của riêng chúng ta, khởi
phát từ nhân cách chúng ta đã sáng tạo nên cho bản thân mình với sự trợ giúp
của tha nhân. Đó là ý nghĩa cho biết việc giáo dục là gì, hoặc phải là gì.
Nhưng dĩ nhiên, vị Thánh thành Aquin nghĩ rằng chúng ta
không phải chỉ được Thiên Chúa mời gọi để sống tốt lành với tư cách là những
sinh linh con người, nhưng để sống đời sống của Thiên Chúa; và điều này là hồng
ân Thiên Chúa ban xuống cho chúng ta. Vậy, bên cạnh việc Thiên Chúa ban cho
chúng ta những cột mốc để hướng dẫn chúng ta trên con đường tiến đến với Người,
Người còn ban cho chúng ta sức mạnh để thực hiện cuộc hành trình. Người bắt đầu
chia sẻ đời sống của riêng Người cho chúng ta và như vậy cho chúng ta những
nhân đức chúng ta cần đề sống tốt lành cả về phương diện con người lẫn phương
diện linh thánh – và cho những nhân đức ấy như là ân sủng tự do, vượt qua cả
tiến trình giáo dục đầy cam go vất vả.
VI. VỀ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
Dr Johnson, một nhân vật nổi tiếng người Anh thuộc Đảng
Tory, tuyên bố: “Tôi luôn
cho rằng Whig[6] đầu tiên là ma quỷ”. Còn Lord Acton,
cũng là một nhân vật nổi tiếng người Anh thuộc Đảng Whig (hoặc Dân Chủ Tự Do) lại nói: “Whig đầu tiên không phải là ma quỷ, nhưng là
Thomas d’Aquin”. Tôi không dám chắc rằng vị Thánh quê thành Aquin
sẽ hoàn toàn hài lòng với lời khen tặng đó. Hẳn nhiên Thánh Nhân không có thời
giờ dành cho khoa kinh tế thị trường theo phái Tự do và cạnh tranh không hạn
chế. Thánh Nhân cho rằng công việc của một nhà nước là phải chăm lo cho hết
thảy mọi người, đặc biệt là những người nghèo, và trong một số trường hợp, phải
can thiệp để ấn định giá cả tối đa và lương bổng tối thiểu. Thánh Nhân nghĩ
rằng mục tiêu của luật không phải chỉ để bảo vệ người dân với nhau mà thôi,
nhưng còn là để giúp hết mọi người dân trở thành những con người đức hạnh và,
vì thế được sống hạnh phúc tối đa trong thế giới này. Thánh Nhân ắt hẳn phải
hoan nghênh qui chế hưu bổng và trợ cấp thất nghiệp.
Thánh Nhân có lẽ rất không đồng ý với bà Magaret Thatcher (Thủ tướng Anh Quốc) khi có lúc bà Thủ Tướng này bảo rằng: “Không có cái gì được coi là xã hội cả, chỉ có
những cá nhân và gia đình của họ mà thôi”. Thánh Nhân tế nhị hơn
thế nhiều! Thánh Nhân bảo rằng cá nhân xét về cốt yếu là một phần của xã hội,
và thiện ích của toàn thể xã hội thì lớn hơn thiện ích của cá nhân. Nhưng Thánh
Nhân cũng nghĩ rằng toàn thể xã hội hiện hữu là nhằm làm cho những cá nhân
trong xã hội ấy có những cuộc sống tốt lành.
Vị Thánh quê thành
Aquin là một Whig hoặc Dân Chủ Tự Do ở chỗ Thánh Nhân không có thời giờ để bàn
về bất kỳ một khái niệm nào liên can đến “thần
quyền của các vua”, hoặc thần quyền của một đảng phái cụ thể, và có
lẽ Thánh Nhân cũng vui vì sự sụp đổ của chế độ độc tài. Thánh Nhân nói rằng
thẩm quyền của các nhà cai trị và luật lệ của họ chỉ xuất phát từ sự đồng thuận
của những người bị trị, và Thánh Nhân nói rằng “lập chương trình nhằm vào thiện ích tổng quát
thuộc về dân chúng xét như là một toàn thể, hoặc thuộc về những người đại diện
cho họ”.[7] Thánh Nhân nghĩ rằng một đại biểu hợp
pháp của dân, khi cai trị với sự đồng thuận của dân và làm các luật lệ nhằm vào
thiện ích chung (chứ
không chỉ nhằm vào lợi ích của tầng lớp này hoặc tầng lớp kia hoặc một nhóm
trong xã hội), tức thị đang cai trị cách công minh. Và vì ông ấy
hay bà ấy cai trị cách công minh, cho nên ông ấy hay bà ấy cai trị với thẩm
quyền của Thiên Chúa, nhưng nên nhớ chỉkhi nào ông ấy hay bà ấy cai trị cách
công minh mà thôi:
“Các luật lệ được lập cách nhân bản có thể là công minh
hoặc bất công minh. Để có công minh, các luật lệ ấy phải phục vụ thiện ích tổng
quát, không được vượt quá thẩm quyền của người lập luật và phải có sự phân chia
cách tốt đẹp những trách nhiệm của thiện ích tổng quát cho toàn thể các thành
phần của cộng đồng. Những luật lệ công minh như thế buộc chúng ta theo lương
tâm bởi vì các luật lệ ấy phát xuất từ luật vĩnh cửu. Tuy nhiên, các luật lệ có
thể là bất công minh: khi phục vụ không phải thiện ích tổng quát nhưng [phục
vụ] lòng tham hoặc hãnh tiến của riêng một số nhà lập luật nào đó hoặc vượt quá
thẩm quyền của họ, hoặc bởi phân chia không tốt đẹp những trách nhiệm mà thiện
ích tổng quát đòi buộc. Những luật lệ như thế không phải là luật nhưng là những
hình thức của bạo lực, và không buộc lương tâm chúng ta trừ phi có thể để tránh
gương mù hoặc mất trật tự, về điểm này người ta đôi khi phải bỏ đi quyền của
mình. Luật lệ cũng có thể bất công minh bởi đi ngược lại thiện ích của Thiên
Chúa, khi cổ vũ thờ ngẫu tượng chẳng hạn; và không ai được phép tuân theo những
luật như thế: chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”.[8]
Vị Thánh quê thành Aquin cho rằng một xã hội không công
minh là xã hội phân biệt đối xử với một nhóm nào đó trong dân căn cứ trên những
nền tảng của chủng tộc, hoặc ý thức hệ hoặc cuồng tín tôn giáo, hoặc bất kỳ căn
cứ nào khác, thì đã là một xã hội của bạo lực hơn là của luật pháp – ngay cả
trước khi có những người bất đồng nào đó tìm cách lật đổ. Luật, vị Thánh thành
Aquin nói, chỉ là công minh và chỉ là luật đích thực, nếu như nó là một cách
diễn tả của tính cách luân lý. Tuy nhiên, đàng khác vị Thánh thành Aquin không
nghĩ rằng công việc của luật pháp là trấn áp bất kỳ sự vô luân nào, vì Thánh
Nhân tin, việc này thường gây ra nhiều thiệt hại cho thiện ích chung hơn là
khoan dung một thực hành vô đạo nào đó. Ở đây, vị Thánh thành Aquin nói, các
nhà cai trị phải sử dụng cảm thức chung, sự khôn ngoan của mình, để quyết định
xem một số thái độ nhân linh đặc thù có phải là tội ác hay không. Chẳng hạn
Thánh Nhân cho rằng phá thai là tội và là một sự dữ lớn của con người. Nhưng cả
khi bạn đã tuyên bố như thế rồi, bạn vẫn chưa quyết định xem có phải cấm bằng
luật hay không và như thế nào. Đó là một số chuyện vị Thánh quê thành Aquin có
lẽ nghĩ là để ngỏ cho tranh luận trong hết thảy mọi người đã dấn thân một cách
bình đẳng để lo cho sự thánh thiện của toàn thể đời sống con người. Đúng, có lẽ
Thánh Nhân là Whig đầu tiên.
VII. VỀ NHÂN ĐỨC
Cách chung, ai cũng đồng ý cho rằng nền tảng của luân lý
Kitô giáo là con người phải yêu thương nhau. Nhưng điều thú vị là thánh Thomas
d’Aquin lại không đồng ý như thế. Dĩ nhiên, điều ấy tùy thuộc bạn hiểu “yêu thương” là gì. Bạn có thể yêu mến các bậc sinh
thành, yêu rượu, yêu tổ quốc, yêu quê hương, yêu bạn trai – mỗi thứ lại có một
loại tình yêu khác nhau. Tuy nhiên, khi nói đến tình yêu theo nghĩa nền tảng
nhất, vị Thánh quê thành Aquin nghĩ rằng tác giả của thư thứ nhất Gioan đã nói
rất đúng: “Tình yêu
cốt ở điều này, không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa đã
yêu thương chúng ta và đã phái Con của Người đến” (1 Ga 4,10). Tiên
vàn tình yêu là điều Thiên Chúa có đối với chúng ta; cho nên tình yêu này là
chính Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ Người cho chúng ta chia
sẻ quyền năng yêu thương của Người. Chúng ta có một tên gọi đặc biệt để chỉ sự
chia sẻ của chúng ta vào quyền năng yêu thương của Thiên Chúa: chúng ta gọi đó
là lòng mến (caritas).
Lòng mến thuộc về Thiên Chúa này của chúng ta, vị Thánh
thành Aquin nói, tiên vàn là lời đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng
ta. Thế nên trước tiên có tình yêu hỗ tương làm cho chúng ta trở thành bạn hữu
với Thiên Chúa, khi chia sẻ sự sống và niềm vui của Người. Đây mới là nền tảng
của luân lý Kitô giáo: không phải là một bộ luật dạy cách ứng xử nhưng là tình
bằng hữu của chúng ta với Thiên Chúa, hoặc chia sẻ Thần Khí của Người là điều
tự bộc lộ ra trong tình yêu của chúng ta đối với các bạn hữu và các thọ tạo của
Thiên Chúa. Nhưng tình bằng hữu của Thiên Chúa, vị Thánh thành Aquin lại nói
cách đáng ngạc nhiên và sâu xa, không phải tiên vàn tràn lan thành lòng yêu mến
tha nhân. Tiên vàn, Thánh Nhân nhấn mạnh, chúng ta phải yêu mến bản thân mình.
Nếu chúng ta không yêu mến bản thân chúng ta, chúng ta không thể yêu thương tha
nhân được.
Có một thứ vị tha giả mạo theo đó có thể chính chúng ta
bận bịu chăm lo cho tha nhân bởi vì chúng ta sợ rằng nếu thực sự nhìn vào bản
thân mình, có lẽ chúng ta sẽ ghét những gì chúng ta nhìn thấy. Nhưng lòng mến
có nghĩa là chúng ta có thể có một cái nhìn sáng sủa về bản thân chúng ta,
những mụn cóc và vân vân, và yêu mến bản thân mình trong lòng mến như Thiên
Chúa xử sự. Đây không phải là thái độ ích kỷ. Ích kỷ xuất phát từ việc yêu mến
không phải bản thân chúng ta như là toàn thể nhưng chỉ là một phần nào đó của
bản thân chúng ta, tức là đời sống thân thể của chúng ta và những sở hữu thuộc
về thân thể của chúng ta (trong đó
chúng ta có thể tranh đua với tha nhân). Trong lòng mến, tôi quan
tâm đến sự phát triển và hạnh phúc của toàn thể bản thân, bao gồm sức khỏe và
sức mạnh và sự sống động của thân thể của tôi, nhưng không loại trừ những điều
còn quan trọng hơn tỉ như những thái độ của tôi đối với tha nhân:
“Nói theo nghĩa chặt, chúng ta không có tình bằng hữu với
bản thân chúng ta nhưng với một cái gì hơn đó: một tình yêu bản thân là cái gì
ở tận nền tảng của tình bằng hữu, vì trong tình bằng hữu, chúng ta yêu mến tha
nhân như chúng ta yêu mến chính bản thân chúng ta. Nhưng lòng mến là tình bằng
hữu trước hết với Thiên Chúa và thứ đến với tất cả những ai thuộc về Thiên
Chúa, kể cả chính chúng ta. Cho nên chúng ta yêu mến bản thân mình nhờ lòng
mến, như chúng ta cũng là những gì thuộc về Thiên Chúa. Khi chúng ta khiển
trách người ta về lòng yêu mến bản thân, đó là vì họ yêu mến... những bản tính
thuộc thân thể của họ, mà không yêu mến điều thực sự là tốt cho chính bản thân
họ xét như là những sinh linh có lý trí... Thân thể chúng ta được sáng tạo bởi
Thiên Chúa, chứ không phải... bởi một nguyên lý xấu xa nào đó. Nên chúng ta có
thể phụng sự Thiên Chúa nhờ thân thể của chúng ta và chúng ta phải yêu mến thân
thể của chúng ta với lòng yêu mến nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Cái chúng
ta không được yêu mến là cái băng hoại của tội và thiệt hại của nó là làm suy
yếu thân thể của chúng ta; đúng hơn chúng ta ham thích nhờ lòng mến một mục
đích bao gồm tất cả những điều đó. Thân thể của chúng ta giúp chúng ta hạnh
phúc, và hạnh phúc đó sẽ lại tràn lan vào thân thể chúng ta, đến nỗi thân thể
chúng ta cũng có thể được yêu mến bằng lòng mến”.[9]
Thánh Thomas d’Aquin làm một con đường rất dài, xa hẳn
những con người, kể cả một số Kitô hữu, nghĩ rằng thân thể, và đặc biệt là
những vui thú và cảm xúc của thân thể chúng ta, là đáng sợ và cần phải tránh.
Thánh Nhân cho rằng chúng ta phải học cho biết yêu mến và có được niềm vui
thích trong đời sống của thân thể chúng ta (như
Thiên Chúa đã như thế) –
bằng cách dành cho nó vị trí đúng đắn và phẩm giá của nó. Vì Thiên Chúa yêu mến
chính chúng ta với thân thể chúng ta không phải chỉ như là những thọ tạo nhưng
như là những người bạn hữu có ngôi vị. Có chỗ vị Thánh quê thành Aquin nói rằng
sự xa lìa Thiên Chúa do tội đã làm méo mó đời sống cảm xúc của chúng ta đến nỗi
chúng ta không còn được hưởng đủ niềm vui tính dục nữa.[10]
Đối với vị Thánh thành Aquin, chỉ có những người theo lạc
giáo là không thích và khinh bỉ thân thể mà thôi. Theo Thánh Nhân, Lời của
Thiên Chúa đến với chúng ta không phải tiên vàn là những từ ngữ trong một quyển
sách. Đó là Lời đã thành xác thịt, thông qua thân thể và máu huyết của [Lời]
đó, chúng ta được đưa trở về tình bằng hữu với Thiên Chúa để trong cuộc phục
sinh thân xác, sự sống của Thiên Chúa tràn lan vào thân thể của chúng ta trong
sự vĩnh cửu.
VIII. VỀ KHOA HỌC
Không nhiều người lắm có thể tự hào mình biết chính xác
khoa vật lý nay đang đi về đâu, nhưng hơn kém sáu mươi năm trước đây, chúng ta từng
nghe rằng chuyển động của các vật tùy thuộc vào các nguyên tử của chúng, và các
nguyên tử đó hệ tại các chùm điện tử xoay chung quanh một cái nhân. Mỗi nguyên
tử là một khối giống như một hệ thống mặt trời tí hon, và những vận hành khả
thị quen thuộc trong thế giới hơn kém được qui định bởi cấu trúc của những hệ
thống xoay vần của các phân từ này.
Nhắc lại điều trên
đây có thể giúp chúng ta hiểu vị Thánh quê thành Aquin, vào thế kỷ thứ XIII, đã
nhìn thế giới vật lý như thế nào. Hình ảnh của Thánh Nhân cũng tương tự rất
đáng chú ý, ngoại trừ việc các vật thể xoay chung quanh qui định nên các luật
của vật lý và hóa học, thay vì nhỏ hơn các vật thể quen thuộc của chúng ta rất
nhiều, thì lại lớn hơn rất nhiều. Thánh Nhân thừa hưởng niềm tin tưởng cổ xưa
cho rằng những sự chuyển vần của các vì sao và các hành tinh cũng y hệt như
chuyển động xoay của các hạ phân tử hạt trong lý thuyết hiện đại vậy. Vị Thánh
quê thành Aquin hoàn toàn sai, dĩ nhiên, nhưng các ý tưởng của Thánh Nhân về
việc các tinh tú qui định những biến cố quan trọng trên trái đất ra sao, có lẽ,
vẫn còn đáng chú ý khi chúng ta thắc mắc không biết các cơ cấu vận hành do các
nhà khoa học hiện đại nghiên cứu xác định cái gì đang diễn ra hiện nay như thế
nào.
Người thời Trung cổ hầu như dị đoan cũng bằng người hiện
đại, và rất bị lôi cuốn bởi“điều các vì sao tiên báo”. Nhưng vị
Thánh quê thành Aquin đã rất hồ nghi về tất cả những chuyện ấy. Thánh Nhân nghĩ
rằng các vì sao có thể ảnh hưởng vào chúng ta cách vật lý, và như vậy, giống
như các loại thuốc giảm đau hoặc rượu hoặc thiếu ngủ có thể ảnh hưởng đến những
cảm xúc và tình cảm của chúng ta, và hướng chúng ta đến một số những loại thái
độ nào đó. Hướng chúng ta tới, chứ không phải qui định chúng ta, vì chúng ta có
thể dừng lại và suy nghĩ, và chúng ta có thể tự do vun trồng các khuôn mẫu của
thái độ có suy nghĩ của lý trí (các nhân
đức), đến nỗi chúng ta không bị chế ngự bởi những tình cảm của khoảnh
khắc cụ thể hiện tại. Theo cách này, chúng ta có thể thoát khỏi làm nô lệ cho
các vì sao (Aquinô
nghĩ như thế).
Tuy nhiên, vì có rất nhiều người không buồn suy nghĩ hoặc
học hỏi xem làm thế nào để cho có suy nghĩ của lý trí, nên họ bị cuốn đi bởi
những tình cảm và thiên kiến của họ. Đó là lý do tại sao, thánh Thomas d’Aquin
nghĩ, các nhà thiên văn có thể thường là đúng về mặt thống kê tính toán liên
quan đến đa số các thái độ – hơn là giống các nhà xã hội học tiên đoán(hoặc ít
là giải thích) các
khuynh hướng hoặc nêu ra các khuôn mẫu:
“Các biến cố rõ rệt xảy ra cách tất yếu có thể được tiên
báo nhờ vào sự giúp đỡ của các vì sao, theo cách các nhà thiên văn tiên báo
nhật/nguyệt thực. Nhưng các vì sao không biểu thị cũng không gây ra những biến
cố may rủi của tương lai... Các vì sao cũng không thể tạo ra các hành vi tự do
của lý trí và ý chí; các vật thể không thể ảnh hưởng trực tiếp đến tâm trí và ý
chí của chúng ta là những [cái] không phải là vật thể cũng không phải là những
chức năng vận hành của các cơ quan vật thể. Các vì sao có thể tạo ra những thay
đổi nơi thân thể của con người, và như vậy ảnh hưởng đến những ước muốn có liên
quan với các giác quan là những chức năng của các cơ quan vật thể. Thế nên các
vì sao có thể hướng chúng ta về một số thái độ nào đó. Nhưng bởi vì... những
ước muốn có liên quan với các giác quan của chúng ta tuân phục lý trí, cho nên
con người ta vẫn có ý chí tự do để hành động đối lại ảnh hưởng của các vì sao.
Vậy, khi cố gắng tiên đoán các biến cố may rủi có thể xảy ra hoặc thái độ của
con người từ việc xem xét các vì sao là thiếu điểm tựa... Điều này không loại
trừ sự tiên đoán các sự việc là hiệu quả thực sự của các vì sao, tựa như hạn
hán và mưa và những chuyện tương tự. Hơn thế nữa, các vì sao tạo ra những thay
đổi trong thân thể của chúng ta và ảnh hưởng đến các cảm xúc của chúng ta, và
vì hầu hết con người ta đi theo các cảm xúc của mình mà không kiểm soát chúng,
cho nên hóa ra các nhà thiên văn thường được cho là nói những điều đúng, đặc
biệt là khi tiên đoán về thái độ của một nhóm”.[11]
Đối với vị Thánh quê thành Aquin, chuyển động bền vững của
các vì sao, và chuyển động đều đặn của thiên nhiên được điều lãnh bởi sự chuyển
động này, là công trình của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo. Nhưng các công trình của
trí khôn con người còn là sự biểu lộ vĩ đại hơn của quyền năng của Thiên Chúa.
Những điều chúng ta làm vì chúng ta quyết định làm như vậy do lý trí suy nghĩ
của chúng ta (chứ
không phải vì chúng ta là những đồ chơi của những nguyên nhân vật lý),
những hành vi tự do ấy không phải do bất kỳ những vật thọ tạo nào gây nên,
nhưng được sáng tạo trực tiếp bởi Thiên Chúa.
Như vậy, vị Thánh quê thành Aquin không cho rằng sự tự do
của chúng ta làm cho chúng ta độc lập với năng lực sáng tạo của Thiên Chúa (không có gì đang hiện hữu có thể là như thế).
Nhưng nó làm cho chúng ta độc lập với các thụ tạo khác. Theo Thánh Nhân, chúng
ta có thể đối lại mọi sức mạnh của thiên nhiên bởi vì công trình có tính cách
sáng tạo của Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chúng ta tự do không phải cho dẫu có
Thiên Chúa, nhưng chúng ta tự do bởi vì có Thiên Chúa. Cho nên, sự tự do của
con người, sự sáng tạo của con người, là sự biểu lộ vĩ đại nhất trong thế giới
thuộc về tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa – không kể điều tự do nhất trong mọi
sinh linh con người, đó là chính Đấng là tình yêu của Thiên Chúa ở trong xác
phàm giữa chúng ta.
[1] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologiae, Ia, 1, 1; trích dẫn Kinh Thánh trong 1Cr 2,9. Tất cả
những chỗ dịch của thánh Thomas d’Aquin trong bài này trích từ Timothy
McDermott (ed.),St. Thomas Aquinas, “Summa Thelologiae”: A Concise Translation (London: Eyre Sprottiswoode, 1989).
Đoạn vừa trích dẫn trên đây ở trang 1 của tác phẩm.
[2] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologiae, Ia 12, 12 và 12, 13 (St. Thomas Aquinas, “Summa Thelologiae”: A Concise
Translation, pp. 29).
[3] Ibid., Ia, 20, 2
(x. McDermott, Ibid.,
pp. 156ff).
[4] Xc. Ibid.,
Ia, 105, 6.
[5] Ibid., Ia IIae,
57,5-6 (Mc Dermott, St.
Thomas Aquinas, “Summa Thelologiae”: A Concise Translation, pp.
236, với những sửa đổi chút ít).
[6] Đảng viên Đảng tiền thân của Đảng Dân Chủ ở Anh Quốc.
[7] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologiae, Ia IIae, 96,4 (McDermott, St. Thomas Aquinas, “Summa Thelologiae”: A Concise
Translation, pp. 291).
[8] Ibidem;
x. Cv 5,29.
[9] St. Thomas Aquinas, Summa
Theologiae, IIa IIae, 25, 4 và 5 (McDermott, St. Thomas Aquinas, “Summa Thelologiae”: A Concise
Translation, pp. 355 với một chút thay đổi).
[10] Xc. Ibid.,
Ia, 98, 2, ad 3.
[11] Ibid., IIa IIae,
95, 5 (McDermott, Ibid.,
pp. 413 với thay đổi chút ít)