SUY TƯ THẦN
HỌC
VỀ CHÚA THÁNH
THẦN
THẦN KHÍ
NHƯ MỘT NGÔI VỊ
VÀ NHƯ ÂN HUỆ
Linh mục Phêrô Nguyễn Thiên Cung
biên soạn
(12 Bài)
NỘI DUNG
1. THẦN KHÍ,
NHƯ MỘT NGÔI VỊ
I.
THẦN KHÍ, NHƯ MỘT NGÔI VỊ
2. THẦN KHÍ,
NHƯ MỘT NGÔI VỊ (tt)
II. SUY
TƯ THẦN HỌC: THẦN KHÍ LÀ AI?
3. THẦN KHÍ
NHƯ MỘT ÂN HUỆ
I. THẦN
KHÍ, NHƯ ÂN HUỆ CHÚA CHA VÀ CHÚA CON TRAO TẶNG CHO NHAU:
II.
THẦN KHÍ, NHƯ ÂN HUỆ CHÚA CHA BAN CHO LOÀI NGƯỜI QUA CHÚA CON.
4. THẦN KHÍ
SỰ SỐNG
I. KHÁI
NIỆM “SỰ SỐNG” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH:
II. CHÚA
THÁNH THẦN, THẦN KHÍ SỰ SỐNG VĨNH HẰNG VÀ LỊCH SỬ:
5. BẢY ÂN
HUỆ CỦA CHÚA THÁNH THẦN.
I.
NHẬN XÉT:
II. NGUỒN
GỐC CỦA KHÁI NIỆM “BẢY ÂN HUỆ”:
III. THẦN
HỌC VỀ 7 ÂN HUỆ CỦA CHÚA THÁNH THẦN:
6. THẦN KHÍ KHÔN NGOAN
I. SỰ KHÔN
NGOAN TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH
II. CHÚA
THÁNH THẦN, THẦN KHÍ KHÔN NGOAN:
7. THẦN KHÍ
THÔNG HIỂU
I.
“HIỂU” VÀ “BIẾT” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH:
II. CHÚA
THÁNH THẦN, THẦN KHÍ THÔNG HIỂU:
8. THẦN KHÍ
ĐỊNH LIỆU
I. Ý NGHĨA
CỦA HẠN TỪ “ĐỊNH LIỆU”:
II. CHÚA
THÁNH THẦN, THẦN KHÍ “ĐỊNH LIỆU”:
9. THẦN KHÍ
MẠNH BẠO
I. HẠN
TỪ “MẠNH BẠO” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH:
II. CHÚA
THÁNH THẦN, THẦN KHÍ MẠNH BẠO:
10. THẦN KHÍ
NHẬN BIẾT
I. KHÁI
NIỆM “NHẬN BIẾT” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH
II. CHÚA
THÁNH THẦN, THẦN KHÍ NHẬN BIẾT.
11. THẦN KHÍ HIẾU THẢO
I. KHÁI
NIỆM “HIẾU THẢO” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH.
II. CHÚA
THÁNH THẦN, THẦN KHÍ HIẾU THẢO
12. THẦN KHÍ KÍNH SỢ THIÊN CHÚA
I. KHÁI
NIỆM “KÍNH SỢ THIÊN CHÚA” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH
II. CHÚA
THÁNH THẦN, THẦN KHÍ KÍNH SỢ THIÊN CHÚA.
THẦN KHÍ, NHƯ MỘT NGÔI VỊ
Có hai vấn đề được đặt
ra:
1.
Ngôn
ngữ Kinh Thánh và ngôn ngữ thần học.
2.
Suy
tư thần học.
1. Trước tiên, cần lưu ý rằng những khái niệm: “Ngôi vị”, “bản tính”, “bản thể”, “yếu tính”... được đưa ra trong
những bối cảnh nhất định, nhằm phục vụ cho những nhu cầu nhất định: đó là minh
định lập trường của Giáo Hội chống lại một số khuynh hướng lạc giáo trong những
thế kỷ III, IV,V hoặc muuốn hạ thấp tư thế của Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối
với Chúa Cha, hoặc muốn hạ thấp tư thế của Chúa Thánh Thần đối với Chúa Cha và
Chúa Con... Vì thế, để minh giải có sự phân biệt trong mầu nhiệm Thiên Chúa như
là Ba Đấng, ngôn ngữ thần học gọi đó là ‘Ba ngôi vị’, và đồng thời để khẳng
định, tuy thế, chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, ngôn ngữ thần học đã phải nại tới
khái niệm “bản tính” hay “bản thể” của triết học Hy-lạp: Ba ngôi vị cùng chung
một bản tính...
2. Thật ra, khái niệm “Ba ngôi” (Trinité) hoàn toàn không có nguồn gốc trong Kinh Thánh. Hạn từ “Ba ngôi”
được gặp thấy lần đầu tiên, cách khá kín đáo, nơi Théophile d’Antioche, trong
tác phẩm ‘A Autolycos’, II,15 (khoảng năm
180)...
a.
Để
chỉ có sự phân biệt (distinction) trong Mầu nhiệm Thần linh, ngôn ngữ Kinh Thánh,
đặc biệt Tân Ước, không bao giờ sử dụng khái niệm ‘3’ (bằng cách đếm hay cộng
lại!) mà đơn giản gọi “Cha, Con, Thánh Thần” như là những Đấng phân biệt với nhau:
Cha là Cha bởi vì sinh ra Con và sai Con...; Con là Con bởi vì được sinh ra và
được sai bởi Cha... Thánh Thần là Thánh Thần bởi vì là Thần Khí Tình yêu mà nhờ
Ngài, bởi Ngài và trong Ngài, Cha và Con yêu thương nhau...
b.
Để
nói lên sự hiệp nhất (Unité) giữa Cha - Con - Thánh Thần, ngôn ngữ thần học lý giải
vì các Ngài có chung cùng một bản tính (une même nature), hoặc đồng bản thể (consubstantiel),
còn ngôn ngữ Kinh Thánh thì đơn giản hơn: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30);
“Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga
17,21;10,38; 14,11); “Ai thấy Thầy là
thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9b;x. 8,19; 12,45; Dt 1,3); “Thiên Chúa (Cha) là Thần Khí” (Ga 4,24); “Thần Khí của Thiên Chúa” (Rm 8, 9.14; 15, 19; 1Cr 6,11; 7,40);
“Thần Khí của Đức Kitô” (Rm 8,11); “Thần
Khí của Đức Chúa” (2Cr 3,17)...
3.
Như
vậy, cách chung chung, có thể nói rằng:
a.
Sự
hiện hữu Cha- Con- Thánh Thần như là những Đấng phân biệt với nhau, đối với ngôn
ngữ Kinh Thánh, không phải là “vấn đề” cần được đặt ra”. Vấn đề, nếu có, đối với
ngôn ngữ Kinh Thánh, đó là minh giải sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần, làm sao: chỉ có một Thiên Chúa (để tránh hiểu lầm và hiểu sai,
có lẽ tốt hơn nên dùng hạn từ “Thần Linh”!), một Đức Chúa, một Thần Khí (1Cr
12,4-6). Và:
·
Khi
nói “chỉ có một Thiên Chúa” là có ý khẳng định: “ Cha là Thiên Chúa”, “Con là Thiên
Chúa”,” Thần Khí là Thiên Chúa”; và ngôn ngữ thần học gọi hạn từ “Thiên Chúa”
là “bản tính” hay “bản thể” của Cha - Con - Thánh Thần...
·
Khi
nói “Chỉ có một Đức Chúa” là có ý khẳng định: “Cha là Đức Chúa”, “Con là Đức Chúa”,
“Thần Khí là Đức Chúa”; và ngôn ngữ Thần học gọi hạn từ “ Đức Chúa” là “bản
tính” hay “bản thể” của Cha - Con - Thánh Thần...
·
Khi
nói “chỉ có một Thần Khí” là có ý khẳng định: “ Cha là Thần Khí”, “Con là Thần Khí”,”
Thánh Thần là Thần Khí” (Ga 4, 24; 2Cr 3,17), hay nói cách khác, “Cha và Con là
và có chung một Thần Khí”; và ngôn ngữ thần học gọi hạn từ “Thần Khí” là “bản
tính” hay “bản thể” của Cha - Con - Thánh Thần... Như vậy, hạn từ “Thần Khí”
đồng thời vừa chỉ bản tính hay bản thể của Cha- Con- Thánh Thần, vừa chỉ một Đấng
khác với Cha và Con; và điều đó, nói theo ngôn ngữ thần học, có nghĩa Thần Khí
vừa là bản tính hay bản thể của Cha và Con vừa là chính Mình hay, nói cách khác,
vừa là một Ngôi vị. Tuy nhiên, không phải là Hữu Thể trong tư cách chỉ là Chủ
thể (Être-Sujet) như Chúa Cha, Đấng vốn là “Nguyên lý phi nguyên lý” và “Nguyên
lý của mọi nguyên lý”..., Đấng vốn sinh ra Chúa Con và “ ái xuất” (spiration)
Chúa Thánh Thần, Thần Khí Tình yêu, và đã sai Chúa Con và Chúa Thánh Thần...
Từ đó, cũng có thể nói rằng,
ngoại trừ “tư cách là Cha của Chúa Cha” và “tư cách là Con của Chúa Con”, tất
cả những gì thuộc bản tính và cả những thuộc tính (attributs) của Cha và của Con
đều là chính Thần Khí: Tình yêu, thần tính và nhân tính của Chúa Con, Tình Cha,
tình Con, tình Đức Chúa, hằng hữu, tự hữu, hằng sống, vĩnh hằng, quyền năng,
thánh, vinh quang, tác tạo, tác sinh, tái sinh, đá tảng, thuẫn che chở, gió,
lửa, đám mây, nước, ánh sáng, bàn tay, ngón tay, chim bồ câu, sức dầu, ấn tín,
v.v... Hay nói cách khác, Thần Khí chính là Hành động của Chúa Cha và Chúa Con
trong Vĩnh Hằng và trong Lịch sử. Vì thế, trong ngôn ngữ Kinh Thánh, khi Cha
biết và yêu là sinh ra Con (x. 1Ga 4,7-8; Rm 8,15.29.32; Cl 1,13.15tt), và khi
Cha phán là tạo dựng (St 1,3-31; Ga 1,3)...
b.
Sự
hiệp nhất Thần linh trong ngôn ngữ Tân Ước được nhìn trong chiều hướng năng động (dynamique) chứ không quá tĩnh tại (statique)
như trong ngôn ngữ thần học vốn dựa trên những khái niệm tĩnh tại, ù lì như
“bản tính” và “bản thể” (nature est id quo res est id quod est!), và vì thế, đã
hẳn không thể nào phản ảnh được cách đầy đủ và hoàn toàn thực tại hiệp nhất thần
linh (thử so sánh bức ảnh chụp dòng sông với chính dòng sông!)... Vì thế, những
khái niệm triết học như “ Ngôi vị”, ‘bản tính”, “bản thể”, “đồng bản thể”...
vốn chỉ là một trong những phương thế, được dùng trong những hoàn cảnh nhất
định và với những mục đích nhất định, để tiếp cận với Mầu Nhiệm Thần linh, chứ
không phải là con đường duy nhất có thể có, nên chúng cần được rọi sáng và biện
minh bởi ngôn ngữ Kinh Thánh chứ không phải ngược lại...
THẦN KHÍ, NHƯ MỘT NGÔI VỊ (tt)
II.
SUY TƯ THẦN HỌC: THẦN KHÍ LÀ AI?
Khi được hỏi: “Chúa Cha
là ai?”, người ta có thể trà lời ngay: “Chúa Cha là Cha của Chúa Con”. Và khi được
hỏi “Chúa Con là ai?” đã hẳn người ta cũng có thể trả lời ngay: “Chúa Con là
Con của Chúa Cha”. Thế nhưng, khi được hỏi “Thần Khí hay Chúa Thánh Thần là ai?”,
thì vấn đề lại không đơn giản... Thật vậy, nếu muốn có một câu trả lời như kiểu
đối với Chúa Cha và Chúa Con, thì câu hỏi bây giờ trở thành: “Thần Khí là Thần
Khí của ai?”. Tuy nhiên, trong trường hợp Chúa Cha và Chúa Con, ngay hai khái
niệm “Cha” và “Con” đã tự chứng được định vị (tư cách và chức năng, và cho biết
những mối tương quan khá rõ ràng), còn trong trường hợp hạn từ “Thần Khí” thì
không được vậy, và câu hỏi về Ngài bấy giờ lại trở thành câu hỏi kép: “Thần Khí
là ai (đối với chính Mình) và của ai
(đối với Chúa Cha và Chúa Con)?”...
Về Chúa Thánh Thần,
những vấn đề đó được đặt ra từ những thế kỷ IV, V (scn). Một số khuynh hướng
lạc giáo cho rằng trong mối tương quan với Chúa Cha, vì “được Cha đổ tràn” (Ed
39,29), “được Cha trao ban” (Ga 7,39), nên Thần Khí không thể được coi “ngang
hàng” với Cha, thậm chí, có người còn cho Thần Khí là thụ tạo của Cha; và trong
tương quan với Chúa Con vì “ được Con sai đi”(Ga 15,26), nên Thần Khí không thể
được coi “ngang hàng” với Con, thậm chí có người còn cho Thần Khí do Chúa Con
tạo ra... Nhằm đối phó lại những khuynh hướng lạc giáo đó, ngôn ngữ thần học
cũng như ngôn ngữ của các Công đồng, công nghị từ thế kỷ IV,V cho đến bây giờ
vẫn vậy, nghĩa là tiếp tục sử dụng những khái niệm triết học như: “đồng bản
thể” (consubtantiel), “nhiệm xuất” (procession), “ái xuất” (spiration)... để
khẳng định “thần tính” của Chúa Thánh Thần, Đấng phải được phụng thờ và tôn
vinh hoàn toàn như Chúa Cha và Chúa Con... điều mà người ta có thể nhận ra ngay
là cả ngôn ngữ đặt vấn đề, cả ngôn ngữ giải quyết vấn đề đều hoàn toàn xa lạ
với ngôn ngữ Kinh Thánh, vốn là ngôn ngữ tình yêu và lịch sử...
2. Thần Khí là ai (đối với chính
Mình) và của ai (đối với Chúa Cha và Chúa Con)?
Thử bắt đầu với khái
niệm “Ngôi vị”. Ngôn ngữ thần học gọi “Thần Khí là một Ngôi vị”. Thế nhưng,
khái niệm “Ngôi vị” tự nó vốn bao gồm hai khái niệm khác, đó là “tư cách” và
“chức năng”. Thí dụ: khi nói Cha là một Ngôi vị thì có nghĩa “là Cha” (être
Père) chính là tư cách của Ngôi vị đó, và “làm Cha”, tức là “sinh Con” và “yêu
thương Con”... chính là chức năng của Ngôi vị đó. Và khi nói Con là một Ngôi vị
thì có nghĩa “ là Con” (être Fils) chính là tư cách của Ngôi vị đó, và “làm
Con” tức là “đón nhận sự sinh ra và tình yêu của Cha đồng thời đáp trả lại bằng
tình con thảo”... chính là chức năng Ngôi vị đó. Thế nhưng, khi nói Thần Khí là
một Ngôi vị, thì tư cách và chức năng của Thần Khí là gì.
Trong tương quan với Chúa
Cha và Chúa Con, ngôn ngữ Kinh Thánh vẫn thường gọi Thần Khí cách chung chung,
đôi khi có vẻ như thiếu Ngôi vị tính (a-personnel): “được thổi vào hay được hà
vào...” (St 2,7; Tv 104,30), “được đặt vào...” (Is 42,1), “được ban cho...” (Ds
11,29; Ga 7,39), “được đổ tràn vào...” (Ed 39,29), “được sai đến...” (Ga 14,26), “...của Cha” (Rm 8, 9.14; 15,19; 1Cr 6,11; 7,40), “...của
Con” (Rm 8,11; 2Cr 3,17), v.v... Tuy nhiên, nếu như trong tương quan với Cha và
Con, Thần Khí xem ra có vẻ như thiếu Ngôi vị tính, thụ động, tiêu cực..., nhưng
trong khi thi hành sứ vụ được giao, ngôn ngữ Kinh Thánh đã cho chúng ta thấy
Thần Khí như một Đấng đầy ngôi vị tính, năng động, mạnh mẽ, tích cực, năng nổ
(Is 11,1-5; Tl 3,10; 11,29;14,6; 6,34; 1Sm 1,6; 10,1; 16,13; Am 3,8; 7,14t; Gr
20,7t;v.v...)... Đằng khác, nếu nhìn Thần Khí từ góc độ hệ quả của những tác
động của Ngài trong Lịch sử, người ta sẽ có thể phát hiện ra được phần nào dung
mạo và chức năng của Ngài trong lịch sử và cả trong Mầu Nhiệm Thần Linh vĩnh
hằng.
a.
Chức
năng của Thần Khí:
Trong ngôn ngữ Kinh Thánh,
sự tuôn tràn Thần Khí như cơn mưa đem sự sống cho vùng đất khô cằn (Is 32, 15;
44,3; Ed 36, 25; Gr 3,1t) như sinh khí làm sống động những bộ xương khô (Ed
37); như một cuộc sáng tạo mới thay đổi bộ mặt của xứ sở (Is 32,16), thay đổi con
tim, lòng dạ của con người (Is 59,21; Tv 143,10; Ed 36,27); mặc khải dung mạo đích
thực của Chúa Cha (Ed 39,29), dung mạo đích thực của Chúa Con (Ga 14,16;
16,7.13t; 14,26); tác sinh (Ga 6, 63; St 1,2; Lc 1,35; Mt 1,18-20); tái sinh (Ga
3,8; Ep 2,1-2); phục sinh (Rm 8,11); mặc khải chân lý (Ga 16,13; Ep 1,17-18;
v.v...)
b.
Phác
thảo một thứ ngôn ngữ Thần Khí học:
Nói chung, có thể nói
rằng ngôn ngữ Thần Khí học đích thực phải là thứ ngôn ngữ có tính tình yêu và
lịch sử. “có tính tình yêu”, bởi vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8b) “có tính
lịch sử”, bởi vì dung mạo đích thực của Chúa Thánh Thần vốn được biểu lộ qua
Hành động Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con mà chính Ngài là Đấng thực hiện,
trong vĩnh hằng và trong lịch sử...
Để diễn tả tình yêu của
Thiên Chúa nói chung, ngôn ngữ Kinh Thánh khi thì sử dụng khái niệm “tình vợ
chồng”, “tình yêu nam- nữ” (chủ yếu trong ngôn ngữ Cựu Ước), khi thì sử dụng
khái niệm “tình Cha- Con” (Cựu Ước và Tân Ước). Như vậy, có thể nói tình yêu
Thiên Chúa là một thứ tình yêu tổng hợp tất cả mọi đặc tính, mọi khả năng tích
cực của những thứ tình yêu, hay nói cách khác, mọi thứ tình yêu nhân loại đích
thực đều mang dáng dấp hay dấu vết của tình yêu Vĩnh hằng:
1.
Sự
“tận hiến”, “hiến dâng” (oblation totale): yêu nhau, trước tiên, có nghĩa là trao
tặng cho nhau tất cả những gì mình là (être) và mình có
(avoir). Và, trong tình yêu Thần linh, quà tặng (Donum, Don) đó chính là Thần Khí
tình yêu, vốn là một Đấng, một Ngôi vị được Cha trao ban và được Con đón nhận, và
trở thành của Cha và của Con, hay nói cách khác, là “của chúng ta”, hay “ của nhau”
(Etre- le Nôtre)... Nói theo ngôn ngữ Augustin, đó chính là Ân huệ của Thiên
Chúa (Cv 2,38; Ga 4,10).
2.
Qui
trình “ra đi- trở lại” (exitus-reditus): thứ đến, yêu nhau có nghĩa là “ra khỏi
chính mình” (exitus de soi-même) để đến và hòa nhập với nhau (reditus à nous- même
et à soi-même)... Và, trong tình yêu Thần linh, Thần Khí Tình yêu vừa chính là
“Đấng ra đi” vừa chính là “Đấng trở lại” của Cha và của Con và của chính Ngài
(Ga 10,17-18; 19,30; Cv 2,33).
3.
Sự
“hiện diện trong nhau và với nhau” (présence reciproque, intériorité reciproque;
Hy ngữ: périchorèse; La ngữ: circumincessio): yêu nhau, còn có nghĩa là luôn
luôn hiện diện trong nhau và với nhau (những khái niệm thời gian và không gian,
ở đây không còn ý nghĩa), đến độ là nhau (Être in personna)... Và trong Tình
Yêu Thần linh, chính Thần Khí Tình yêu vừa là Đấng tác sinh ra sự Hiện diện
trong và với Nhau đó (sự “tương nhập của Cha-Con-Thần Khí), vừa chính là Đấng, nói
theo ngôn ngữ Phaolô, làm cho Cha có thể nói: “Cha sống, nhưng không phải là
Cha sống, mà chính Con và Thần Khí sống trong Cha; làm cho Con có thể nói: “Con
sống, nhưng không phải Con sống, mà chính Cha và Thần Khí sống trong Con”; làm
cho Ngài có thể nói: “Thần Khí sống, nhưng không phải Thần Khí sống, mà chính
Cha và Con sống trong Thần Khí” (x.Gl 2,20; Pl 1,21), hay nói cách khác, Thần
Khí Tình Yêu chính là Đấng làm cho Cha- Con- Thần Khí là Nhau hay là Một (Ga
10,30; 14,26)... Đó chính là sự sống Tình Yêu Thần linh, sự sống Ba Ngôi, sự sống
đời đời...
4.
Sự
“độc hữu” hay “độc chiếm” (monogamie): Yêu nhau, ngoài ra, còn có nghĩa muốn người
mình yêu (Aimé) chỉ thuộc về một mình Mình mà thôi (Aimant): một chồng- một vợ;
một cha-một con (ngôn ngữ Cựu Ước cho thấy Thiên Chúa vốn là Đấng hay ghen: Xh
20,5; Is 43,10t; 48,11- ngôn ngữ Tân Ước trình bày Đức Giêsu Ktiô như là “Con
Một”(Unigenitus): Ga 3,16; 1Ga 4,9)... Và, trong Tình yêu Thần linh, Thần Khí
Tình Yêu vừa không phải là Cha- Đấng yêu thương (Aimant), vừa không phải là Con-
Đấng được yêu thương (Aimé), vừa không phải là “kẻ thứ ba quấy rầy”, mà là “
Đấng- Người yêu của chúng ta” (Notre Aimé) đối với Chúa Cha và Chúa Con. Thật vậy,
Thần Khí Tình Yêu chính là Đấng hằng” tạo
tác”, “ vun đắp”, “tạo điều kiện” cho tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa
Thiên Chúa và loài người và giữa loài người với nhau... (ngôn ngữ Kinh Thánh,
Cựu Ước cũng như Tân Ước, không bao giờ nói “Chúa Cha hay Chúa Con yêu Chúa
Thánh Thần” và ngược lại, mà chỉ nói “Chúa Cha và Chúa Con yêu nhau trong (en)
Chúa Thánh Thần...)...
5.
Sự
“siêu việt thời gian và không gian” (transcendance
du temps et de l’space):
Đối với những kẻ yêu nhau,
những khái niệm thời gian (quá khứ, hiện tại, tương lai; mau hay lâu, nhanh hay
chậm, v.v...), không gian (gần hay xa) dường như không còn tồn tại, và không
hẳn chỉ là trong ý thức: họ cảm thấy “có nhau” dường như cách vĩnh hằng và từ
“Muôn kiếp” họ cảm thấy luôn luôn hiện diện bên nhau và với nhau (đã hẳn họ sẽ
mất tất cả những cảm nhận đó khi họ không còn yêu nhau!)... Và trong Tình yêu
Thần Linh, chính Thần Khí Tình yêu là Đấng làm cho “thời gian yêu nhau” của Chúa
Cha và Chúa Con là Vĩnh hằng và “khoảng cách Cha - Con” hoàn toàn bị xóa nhòa...
Và, trong Lịch sử hay trong nhiệm cục Cứu độ, Thần Khí Tình yêu chính là Đấng
làm cho toàn thể Lịch sử (thời gian và
không gian) hội tụ lại và hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô vôn là Chúa Con - nhập
thể, và như vậy, Đức Giêsu Kitô trở thành “Đấng luôn luôn là Hôm nay” (Lc 4,21)
của Cha - Con - Thần Khí, “Đấng Hằng hữu” (Ga 8,24.27.57; 13,19), “Sự hoàn tất
toàn bộ Lời hứa, Ý định Tình yêu, một lần thay cho tất cả, của Thiên Chúa”...
Như vậy, vấn đề còn lại là của con người: đó là vấn đề sở đắc Ân sủng Tình yêu
đó (possession de la Grâce). Và trong lịch sử, Thần Khí Tình yêu đồng thời vừa
là Đấng làm cho con người từ bỏ những “Quê hương cũ”, những “bây giờ” (maintenants)
của riêng mình để mãi mãi “lên đường”, mãi mãi “ra đi”, mãi mãi “xuất hành”,
hướng về những chân trời tương lai, theo sự hướng dẫn của Thần Khí Tình yêu,
Đấng muốn thổi tới đâu thì thổi (Ga 3,8), những chân trời nhiều khi hoàn toàn
mới mẻ, ngoài sức tưởng tượng của con người; vừa là Đấng hiện tại hóa Ân sủng
Tình yêu đó (actualiser) để con người mọi nơi và mọi thời đều có thể sở đắc:
quá khứ, hiện tại và tương lai. Như vậy, còn có thể nói Thần Khí Tình yêu chính
là Dung mạo tương lai của Thiên Chúa...
THẦN KHÍ NHƯ MỘT ÂN HUỆ
Có thể nhìn vấn đề dưới 2 góc độ:
2.
Thần
Khí, như Ân huệ Chúa Cha ban cho loài người qua Chúa Con.
I. THẦN KHÍ, NHƯ ÂN HUỆ CHÚA CHA VÀ CHÚA CON TRAO TẶNG CHO
NHAU:
A.
Trong
Mầu Nhiệm Tình Yêu vĩnh hằng:
trong ngôn ngữ Kinh Thánh, Cựu Ước cũng như Tân Ước, Thần Khí luôn được gọi là Đấng
“được trao ban” hay “chưa được trao ban”, “được sai đi”, “được đổ tràn”, “được
đón nhận” (Lc 11,13; Cv 2,4.17.18.38; 8,15.17.18.19; 10,45.47; 15,8; 19,2; Ga
7,39; 14,17.26; Kh 5,6; 1Ga 3,24; Rm 5,5; Gl 3,2.5.14; 1Tx 4,8; Tt 3,5; 1Pr
1,12; v.v...). Điều đó có nghĩa Thần Khí chính là Ân huệ (Donum,Don) là quà
tặng Tình Yêu của Thiên Chúa. Thế mà,
nếu như “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8), và nếu như Chúa Cha là Đấng đã có
thể nói với Con độc nhất của mình như: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng
về Người” (Mt 3,17; 12,18; Is 42,1-4; v.v...), “Tất cả những gì của Cha đều là
của Con” (Lc 15,31; Ga 17,10)... thì “Quà tặng” đẹp lòng nhau nhất của các Ngài
là gì nếu không phải là “tất cả những gì các Ngài là (être) và có
(avoir)”? Thật vậy, có thể nói, trừ tư cách là Cha của Mình, Chúa Cha, đã hẳn
trao ban cho Chúa Con tất cả những gì Chúa Cha là và có
(Thần tính, ngôi vị tính...), nghĩa là tất cả những gì là Mình của Cha. Và, như
vậy, “Đấng được ban cho” (Donné) cũng như “ Đấng đón nhận ân huệ (Recevant) đều
là và có tất cả những gì Chúa Cha là
và có (thần tính, ngôi vị tính trừ tư cách là Cha). Và “Đấng được
Cha ban cho Con” (Donné) đó, trong tư cách là “Đấng ra đi khỏi Cha” (Exitus de
Soi-Même), được gọi là “Thần Khí Tình Yêu của Cha” (Mt 12,18; Cv 2,17; 1Cr
3,11.12.14.16; 6,11; 1Pr 4,14; 1Ga 4,2; Mt 3,16; 12,28; Rm 8,9.14; 1Cr 7,40;
12,3; Pl 3,3; v.v...). Đồng thời, đón nhận Ân huệ Thần Khí Cha ban cho, trong
niềm tri ân và cảm tạ, Chúa Con “trao tặng lại” (Reditus:x. Ga 19,30) Cha “Ân
Huệ được Cha ban tặng” và “đã được Con vui lòng đón nhận” như là “ Thần Khí của
Con” (Cv 16,7; x. Mt 27,50; Mc 2,8; 8,12; Lc 23,46; Ga 11,33; 13,21; Pl 1,19;
Rm 8,9; 1Pr 1,2; Gl 4,6; v.v...). Bởi vì, Con còn quà tặng nào đáng giá hơn là
“Thần Khí Tình Yêu” của chính Mình hay là “chính Mình” (Ga 10,17-18)... Như
vậy, như là “Ân huệ vĩnh hằng”, Thần Khí của Cha và của Con, Thần Khí Tình yêu
là Đấng mãi mãi “sống kiếp lữ hành”, luôn luôn vận hành ở trong qui trình “ra
đi - trở lại” để tình yêu của Ba ngôi luôn luôn sống động, trong Vĩnh hằng cũng
như trong Lịch sử...
B.
Trong
lịch sử: Trong biến cố Sáng Tạo
- Nhập thể - Cứu độ, Chúa Cha đã sai Thần Khí của Ngài cùng với Con trong một
Sứ vụ liên kết là Sáng tạo, Yêu thương và Cứu độ (Mt 12,18; x. Is 11,1-2;
GLHTCG số 702)... Chính trong sứ vụ liên kết này mà quá trình “sở đắc Thần Khí
của Cha” của nhân tính của Chúa Con - Nhập thể diễn ra trong lịch sử. Nói như
thế là bởi vì trong tư cách là Thiên Chúa (thần tính), Chúa Con - Nhập thể,
Chúa Cha và Thần Khí, dù trong Lịch sử, vẫn luôn hiện diện trong nhau và với
nhau nên như Một (Ga 10,30; 17,21; x. 10,38; 14,11; 14,9b; x. 8,19; 12,45; Dt
1,3). Việc nhân tính của Đức Giêsu sở đắc Thần Khí của Cha được thực hiện qua
những Hành động yêu thương của Ngài đối với Chúa Cha, Thần Khí và loài người,
trong lịch sử, và chỉ được hoàn tất trọn vẹn trong hành động tận hiến tột đỉnh
trong Tình Yêu của Ngài trên Thập giá
khi Ngài “giao nộp lại” Chúa Cha Thần Khí
(Ga 19,30), và, chính giây phút đó, cái, “nghịch lý của Tin Mừng” đã xảy
ra, để “tưởng thưởng” cho tình yêu tuyệt đối của Con đối với Cha, Chúa Cha đã
“tuôn tràn Thần Khí” xuống trên con người (nhân tính) của Chúa Con - nhập thể,
và chính lúc đó quá trình sở đắc Thần Khí của Cha nơi nhân tính của Đức Giêsu
hoàn tất: nhân tính của Đức Giêsu được thần linh hóa vì tràn ngập Thần Khí, và
trở nên hoàn toàn hiệp nhất với thần tính của Ngài ( Mt 16,24-25; Mc 8,34-35;
Lc 9,23-24; Ga 3,14-21; 8,27-29), và tất cả những ai thông hiệp với Ngài sẽ
được thần linh hóa như Ngài: đó chính là “ Lời hứa” của Chúa Cha (Cv 1,4; Lc
24,49; Cv 2,17) và cũng là niềm Hy vọng của loài người...
II.
THẦN KHÍ, NHƯ ÂN HUỆ CHÚA CHA BAN CHO LOÀI NGƯỜI QUA CHÚA CON
“Thiên Chúa phán: trong
những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm...” (Cv
2,17; x. Ge 3,1-5).
“Khi Đấng Bảo trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha,
Người là Thần Khí Sư thật phát xuất từ Chúa Cha...” (Ga 15,26).
A.
Cảm
nghiệm của các Tông đồ: Sau ngày Lễ Ngũ
Tuần, các Tông đồ có cảm nhận như họ bị xâm chiếm bởi một “sức mạnh” vượt lên
trên bản thân họ. Họ cảm thấy như thần trí của mình có một Thần Khí Khác xâm
chiếm vượt lên trên, như có một Thần Khí Khác đã được sai đến, đã được ban cho,
đã được tuôn tràn trong họ và họ đã được đón nhận (Lc 11,13; Cv 2,4; v.v..). Đồng
thời, họ cũng cảm nhận rằng nỗ lực sáng kiến riêng tư của họ như được vượt quá,
được nâng cao bởi Hành động của Đấng đang hiện diện bên trong họ, đang “giúp
đỡ” họ, “hướng dẫn” họ, “lôi kéo” họ, “sai phái” họ, “thúc đẩy” họ, “ra lệnh” cho
họ, “ngăn cấm” họ, v.v... (Cv 21,4; 13,4; 15,28; 16,6; 20,28; 8,39; Ga 16,13;
Rm 8,14.26; Gl 5,16; 2Pr 1,21)...
B.
Như
một Hiện Diện thuộc linh hết sức thân mật:
các Tông đồ dù không bao giờ có cảm nhận là Thần Khí của họ trở thành Thần Khí đó:
vẫn có một sự phân biệt giữa hai bên (Rm 8,16; Cv 15,28; x. Cv 5,3), nhưng mối
quan hệ lại rất thân mật với lối nói luôn luôn trên môi miệng của họ: “trong
Thần Khí”(Rm 8,9; Mt 3,11; Lc 3,16; Ga 1,33; Cv 1,5; v.v...). Một điều đặc biệt
đó là hình như Thần Khí chỉ “linh hứng”, “báo trước”, “mặc khải”, “tiên báo”,
“dạy dỗ”,v.v... trong và qua Giáo Hội mà thôi (Lc 12,12; Cv 6,10; 11,28; 20,23).
Đàng khác, họ tự gọi mình là “các thánh”, có lẽ nhằm ám chỉ đặc tính họ được
Thần Khí xâm chiếm và siêu vượt lên trên, bởi vì Cựu Ước vẫn gọi Thần Khí là
Thánh Thần... Đó chính là những công việc mà Thần Khí của Đức Giêsu Kitô- Phục sinh
đã, đang và vẫn tiếp tục tiến hành bên trong lịch sử, với mục đích thần linh
hóa con người và vũ trụ hầu Thiên Chúa trở thành mọi sự cho mọi người. (1Cr
15,28)...
(Lưu ý: phần II được
soạn theo tư tưởng của Lm. Paul Aubin, le Monothéisme chrétien, Ronéotypé, GHHV
Pio X, Đà Lạt, tr. 35-36)
THẦN KHÍ SỰ SỐNG
Có 2 vấn đề cần được
được ra:
1.
Khái
niệm “sự sống” trong ngôn ngữ Kinh Thánh.
2.
Chúa
Thánh Thần, Thần Khí sự sống vĩnh hằng và lịch sử.
I.
KHÁI NIỆM “SỰ SỐNG” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH
A.
Trong
Mầu Nhiệm Ba Ngôi, bởi vì là “Thiên Chúa
hằng sống, hằng hữu, và tự hữu” (Xh 3,14; Is 42,8; Ga 8,24.57; Gs 3,10; Tv 42,3;
Dnl 6,21; 1V 18,10; v.v...), nên Sống có nghĩa là các Ngài “biết nhau”, “yêu
thương nhau”, “hướng về nhau”, “ hiện diện trong nhau, vì nhau và với nhau”,
“có tương quan mật thiết với nhau”, v.v... (Gr 2,13; Tv 36,10; 63,4; 84,11; Am
5,4tt; Hs 6,1tt; Ga 1,1-2.4; 14,6; 11,12...). Đó là điều mà ngôn ngữ Tân Ước
gọi là “sự sống đời đời” (Mt 19,16tt. 29tt; 7,14; 18,8tt; Ga 4,14; 6,27-58;
11,25tt; 3,36; 12,47-50...).
B.
Đối
với các thụ tạo (trừ các thiên thần?) mà
hiện hữu vốn là hiện hữu được ban cho và được đón nhận trong thời gian và không
gian, nghĩa là đã có lúc không hiện hữu và sẽ có lúc không còn tồn tại, thì
Sống, ngoài ý nghĩa “sự Sống đời đời” (đây là ý nghĩa chính thức và quan
trọng), còn có nghĩa:
1.
“Bắt
đầu hiện hữu”:
-
Nghĩa
đen: “bắt đầu hiện hữu” và “bắt đầu sống” đồng nghĩa với nhau (đời sống khoáng vật,
thực vật, sinh vật).
-
Nghĩa
bóng: “bắt đầu hiện hữu” không nhất thiết có nghĩa là “bắt đầu sống” (đời sống luân
lý: thí dụ: những kẻ vô đạo “vừa mới sinh ra đã thôi hiện hữu” Kn 5,13)...
2.
“Sống
lại”:
-
Nghĩa
đen: chết, rồi sống lại nhưng chưa phải là
sự sống đời đời (như trường hợp con gái ông Giairô, con trai góa phụ thành
Naim, Lazarô.../ Mc 5,21-42tt; Lc 7,11-17; Ga 11/)...
-
Nghĩa
bóng: lập lại mối tương quan thân tình với Cha và anh, chị em; lại được Cha tìm
thấy (Lc 15,21.32). Như vậy đồng nghĩa với “được sinh lại bởi ơn trên” (Ga 3,5.7),
“được Thiên Chúa sinh ra” (1Ga 4,7b)...
-
Nghĩa
thực thụ: chết, rồi sống lại và được hoặc không được tham dự vào Sự sống Ba Ngôi
(trong Lịch sử: sự sống lại hay Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô; “ giờ” phán xét
cánh chung/ Kh 14,12-13; Lc 20,34-38; Mt 25,31-46/).
II.
CHÚA THÁNH THẦN, THẦN KHÍ SỰ SỐNG VĨNH HẰNG VÀ LỊCH SỬ
A.
Sự
sống Ba Ngôi trong Mầu nhiệm Thiên Chúa:
Nếu, nói theo ngôn ngữ của
Gioan, “sự Sống đời đời là nhận bết Cha, Thiên Chúa duy nhất và Chân thật, và
nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3), thì, đã hẳn, ngoài
Chúa Cha và Chúa Con ra chẳng ai “có” được sự Sống đời đời cách như Chúa Thánh
Thần. Thật vậy, Thần Khí Thiên Chúa không những “biết” (có tương quan mật thiết với) Chúa Cha và Chúa Con, mà chính Ngài là
Đấng thực hiện Hành động “biết” đó để Ba Ngôi Cha - Con - Thần Khí” biết nhau”;
và các Ngài không chỉ “biết nhau” mà còn “là nhau”; (hay “là Một”) nữa... Có
thể nói rằng, trong Thực tại sự sống Ba Ngôi vĩnh hằng, nếu không có Thần Khí
Tình Yêu là Chúa Thánh Thần, Chúa Cha chẳng thể nào “sinh ra” Con và “biết”
được Con, và Chúa Con cũng chẳng thể nào “đón nhận” được sự “ sinh ra” của Cha
như Ân huệ Tình yêu và “biết” được Cha và “Ân huệ Tình yêu” (Donum) nầy. Như
vậy, có thể nói rằng không có Thần Khí tình yêu là Chúa Thánh Thần thì không có
sự sống Ba Ngôi vĩnh hằng, hay nói cách khác, Chúa Thánh Thần chính là Đấng tác
thành sự sống Thần linh vĩnh hằng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Và, nếu Thiên Chúa là
“Thiên Chúa Hằng sống”, thì Hành động tác thành sự Sống vĩnh hằng đó cũng phải là Hành động vĩnh hằng, và, trong Lịch
sử, Hành động tác thành sự sống đó luôn luôn là “cái Hôm nay” (l’Aujourd’hui)
và “cái Bây giờ” (le Maintenant) đối với Ba Ngôi và đối với tất cả những ai
được Thần Khí Tình Yêu hướng dẫn hoặc để cho Ngài hướng dẫn. Bởi thế, đối với
các Sứ ngôn, sự sống chính là “tìm kiếm Giavê” (Am 5,4tt; Hs 6,1tt): “sống, đó
là tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng, sống cách dồi dào, đó là gặp gỡ được Ngài” (Bruno Forte, la Trinité comme Histoiré,
Nouvelle Cité, Paris 1989, p.178).
B.
Sự
sống của các thụ tạo (trừ các thiên thần?!):
1.
Sự
sống như là “được hiện hữu” (“con
cám ơn Đức Chúa Trời... chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời, mà lại sinh ra
con...”): đối với với các Thụ tạo mà sự hiện hữu là được ban cho hay được đón
nhận từ Thiên Chúa thì “ không có bột không thể gột nên hồ” được (ex nihilo nihil
fit), nhưng đối với Thiên Chúa vừa hằng sống, tự hữu, hằng hữu và toàn năng thì
không như thế. Nói theo ngôn ngữ của Karl Barth, quyền Chúa Tể (la seigneurie)
của Thiên Chúa hệ tại ở chỗ Ngài là Chúa tể cả “cái có” và “cái không”, cả “cái
hiện hữu” và “cái không hiện hữu”, cả sự sống và sự chết - nếu không thế Ngài
chẳng thể là Đấng Toàn Năng- nghĩa là Ngài có thể làm cho hiện hữu cái không
hay chưa hiện hữu, làm cho sống cái đã chết và làm cho chết cái đang sống, v.v..., nếu Ngài muốn. (x. Karl Barth,
Dogmatique, I,I,2, p.88). Hay nói cách khác, đối với Thiên Chúa Tự hữu, Hằng
hữu, Hăng sống, chẳng có gì là không
tuyệt đối” cả, mà chỉ là “chưa hiện hữu” hoặc “không còn hiện hữu”... Vì thế,
ngôn ngữ thần học và phụng vụ nói “công trình Sáng tạo được thực hiện do Chúa
Cha, bởi Chúa Con, nhờ Thần Khí (của Cha và của Con), hay nói cách khác, nhờ
Sức mạnh Toàn năng của Lời của Chúa Cha“(St1,1-2, 4a; Tv 33,6; 104,30; 2Mcb
7,28; 2Cr 4,6; Rm 4,17; Cv 17,28; 1Tm 6,13; Kh 10,6; Ga 1,1-10; v.v...).
2.
Sự
Sống do “được tái sinh” hay “được cứu
độ”: đối ứng với việc sinh ra tự nhiên của con người, ngôn ngữ Kinh Thánh, đặc
biệt Tân Ước còn nói tới sự sinh ra siêu nhiên mà nguyên lý là “do Chúa Cha,
bởi Lời của Chúa Cha tức là Chúa Con, nhờ Thần Khí của Chúa Cha đã được Đức
Giêsu Kitô Phục sinh sở đắc cách trọn vẹn và tròn đầy (và vẫn được gọi là Thần
Khí của Đức Kitô Phục sinh)” hay nói cách khác, “nhờ Tin-Cậy-Mến và Phép rửa
“nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần-trong tư cách là Thần Khí của
Đức Kitô- Phục sinh”: đó chính là Sự Sống đời đời mà con người có thể “nếm trải” ngay khi còn tại thế (Ga
3,14-21; 8,27-29; 6,35-40; 10,17; 14,15-20.23-26; 16,7-15; 15,26; Tt 3,5; Rm
8,15tt; Gl 4,6; 1Pr 2,1; Gc 1,21; 1Pr 1,14.22tt; 1Ga 3,9tt; Rm 6,5; Ga 17,3;
v.v..).
3.
Sự
Sống bên kia sự Chết và tiêu hủy hoàn toàn sự
Chết: Ngôn ngữ Cựu Ước có đề cập đến sự Sống lại sau khi chết nhưng chỉ mới cách
chung chung: “Thiên Chúa sẽ trả lại tinh thần và sự sống cho họ... Họ uống nguồn
sống không hề cạn khô” (2Mcb 7,23.36; Ed 33,11; 37,11-14; Is 53,10). Ngôn ngữ
Tân Ước, có vẻ rõ ràng hơn, khẳng định sự sống lại sau khi chết đáng mơ ước đó
là được “ở với Đức Kitô” (Lc 23,43; Pl 1,23; x. 2Cr 5,8; 1Tx 5,10), hay nói cách
khác, được “ở trong Thần Khí của Đức Kitô Phục sinh”, “được Thần Khí của Đức Kitô
- Phục sinh hóa hoàn toàn”... và niềm hy vọng cánh chung đó là lúc Thần Khí của
Đức Kitô Phục sinh Kitô-hóa mọi sự và mọi người, và Đức Kitô, lúc đó, sẽ là
Chúa tể mọi loài, mọi vật. Và lại một lần nữa, Đức Giêsu Kitô lại thực hiện một
cử chỉ Tận hiến tột cùng trong tình yêu đó là “giao nộp lại” cho Cha Thần Khí
của chính Mình Ân huệ của Cha, dung mạo cánh chung của Thiên Chúa và của con người
(x. Ga 19,30; 1Cr 15,24. 28), và lúc đó, con người trở nên giống như Thiên Chúa
và thấy được Ngài đúng như Ngài là, mặt đối mặt (1Ga 3,2): đó là bản chất của
đời sống vình cửu (Ga 17,3)... và, lúc đó, Thiên Chúa trở thành mọi sự trong
mọi người (1Cr 15,28)...
BẢY ÂN HUỆ CỦA CHÚA THÁNH THẦN
I. NHẬN XÉT:
1.
Ở
Việt Nam, hiện nay, đang có một tình trạng lẫn lộn, thiếu thống nhất trong cách
hiểu và dịch thuật 7 khái niệm này mà vốn là nền tảng và cơ sở để hiểu về Chúa Thánh
Thần và Bí tích Thêm sức...
2.
Tình
hình đó có lẽ phát xuất, một đàng, từ chỗ cái “logic” của Is 11,1-2 vẫn chưa
được quán triệt cách sâu sắc và đúng đắn: người ta sẽ thấy rõ điều đó khi thử
so sánh cách dịch và cách xếp thứ tự các ân huệ nơi một số dịch gỉa Việt Nam,
như Lm. Nguyễn Thế Thuấn trong bản dịch Kinh Thánh trọn bộ, Gm. Paul Bùi Văn
Đọc trong tác phẩm tập thể “Chúa Thánh Thần, Đấng Ban Sự Sống” (tr. 292-293),
nhóm soạn bộ Giáo Lý Hồng Ân của TGM. Xuân Lộc trong “Lớn lên trong Chúa Thánh
Thần, Đấng Ban sự sống”(tr. 87-94), Ủy Ban Giám Mục về Phụng vụ trong bản dịch
về Bí tích Thêm sức, v.v...; đàng khác, từ chỗ một nền thần học về Chúa Thánh
Thần vẫn chưa được nghiên cứu kỹ và sâu ở Việt Nam...
II.
NGUỒN GỐC CỦA KHÁI NIỆM “BẢY ÂN HUỆ”:
1.
Lịch
sử: đã thấy xuất hiện trong ngôn ngữ phụng
vụ khoảng cuối thế kỷ IV (thánh Ambroise de Milan và ĐGH. Sirice 385)..
2.
Kinh
Thánh: từ Is 11,1-2. Trong Is 11,1-2, chỉ
có 6 ân huệ. Có lẽ một số dịch gỉa Hy lạp và cả Latinh khi dịch Is 11,1-2 đã
tách đôi ân huệ thứ 6 “sự kính sợ Thiên Chúa” ra thành hai và thêm vào đó một ân
huệ nữa cho đủ con số 7, biểu tượng của sự phong phú, đầy tràn, đó là khái niệm
eusebes/ eusebeia hoặc pietas mà vốn không có tương đương trong ngôn ngữ Hipri,
và rồi sau đó đã đi vào ngôn ngữ phụng vụ... Để dễ dàng so sánh đối chiếu giá
trị một số bản dịch Việt ngự hiện nay, xin mạn phép trích ra đây 2 bản dịch Pháp
ngữ quan trọng:
a.
Is
11,1-2 qua bản dịch của Bible de Jerusalem:
“...
sur lui repose l’Esprit de Yahvé
Esprit de sagesse et d’intelligence,
Esprit de conseil et de force.
Esprit de science et de crainte de Yahvé”.
b.
Cuốn
GLHTCG, 1992:
“... donne-leur en plénitude l’Esprit qui reposait sur ton Fils Jésus:
Esprit de sagesse et d’intelligence,
Esprit de conseil et de force,
Esprit de connaissance et d’effection
filliale:
Remplis-les de ‘Esprit de la crainte de
Dieu...”
III.
THẦN HỌC VỀ 7 ÂN HUỆ CỦA CHÚA THÁNH THẦN:
Trước tiên, cần lưu ý là
một thứ thần học về Chúa Thánh Thần hay về những ân huệ của Ngài chỉ có thể hiểu
được khi được định vị:
·
Trong
Hành động của Thiên Chúa Ba Ngôi
·
Trong
Kế hoạch Mặc khải cứu độ của Ba Ngôi vốn được diễn ra trong Lịch sử...
Thật vậy, chính trên
nền tảng của chân trời đó, người ta mới có thể phát hiện ra được cái “logic nội
tại” ẩn tàng trong Is 11,1-2, và áp dụng của Giáo Hội đối với bản văn này và
trong Bí tích Thêm sức.
1. Thần Khí Khôn ngoan và thông hiểu:
Là “Ân huệ Thần Khí” giúp
con người luôn ở trong tư thế “tìm kiếm Thiên Chúa và Thánh ý của Ngài” (Am
5,4tt; Mt 7,8; Is 59,2; Kn 1,1; Xp 2,3; Tv 22,27; Dnl 3,39tt; Cv 3,27; Gr 29,14;
Tv 69,33; Ga 8,21; Pl 3,8.12; Rm 10,3; Cl 3,1; Ga 13,33; v.v...), đồng thời
hiểu được đâu là Thánh ý Chúa, cái gì tốt, cái gì xấu... (Ga 6,44; 14,26; Rm
12,2; Cl 1,9; v,v...).
Thử so sánh đối chiếu các
khái niệm “Thần Khí khôn ngoan và thông hiểu” của Is 11,1-2 với Ga 14,6 “chính
Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống “ với kinh nghiệm của Khổng Tử, một
hiền triết Đông Phương: “Ta 15 tuổi để trí vào việc học Đạo; 30 tuổi, biết tự
lập (tự mình theo chính Đạo); 40 tuổi, không còn nghi hoặc về Đạo; 50 tuổi, biết
Mệnh trời; 60 tuổi, đã biết theo Mệnh trời; 70 tuổi, theo lòng muốn của mình mà
không vượt ra ngoài khuôn khổ Đạo lý” (Luận
ngữ, II.4).
2.
Thần
Khí định liệu và mạnh bạo: là “Ân huệ Thần Khí” giúp con người có được những quyết định đúng đắn được
cân nhắc kỹ lưỡng cho cuộc sống hiện tại và tương lai của mình, hợp với Thánh ý
Thiên Chúa và mang lại hạnh phúc đích thực, đồng thời có đủ mạnh bạo thực hiện
những quyết định đó (Lc 11,28; 14,28-33; 12,57-59; 12,47; Mt 7,21; 21,31; Dt
13,21; Pl 2,13; v.v...).
3.
Thần
Khí nhận biết và hiếu thảo: là “Ân huệ
Thần Khí” giúp con người biết được:
a.
Thiên
Chúa của Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa duy nhất và chân thật;
b.
Mối
quan hệ giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu là mối quan hệ Cha-Con trong vĩnh hằng và trong
lịch sử, đồng thời là Đấng sai đi Đấng được sai đi (Ga 17,3).
c.
Mối
quan hệ giữa Thiên Chúa và con người là mối quan hệ Cha-Con nhờ được thông hiệp
với tình Phụ-Tử của Đức Giêsu Kitô (Mt 6,9; Rm 8,29; Gl 3,26; 4,5tt; Dt
12,5-12).
d.
Mối
quan hệ nhân loại với nhau là tất cả mọi người đều là anh, chị, em với nhau vì cùng
có chung Thiên Chúa là Đấng Tạo thành và là Cha (Mt 6,9; 2Pr 1,4).
e.
Thiên
Chúa yêu thương tất cả mọi người và muốn mọi người đều được cứu rỗi (1Tm 2,4).
f.
Vì
thế, con người cần đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa bằng “tình con thảo” (1Ga
4,7-8; Gl 4,6)...
4. Thần Khí kính sợ Thiên Chúa.
Là “ân huệ Thần Khí” giúp
con người luôn có được những thái độ, những tâm tình đúng đắn và quân bình “vừa
yêu vừa kính sợ” đối với Thiên Chúa, Đấng vừa đáng sợ vừa đáng yêu (Mysterium
tremendum et fascinosum) (Ml 1,6; Dnl 10,12; Cn 1,7; Cv 10,34tt).
Như vậy, với cái vẻ bên
ngoài thoạt tiên có vẻ như không ăn nhập vào đâu, Is 11,1-2 quả thực có cái “logic
nội tại” sâu sắc của nó. Qua những phân tích khái quát và sơ lược trên đây, có
thể coi Is11,1-2 như là tóm lược toàn bộ quá trình Mặc khải mầu nhiệm Thiên
Chúa và quá trình đáp trả từ phía con người. Việc nghiên cứu và phân tích từng
ân huệ trong những bài sau đây sẽ còn cho thấy rõ hơn những điều đó...
Bài 6
THẦN KHÍ KHÔN NGOAN
Ở đây, có 2 vấn đề được
đặt ra:
1.
Ý
nghĩa sự Khôn ngoan trong ngôn ngữ Kinh Thánh.
2.
Chúa
Thánh Thần, Thần Khí khôn ngoan.
I.
SỰ KHÔN NGOAN TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH
a.
Trong
ngôn ngữ Cựu Ước
-
Nguồn
gốc: có thứ khôn ngoan do con người
sở đắc được nhờ học hỏi hoặc nhờ kinh nghiệm, tuy nhiên có thể mang nội dung
luân lý tôn giáo và cũng có thể không (Xh 28,3; 2Sm 13,3; G 8,8; Gr 2,8; Gv 39,1tt.8;
51,23; Cn 20,22-24; 22,2.4.22tt; 24,21; 25,21tt; 29,13;v.v...); và nền tảng của
sự khôn ngoan có mang nội dung luân lý tôn giáo là Sự Kính Sợ Yahvé: người khôn
ngoan ở đây, là người biết làm điều đẹp lòng Thiên Chúa và tránh điều mà Ngài
không hài lòng (Cn 1,7; 9,10; Gv 1,11-21; 19,20; G 28,12tt; Cn 6,16; 8,13;
11,20; 12,22; Gv 1,27; Kn 4,10.14; 7,14.28) hay nói cách khác, đó là tuân theo
Lề Luật (Gv 15,1; 19,20; Br 4,1)... có thứ khôn ngoan do Thiên Chúa ban cho (G
28,12-27; Br 3,15-38; Is 28,29; Xh28,3; St41,8.38-39; Dnl 1,17; Kn 7,20; Ds
11,17.25; Dnl 1,13; Cn16,10; 2Sm 14,17.20; 1V 3,11.28; 2Sm 16,23; Is 11,2-5; v.v...).
Như một sự hiểu biết siêu nhiên và đồng nghĩa với Thần Khí của Thiên Chúa (St
41,8.38; Dnl 34,9; Is 11,2-6; Dnl 4,5tt; Kn 7,22;1,4tt; 9,17; v.v...).
-
Bản
tính: chưa rõ ràng được coi như là một Ngôi
vị, đúng hơn, sự Khôn Ngoan ở đây là một thực hữu có tính thần linh mới chỉ là
một đặc tính hay thuộc tính mà thôi, dù đó là một thực hữu đã có từ muôn thuở và
sẽ còn mài mãi (Cn 8,22-26; Hc 24,9), thoát ra từ miệng Đấng Tối Cao như một hơi
thở hoặc Lời của Ngài (Hc 24,3), Hơi thở của quyền năng Thiên Chúa, loan truyền
vinh quang của Đấng Toàn Năng, phản chiếu ánh sáng vĩnh cữu, gương soi hoạt
động của Thiên Chúa, hình ảnh sự tuyệt hảo của Ngài (Kn 7,25tt), ở trên trời (Hc
24,4), thông phần ngai báu của Thiên Chúa (Kn 9,4) và sống thân mật với Ngài
(Kn 8,3) (theo Điển ngữ Thần học Thánh Kinh).
b.
Trong
ngôn ngữ Tân Ước: Đức Giêsu được gọi là “Sự
Khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24.30), sự Khôn Ngoan mặc khải về mầu nhiệm Thiên
Chúa (1Cr 2,6tt), là tột đỉnh của sự hiểu biết tôn giáo (Cl 1,9). Và những gì
Cựu Ước đã gán cho Sự Khôn ngoan thì Tân Ước lấy lại gán cho Đức Giêsu, như: là
Trưởng tử trước mọi tạo vật và là Tác nhân cuộc sáng tạo (Cl 1,15tt; x. Cn 8,22-31),
tỏa sáng vinh quang Thiên Chúa và là hình ảnh bản thể Thiên Chúa (Dt 1,3; x.Kn
7,25tt), là Sự Khôn ngoan của Chúa Cha vì cũng là Lời của Ngài (Ga 1,1tt)...
Là Sự Khôn ngoan mặc
khải về mầu nhiệm Thiên Chúa, Đức Giêsu, như vậy, vừa mặc khải cho biết sự Sống
đích thực bên trong Thực tại thần linh vĩnh hằng, vừa mặc khải cho biết Kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi diễn ra trong lịch sử, như một lịch sử tình
yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với nhau và với loài người chúng ta, lịch sử của
một tình yêu hoàn toàn vô điều kiện, vô vị lợi và vô biên giới... Đó chính là
sự Khôn ngoan đích thực mà Thiên Chúa muốn mặc khải cho con người, sự Khôn
ngoan mà thế gian lại coi như là điên rồ (Rm 1,21tt; 1Cr 1,21; 1Cr 2,8), và chỉ
được mặc khải ra cho những con người “bé nhỏ” luôn luôn tìm kiếm và sẵn sàng
vâng nghe Thần Khí của Thiên Chúa (1Cr 2,10-16; 12,8; Ep 1,17; Mt 11,25tt; 1Cr
2,7tt; Rm 11,33tt; Gl 2,3).
II.
CHÚA THÁNH THẦN, THẦN KHÍ KHÔN NGOAN:
Đã hẳn, người ta có thể
nói Chúa Thánh Thần là Thần Khí Khôn ngoan bởi vì Ngài là Thần Khí của Chúa Con
(Gl 4,6; Rm 8,9; 2Cr 3,17), nhưng người ta cũng có thể nói điều ngược lại. Tuy nhiên,
phải hiểu những điều đó như thế nào?
Trong ngôn ngữ thần
học, người ta khẳng định Chúa Cha được mặc khải qua Chúa Con, Chúa Cha và Chúa
Con được mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần (x. GLHTCG,
các số 238-248). Còn ngôn ngữ Kinh Thánh thì không chỉ gọi Chúa Thánh Thần là
Thần Khí của Chúa Con mà còn là Thần Khí của Chúa Cha hay Thần Khí của Thiên Chúa
(chữ Thiên Chúa trong Tân Ước chỉ Chúa Cha, x. 1Cr 8,6). Như vậy, khi khẳng định
Chúa Thánh Thần là Thần Khí Khôn ngoan, thì một đàng, vừa có nghĩa Chúa Thánh
Thần là Thần Khí của sự Khôn ngoan của Chúa Cha được mặc khải qua Chúa Con là
chính sự Khôn ngoan được tác sinh và ban tặng bởi Chúa Cha; đàng khác, vừa có
nghĩa Chúa Thánh Thần là Thần khí của sự Khôn ngoan được tác sinh và ban tặng là
chính Chúa Con, trong mối tương quan tình yêu Phụ - Tử vĩnh hằng: đó chính là
sự sống thần linh, là hạnh phúc đích thực, là Khát vọng muôn đời của tất cả mọi
người... Hay nói cách khác, Chúa Cha là Đấng tác sinh và trao ban sự Khôn ngoan
là Chúa Con trong và nhờ Thần Khí Khôn ngoan là Chúa Thánh Thần. Trong nội tại
thần linh, chính Thần Khí Khôn ngoan là Hoạt động vĩnh hằng của tình yêu vĩnh hằng
của Thiên Chúa Ba Ngôi, một tình yêu hoàn toàn vô vị lợi, vô điều kiện và vô
biên giới...
Đàng khác, nếu như kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa vốn được diễn ra trong
lịch sử là kế hoạch cứu độ (do chính cái tên Giêsu của Chúa Con-nhập thể mà
trong ngôn ngữ Hipri là Yehôsa hay Yesa và có nghĩa là “lạy Yavê, xin hãy cứu!”), thì có thể nói rằng sự Khôn ngoan đồng nghĩa
với sự Cứu độ hay sự Sống đời đời, sự Sống thần linh; và người khôn ngoan chính
là con người được cứu độ, được tha thứ, người có sự sống thần linh, sự sống đời
đời hay sự Sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, v.v... (Kn 8,3;
7,27;1Cr 2,6tt; Ep 3,10; 1Cr 2,10-16; 12,8; Ep 1,17; Ga 15,9-17; 17,3; Mt 11,25tt...);
hay, nói theo ngôn ngữ của Phaolô, đó là sự Sống mà trong đó Thiên Chúa là tất
cả, và trong Ý định tình yêu của Ngài, nơi mọi sự và nơi mọi người (1Cr 15,28;
Pl 1,21; x. Am 5,4tt; Hs 6,1tt)...
Kết luận:
Như vậy, Chúa Thánh
Thần, Thần Khí Khôn ngoan là Đấng hiện diện trong toàn bộ quá trình tìm kiếm
Thiên Chúa của con người, sự tìm kiếm mà theo ngôn ngữ của các Ngôn sứ Amốt và
Hôsê đó chính là nỗ lực làm cho sự sống của con người đạt được ý nghĩa đích
thực của nó (Am 5,4tt; Hs 6,1tt), thông qua việc “nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và Chân thật, và nhận biết Đấng Cha
đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3), và cuối cùng là “Thiên Chúa trở thành là tất cả trong mọi sự,
nơi mọi người” (1Cr 15,28).
Sự “nhận biết” đó chính là sự Khôn ngoan đích
thực, là sự Sống đích thực và là niềm hạnh phúc đích thực...
THẦN KHÍ THÔNG HIỂU
Có 2 vấn đề được đặc ra:
1.
Trong
ngôn ngữ Kinh Thánh, “hiểu” (intelligence) và “biết” (consnaissance) là gì?
2.
Chúa
Thánh Thần, Thần Khí Thông Hiểu.
Trong ngôn ngữ Sêmita, khái niệm “biết” (gốc Hipri là yd) không được
hiểu trong khung cảnh tri thức, mà là trong khung cảnh đời sống, và nó vượt qua
những thứ tri thức trừu tượng và được diễn tả như là một liên hệ hiện sinh:
biết một cái gì hay một ai chính là có kinh nghiệm cụ thể về cái đó hay có
những liên hệ cá nhân với người đó. Và, vì những liên hệ có thể mang rất nhiều
hình thái và bao hàm rất nhiều cấp độ (ordres), “biết” cũng có thể mang nhiều
hình thái và cấp độ khác nhau. Có lẽ chính trong chân trời đó mà Is 11,1-2 đã
phân biệt ra thành 2 khái niệm “hiểu” (esprit d’intelligence) và “biết” (esprit
de connaissance): khái niệm “hiểu” nhằm diễn tả một thứ “biết” mà mối liên hệ
còn ở trình tạng chung chung, mờ nhạt, chưa sâu sắc, và còn ít tính liên vị,
giữa chủ thể và đối tượng: thí dụ, trong trường hợp đối tượng là Thiên Chúa,
người ta mới chỉ nhận ra là như là Đấng Hóa Công, Tạo hóa, Ông Trời, v.v... Ở
đây, cần phải ghi nhận ngay rằng trong kiến thức tôn giáo, mọi sự đều bắt đầu do
sáng kiến của Thiên Chúa: trước khi biết Thiên Chúa, người ta đã được Thiên
Chúa biết đến... Điều đó có nghĩa là nguyên nhân của việc dừng lại ở tình trạng
“hiểu” chung chung, ít tính liên vị, không phải do Thiên Chúa, mà do chính con
người sống trong tình trạng vắng bóng tình yêu, hay nói cách khác là do con
người tự khép kín lại trên chính mình mà không mở toang cõi lòng mình ra với
tha nhân và tha thể. Hay nói theo ngôn ngữ triết học, để hiểu biết được con
người và Thiên Chúa, người ta cần phải có một “sự hiểu biết qua trái tim”
(l’intelligence du cœur) và một “sự hiểu biết của tình yêu” mà theo ngôn ngữ
các bậc thầy linh đạo là một trong những ân huệ của Chúa Thánh Thần ...
II. CHÚA THÁNH THẦN, THẦN KHÍ THÔNG HIỂU:
Khi nói Chúa Thánh
Thần, Thần Khí thông hiểu, một đàng, là có ý nói rằng trong Thực Tại Vĩnh Hằng
của Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba, là chính Hành động
“biết” Con của Cha: Chúa Cha “biết” Chúa Con và “tức khắc” sinh ra Chúa Con,
Chúa Con được sinh ra” tức khắc” “biết” Chúa Cha,- và Hành động biết đó của
Chúa Cha và của Chúa Con chính là Chúa Thánh Thần -, đó chính là sự sống Thần
linh nội tại, Nguồn Sống của tất cả mọi sự sống, được mặc khải cho loài người
qua và nhờ Chúa Con nhập thể và Chúa Thánh Thần ... Sự Sống đích thực, như vậy,
vốn là một sự Thông hiệp (x.1Ga 1,3), một sự kết hiệp hoàn hảo trong Chân lý
tình yêu (Ga 17,26; 1Ga 2,3tt; 3,16...)... Đàng khác, là có ý nói rằng trong Kế
hoạch tình yêu của Thiên Chúa diễn ra trong lịch sử, Chúa Thánh Thần chính là
Đấng mặc khải Chúa Cha và Chúa Con và, vì thế, chỉ có Ngài mới có thể làm cho
con người “nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Đấng Cha đã sai,
Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3), chỉ có Ngài mới mang lại cho con người sự sống đời
đời, sự sống được hòa nhập vào dòng Sức sống vĩnh hằng như dòng ánh sáng vĩ đại
phát ra từ trái tim Thiên Chúa và trở lại với Ngài...
Tuy nhiên, ở đây, có
một điều cần lưu ý, một lần thay cho tất cả, là trong Kế hoạch tình yêu của
Thiên Chúa diễn ra trong Lịch sử, Kế hoạch của Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Cha là
Đấng đã sai Chúa Con và Thần Khí của Ngài thực hiện Kế hoạch trong một sứ mạng
liên kết (GLCG 689): Chúa Con nhập thể và Chúa Thánh Thần liên kết, một đàng
trong sứ mạng mặc khải Chúa Cha nói riêng và nói chung mặc khải Mầu nhiệm Sự
sống Tình yêu là Thiên Chúa Ba Ngôi, đàng khác, trong sứ mạng ban cho con người
chính Sự sống Tình yêu ấy, như một ân huệ của Thiên Chúa, tức là những người
khiêm tốn luôn luôn để cho Thiên Chúa dạy bảo mình (Ga 6,44tt; 10,14; 14,6;
8,28; 12,23.32; 7,39; 16,7; 14,26; 16,13; 14,7.20; 1Ga 1,3; Ga 14,19tt; 17,26;
Pl 3,8tt; Rm 12,2; 1Cr 2,6-16; Cl 2,2tt; 1Cr 8,1; 13,2; Ep 3,19; 1Cr 13,12).
Như vậy, trong tư cách Ngôi
Vị vĩnh hằng, Chúa Thánh Thần là Thần Khí hiểu biết của Chúa Cha và Chúa Con;
trong tư cách Đấng được sai đi, cùng với Chúa Con, Chúa Thánh Thần là Thần Khí
mặc khải Chúa Cha và Chúa Con; và trong tư cách là ân huệ của Chúa Cha và Chúa
Con ban cho loài người, Chúa Thánh Thần là Thần Khí giúp con người thông hiểu
được Mầu nhiệm Thiên Chúa được mặc khải ra trong Lịch sử, tức là Kế hoạch tình
yêu của Ngài, thông hiểu được Thánh Ý Tình Yêu của Ngài là muốn tất cả mọi người
đều hạnh phúc, tức là có được Sự sống Vĩnh hằng, và cuối cùng thông hiểu được
rằng muốn được như thế, con người cần phải tuân theo Thánh ý của Thiên Chúa
(1Tm 2,4; Mt 6,10; Dnl 30,14; Tv 1,2; 143,10; G 23,13; Is 55,11; Kn 9,13; Tv
33,11; Hs 2,16; Ed 36,26tt; Gr 31,33; Dt 10,7-9; Cv 13,22; Mt 11,25; Lc 12,32;
Mt 7,21; 12,50; Ga 4,34; 5,30; 6,38tt; 15,10; 7,17; 14,23tt; 14,26; Rm 12,2; Cl
1,9; Pl 2,13; v.v...)...
Bài 8
THẦN KHÍ ĐỊNH LIỆU
Có 2 vấn đề được đặt ra:
1.
Ý
nghĩa của hạn từ “Định Liệu”
2.
Chúa
Thánh Thần, Thần Khí Định Liệu
I.
Ý NGHĨA CỦA HẠN TỪ “ĐỊNH LIỆU”:
Hạn từ “Định Liệu” tạm được
sử dụng để phiên dịch hạn từ “Conseil” (esprit de conseil) của Pháp ngữ. Trong Pháp ngữ, hạn từ Conseil có khá nhiều
nghĩa (thí dụ: lời khuyên, sự chỉ giáo, sự cố vấn...), nhưng trong văn mạch của
Is 11,1-2, ý nghĩa “quyết định đã cân nhắc kỹ” có lẽ là thích hợp hơn cả. Và
hạn từ “định liệu” (dù hãy còn bất toàn!) cần phải được hiểu trong chân trời đó, tức là một sự quyết định sau khi đã được
cân nhắc kỹ lưỡng...
Như vậy, trong văn mạch
của Is 11,1-2, Sự Khôn ngoan chính là Thiên Chúa, là Lời, Thánh Ý và Ý Định của
Ngài mà vốn được mặc khải nơi Chúa Con – Nhập thể và nơi Thần Khí của Chúa Con.
Vì thế, người khôn ngoan chính là người luôn luôn lắng nghe, tìm hiểu để thông hiểu
được Thánh ý của Thiên Chúa được tỏ bày ra trong lịch sử và trong các biến cố
của lịch sử. Và một khi đã thông hiểu được rồi (đặc biệt dưới ánh sáng của lương tâm lành mạnh, ân huệ của Thần Khí
Thiên Chúa ), con người cần phải quyết định dứt khoát, sau khi đã cân nhắc kỹ
lưỡng các khía cạnh của vấn dề, tuân theo Lời Thiên Chúa chỉ dạy và điều này chỉ
có thể thực hiện được nhờ Thần Khí do Đức Giêsu ban cho (Ga 14,26; Rm 12,2; Cl
1,9; 1,10; Ep 5,17; Pl 2,13)...
II.
CHÚA THÁNH THẦN, THẦN KHÍ “ĐỊNH LIỆU”:
Điều này có nghĩa là trong
những quyết định liên can vận mạng của con người thuộc loại này, con người luôn
luôn được Thiên Chúa quan tâm giúp đỡ và chỉ bảo (Pl 2,12-13; Rm 12,2; x. Is
5,19; 14,26...; Gr 23,18-22; Mk4,12; Is 44,28; 46,10...; Hs 2,16; Ed 36,26tt;
Gr 31,33; Is 50,5; Tv 40,8t; Is 53,10; v.v...). Và nếu như các ân huệ của Thần
Khí là những tâm thái (dispositions) được Thiên Chúa gợi lên trong con người
nhằm giúp con người thông lưu được với sự Sống thần linh của Thiên Chúa, thì
Thần Khí Định Liệu hiện diện nơi con người vừa như một Ngôi vị Thần linh vừa như
một ân huệ tạo điều kiện giúp con người có được những quyết định phải sống như
thế nào để có được Hạnh phúc đích thực hay sự Sống đời đời...
Đàng khác, việc đưa ra một
quyết định bao giờ cũng bao hàm một số yếu tố sau đây: chủ thể quyết định, hành
động quyết định và chính đối tượng mà quyết định nhắm tới..., và để giúp con
người có thể có được một quyết định liên hệ đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cữu
của đời mình, Thần Khí Định liệu chắc hẳn đã phải tác động lên toàn bộ những yếu
tố đó:
1. Đối
với chủ thể quyết định:
Con người, muôn thuở, nhiều
hay ít, cách này hay cách khác, vẫn thường xuyên vướng phải hoặc có nguy cơ
vướng phải tình trạng tha hóa, vong thân, đánh mất chính bản thân mình. Thế mà,
để có thể có được những quyết định cân nhắc kỹ lưỡng, việc trước tiên con người
phải làm đó là phải “trở nên chính mình” (Sois
toi-même!). Nhưng muốn làm được thế, con người cần phải biết mình đang là
gì, là ai, và đúng ra mình phải là ai và là gì... Từ đó, sản sinh ra một tâm
thái- kép: một đàng là sự ăn năn sám hối (metanoein),
một đàng là sự chuyển hướng nội tâm quay
về với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính bản thân của mình (epistrephein). Thần Khí Thiên Chúa luôn
luôn hiện diện trong toàn bộ quá trình đó và những nỗ lực đó... (Ed 36,26t; Mt
18,3t; 6,33; Lc 18,13; 15,2).
2. Đối
với hành động quyết định:
Cũng như trong thực tại
nội tại của sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần là Hành động của
Thiên Chúa (Chúa Cha sinh ra Chúa Con, Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Chúa Cha hiểu
biết Chúa Con...; và ngược lại, Chúa Con đón nhận sự sinh ra bởi Chúa Cha, Chúa
Con yêu thương Chúa Cha, Chúa Con hiểu biết Chúa Cha...), ở đây cũng vậy, Thần
Khí Thiên Chúa, vừa như là một Ngôi vị vừa như là ân huệ, cùng hiện diện và
cùng “định liệu” với chủ thể chính là con người... (Hs 2,16; Ga 14,26; Rm 12,2;
Cl 1,9; Cv 15,28).
3. Đối
với đối tượng mà quyết định nhắm tới:
Hay nói cách khác, đó chính
là nội dung của quyết định, tức là: vấn đề phải sống như thế nào, phải làm gì
để có được hạnh phúc đích thực và Sự Sống
vĩnh hằng, khát vọng muôn thuở của tất cả mọi người... Ở nơi những nền
luân lý tự nhiên, đó là làm điều thiện tránh điều ác, sống theo mệnh trời, hiếu
thảo với Tổ tiên, tình phụ-tử, mẫu-tử, huynh-đệ, phu-thê, v.v... Ở nơi nền luân
lý mặc khải sơ khai như Cựu Ước, đó là Lề Luật, là 10 Điều răn... Ở nơi nền
luân lý mặc khải Tân Ước, đó là “nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân
thật và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3), tức là sự
Sống trong và bởi sự Hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi... Và tất cả những nỗ lực
đó, chỉ có Thần Khí Thiên Chúa mới thực hiện được, dĩ nhiên, cùng với con
người...
THẦN KHÍ MẠNH BẠO
Có 2 vấn đề được đặt ra:
1.
Hạn
từ “ Mạnh bạo” trong ngôn ngữ Kinh Thánh
2.
Chúa
Thánh Thần, Thần Khí Mạnh bạo
I.
HẠN TỪ “MẠNH BẠO” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH:
Trong ngôn ngữ Hipri, những
khái niệm: “sức mạnh” (force), “năng lực” (puissance), “quyền lực” (pouvoir) là
những chuyển từ từ các từ gốc or, wn, ms, gbr, hzq, hyl, kh,s, và trong Hy ngữ
bởi các hạn từ dunamis, exousia..., được dùng vừa để chỉ sức mạnh thể lý vừa
chỉ sức mạnh tinh thần.
Ngôn ngữ Kinh Thánh
thường xuyên nối kết hai hạn từ “Thần Khí Thiên Chúa” và “Quyền Năng Thiên
Chúa”. Hai hạn từ Thần Khí và Sức mạnh thường đi đôi với nhau và hầu như đồng
nghĩa với nhau (St 1,2; Is 32,25; 44,3tt; Tv 104,30; Tl 3,10; 6,43; 13,25;
11,19; 14,6.19; Lc 1,35-37; Cv 10,38; Lc 4,14.18; 11,20; Mt 12,28; Ep 1,18-20;
Cl 2,9; Pl 2,9-11; Mt 28,18; Pl 3,10; 2Cr 13,4; Rm 8,11; v.v...). Ở đây, có thể
nói rằng câu nói sau đây của Cyrille d’Alexandrie hầu như phản ánh được toàn bộ
vấn đề: “Thánh Thần là Quyền Năng và Hoạt động của Bản thể Thần linh. Người làm
nên tất cả mọi công trình của Thiên Chúa” (Cyrille
d’Alexandrie, Thesaurus , p. 75,580.608)...
Đã hẳn, hạn từ’ “Mạnh
bạo” trong ngôn ngữ Kinh Thánh vừa hàm ý “sức mạnh thể xác” (Gs 1,6; Is 35,3tt;
Lc 16,16; v.v..), vừa hàm ý “sức mạnh nội tâm” (1Ga 2,14; 5,18; Ep 3,16;
v.v...) nhằm giúp con người có đủ khả năng thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa
diễn ra trong và qua Lịch Sử (Lc 12,47; Mt 7,21; 21,31; Dt 13,21). Tuy nhiên,
một điều hết sức quan trọng cần lưu ý, sự Mạnh bạo đó con người có được hoàn
toàn là do Thần Khí Quyền Năng của Thiên Chúa ban cho...
II. CHÚA THÁNH THẦN, THẦN KHÍ MẠNH BẠO:
Cách chung, có thể nói rằng tất cả mọi hành vi cứu độ đều là công trình
của Quyền Năng Thiên Chúa (Dnl 3,24; Tv 20,7; 106,2; 105,2; Lc 1,35; 2Cr 13,4;
Rm 1,20; 2Pr 1,3; 1Cr 6,14; Mt 11,20; Mc 6,5; Mt 7,22; Cv 8,13; 1Cr 12,10; Mk 3,8;
Lc 24,49; Ga 3,3-7; 1,12; Kh 2,26tt; v.v...). Để con người thấu hiểu và cảm nghiệm
được điều đó, ngôn ngữ Kinh Thánh cho rằng Thiên Chúa đã hành xử một cách có vẻ
nghịch thường: những công trình phi thường, vĩ đại lại được thực hiện bởi những
con người bình thường, bé nhỏ, đôi khi có vẻ yếu đuối..., và với những phương
tiện đơn sơ, bé nhỏ khiến người ta phải sửng sờ (1Sm 16,7; 10,23; Tl 7,2; Is
30,15tt; 2Cr 12,9; Tv 107,40; Tv 113,7; 2Cr 4,7; v.v...). Tuy nhiên, điều đó không đơn giản chỉ là vấn đề “phương
pháp sư phạm” của Thiên Chúa mà thôi, mà còn là phản ánh một tình trạng thực tế
của hiện hữu của con người, vốn là những thụ tạo hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa:
cả cái nó là và cả cái nó có (être et avoir). Sự lệ
thuộc nói ở đây không phải là mối tương quan chủ-tớ vốn luôn luôn có nguy cơ
triệt tiêu cá vị và phẩm giá lẫn nhau, mà là mối quan hệ Cha- Con, mối quan hệ
mà nếu được “sống” thực sự sẽ phong phú hóa lẫn nhau trong tình yêu (Mt
11,25tt; 6,4.6.18; 25,32; 21,31tt; 8,12; 23,9; 7,7-11; 6,25-34; 5,44tt; v.v...)
Nếu như, nói theo ngôn ngữ của Paul Ternant (x. ĐNTHTK. từ Cha), “Thiên Chúa
không bao giờ là Cha chúng ta bằng lúc Ngài tỏ lòng yêu thương và tha thứ, và
chúng ta không bao giờ là con Ngài bằng lúc ta cũng hành động như vậy đối với mọi
anh em chúng ta”, thì điều cần thiết nhất đối với con người không là gì khác
hơn chính là Sức mạnh để có thể yêu thương và tha thứ... Và Sức mạnh này không
hẳn là để con người có thể chiến thắng những kẻ thù bên trong và bên ngoài mà
đúng hơn là mạnh bạo dám để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm đoạt mình và chiến
thắng mình, dám để cho Thiên Chúa định đoạt và sử dụng đời mình theo Thánh ý
của Ngài (Pl 1,21; Gl 2,20; Rm 1,13; 6,10t; 2Cr 5,15; 1Cr 15,28; Ga 17,3;
v.v...). Đó chính là Sức mạnh của niềm tin hoàn toàn và tuyệt đối vào Thiên
Chúa (có khi còn được gọi là Đạo lương tri, lẽ phải, Chính nghĩa, Thiên mệnh, Ý
trời; v.v...) dám đánh đổi cả vận mạng cuộc đời mình. Và nguồn gốc của sự Mạnh bạo
đó không ai khác hơn là chính Thần khí Sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng hiện diện
trong con người vừa như một Ngôi vị vừa như Ân huệ mà con người có thể sở đắc
hay nói đúng hơn, như ân huệ trong đó con người được “thông hiệp” với Sức mạnh của
Thiên Chúa, tức là Chúa Thánh Thần để sống sự sống của Thiên Chúa là yêu
thương...
Bài 10
THẦN KHÍ NHẬN BIẾT
Có 2 vấn đề được đặt
ra:
1.
Khái
niệm “nhận biết” trong ngôn ngữ Kinh Thánh
2.
Chúa
Thánh Thần, Thần Khí Nhận biết.
I. KHÁI NIỆM “NHẬN BIẾT” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH
Trong ngôn ngữ Hipri
hạn từ Yd (nhận biết) vượt qua trí thức trừu tượng và diễn tả một liên hệ hiện sinh:
biết một cái gì chính là có kinh nghiệm cụ thể về cái đó (Is 53,3; Kn 3,13; Tl
3,1; Is 59,8; St 2,9.17; v.v...) và biết một người nào chính là có những mối
quan hệ cá nhân với người đó (Dnl 33,9; St 4,1; Lc 1,34; Ed 12,15; Gr 31,34;
v.v...) (x. ĐNTHTK, từ “Biết”)... Như vậy, đối với người Sêmita, khi nói
“biết Thiên Chúa” có nghĩa là có những mối quan hệ cá nhân, trực tiếp, thân
tình...với Thiên Chúa. Thế nhưng, điều đó diễn ra như thế nào khi mà Yavê luôn
là Đấng siêu việt, siêu hình xa cách vời vợi (Xh 3,1-15; 33,18-23; 34,1-7; Tl
5,4t; Xh19,16; Is 6,2; Hs 11,9; Is 57,15; 40,25; v.v...)? Đối với Amốt, biết Thiên
Chúa đó chính là được Thiên Chúa biết đến (Am 3,2) và là khám phá ra Ngài là
nguồn gốc hiện hữu của mình. Như vậy, hành vi “nhận biết Thiên Chúa” vừa có nguồn
gốc do Thiên Chúa vừa là ân huệ của Ngài, nghĩa là con người chỉ nhận biết được
Thiên Chúa nhờ chính Ngài tự mặc khải mình ra cho con người ở nơi và khi mà
Ngài muốn, và theo cách thức mà Ngài muốn, qua Lời và Thần Khí của Ngài (Dt
1,1-3; Mt 11,27; Ga 14,17.26; 16,13; v.v...).
Mối quan hệ cá nhân, thân
tình của con người với Thiên Chúa, trong ngôn ngữ Cựu Ước, được diễn tả dưới những
kiểu nói đặc biệt như “Thiên Chúa của...ai đó” (St 14,22; 16,13; 17,1; 35,7;
21,33; 14,22tt; 18,25; 49,24; 2Sm 23,3; Tv 18,3; 144,2; 84,10; 89,19; Mk 7,14;
Tv 23,1; v.v...), “Ta đã nhìn thấy... Ta đã lắng nghe... Ta đã thấu hiểu... Ta
quyết định... Ta sai ngươi” (Xh3,7-10)...
Mối quan hệ càng trở nên
gần gũi, cụ thể, hữu hình hơn khi chính Ngôi Lời, Con Một của Thiên Chúa và là
Thiên Chúa “mặc xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14; Rm 8,32; Cl 1,27;
2,2; Ep 2,18; 3,12; Ga 1,18; 17,3; v.v...)...
Vấn đề là làm thế nào
cho con người nhận biết được Thiên Chúa...
II.
CHÚA THÁNH THẦN, THẦN KHÍ NHẬN BIẾT
Thư 1 Gioan khẳng định:
“Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương
nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên
Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết
Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-8).
1Ga 4,7-8, như vậy cho thấy
“yêu thương” không chỉ là điều kiện để nhận biết Thiên Chúa, mà còn chính là
“nhận biết”:
1.
“Yêu
thương nhau”, điều kiện để “nhận biết” Thiên Chúa:
Để có thể có được mối quan
hệ cá nhân thân tình, cụ thể với Thiên Chúa, điều kiện trước tiên là con người
phải yêu thương nhau, bằng một thứ tình yêu có tính liên vị, thân tình và cụ
thể (x. Lc 10,29-37). Khi yêu thương ai tức là người ta đã “sinh ra” người đó,
hay nói cách khác, người ta chấp nhận sự hiện hữu và sự hiện diện của người đó
cùng với mình. Thế nhưng, khi nói con người yêu thương ai thì điều đó đồng thời
có nghĩa là con người đã để Thần Khí Tình yêu yêu thương mình và tha nhân, vì
thế, khi con người yêu thương nhau tức là con người vừa “được Thiên Chúa sinh
ra” (1Ga 4,7b) vừa “sinh ra tha thể (Thiên
Chúa và tha nhân)”...: đó chính là sự hiện diện liên vị hiện diện trong nhau
như trong chính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi (Ga 10,38; 14,10t; 17,21; 5,20.23;
10,15; 14,31; 17,24t; v.v...) và chính trên cơ sở chân trời đó, người ta có thể
nói: biết là yêu thương và ngược lại...
2.
“Yêu
thương nhau” chính là “biết Thiên Chúa”:
Điều này chỉ có thể có trong
điều kiện chính Thiên Chúa đã tự mình “đồng hóa” với nhân loại. Và điều này quả
thực đã diễn ra trong mầu nhiệm Sáng tạo, Nhập thể và Cứu độ: trong mầu nhiệm
Sáng tạo, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và giống như
Ngài (St 1,26-27); trong mầu nhiệm Nhập thể, bởi vì Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14; x. Mt 25,31-46; Cv 9,5; Ep 1,23); trong mầu
nhiệm Cứu độ, bởi vì được cứu độ có nghĩa là được trở nên con của Thiên Chúa và
được sống sự sống thần linh của Thiên Chúa- Ba Ngôi và Thiên Chúa trở nên Cha
của loài người (2Tl 1,4; 1Ga 3,2; 3,1; Ga 1,12; Gl 1,5t; Rm 8,14-17; 6,4), hay
nói cách khác, con người và vũ trụ “đi vào trong sự viên mãn của Thiên Chúa”
(Ep 3,19): lúc ấy Thiên Chúa sẽ là “tất cả trong tất cả mọi người” (1Cr 15,28),
và “tất cả trong tất cả mọi sự” (Ep 1,23)... Vì thế, 1Ga 4,20 đã khẳng định:
“vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến
Thiên Chúa mà họ không trông thấy” và Paul Ternant đã vọng lại tư tưởng đó
“Thiên Chúa không bao giờ là Cha chúng ta bằng lúc Ngài tỏ lòng yêu thương và
tha thứ, và chúng ta không bao giờ là con Ngài bằng lúc ta cũng hành động như
vậy đối với mọi anh em chúng ta”...
Như vậy, khi nói Thần Khí Nhận
biết chính là nói về Thần Khí Tình yêu của Thiên Chúa, Đấng làm cho con người,
khi yêu thương nhau, hòa nhập vào Cơn Lốc Sự sống Tình yêu Thần linh là chính
Thiên Chúa Ba Ngôi ... (Ga 17,3).
Bài 11
THẦN KHÍ HIẾU THẢO
Có 2 vấn đề cần được đặt ra:
1.
Khái
niệm “Hiếu thảo” trong ngôn ngữ Kinh Thánh.
2.
Chúa
Thánh Thần, Thần Khí hiếu thảo.
I.
KHÁI NIỆM “HIẾU THẢO” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH.
Nói chung, đây là một
hạn từ rất phức tạp và hàm hồ về mặt ngữ nghĩa và cả về mặt ứng dụng.
Từ gốc trong ngôn ngữ
Hipri là hesed, trước tiên biểu thị
mối tương quan nối kết họ hàng (St 47,29), bạn hữu (1Sm 20,8), “đồng minh” (St 21,23),
và giả thiết có sự tương trợ hữu hiệu và trung thành (hesed / emet: hiếu từ /
trung thành có liên hệ với nhau). Bản dịch LXX đã dịch hesed ra Hy ngữ là éleos vốn có nghĩa là “nhân từ”, và từ đó ra La ngữ là “missericordia” và ra Pháp ngữ là “misséricorde”.
Các dịch gỉa tân thời đôi khi coi hesed như tương đương với hạn từ “piété” và
Việt ngữ đã dịch “piété” ra là “đạo đức”... GLHTCG, bản Pháp ngữ không dùng hạn
từ “piété” mà dịch hesed ra là “affection filiale” (“tình con thảo”). Thật ra,
trong ngôn ngữ Cựu Ước, hesed nhấn mạnh mối quan hệ của Thiên Chúa với con
người (“từ”) hơn là mối quan hệ của con người với Thiên Chúa (“hiếu”), vì thế,
trong Việt ngữ, khi thì được dịch ra là “hiếu từ” (đức tốt của con đối với cha
mẹ là “hiếu”, đức tốt của cha mẹ đối với con là “từ”) (x. Bản dịch ĐNTHTK, hạn
từ “Hiếu Từ”), khi thì được dịch là “tín nghĩa” (bản dịch Kinh Thánh của Lm.
Nguyễn Thế Thuấn)...Có thể nói ngôn ngữ Tân Ước coi cả hai mối quan hệ trong
mối tương quan biện chứng và quân bình hơn, vì thế rất ít khi sử dụng hạn từ
piété (gốc Hy ngữ là eusebes/ eusebeia). Trong bối cảnh của vấn đề phân chia “
ân huệ thứ sáu” của Is 11,1-2 (“sự kính sợ Giavê”) ra thành 2, có thể nói rằng việc
nhấn mạnh mối quan hệ của con người đối với Thiên Chúa (“hiếu”) của GLHTCG, bản
Pháp ngữ là điều hợp lý và có cơ sở... Đó là lý do tại sao hạn từ “Thần Khí
Hiếu thảo” hay “Thần Khí của Tình con thảo” được sử dụng ở đây:
1.
Cơ
sở Cựu Ước:
Trong ngôn ngữ Cựu Ước những
thời kỳ đầu, khái niệm Cha- Con trong mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người
và ngược lại không bao giờ thuộc phạm vi nhục thể, nhưng thuộc lãnh vực luân lý
và tâm linh và trong viễn ảnh tập thể và lịch sử nhiều hơn là cá nhân (Xh 4,22;
Ds 11,12; Dnl 14,1; Is 1,2tt; 30,1.9; Gr 3,14; Hs 11,3t.8t; Gr 3,19; Tv 27,10;
Cn 3,12; Kn 2,13-18; Gs 17,2;v.v..). Gần kỷ nguyên Kitô giáo, khái niệm Thiên
Chúa là Cha dân Ngài và Cha mỗi tín hữu được ý thức cách mạnh mẽ và sâu sắc hơn
(trong các văn phẩm của các Rabbi thời cuối Cựu Ước này, người ta gặp thấy nguyên
văn công thức mà sau này Đức Giêsu đã sử dụng lại: “Lạy Cha chúng tôi ở trên
trời “).
2.
Cơ
sở Tân Ước:
Đức
Giêsu Kitô hoàn thành điểm tinh túy của tư tưởng Dothái về tình Phụ-tử trong
mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người và ngược lại: nếu loài người có khả
năng trở thành con Thiên Chúa chính là vì Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa - làm
người, tự bản tính là Con Thiên Chúa (Ga 1,12). Và nói theo ngôn ngữ của 1Ga
4,7-8, con người chỉ là con Thiên Chúa khi con người yêu thương nhau trong Thần
Khí Tình yêu của Đức Giêsu Kitô, Thần Khí Tình yêu mà đã sinh ra tình Phụ-tử
giữa Chúa Cha và Chúa Con trong thực tại Mầu nhiệm Ba Ngôi: “phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa
sinh ra...” (1Ga 4,7b)
II.
CHÚA THÁNH THẦN, THẦN KHÍ HIẾU THẢO
Nếu như Tình yêu thương
tạo ra tình Phụ-Tử giữa Thiên Chúa và con người và ngược lại, thì điều đó đồng thời
cũng có nghĩa chính Thần Khí Hiếu thảo của Chúa Con tác sinh ra tình Hiếu thảo
của con người đối với Thiên Chúa (Gl 3,26; Ep 1,5; Gl 1,5t; Rm 8,14-17; 8,29;
Tt 3,5; Rm 6,4; Dt 12,5-12; Ga 1,12; 3,3.5):
“Để chứng thực anh em là
con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu
lên: “Áp-ba, Bố ơi!”...” (Gl 4,6).
Cũng như trong vĩnh
hằng và trong lịch sử, Chúa Cha hằng sinh ra Chúa Con và Chúa Con hằng đón nhận
sự sinh ra bởi Chúa Cha trong và nhờ Thần Khí Tình yêu hỗ tương, con người nếu
muốn luôn luôn vẫn là con của Chúa Cha, điều kiện tất yếu là phải luôn luôn yêu
thương nhau trong Thần Khí Tình yêu hay Thần Khí Con thảo của Đức Giêsu Kitô.
Như vậy, tình Phụ–Tử nói
ở đây là một mối tương quan luôn luôn ở trong tư thế năng động, nghĩa là ở trong
hành động yêu thương chứ không chỉ là một mối tương quan tĩnh tại và thụ động
như dựa trên huyết thống, dân tộc, cơ cấu... (Mt 3,9tt; Lc 19,9; Mt 5, 9; x. Mt
12,46-50). Bởi vì Thần Khí Hiếu thảo là Thần Khí khi ở trong hành động (en
acte)...
THẦN KHÍ KÍNH SỢ THIÊN CHÚA
Có 2 vấn đề được đặt ra:
1.
Khái
niệm “Kính sợ Thiên Chúa” trong ngôn ngữ Kinh Thánh.
2.
Chúa
Thánh Thần, Thần Khí Kính sợ Thiên Chúa.
I.
KHÁI NIỆM “KÍNH SỢ THIÊN CHÚA” TRONG NGÔN NGỮ KINH THÁNH
Nói chung, đây là một khái
niệm diễn tả một thứ tình cảm tôn giáo: khi đối diện với thực tại thần linh,
con người một đàng vừa sợ không dám đến gần (kính nhi viễn chi), đàng khác vừa
cảm nhận như có sức cuốn hút hướng về đó (mysterium
tremendum et fascinosum), chứ không phải là những thứ sợ hãi thông thường
của con người, như sợ những thiên tai hoặc những cuộc tấn công của kẻ thù (Gr
6,25; 20,10). Vì thế, người ta gọi đó là tâm tình “kính sợ” (gốc Hipri là
Yir’ah và gốc Hy lạp là phopos): vừa sợ vừa thích và vừa thích vừa sợ...
1.
Trong
ngôn ngữ Cựu Ước, hạn từ “kính sợ
Giavê” hay “kính sợ Thiên Chúa”, chiếm một vị trí lớn lao hơn nhiều so với hạn
từ “tình yêu” nhằm diễn tả một Vị Thiên Chúa nghiêm minh, siêu việt và đáng
sợ... Tuy nhiên, sự kính sợ này không đóng khung trong nỗi lo âu, sao xuyến, mà
còn kèm theo nỗi khát vọng và tình yêu đối với Thiên Chúa (Ml 1,6; Dnl 10,12).
Nó chính là yếu tố cốt lõi của sự Khôn ngoan, là nền tảng của tôn giáo (Cn1,7;
Gv 1,14-21; Tv 111,10). Các Ráp-bi của thời cuối Cựu Ước đã thích gọi Thiên
Chúa là “Cha”...
2.
Trong
ngôn ngữ Tân Ước ít sử dụng hạn từ này;
tuy nhiên, không phải là không biết tới như là một tâm tình tôn giáo trước Thiên
Chúa (Dt 10,31; Gc 4,12; Mt 10,28; Ep 3,12; Rm 8,15; 1Ga 4,17; Lc 2,25; Cv
10,22; 1Cr 10,12; Rm 10,20; Pl 2,12; v.v...). Và chính Tân Ước, nhờ hiểu theo
một nghĩa sâu xa đã làm cho nó trở nên một nhân đức chính yếu vốn là con đường
cứu rỗi bằng đức tin: “Thiên Chúa chẳng
thiên vị ai, nhưng bất luận dân nào, hễ ai kính sợ Ngài và thực thi công bình
thì đẹp lòng Ngài” (Cv 10,34tt)...
II.
CHÚA THÁNH THẦN, THẦN KHÍ KÍNH SỢ THIÊN CHÚA
Nói như vậy, trước tiên,
có nghĩa tâm tình hay thái độ kính sợ Thiên Chúa mà con người có được chính là
ân huệ của Thần Khí Thiên Chúa ban cho, và khi nối kết với tâm tình con thảo
thì đó là do Thần Khí của Đức Giêsu Kitô... Vì thế, để có thể hiểu được cách dễ
dàng và đúng đắn khái niệm “kính sợ Thiên Chúa” của Cựu Ước và Tân Ước, có lẽ
nên nhìn nó qua lăng kính của điều mà tư tưởng Đông Phương gọi là thuyết “Chính Danh” (quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử: vua thì cho ra vua, quan thì cho
ra quan, cha thì cho ra cha, con thì cho ra con):
1.
Con
người- thụ tạo đối diện với Thiên Chúa Tạo Hóa:
Tất cả mọi cái con người là (être) và có (avoir)
đều là ân huệ được Thiên Chúa ban cho cách nhưng không và tự do. Vì thế, con
người phải luôn sống trong tâm tình lệ thuộc và tri ân đối với Thiên Chúa, và
không bao giờ được có ý đồ cướp quyền và thử thách Thiên Chúa (x. St 3,1-24; Lc
4,1-13; Mt 4,1-11; Dnl 6,13tt; v.v...): tâm tình lệ thuộc và tri ân ở đây chính
là những dạng thức của tâm tình kính sợ Thiên Chúa...
2.
Con
người trần tục - bé nhỏ - yếu đuối đối diện với Thiên Chúa siêu việt - vĩ đại -
toàn năng:
Ở đây, tâm tình kính sợ
Thiên Chúa được diễn tả qua những thái độ hoàn toàn tin cậy, phó thác và cầu
xin (Tl 6,23; Dn 10,12; Lc 1,13.30; Mc 6,50; St 15,1; 26,24; Is 41,10; Lc
12,32; Mt 6,25-34; Ds 21,34; Tv 23,4; 27,1; 91,5-13; v.v...)...
3.
Con
người – tội lỗi đối diện với Thiên Chúa - thánh:
Ở đây sự kính sợ Thiên Chúa
được diễn tả qua những tâm tình ăn năn sám hối và xin được tha thứ (Hs 11,9; Is
8,13; Xh 19,10-15; Tv 51; Lc 5,8; Is 6,5; v.v...)...
4.
Người-Con
đối diện với Thiên Chúa-Cha:
Ở đây tâm tình kính sợ Thiên
Chúa được diễn tả qua tâm tình hiếu thảo (Hc 1,11-20; Rm 8,15; 1Ga 4,18; Ga
3,20tt; Ep 3,12; v.v...)
Đó là những tâm tình, những
phản ứng mà Đức Giêsu Kitô đã sống và đã kinh qua nhờ Thần Khí của Chúa Cha và
đồng thời cũng là của chính Ngài trong tư cách Chúa Con và sau khi Đức Giêsu
Kitô đã sống trọn vẹn những tâm tình đó, Ngài đã sở đắc trọn vẹn và tràn đầy
Thần Khí, như Ân Huệ được ban cho, và đó chính là Thần Khí của Đức Giêsu Kitô,
trong Chu trình Tình yêu “dâng hiến là nhận lại” (Ga 19,30)... và con người, có
được những tâm tình đó cũng là do Ân huệ Thần Khí của Đức Giêsu Kitô ban cho...