VỀ
THẦN TÍNH VÀ NGÔI VỊ TÍNH CỦA CHÚA THÁNH THẦN
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương,
Đại
Chủng Viện Vinh Thanh
Mục lục
I. NGÔI
VỊ TÍNH VÀ THẦN TÍNH CỦA CHÚA THÁNH THẦN
1. Ngôi vị là gì?
2. Nền tảng Kinh Thánh
3. Định tín về Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa
II.
THẦN HỌC VỀ CHÚA THÁNH THẦN
1. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu – Ngôi Vị (Amor – Persona)
2. Chúa Thánh Thần là Ân Huệ - Ngôi Vị (Donum- Persona)
3. Xuất Thần (Ektasis)
4. Tự Hạ (Kenosis)
5. Kết Hợp (Synthesis)
III.
NHỮNG ĐẶC TÍNH RIÊNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN
1. Chúa Thánh Thần như người Mẹ hiền
2. Chúa Thánh Thần là “We”
IV. TẠM
KẾT
I. NGÔI VỊ TÍNH VÀ THẦN TÍNH CỦA CHÚA THÁNH THẦN
Ngôi vị
là chỗ đứng riêng của mình. Hạn từ ngôi vị có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp
(prosopon) hoặc (hypostasis) hay (persona trong tiếng La Tinh), nghĩa là khuôn
mặt hay nguồn các mối tương quan. Hypostasis là cái đứng ở dưới, cái có thể tự
hiện hữu nơi mình.
Trong
ngôn ngữ Kitô giáo, ngôi vị chỉ Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần để phân
biệt các tương quan của Ba Ngôi. Ba Ngôi phân biệt nhau nhờ tương quan, nhưng
hiệp nhất, nhờ bản tính, một Thiên Chúa duy nhất.
Sau
này, triết học định nghĩa: “Ngôi vị là bản thể cá biệt có lý tính” (Bothius). Ngôi
vị là một hữu thể tự lập, có lý trí, ý chí và tự do, hiện hữu nơi chính mình.[1]
“Đấng
Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em
mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga
14,25-26).
“Chúa
Thánh Thần của chân lý nhiệm xuất từ Chúa Cha” (Ga 15,26).
Tín
biểu của Công Đồng Constantinople đã lấy lại dụng ngữ đó: “Thánh Thần xuất phát
(ekporeuomenon, procedit) từ Cha.”
3. Định tín về Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa
Công
Đồng Constantinople (năm 381):
“Chúng
tôi tin kính Chúa Thánh Thần, Người là Đức Chúa và là Đấng ban sự sống, Người
phát xuất từ nơi Chúa Cha, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha
và Chúa Con, Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy.”
Công
Đồng chính thức tuyên xưng rằng Thánh Thần cũng chính là Đức Chúa, nghĩa là
ngang bằng với Thiên Chúa.
Đức
Gioan Phaolô II trong Thông điệp Dominum et Vivificantem, số 10 đã
nhận định như sau:
“Đồng
bản thể với Cha và Con theo thần tính, Chúa Thánh Thần là tình yêu, là ân sủng
vô tạo, từ đó – như là từ uyên nguyên hằng sống (fons vivus) – phát xuất mọi
hành vi trao ban ân huệ đến các thụ tạo (ân sủng thụ tạo): ơn hiện hữu cho muôn
loài qua công cuộc tạo dựng; ơn sủng ái cho con người qua toàn bộ kế hoạch cứu
độ.”
II. THẦN HỌC VỀ CHÚA THÁNH THẦN
Tuy
nhiên, dựa vào Kinh Thánh và truyền thống của Giáo hội, các nhà thần học đã cố
gắng để trình bày căn tính của Chúa Thánh Thần qua nhiều biểu tượng, danh hiệu
hay dạng thức khác nhau của Người.
1. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu – Ngôi Vị (Amor – Persona)
Thánh
Phaolô nói: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta” (Rm 5,5).
Thánh Augustinô giải thích: “Các Ngài là Ba Đấng, Đấng
yêu mến, Đấng được yêu mến và Tình Yêu.”[2] Cần
phân biệt: Tình yêu thuộc bản thể Thiên Chúa và Tình Yêu như một Ngôi Vị. Trong
trường hợp thứ nhất, đó là tình yêu bản thể (amor substantiel), vốn là chính
bản tính thần linh, yếu tính của thực tại thần linh. Trong trường hợp thứ hai,
đó là Tình Yêu như một Ngôi Vị, là Ngôi Vị Thánh Thần. Chúa Thánh Thần phân
biệt ra khỏi Đấng hằng yêu thương và khỏi Đấng hằng được yêu thương và là một
với các Ngài trong tình yêu.
Như thế, Thánh Thần là Tình Yêu như một Ngôi Vị
(Amor-Persona) khác với Chúa Cha, Chúa Con, vừa là tình yêu bản thể giống với
Cha và Con.
Theo nghĩa này, Thánh Thần là sự chan chứa dạt dào của
tình yêu thần linh, là sự viên mãn đến tràn bờ, là trạng thái cực kỳ hoan lạc
của Thiên Chúa. Nhờ đó, tình yêu của Cha qua Con ngập tràn vào Thánh Thần, được
phản ảnh trong sức năng động của công trình sáng tạo cứu độ.
Thánh
Tôma Aquinô cho rằng danh hiệu Tình Yêu này là danh hiệu của Chúa Thánh Thần.[3] Chúa
Thánh Thần là Tình yêu liên kết giữa Cha với Con. Tình Yêu ấy không đóng khung
khép kín nhưng đã tuôn trào ra, bởi vì Thiên Chúa đã thông đạt tình yêu và mọi
thiện hảo cho tạo vật (cách riêng là cho nhân loại) để mời gọi họ vào chia sẻ
sự sống với Người. Chúa Cha là Đấng yêu thương, Chúa Con là Đấng được yêu
thương, và Chúa Thánh Thần là Tình Yêu Ngôi Vị.
2. Chúa Thánh Thần là Ân Huệ - Ngôi Vị (Donum- Persona)
Thánh Thần được mạc khải như là Ân Huệ của Thiên Chúa (x.
1Ga 4,13). Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samari: “Nếu chị
nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước
uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,14).
Trong
bài giảng đầu tiên sau ngày Lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô đã mời gọi thính giả nghe
ngài hoán cải và đón nhận phép rửa, để “anh em sẽ nhận được Ân Huệ là Thánh
Thần” (x. Cv 2,38; 10,45).[4]
Augustinô giải thích Ân Huệ đó chính là Thánh Thần. Ý
tưởng Thánh Thần như là Ân Huệ, như là trạng thái cực kỳ hoan lạc của Thiên
Chúa hướng về tha thể đã được các Giáo Phụ diễn tả bằng công thức nổi tiếng:
“Từ Cha, qua Con, trong Thánh Thần.” Thánh Thần là điều
mà nơi Người tiến trình kết thúc… Thần Khí là Đấng mà bởi Người sự thông ban
của Thiên Chúa được hoàn tất. Trong thực tại Ba Ngôi hiệp nhất của Thiên Chúa,
Thánh Thần là sự hoàn tất.[5]
Sau đó,
thánh Augustinô cũng cho rằng: để biểu thị mối hiệp thông giữa Cha và Con “Chúa
Thánh Thần được coi như ân huệ cả hai” cũng như sự nối kết giữa chúng ta với
các Đấng; Người là Ân Huệ vì được trao ban bởi Cha và Con.[6]
Trong
Thông điệp Dominum et Vivificantem số 10, thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II viết: “Có thể nói rằng, trong Chúa Thánh Thần, đời sống mật
thiết của Ba Ngôi Thiên Chúa đã trở nên một ân huệ trọn vẹn, một trình trạng
chuyển thông của mối tương ái giữa các Ngôi Vị; và thông qua Thánh Thần chính
là hiện thân của ân huệ trao ban, của tình yêu hằng hữu. Người là ngôi vị Tình
Yêu. Người là Ngôi Vị Ân Huệ.”[7]
Với tư cách này, Thánh Thần đến với Tha Thể như một sự
tặng ban nhưng không tuyệt đối.
Thần học Đông Phương nhìn Chúa Thánh Thần như sự khai mở của
Thiên Chúa ra khỏi chính mình để đi đến với con người, làm cho con người ra
khỏi mình để gặp gỡ Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu, Thánh Thần làm cho Thiên Chúa và
con người kết hợp với nhau. Chúa Giêsu là khuôn mặt thần linh của con người, và
là khuôn mặt con người của Thiên Chúa. Người là Thiên Chúa mang lấy xác thể để
con người mang lấy thần linh. Nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa tự hiến mình trong
Chúa Thánh Thần để cứu độ chúng ta.
Truyền thống Tây phương vẫn quen nhìn Chúa Thánh Thần là
chiều sâu của Thiên Chúa, là Tình Yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con (vinculum
amoris). Thánh Thần vừa là Đấng Bên Trong (Intimum Dei), vừa là Đấng Mút Cùng
(Extremum Dei), Đấng nội tại nhất lại là Đấng siêu việt nhất. Tình yêu tự hiến
giữa Chúa Cha và Chúa Con cô đọng trong ngôi vị Thánh Thần. Thánh Thần như sự
xuất hành trọn vẹn của Chúa Cha và của Chúa Con.
Về điểm
này, nhà thần học Pháp Christian Duquoc diễn tả rất ý nghĩa như sau:
“Biểu tượng Ba Ngôi cho thấy một cuộc sống hoặc sự hiệp
thông khác biệt và cởi mở. Chúa Thánh Thần phá vỡ sự tự thỏa mãn có thể của hai Ngôi đầu tiên “diện đối diện.” Truyền thống Kitô giáo đã nhận ra một
vai trò sáng tạo và năng động đối của Người, và trong ý nghĩa này, Thánh
Thần là Người tạo nên sự khác biệt. Người là sự mở ra của sự hiệp thông thiêng liêng với những gì
không thiêng liêng. Người là sự cư
ngụ của Thiên Chúa, nơi mà
trong cách thức nào đó, Người ra khỏi chính mình. Do đó, Người được gọi là “Tình Yêu.”
Người là “xuất
thần” (ektasis) của Thiên Chúa để
hướng về các “Ngôi khác” và
với thụ tạo.[8]
Mầu
nhiệm tự hạ của Chúa Thánh Thần là trút bỏ mình trong thinh lặng và ẩn dấu mình
vì các Ngôi Vị khác. Nên Người không có một khuôn mặt cụ thể, và dường như
không có một danh xưng riêng biệt. Thánh Thần luôn hiện hữu cho các Ngôi Vị
khác, đến nỗi gần như lu mờ chính chủ vị của mình. Quả thật, nơi Chúa Con, thần
tính ẩn dấu trong nhân tính. Nơi Thánh Thần, ngôi vị ẩn dấu trong thần tính.
Chúa Con hạ mình cho đến ngày phục sinh; Chúa Thánh Thần hạ mình cho tới ngày
quang lâm cánh chung.[9]
Truyền thống Đông Phương và Tây Phương đều nhận ra sự hạ
mình sâu thẳm của Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa vượt trên chính mình bằng cách hạ
mình. Sự xuất ngoại của Thánh Thần là một sự hạ mình, để yêu thương và tự hiến
(x. Ga 12,24; Mc 8,35). Sự tự hạ đó được diễn tả như sau:
- Chúa Thánh Thần gần như không có danh xưng riêng
biệt. Hai chữ Thánh (Sanctus) và Thần (Spiritus) ghép lại để làm danh xưng cho
Người, là những từ ngữ chỉ các ưu phẩm chung cho Chúa Cha và Chúa Con. Thánh
Tôma cho rằng sự “phát xuất” của Thánh Thần không có tên riêng. Theo E.
Brunner, sự độc đáo của Thánh Thần là hiện hữu cho. Mức độ hiện hữu
cho cao đến gần như làm lu mờ chính chủ vị của Người.
- Sự ẩn khuất của Ngôi Vị Thánh Thần. Ngôi vị Chúa Cha và
Chúa Con được mạc khải khá rõ ràng. Chúa Cha được Chúa Con mạc khải, Chúa Con
được Thánh Thần mạc khải. Còn ngôi vị Thánh Thần như ẩn khuất sau hai ngôi vị
kia. Thánh Thần như hơi thở trong tiếng nói của Cha: “Con là Con Cha, hôm nay
Cha sinh ra Con” (Tv 2,7); và như hơi thở trong tiếng nói của Con hướng về Cha:
“Ápba, Cha ơi!”
- Chúa Thánh Thần như không sử dụng chữ “Tôi”. Người
là “sự phong nhiêu của Thiên Chúa,” nhưng chẳng có ngôi vị nào phát xuất từ
Người. Người là chìa khóa để mở ra mầu nhiệm Thiên Chúa, nhưng chính Chúa Con được
sinh ra và nhập thể; và thế giới được tạo dựng theo hình ảnh Chúa Con. Người là
sự hiệp thông, phục vụ cho sự gặp gỡ vĩnh hằng giữa Chúa Cha và Chúa Con, là
dây liên kết giữa Cha và Con.
- Ngay cả trên bình diện lịch sử cứu độ, Thánh Thần
vẫn luôn hạ mình. Trong Cựu Ước, Người biểu lộ như là sức mạnh của Thiên Chúa,
được diễn tả bằng những hình ảnh vô chủ vị, như hơi thở, nước và lửa. Trong Tân
Ước, Chúa Thánh Thần hạ mình trong biến cố Ngũ Tuần, ngôi vị của Người ẩn dấu
đằng sau thần tính.
- Chúa Thánh Thần luôn hướng về Chúa Kitô. Vai trò
của Người là tháp nhập các tín hữu vào Chúa Kitô, tạo nên cho Chúa Cha những
dưỡng tử yêu dấu, thánh thiện. Thánh Thần làm cho chúng ta thuộc về Chúa Kitô
(Rm 8,9), và hướng về Chúa Cha (x. Rm 8,15; Gl 4,6). Người cầu nguyện cho chúng
ta và trong chúng ta, nhưng không làm cho chúng ta ngỏ lời với Người, trái lại
ngỏ lời với Chúa Cha qua lời cầu của Chúa Con, và hướng dẫn chúng ta tuyên xưng
Chúa Con (x. 1 Cr 12,3).
- Người hành động trong chúng ta cách kín đáo, làm như
hành động chỉ là của riêng ta, làm cho chúng ta trở nên chính mình. Người chấp
nhận trở nên “Ơn tha tội” của Thiên Chúa dành cho những tội nhân. Trong Thánh
Thần, Thiên Chúa như tự hủy để cho con người được sống.
- Việc của Chúa Thánh Thần là việc âm thầm cho đến
tận thế. Người không bao giờ nói gì về chính mình, nhưng chỉ nói về Chúa Cha và
Chúa Kitô; cũng không tự động nói điều gì, mà mọi sự đều do Chúa Kitô (x. Ga
16,13-15). Người không làm vinh danh chính mình, nhưng làm vinh danh Chúa Kitô.
Người vẫn là Đấng không được biết đến bên kia Ngôi Lời.
- Ngày cánh chung khi Chúa Cha trở nên mọi sự trong
mọi nguời, Chúa Thánh Thần sẽ như ánh sáng chiếu soi gương mặt Chúa Kitô và
gương mặt các thánh, nhưng Người vẫn như không có gương mặt riêng, Người tự biểu
lộ nơi những con người được thần hóa, là Thánh Thần trong các thánh.
Như
trên đã đề cập, Chúa Thánh Thần chính là Tình Yêu. Tình Yêu nối kết giữa Chúa
Cha và Chúa Con, và nối kết nhân loại với Thiên Chúa. Tình Yêu vốn là bản chất
thẳm sâu của Thiên Chúa (1Ga 4,8), chung cho cả Ba Ngôi. Thế nhưng Tình Yêu chủ
vị hay Ngôi Vị Yêu Thương lại được gắn cho Thánh Thần. Thánh Thần là của Chúa
Cha và Chúa Con. Chúa Cha yêu Chúa Con bằng chính Thánh Thần.[10]
Bởi
thế, các giáo phụ Hy Lạp thích diễn tả Thánh Thần như là vinculum amoris – sợi
dây tình yêu, sợi dây nói kết, Người là sự viên mãn, sự hoàn tất (telos, teleiòsis) của Ba
Ngôi.
Chúa
Thánh Thần được xem là sự tự hiến hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con. Người ở
trong Chúa Cha là đầu, Đấng sinh hạ, và cũng ở trong Con là Đấng được sinh hạ.
Chúa Cha vừa sinh ra Ngôi Lời, vừa đối diện với Ngôi Lời, vừa nên một với Ngôi
Lời trong Thánh thần là Tình Yêu kết hợp.
Trong
mầu nhiệm Giáo Hội, Chúa Thánh Thần đóng vai trò là người nối kết tất cả mọi
người đã chịu phép Rửa Tội trở thành con cái Thiên Chúa và là chi thể của Thân
Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô (1 Cr 12,13). Cũng chính Chúa Thánh Thần thúc đẩy con
người tìm kiếm Chân Thiện Mỹ và có lòng sám hối, từ bỏ tội lỗi của mình, để
được liên kết với Đức Kitô là đầu nhiệm thể.[11]
III. NHỮNG ĐẶC TÍNH RIÊNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN
1. Chúa Thánh Thần như người Mẹ hiền
Theo
Yves Congar: Chúa Thánh Thần là sự nội tâm, sự tự do. Được đổ vào
lòng ta, chúng ta khẩn cầu Người như là Vị khách dịu hiền và rất
khả ái của tâm hồn chúng ta.
Theo
Bruno Forte: Thiên Chúa Tam Vị mặc khải ra cho chúng ta một dung mạo mà
người ta có thể nói là mang mẫu tính. Tình yêu dịu dàng và bao bọc
chở che của Ngài gơi ra tình yêu “từ trong tâm cảm” của người mẹ. Đó
là hình ảnh sự dịu dàng mang mẫu tính của Thiên Chúa (rahem, rahamin
= lòng dạ mẹ tình yêu từ lòng dạ), vốn có nguồn gốc trong Kinh
Thánh: “Vì Sion đã nói: Giavê đã bỏ tôi, Đức Chúa đã quên tôi. Mẹ
nào lại quên con đẻ của mình, cạn lòng thương đối với con dạ nó đã
mang? Cho dù chúng quên được nữa, thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên
ngươi”(Is 49,14). Từ Cha, mẫu tính của tình yêu cũng được lan tỏa qua
Con, Đấng mà trong Người thụ tạo được đón nhận và trở thành sự đón
nhận tình yêu. Mẫu tính đó đồng thời cũng lan tỏa đến Thần Khí, mà
Tên của Người, trong ngôn ngữ Hípri (Ruah) mang giống cái, xem ra gợi lên
tình yêu của người mẹ trao ban sự sống và mở toang ra với sự sống.[12]
Theo
linh mục Norbeto: Thiên Chúa là Cha, nhưng cũng là mẹ nhờ tác động có
thể nói là từ mẫu của Thần Khí: “Ta đã tập đi cho Épraim, đã đỡ
cánh tay nó, nhưng chúng không hiểu là Ta chữa lành chúng. Ta lấy dây
ân nghĩa, lấy mối ân tình để lôi kéo chúng. Ta xử với chúng như
người nựng trẻ thơ nâng lên áp vào má. Ta cúi xuống gần nó mà đút
cho nó ăn” (Hs 11, 3-4).[13]
Theo J.
Moltman: Thánh Thần của Thiên Chúa gần gũi với chúng ta hơn tất cả
những gì mà chúng ta gần gủi với chính mình... chúng ta biết rất
ít về Chúa Thánh Thần bởi vì Người quá gần với chúng ta, chứ không
phải là Người ở quá xa chúng ta.
Thánh Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II phát biểu trong bài giảng lễ ngày 10/09/1978: “Thiên
Chúa là Cha, hơn thế nữa Người cũng là Mẹ.”
Từ Do
Thái chỉ Chúa Thánh Thần là Ruah, ở giống cái nhưng thực thể mà nó
diễn tả hơi thở, lại phi ngôi vị.[14] Thật vậy, Chúa Thánh Thần là
Ngôi Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói rằng Ba Ngôi thì
Ngôi Nhất như là Người Cha, Ngôi Hai là Người Con và Ngôi Ba là Mẹ.
Đúng vậy, Chúa Thánh Thần “như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi
các ngươi như vậy. Tại Giêusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về” (Is
66,13).
Quả
vậy, chính nhờ Chúa Thánh Thần mà mỗi người chúng ta được chăm sóc,
giúp sức và dạy dỗ như người mẹ hiền lo cho đứa con thơ: Trong gia
đình, người mẹ đóng vai trò quan trọng và là người đầu tiên dạy cho
con mình tiếng “Ba”. Chúng ta cũng thế, được Chúa Thánh Thần dạy cho
tiếng “Ápba! Cha ơi” (x. Rm 8,14-15). Hay trong thư Galát nói: “Để chứng
thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến
ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Ápba! Cha ơi”(Gl 4,6).
Trong
gia đình, người mẹ dạy cho con mình biết về “anh cả Giêsu” và anh em
đồng loại. Chính Chúa Thánh Thần cũng đóng vai trò này: “Thầy còn
nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi
nào Thần Khí sự thật đến […], Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì
là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16,12-14).
Trong
gia đình, người mẹ luôn chăm sóc con cái mà không mệt mỏi vì biết nó
dễ bị tổn thương, người mẹ phải hy sinh, bao bọc, che chở và nâng đỡ.
Bởi vì, tất cả mọi sinh hoạt của con trẻ không tự làm được mà cần
đến bàn tay người mẹ. Cũng thế, xưa Chúa Thánh Thần trong ngày lễ
Ngũ Tuần ngự xuống thanh luyện lòng trí các Tông Đồ. Nay Người cũng
xuống thanh luyện lòng dơ bẩn, tội lỗi của chúng ta. Người thấm nhuần
tâm trí những ai khô khan, nguôi lạnh, băng bó những tâm hồn lâm nạn.
2. Chúa Thánh Thần là “We”
Quả
vậy, khi nói Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ba Chủ Thể phân biệt
không có nghĩa các Người là ba Cá Thể khác nhau (trois Individus distincts). Cá
thể (individu) là hữu thể có xác thể, vừa không thể chia cắt mình ra được, vừa
không thể chung đụng với bản thể của bất kỳ một cá thể nào khác được. Trong khi
Chủ Thể, trong tương quan liên chủ thể, vốn luôn được định vị hoặc như là “chủ
vị” (“Je” = “I”) hoặc như là “đối vị” (“Tu” = “You”), hoặc như là “tha vị”
(“Il” = “He”), hoặc như là “liên chủ vị” (“Nous” = “We”).
Như
thế, trong Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần thường được gắn cho Liên Chủ Vị
“We”. Thánh Thần hay Thần Khí của ai đó (của Thiên Chúa, của Chúa
Cha, của Chúa Con, hay của Chúa Cha và Chúa Con). Như vậy, Chúa Thánh
Thần là “We” thần linh (chúng ta), nghĩa là không chỉ là “Ngôi Ba của
Ba Ngôi”, nhưng còn là Ngôi Nhất số nhiều, là Chúng Ta trong Ba Ngôi.[15]
Yves
Congar cho rằng Tình Yêu và Quà Tặng là tên gọi của Chúa Thánh Thần, theo nghĩa
là những tên gọi này diễn tả được mối liên hệ của Người với các Ngôi Vị khác.
Trong trật tự Ba Ngôi nội tại, Chúa Thánh Thần là Tình Yêu hỗ tương của Chúa
Cha và Chúa Con. Người là sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con, một sự hiệp
thông được bản thể hóa, là niềm vui vinh cửu, là sự hoan lạc và thánh thiện của
Ba Ngôi. Chúa Thánh Thần là Ân Huệ nhưng không của chính Tình Yêu Ba Ngôi cho
nhân loại, trong lòng mỗi người. Bên cạnh đó, các thần học gia cũng chỉ cho
chúng ta thấy các đặc tính riêng của Người như: Yves Congar, Norbeto, Bruno
Fonte diễn tả đặc tính riêng của Chúa Thánh Thần như Người mẹ hiền và là We
trong Ba Ngôi.
[1] x. Từ Điển Công Giáo, 500 mục từ,
249-250.
[2] Augustinô, De Trinitate,
8,14.
[3] Felipe Goméz Ngô Minh Sj, Chúa
Thánh Thần - Học Thần Học Tín Lý 5, 67.
[4] Ibidem, 68.
[5] Yves Congar, Je crois en
Saint Esprit, vol 3, 199s.
[6] Ibidem, 67-68.
[7] Thông điệp Dominum et
Vivificantem, số 10
[8] Citato da Congar, in CNSS,
156.
[9] Fr. Lambiasi, Lo Spirito
Santo: Mistero e presenza, EDB, Bologna 1987.
[10] ĐGH Gioan Phaolô II, Dominum
et Vivificatem 5.
[11] ĐGH Pio XII, Mystici Corporis
Christi 23.
[12] x. Bruno Forte, Mầu
Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi Như Một Lịch Sử, n.d. Nguyễn Thiên Cung
chuyển ngữ (Hà Nôi: NXB Tôn Giáo, 2010), 283.
[13] Norberto, Thiên Chúa của Tin
Mừng, Thiên Chúa Ba Ngôi, 256.
[14] Francois Xavier Durrwell, Thần
Học Về Chúa Thánh Thần, n.d. Thiên Hựu và Kim Ngân chuyển ngữ
(NXB Phương Đông, 2016), 294.
[15] Raniero Cantalamessa, Nguyễn Văn
Hương chuyển dịch, Để Không Gì là Vô Ích (Hà Nội: NXB
Tôn Giáo, 2016),137.