ĐỨC GIÊSU TẠI THẾ


ĐGM Phaolô Bùi văn Đọc

I. ĐỨC GIÊSU TẠI THẾ

Trong những năm gần đây, theo kết quả mới nhất của khoa chú giải Kinh Thánh chung quanh vấn đề Đức Giêsu lịch sử, sự xuất hiện công khai và việc rao giảng của Đức Giêsu nổi lên rõ ràng và chắc chắn hơn. Người ta đã khám phá một khuôn mặt Giêsu đặc biệt và rõ nét. Nhưng tình trạng các nguồn tài liệu vẫn chưa cho phép viết tiểu sử về cuộc đời Đức Giêsu.

Bối cảnh lịch sử được nói đến thoáng qua trong các bài tường thuật Tân Ước. Vóc dáng bên ngoài của Đức Giêsu, cũng như tâm lý và tính tình của Ngài không được các sách Tin Mừng ghi lại. Các sách Tin Mừng ít chú trọng đến các nhân vật lịch sử ; diễn tiến của các biến cố lịch sử, nhưng chú trọng đến sự thực hiện chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử. Các tác giả nhìn sự thực hiện này dưới những quan điểm khác nhau, bổ sung cho nhau.

Theo Tin Mừng Nhất Lãm, môi trường hoạt động của Đức Giêsu là miền Galilê, các thị trấn chung quanh Biển Hồ Ghenésareth. Trong thời gian hoạt động công khai, các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ ghi lại có một lần Đức Giêsu lên Giêrusalem, ở đó Ngài đã bị bắt và kết án tử hình. Nếu chỉ dựa vào các Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta có thể nghĩ rằng cuộc đời công khai của Đức Giêsu chỉ kéo dài hơn một năm. Tin Mừng Gioan thì lại nhắc đến ba lần Đức Giêsu dự lễ ở Giêrusalem (Ga 2,13 ; 6,4 ; 11,55), và có tất cả bốn chuyến đi từ Galilê lên Giêrusalem (Ga 2,13 ; 5,1; 7,10 ; 12,12). Đối với Tin Mừng Gioan, Giêrusalem chính là nơi các biến cố quan trọng xảy ra. Giai đoạn hoạt động của Đức Giêsu kéo dài từ 2 đến 3 năm. Các lần Đức Giêsu đến ở Giêrusalem đều tạo nên sự thù nghịch của giới lãnh đạo Dothái.

Nếu dung hòa các Tin Mừng Nhất Lãm với Tin Mừng Gioan, chúng ta có thể nói đến một giai đoạn khá thành công của Đức Giêsu ở Galilê. Sau đó, vì sự thù nghịch của giáo quyền Dothái, Đức Giêsu thu hẹp phạm vi sinh hoạt vào nội bộ các môn đệ, cho đến khi Ngài bị bắt lúc đến Giêrusalem lần sau cùng.

Trên bình diện lịch sử, hai điểm khá chắc chắn là khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu ở sông Giođan với phép rửa của Gioan và kết cuộc bi thảm của Đức Giêsu trên thập giá tại Giêrusalem.

Phép rửa Đức Giêsu lãnh nhận đều được cả 4 Tin Mừng ghi lại. Không nên coi các bài tường thuật này chỉ thuần túy là những "bài thần học", không có một nội dung lịch sử nào. Chắc chắn Đức Giêsu biết hoạt động rao giảng và làm phép rửa của Gioan. Theo Tin Mừng Matthêu, Gioan rao giảng giống như Đức Giêsu sau này : "Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến" (Mt 3,2). Nhưng cũng theo Matthêu, Đức Giêsu hoạt động độc lập, sinh hoạt của Ngài đã làm cho Gioan ngạc nhiên và bối rối (Mt 11, 2.).

Cả hai đều rao giảng "Nước Thiên Chúa". Đối với Gioan, Nước Thiên Chúa đến với dấu hiệu phán xử và trừng phạt. Đối với Đức Giêsu, Nước Thiên Chúa đến với dấu hiệu lòng thương xót và tình yêu dành cho tội nhân. Sứ điệp của Đức Giêsu là tin vui về "Hồng Ân Cánh Chung" của Thiên Chúa.

Sự mới mẻ bất ngờ của sứ điệp Đức Giêsu biểu lộ rõ ràng hơn trong cách cư xử của Ngài. Những quan hệ giữa Đức Giêsu với những con người tội lỗi, những con người "dơ bẩn" theo luật phượng tự (Mc 2,16.). Việc Đức Giêsu vi phạm giới luật Sabbat (Mc 2,23.) và những quy định về điều dơ sạch (Mc 7,1...) là những điều đã xảy ra trong cuộc đời công khai của Ngài. Vì những quan hệ này, mà thiên hạ đã sớm gán cho Ngài tiếng xấu : con người mê ăn chè chén, bạn bè với quân thu thuế và tội lỗi (Mt 11,19).

Người ta chỉ hiểu được thái độ của Đức Giêsu, nếu chấp nhận sứ điệp của Ngài về Nước Thiên Chúa và về thánh ý của Thiên Chúa. Cốt lõi của thánh ý Thiên Chúa là "yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người". Các phép lạ "chữa bệnh và trừ quỷ" của Đức Giêsu theo cùng một hướng. Đối với Đức Giêsu, "Nước Thiên Chúa đến gần" có nghĩa là ơn cứu độ đang được Thiên Chúa cống hiến cho con người cả về phần hồn lẫn phần xác, được ban cho mỗi người và mọi người một cách vô điều kiện, chỉ đòi hỏi hoán cải và tin.

Như vậy, sự xuất hiện của Đức Giêsu ngay từ đầu đã tạo ra niềm ngưỡng mộ, phấn khởi và thậm chí say mê nơi một số người, nhưng cũng tạo ra sự hoài nghi, cớ vấp phạm và sự thù ghét nơi một số người khác. Người ta chưa từng nghe thấy xảy ra như thế bao giờ.

Đối với một người Dothái đạo đức theo nghĩa truyền thống, cách cư xử và rao giảng như Đức Giêsu là một cớ vấp phạm, thậm chí còn là một tội phạm thượng (Mc 2,7t). Đối với giới lãnh đạo Dothái-giáo, sứ điệp và cách xử sự lạ lùng của Đức Giêsu chứng tỏ Ngài là một tiên tri giả. Kết cuộc bi thảm của Đức Giêsu là hậu quả đương nhiên, do thái độ của Ngài (Đnl 18,20).

Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá là điều chắc chắn khác thuộc về lịch sử cuộc đời Đức Giêsu. Không thể nghi ngờ bảng viết gắn trên thập giá mà cả 4 sách Tin Mừng đều nói đến. Đức Giêsu đã không tự tuyên bố Ngài là Đấng Messia. Vả lại tự xưng là Messia, theo luật Dothái, không là tội phạm đáng chết. Có lẽ sự "sôi động" mà Đức Giêsu đã khơi dậy là nguyên do chính làm cho giới lãnh đạo Dothái dựa vào đó mà làm hại Ngài. Có người kết luận rằng Đức Giêsu đã có ý đồ chính trị. Điều này hoàn toàn sai và không phù hợp chút nào với sứ điệp Tình Yêu của Đức Giêsu, đặc biệt là đòi hỏi yêu thương kẻ thù (Mt 5,39-48). Đức Giêsu không hề chọn con đường bạo lực, nhưng đã chọn con đường phục vụ như một người tôi tớ. (Tình Yêu của Ngài vượt quá sự dữ, chiến thắng sự dữ và tạo ra một khởi điểm mới). Cuộc cách mạng mà Đức Giêsu đưa tới là một tình yêu không biên giới trong một thế giới đã in dấu quyền lực của sự vị kỷ.

Giêsu Nazareth là ai ? Dường như trong dân chúng có những dư luận khác nhau về Ngài. Có người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, người thì bảo là Êlya, người khác bảo là một tiên tri thời cánh chung (Mc 6,14-16 ; 8,28)... Đó là những dư luận tích cực. Còn có dư luận tiêu cực. Hêrôđê chế nhạo Ngài và coi Ngài như một người điên (Lc 23,6-12). Một số thân nhân của Ngài coi Ngài như mất trí (Mc 3,21).

Đức Giêsu khác với Gioan Tẩy Giả. Ngài không sống một cuộc đời khổ hạnh, xa lánh thế gian. Ngài cũng không sống đời tu trì như các thầy dòng phái Esséniens. Ngài đến với tha nhân và sống ở giữa họ. Ngài là một con người thực tình cởi mở, nhưng không sống bừa bãi phóng túng. Không ai có thể trách Ngài đã phạm tội.

Đức Giêsu như bị ám ảnh hoàn toàn bởi thánh ý Thiên Chúa. Những lời lẽ của Ngài như diễn tả một kỳ vọng vô biên, một điều hệ trọng mà không gì có thể so sánh. Ngài đã từ bỏ tất cả, gia đình, quê quán (Mt 8,20). Nhưng Ngài không là một kẻ cuồng tín. Ngài cũng không giống những người biệt phái. Ngài không đạo đức theo kiểu họ. Ngài không dạy một loại "kỹ thuật tôn giáo" hay các luật về luân lý ứng dụng. Ngài gọi Thiên Chúa là Cha. Tình yêu của Ngài đối với Cha vượt mọi khuôn khổ, làm cho Ngài trở nên một con người tự do, không băn khoăn lo lắng về ngày mai (Mt 6,25-34).

Đức Giêsu không thuộc về một tổ chức nào. Ngài xuất thân từ một gia đình đạm bạc, nhạy cảm với những nhu cầu và âu lo thường nhật của những con người phận nhỏ. Trong một thời đại như thời của Ngài, thái độ kính trọng mà Ngài dành cho giới phụ nữ là một điều đặc biệt. Đối với Ngài, tai họa, sự nghèo khổ và bệnh tật không là hình phạt của Thiên Chúa. Điều gây xúc động nhiều hơn cả là "tình yêu nồng nhiệt" Ngài dành cho các tội nhân và những người sống ngoài lề xã hội. Ngài đứng về phía những kẻ thiệt thòi, nhưng không bao giờ ác cảm hay thù ghét những người quyền thế và giàu có.

Đức Giêsu không chiến đấu chống lại quyền bính tôn giáo hay chính trị. Ngài chỉ chống lại quyền lực của Satan và sự dữ. Ngài không hề nêu ra một chương trình cải cách xã hội, cũng không chữa bệnh cho mọi người. Ngài không có kế hoạch hay chương trình riêng. Ngài chỉ thi hành thánh ý Thiên Chúa theo như Ngài nhận thức. Tất cả những gì khác, Ngài đều phó thác trong tay Thiên Chúa. Nền tảng nội tâm của Ngài là đời sống cầu nguyện, đối thoại thân mật và kết hiệp với Thiên Chúa (Mc 1,33-36).

Xét bề ngoài, Đức Giêsu hơi giống một thầy Rabbi có một số môn đồ vây quanh. Ngài cũng tranh luận về cách giải thích Lề Luật. Nhiều người hỏi ý kiến Ngài về những vấn đề luật pháp. Ngài không có điều kiện để làm "luật sĩ" một cách chính thức. Ngài không học ở trường thần học hay Kinh Thánh (Ngài không có bằng cấp). Ngài giảng dạy một cách đơn sơ, cụ thể, ngay thật.

Dân chúng nhận ra dễ dàng sự khác biệt giữa Đức Giêsu và các luật sĩ chuyên nghề. Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền (Mc 1,22.27).

Có lẽ danh từ "ngôn sứ" phù hợp cho Ngài hơn. Dân chúng và các môn đệ của Ngài đều nghĩ như vậy (Mc 6,15 ; 8,28 ; Lc 24,19). Bản thân Đức Giêsu cũng tự coi mình thuộc thành phần Ngôn sứ (Mc 6,4 ; Lc 13,33 ; Mt 23,31-39).

Nhưng rồi ngay cả danh từ "ngôn sứ" cũng không đủ để nói lên cương vị đích thực của Ngài, Ngài còn lớn hơn Giona, lớn hơn Salômôn (Mt 12,41t). Kỳ vọng của Ngài không phát xuất từ sự kiêu căng, nhưng biểu lộ khía cạnh cánh chung trong vai trò của Ngài. Ngài không là một trong số các ngôn sứ, nhưng là ngôn sứ cuối cùng, tối hậu, vượt trên các ngôn sứ. Ngài mang đến lời nói sau cùng và ý muốn tối hậu của Thiên Chúa. Ngài là tiên tri có đầy Thần Khí của Thiên Chúa (Mc 3,28 ; Mt 12,28).

Với con người và sứ điệp của Đức Giêsu, thời đen tối và vắng bóng Thiên Chúa đã chấm dứt. Thiên Chúa không còn nín lặng nữa ; Người lên tiếng trở lại nơi Đức Giêsu. Thời gian ân sủng đã khởi đầu. Khởi điểm ấy thật lạ lùng, khác với những điều người ta chờ đợi. Một nhóm người vô học tụ tập quanh một con người "lạ lùng" so với môi trường và thời đại. Người ta thắc mắc về Ngài. Và những ý kiến khác nhau : người khen, kẻ chê ; người bênh, kẻ chống... Nhưng điều này không quan trọng. Đối với Ngài, chỉ có một điều quan trọng là "Nước Thiên Chúa đang đến trong tình yêu". Ngài chỉ có một bận tâm : quan hệ giữa Thiên Chúa và con người. Nhìn theo góc độ này, chúng ta mới hiểu được một phần nào con người và sứ điệp của Đức Giêsu.

II. SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC GIÊSU TẠI THẾ.

A. TRỌNG TÂM CỦA SỨ ĐIỆP.

1. Marcô tóm lược nội dung chủ yếu của Tin mừng Đức Giêsu trong câu : "Thời buổi đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần bên. hãy hoán cải và tin vào Phúc Âm" (Mc 1,15).

Theo đa số các nhà Kinh Thánh hiện đại, đó không là câu nói nguyên văn của Đức Giêsu, nhưng là câu tóm lược của tác giả. Nhưng câu tóm này diễn tả chính xác trọng tâm sứ điệp của Đức Giêsu.

Tác giả Matthêu dùng thành ngữ "Nước Trời" là một cách nói tương đương với Nước Thiên Chúa (Mt 4,17).

Không có chỗ nào, Đức Giêsu nói rõ Nước Thiên Chúa là gì. Ngài chỉ công bố Nước Thiên Chúa đã gần bên. Ngài giả thiết nơi người nghe một sự hiểu biết hay chờ đợi đó khác nhau tùy người, hay tùy giới. Giới biệt phái coi Nước Thiên Chúa là vương quốc nơi mà Lề Luật Thiên Chúa được thi hành trọn vẹn. Giới "kháng chiến" (Zélotes) coi Nước Thiên Chúa như một vương quốc thần quyền, mà họ ước mong tái lập bằng vũ lực.

Giới "thần bí, khải huyền" thì chờ mong một thời đại mới, trời mới đất mới. Chúng ta không thể xếp Đức Giêsu vào hạng nào trong ba hạng người này. Cách giảng dạy của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa rất cởi mở và linh động.

2. Có lẽ não trạng con người hôm nay khó hiểu được thành ngữ "Nước Thiên Chúa". Nhưng thời Đức Giêsu, đó là một thành ngữ quen thuộc. Người Dothái luôn mơ ước đất nước họ có được một minh quân, một vì vua lý tưởng, đại diện cho Thiên Chúa. "Công lý", theo quan niệm của vùng Trung Đông thời bấy giờ, không phải là "công bằng pháp lý", mà là sự che chở, phù hộ, trợ giúp những người nghèo khổ và cô thế cô thân. Nói chung Nước Thiên Chúa được mong chờ như một sự giải thoát khỏi "quyền lực bất công" và thiết lập "công lý" của chính Thiên Chúa. Vương quyền của Thiên Chúa đồng hóa với ơn cứu độ - với Hòa Bình Viên Mãn giữa chư dân, giữa loài người và toàn thể vũ trụ (Isaia).

Thay vì thành ngữ "Nước Thiên Chúa" trong các Tin Mừng Nhất Lãm, Phaolô và Gioan đã thế vào đó các thành ngữ "sự công chính của Thiên Chúa, sự sống đời đời". Và như vậy là các ông cũng hiểu đúng ý của Đức Giêsu. Sứ điệp của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa là một lời mời gọi đón nhận Ơn Bình An, Ơn Cứu Thoát (tự do), Ơn Công Chính và Ơn Sự Sống từ Thiên Chúa và Đấng Người sai đến.

3. Để hiểu quan hệ giữa khát vọng sâu xa của nhân loại và lời hứa ban Nước Trời, chúng ta phải thấy được quan điểm của Kinh Thánh là : con người không thể tự mình mà có bình an, công lý, tự do và sự sống đích thực. Sự sống con người không ngừng bị đe dọa, tự do không ngừng bị áp bức, công lý thường xuyên bị chà đạp. Con người không thể tự mình ra khỏi tình trạng khốn quẫn này. Nguồn gốc của sự tha hóa là tội lỗi và thần dữ. Trật tự tạo dựng đã bị xáo trộn trầm trọng, cần một sự thay đổi toàn diện, một sự khởi đầu mới mẻ mà chỉ một mình Thiên Chúa có thể làm được, vì Người là Đấng cầm quyền sinh tử, Người là Đấng làm chủ thế giới và lịch sử. Sự mới mẻ ấy cuối cùng là chính Thiên Chúa. Do đó có thể kết luận đối tượng hay nội dung trọng tâm của ý niệm Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa với tình yêu khôn tả của Người đang được biểu lộ nơi hành động, lời nói và bản thân con người Đức Giêsu.

B. ĐẶC TÍNH CÁNH CHUNG CỦA NƯỚC THIÊN CHÚA.

1. Trong Kinh Thánh, sự chờ đợi Nước Thiên Chúa bắt đầu từ kinh nghiệm lịch sử của dân Israel. Lịch sử Dân Thiên Chúa là lịch sử giao ước, là lịch sử tình yêu và tội lỗi của Dân Chúa trong quan hệ với Thiên Chúa.

Với biến cố Xuất hành, Thiên Chúa đã tỏ ra là "Cứu Chúa vĩ đại và quyền năng", là Đấng có toàn quyền trên vũ trụ và lịch sử. Kinh nghiệm Xuất hành đã khai sinh cho niềm tin Xuất hành. Niềm tin Xuất hành làm cho Dân Thiên Chúa không ngừng ca tụng, tôn vinh và đầu phục Thiên Chúa. Đón nhận giao ước của Thiên Chúa là một hình thái đầu phục Thiên Chúa. Từ đó Thiên Chúa là Chúa của dân, và dân là dân riêng của Người. Lời tuyên tín căn bản và vắn tắt nhất của Dân Thiên Chúa là : "Giavê là Chúa", "Giavê yêu thương đặc biệt dân Israel, nhưng vương quyền của Người là Vương quyền phổ quát" (Tv 47,6-9; Tv 96,10; 99,1;145,3). Dĩ nhiên, đây không phải là vấn đề địa dư, mà là sự nhận biết chủ quyền của Thiên Chúa đối với con người và lịch sử.

2. Niềm tin của dân Israel vào vương quyền của Thiên Chúa không ngừng bị thử thách và được thanh luyện. Trải dài hàng ngàn năm lịch sử, Dân Chúa va chạm những thực tế phủ phàng tương phản với lòng tin và niềm hy vọng của họ. Vì lý do đó, dưới sự hướng dẫn của các ngôn sứ, Dân Chúa vượt qua hiện tại, nhìn về tương lai. Ý thức về vương quyền của Thiên Chúa trở thành ý thức về thời đại cánh chung. Người ta trông đợi những kỳ công của Thiên Chúa tái diễn trong tương lai cách lạ lùng và kỳ diệu hơn trước. Người ta mong chờ một giao ước mới, một biến cố xã hội mới. Vương quyền Thiên Chúa được chờ đợi như điều sẽ xảy đến trong tương lai. Chiều hướng tương lai này được truyền thống khải huyền "siêu - việt - hóa", đặc biệt là trong sách Đaniel : bốn đế quốc nối tiếp nhau sụp đổ, thay vào đó, Thiên Chúa cho chỗi dậy một vương quốc đời đời không bị hủy diệt (Đn 2,44).

3. Sứ điệp của Đức Giêsu loan báo "Niềm Hy Vọng Cánh Chung" của Dân Thiên Chúa giờ đây đang thể hiện : "Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đang gần kề" (Mc 1,14t ; Mt 4,17 ; 10,7 ; Lc 10,9). Giờ mà muôn thế hệ trông chờ đã đến (Lc 4,21). Lời Thiên Chúa đã hứa qua miệng các tiên tri đang thể hiện (Is 35,5 ; Mt 11,5), trong lời nói và hành động của Đức Giêsu. Phúc cho ai không bị vấp phạm vì Ngài (Mt 11,6).

Cớ vấp phạm không phải là không có : một con người vô danh tiểu tốt, đến từ một ngôi làng nhỏ bé xa xôi, với một nhóm môn đồ dốt nát, kéo theo một lũ người tội lỗi, ngoại tình, thu thuế, mà tự coi mình là khúc quanh của lịch sử, là biểu hiện của "Nước Thiên Chúa".

Thực tại bên ngoài dường như không cho phép tin vào điều Đức Giêsu rao giảng. Từ đầu đã có những người tỏ vẻ không tin. Ngay cả những thân nhân của Đức Giêsu cũng coi Ngài là điên rồ (Mc 3,21). Trong bối cảnh ấy, Đức Giêsu phải dùng dụ ngôn để rao giảng Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một hạt cải bé nhỏ gần như vô hình, với thời gian trở thành cây cổ thụ (Mc 4,30-32), là một chút men làm dậy 3 đấu bột to (Mt 13,33). Nước Thiên Chúa đến trong âm thầm và thất bại bên ngoài, như hạt giống rơi vào mảnh đất đầy sỏi đá, gai góc và khô cằn. Nhưng thế nào cũng có chỗ cho hạt giống nảy sinh hoa trái (Mc 4,1-9).

Theo quan niệm của người xưa, hạt giống không tự nó làm nảy sinh hoa trái theo định luật tự nhiên. Người ta coi đó là công việc kỳ diệu Thiên Chúa làm. Nguyên nhân thật là nhỏ, mà hậu quả lại vô cùng lớn.

Nước Thiên Chúa là công việc của Thiên Chúa, công việc rất lớn lao vĩ đại, nhưng tiềm ẩn trong thực tại nhỏ bé của đời sống hằng ngày. Nước Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm đó là sự thống trị âm thầm của Thiên Chúa giữa lòng thế giới, mà không có dấu hiệu tỏ lộ bên ngoài. Nước Thiên Chúa hiện nay còn "giấu ẩn", vừa là thực tại hiện diện, vừa như một thực tại cánh chung sẽ đến, và hiện giờ mọi người đang chờ mong và hoàn toàn tùy thuộc vào ý muốn của Thiên Chúa (Mt 6,10 ; Lc 11,2).

4. Biện chứng hiện tại và tương lai, rồi và chưa, được Đức Giêsu làm nổi bật trong sứ điệp của Ngài về Nước Thiên Chúa.

Ngoài ra dường như còn có trương lực giữa tương lai gần và tương lai cuối cùng, còn xa vô tận. Có kẻ cho rằng Đức Giêsu chờ đợi ngày tận thế gần kề, và đó cũng là quan điểm và sự mong chờ của những người thuôïc thời đại của Ngài.

Thực ra sự trì hoãn thời quang lâm đã là một vấn đề của Cựu Ước. Lịch sử cứu độ là lịch sử đối thoại giữa Thiên Chúa với con người. Lời hứa của Thiên Chúa luôn mở ra cho con người những khả thể mới. Ơn sủng của Thiên Chúa, ngay cả đến thời điểm tối hậu hay cánh chung vẫn hướng về quyết định tự do của con người. Khi Israel bất trung và từ khước, lời hứa của Thiên Chúa mới thể hiện bằng con đường Tử nạn Phục Sinh của Đức Giêsu.

C. ĐẶC TÍNH "QUY THẦN" CỦA NƯỚC THIÊN CHÚA.

1. Trong truyền thống Cựu Ước, "Nước Thiên Chúa" đều có ý nghĩa là Thiên Chúa đến. "Ngày của Giavê do Thiên Chúa Giavê ấn định, và hoàn tất, là ngày mà Thiên Chúa trở nên "mọi sự trong mọi người".

Khi Đức Giêsu loan báo "Nước Thiên Chúa đã đến gần bên", điều này có nghĩa là Thiên Chúa đã gần bên. Nước Thiên Chúa là sự biểu lộ vinh quang của Thiên Chúa, chủ quyền của Thiên Chúa, là sự tôn vinh Thiên Chúa làm Chúa, làm bá chủ.

2. Niềm tin vào Thiên Chúa Tạo Dựng làm nổi bật vương quyền tuyệt đối của Thiên Chúa. Dothái-giáo nhấn mạnh tính siêu việt của Thiên Chúa, Đấng có quan hệ với con người qua trung gian của Lề Luật, Đức Giêsu không khai triển giáo lý về Tạo Dựng, nhưng lại nhấn mạnh khía cạnh Thiên Chúa gần kề. Thiên Chúa đầy tình yêu thương chăm sóc đối với các tạo vật. Ngài chăm sóc hoa đồng nội (Mt 6, 30), nuôi dưỡng chim trên trời (Mt 10,31).

Trong lời rao giảng của Đức Giêsu, ý tưởng Thiên Chúa gần kề vừa sống động, vừa sâu sắc. Cái nhìn mới của Đức Giêsu về vương quyền của Thiên Chúa đó là sự thống trị của Thiên Chúa Tình Yêu. Thiên Chúa đến gần có nghĩa là tình yêu của Người đang được biểu lộ, được cống hiến cho nhân loại. Đức Giêsu có kinh nghiệm bản thân về tình yêu và sự gần gũi của Thiên Chúa, Ngài gọi Thiên Chúa là Cha và dạy các môn đệ cũng gọi như vậy. Cách thức Đức Giêsu gọi Thiên Chúa kết hợp quyền bính tuyệt đối của người Cha trong thế giới cũ với sự thân tình trong quan hệ Cha - Con thuộc thời đại mới. Trong các sách Tin Mừng, Thiên Chúa được gọi là Cha không dưới 170 lần. Dưới cái nhìn của Đức Giêsu, thái độ "trẻ thơ" của người con hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như người cha là đặc thái của Nước Trời (Mt 18,3).

Tuyên xưng Thiên Chúa là Cha không phải là coi thường, đặt Thiên Chúa ngang hàng với con người, nhưng là tỏ lòng yêu mến và kính trọng, ước mong cho Thiên Chúa được vinh danh, Thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện (Mt 6,9t ; Lc 11,2). Sự Cao Cả và Vương quyền của Thiên Chúa trong Cựu Ước vẫn được tôn trọng, nhưng được hiểu cách mới mẻ : vương quyền của Thiên Chúa được biểu lộ bằng tình yêu và ơn tha thứ. Sự hoàn hảo của Thiên Chúa là "lòng thương xót" (Lc 6,36). Tình phụ tử của Thiên Chúa hướng tới những người con đã hư mất, và phục sinh những gì đã chết (Lc 15,24). Nơi nào Thiên Chúa khai mạc vương quyền làm Cha của Người, nơi ấy xuất hiện một công cuộc tạo dựng mới.

3. Nước Thiên Chúa là công việc của Thiên Chúa, nên không tự nhiên mà có, hoặc do cố gắng về phương diện luân lý hay tôn giáo, hoặc do tính toán hay tranh đấu trên bình diện chính trị. Không thể ra kế hoạch, tổ chức, xây dựng, cũng không thể hình dung hay tưởng tượng Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa được ban cho như một hồng ân (Mt 21,43 ; Lc 12,32). Chúng ta chỉ có thể lãnh lấy làm cơ nghiệp (Mt 25,34). Điều đó không có nghĩa là con người hoàn toàn thụ động trước vương quyền của Thiên Chúa. Đức Giêsu mời gọi con người "hoán cải và tin vào Phúc Âm" (Mc 1,15). Tin vào Thiên Chúa là từ bỏ, không cậy dựa vào việc làm của mình, thú nhận sự bất lực của mình, nhận rằng mình không thể đưa lại cho bản thân ơn cứu độ, mà chỉ biết trông cậy vào Thiên Chúa. Tin là "để cho Thiên Chúa hành động", là để cho Thiên Chúa làm Chúa và saün sàng tôn vinh Người, là công nhận vương quyền của Người.

D. CHIỀU KÍCH CỨU ĐỘ CỦA NƯỚC THIÊN CHÚA.

Đức Giêsu không những nhấn mạnh hay làm nổi bật thực tại "Nước Thiên Chúa", Ngài còn coi đó như là trọng tâm, là cốt tủy của ơn cứu độ.

1. Khác với những ý niệm về hạnh phúc trong văn hóa Hylạp, nguồn gốc các mối phúc thật mà Đức Giêsu rao giảng không là sự khôn ngoan thế gian hay là kinh nghiệm ở đời. Các mối phúc thật là những lời có đặc tính ngôn sứ, vừa mời gọi, vừa an ủi. Mọi của cải trần gian và giá trị thế trần đều phai nhạt trước hạnh phúc đích thực được thông phần vào Nước Thiên Chúa. Rõ ràng là có sự đảo ngược các giá trị trần gian. Những người bị thế gian ruồng bỏ và khinh thường thì được chúc phúc. Theo Tin Mừng Luca, trong bài rao giảng đầu tiên, Đức Giêsu đã lấy lại lời ngôn sứ Isaia (61,1) và tự nhận rằng mình được sai đi rao giảng Tin Mừng cứu độ cho những người nghèo khó, sự giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, ánh sáng cho những kẻ đui mù, tự do cho những kẻ bị áp bức, và loan báo năm Hồng Ân của Thiên Chúa (Lc 4,18).

2. Sự "thiên vị" của Đức Giêsu dành cho người nghèo hoàn toàn phù hợp với Cựu Ước : gợi lại những lời tiên tri Amos lên án bất công xã hội và sự áp bức (Am 2,7 ; 4,1 ; 5,11) ; hay lời Thánh vịnh kêu cầu Giavê Thiên Chúa như Đấng phù hộ và giải thoát những người yếu ớt và bị bách hại.

Đức Giêsu, yêu những người nghèo, nhưng không thành kiến với người giàu có, cũng không coi khinh của cải vật chất. Khi tuyên bố "phúc cho người nghèo", Đức Giêsu không nhắm một giai cấp, hay đưa ra một chương trình cải cách xã hội. Quan điểm của Ngài là một quan điểm tôn giáo : người nghèo là người hoàn toàn chờ đợi từ Thiên Chúa và tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa.

Cách xử thế của Đức Giêsu đi đôi với lời rao giảng của Ngài. Ngài tỏ ra có cảm tình và liên đới với những người phận nhỏ. Ngài thường lui tới với những hạng người bị xã hội thời bấy giờ khinh rẻ : hạng thu thuế, người tội lỗi, đĩ điếm hay ngoại tình... Ngài giao du và dạy dỗ những người thất học, những người bị coi thường vì không biết hay không thuộc Lề Luật. Các người Dothái đạo đức coi nếp sống của họ như là bất hạnh là vô phúc. Đức Giêsu thì tuyên bố ngược lại : phúc cho họ.

3. Đức Giêsu "kết tinh" sự khao khát chờ đợi ơn cứu độ vào việc thông phần Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa đồng nhất với sự sống đời đời (Mc 9,43-45 ; 10,17 ; Lc 18,18). Đó không chỉ là phần thưởng hứa ban trong tương lai dành cho những người thiện chí. Nhưng ngay bây giờ, Nước Thiên Chúa, hay thời gian cứu độ đang biểu lộ, thể hiện bằng những điềm thiêng dấu lạ của Đức Giêsu. Các dụ ngôn "hai người mắc nợ" (Lc 7,41-43), người đầy tớ gian ác (Mt 18,23-35), người con hoang đàng (Lc 15,11-32) cho thấy nội dung chủ yếu Tin Mừng cứu độ là ơn tha thứ và niềm vui được thừa hưởng lòng nhân hậu vô bờ của Thiên Chúa.

Cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa là thấy được Thiên Chúa tiếp nhận cách nồng nàn. Ơn cứu độ là niềm vui trong Thiên Chúa, niềm vui sống với Thiên Chúa ở giữa tha nhân.

4. Ơn tha thứ của Thiên Chúa làm cho chúng ta có khả năng tha thứ luôn mãi (Lc 17,3-4).Lòng quảng đại là thái độ mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người để lãnh nhận ơn tha thứ (Mt 6,12 ; Mc 11,25). Hạnh phúc được hứa ban cho người có lòng xót thương (Mt 5,4). Phải biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau không trì hoãn vì cứu độ hay phán xử đang rất gần (Lc 12,58-59). Tình yêu cứu độ là tình yêu không chống trả (Mt 5,39 ; Lc 6,29). Chỉ có tình yêu ấy mới có khả năng bẻ gãy gọng kìm của tội ác và bạo lực. Yêu thương là bắt đầu lại cách hoàn toàn mới mẻ, ra khỏi quỹ đạo của sự cũ kỹ già nua. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa đưa đến tương giao mới mẻ và tự do giữa con người với nhau, mang lại tình huynh đệ biết chia vui sẻ buồn.

Những điều này chỉ có giá trị thực sự, khi con người biết rằng "Nước Thiên Chúa đến" có nghĩa là quyền lực của thần dữ đã thua trận (Mt 12,28-29 ; Lc 11, 20-22).

Vương quốc Tình Yêu của Thiên Chúa đến, mang ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, và cho từng người. Mỗi người đều có hy vọng tình yêu là thực tại, là tiếng nói cuối cùng, tình yêu mạnh hơn sự chết, mạnh hơn hận thù và bất công. Sứ điệp về vương quốc của Thiên Chúa là một lời hứa cứu độ cho tất cả những gì thực hiện với tình yêu trong thế giới này.

III. CÁC PHÉP LẠ CỦA ĐỨC GIÊSU.

Đức Giêsu không những chỉ rao giảng bằng lời nói, mà còn qua cách sống, cách xử thế, những hành vi cử chỉ và cả những dấu lạ Ngài làm.

1. Vì thế giới khoa học không thích những chuyện phép lạ, nên nhiều nhà Kinh Thánh đã nỗ lực dùng khoa "phê bình sử học" phân tích bản văn Kinh Thánh, để tìm ra cốt tủy lịch sử của truyền thống về các phép lạ. Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, người ta có khuynh hướng chối bỏ hoàn toàn sử tính của các phép lạ, cho đó là những chuyện hoang đường.

Nhưng hiện nay, người ta có một quan điểm quân bình hơn. Các nhà Kinh Thánh nghĩ rằng, chắc chắn Đức Giêsu đã làm một số phép lạ, bằng không, người ta không thể giải thích nổi tại sao lại có cả một truyền thống về các phép lạ được ghi lại đậm nét trong tất cả các sách Tin Mừng. Thậm chí Tin Mừng Marcô dường như xếp đặt chất liệu về thời gian hoạt động công khai của Đức Giêsu chung quanh các phép lạ (Mc 5,21-43).

Những phép lạ chữa lành bệnh trong ngày Sabbat, và những tranh luận phát sinh từ đó, gay gắt đến nỗi tạo ra sự xung đột giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Dothái. Những phép lạ trừ quỷ của Đức Giêsu chắc chắn đã làm cho dư luận bàn tán về Ngài, và khiến cho nhiều người Dothái tức giận, dùng ngụy biện để phá uy tín của Đức Giêsu.

2. Các bản văn Kinh Thánh dùng chữ "việc làm quyền phép" (.....) và "dấu lạ" (semeion) để chỉ các phép lạ Đức Giêsu làm. Đó là những biến cố lạ lùng, bất ngờ làm cho nhiều người ngỡ ngàng hay ngưỡng mộ.

Chẳng ai đặt vấn đề luật thiên nhiên, nhưng phần đông đều hướng lòng lên cùng Thiên Chúa, khi được chứng kiến những điềm thiêng và dấu lạ. Vấn đề phép lạ trong Kinh Thánh, không là một vấn đề khoa học, mà là một vấn đề tôn giáo và thần học. Nó tùy thuộc vào đức tin và nhằm làm sáng danh Thiên Chúa.

3. Marcô ghi lại các phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu ngay sau khi tóm lược sứ điệp của Ngài về Nước Thiên Chúa. Các phép lạ của Đức Giêsu là dấu chỉ Nước Thiên Chúa đang đến, và quyền lực của Satan bị tiêu diệt. Các phép lạ cho thấy rằng ơn cứu độ không thuần túy "thiêng liêng" mà có quan hệ tới toàn diện con người, kể cả phương diện thân xác.

Giống như "Nước Thiên Chúa", các phép lạ của Đức Giêsu có chiều kích cánh chung, là buổi hừng đông của thời đại mới. Chúng chỉ có ý nghĩa cho những ai trông chờ thời cứu độ, mong ước một thế giới mới, một trật tự mới.

Các phép lạ còn là dấu chỉ sức mạnh và quyền bính của Đức Giêsu : Đức Giêsu khai trương Nước Thiên Chúa bằng lời nói và hành động. Cũng chính vì thế, mà Đức Giêsu không muốn phô trương, không muốn cho dân chúng lẫn lộn Nước Thiên Chúa với vương quốc trần gian.

4. Có thể tóm lược ý nghĩa thần học về các phép lạ Đức Giêsu làm :

a. "Hoàn tất" những điều Cựu Ước loan báo (Mt 11,5), đó là những hành vi nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, thể hiện sự vâng phục của Đức Giêsu đối với Thiên Chúa.

b. Qua các phép lạ của Ngài, quyền năng Thiên Chúa được biểu lộ cùng với sự tầm thường, tăm tối và hàm hồ của những thực tại xảy ra ở trần gian (Mt 11,6).

c. Giải thoát con người để họ có thể bước theo Ngài. Việc trừ quỷ nhằm trục xuất thần dữ, để con người có khả năng thông phần vào "Nước Thiên Chúa".

5. Các phép lạ của Đức Giêsu là những dấu chỉ dành cho đức tin. Các chữ niềm tin, đức tin, tin tưởng được nhắc đi nhắc lại thường xuyên trong các bài tường thuật phép lạ. Các bài ấy thường kết bằng câu : "đức tin của ngươi đã cứu ngươi" (Mc 5,34 ; 10,52 ; Mt 9,22 ; Lc 17,19). Nơi nào Đức Giêsu không thấy có đức tin, nơi ấy Ngài không thể làm phép lạ (Mc 6,3 ; Mt 13,58).

Giữa đức tin và phép lạ có tương quan hai chiều :

a. Phép lạ thường dẫn tới niềm tin. Phép lạ làm cho người ta ngạc nhiên và đặt vấn đề"Ông Giêsu là ai ?" (Mc 1,27 ; 4,41 ; Mt 12,23). Nhưng phép lạ không là những điều lạ lùng đến nỗi bó buộc người ta phải tin. Phép lạ khai mở tâm hồn con người và chờ đợi sự đáp trả tự do.

b. Việc nhận ra giá trị và ý nghĩa các phép lạ của Đức Giêsu đòi hỏi phải có đức tin. Dĩ nhiên Đức Giêsu tại thế không đòi hỏi một đức tin trọn vẹn như niềm tin Phục Sinh, nhưng một sự tin tưởng nào đó vào con người và sứ điệp của Ngài, tin Thiên Chúa có thể ra uy hành động nơi Đức Giêsu.

Trong các sách Tin Mừng, các phép lạ của Đức Giêsu thường được trình bày như sự việc mà qua đó Ngài nhận lời van xin đầy tin tưởng của con người.

Tin vào phép lạ của Đức Giêsu không phải là tin ở điều lạ xét là điều lạ, nhưng là tin tưởng ở quyền năng và tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Đối tượng của niềm tin không là những hiện tượng lạ mà là chính Thiên Chúa. Ý nghĩa sâu xa nhất của phép lạ là : Thiên Chúa hành động nơi Đức Giêsu nhằm cứu

rỗi con người và thế giới.

IV. KỲ VỌNG CỦA ĐỨC GIÊSU (PRÉTENTION).

A. KỲ VỌNG ẨN KÍN NƠI ĐỨC GIÊSU.

1. Nước Thiên chúa là một thực tại "ẩn giấu", chỉ có thể đề cập bằng dụ ngôn. Thiên Chúa là "huyền nhiệm" mắt phàm không thể nhận ra, được biểu lộ bằng mạc khải vào thời đại cánh chung. Việc Nước Thiên Chúa đến thể hiện bằng lời nói và việc làm của Đức Giêsu. Đức Giêsu đến thế gian có nghĩa là Nước Thiên Chúa đến. Chính con người Đức Giêsu là "huyền nhiệm" Nước Thiên Chúa. Xác tín về điều đó, Đức Giêsu dám khẳng định : "Phúc cho mắt được thấy điều các ngươi thấy" (Lc 10,23).

Khi bắt đầu cuộc đời rao giảng công khai, Đức Giêsu tuyên bố "thời Thiên Sai cánh chung" đã đến, lời ngôn sứ Isaia về Vị Thiên Sai cánh chung hôm nay thể hiện nơi Ngài (Lc 4,17-22). Nước Thiên Chúa cũng đến gần, vì Đức Giêsu đã nhờ Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỷ (Mt 12,28 ; Lc 11,20). Ngày của Giavê Thiên Chúa mà các ngôn sứ nhiều lần nói tới, hiện đang đến, vì những điều được loan báo đang thể hiện nơi con người và việc làm của Đức Giêsu (Mt 11,2-6).

2. Nước Thiên Chúa đến cách âm thầm với sự xuất hiện của Đức Giêsu. Nơi Ngài, bản chất của Nước Thiên Chúa được biểu lộ : nơi sự vâng phục tuyệt đối, sự từ bỏ hoàn toàn, nơi cuộc sống "nay đây mai đó" của Ngài. Cuộc đời Ngài là lời giải thích cụ thể "thánh ý" của Thiên Chúa. Nhìn ngắm Ngài, chúng ta sẽ nhận ra thần tính của Thiên Chúa và nhân tính của con người. Nơi Đức Giêsu, không thể tách rời sứ mạng với con người. Ngài đồng hóa với sứ mạng. Ngài là hình thái "chủ vị" và cụ thể của Nước Thiên Chúa. Do đó, tất cả những lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa, cùng với những hoạt động của Ngài đều hàm chứa một thứ Kitô-học mặc nhiên và tiềm tàng, là điều sẽ được tuyên xưng cách trực tiếp và minh nhiên sau biến cố Phục Sinh. Tất cả đều do Thiên Chúa khởi xướng và chờ đợi đáp trả bằng đức tin. Trước và sau Phục Sinh, có hai hình thái xuất hiện của Nước Thiên Chúa : hình thái "thấp hèn" tăm tối, và hình thái vinh quang bất diệt. Cả hai đều do thánh ý tốt lành của Thiên Chúa.

3. Lúc Đức Giêsu còn "tại thế", có nhiều điều có thể được giải thích như một "Kitô-học" ẩn tàng trong lời nói và hành động của Đức Giêsu. Bình thường, Đức Giêsu vẫn chu toàn bổn phâïn của một người Dothái đạo đức : Ngài cầu nguyện không ngừng và đến hội đường Dothái vào ngày Sabbat. Nhưng Ngài cũng vi phạm giới luật Sabbat hiểu theo nghĩa Dothái (Mc 2,23 ; 3,6), giới luật chay tịnh (Mc 2,18-22) ; những qui định về dơ và sạch theo luật Dothái (Mc 7,1-23). Ngài ăn uống với những người tội lỗi và thu thuế (Mt 11,19). Cách cư xử của Ngài là lời phê phán gián tiếp đối với môi trường xã hội, nhưng đó không phải là điều chính yếu. Ý nghĩa tròn đầy của cách sống của Đức Giêsu chỉ sáng tỏ dựa vào sứ điệp của Ngài về Nước Thiên Chúa đang đến bằng tình yêu và trong tình yêu. Đồng bàn là "chia sẻ đời sống" bao hàm sự tha thứ và hòa giải, lòng tin tưởng và tình huynh đệ. Đồng bàn là "thông hiệp" với nhau trước mặt Thiên Chúa, là dấu chỉ của "bữa tiệc cánh chung", của sự hiệp thông cánh chung với Thiên Chúa. Cùng ăn uống với người tội lỗi là một cách thức diễn tả sứ mạng thiên sai của Đức Giêsu (Mc 2,17 ; 2,19). Cho những người tội lỗi tham gia vào "cộng đồng cứu thế" nhờ hiệp thông cùng bàn ăn là cách diễn tả rõ ràng và dứt khoát nhất sứ điệp tình yêu cứu thế của Thiên Chúa. Đức Giêsu, khi tiếp đón những người tội lỗi ngồi cùng bàn với mình, thì cho họ được hiệp thông với Thiên Chúa. Ngài tha thứ tội lỗi cho họ, Ngài bị lên án là "phạm thượng" do "ý nghĩ kỳ lạ" này của Ngài, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội (Mc 2,6-7).

4. Lời rao giảng và cách rao giảng của Đức Giêsu cũng hàm chứa một Kitô-học "tiềm tàng". Mới nghe Đức Giêsu, người ta có thể coi Ngài như một Rabbi hay một ngôn sứ. Nhưng khi phân tích kỹ càng, chúng ta nhận ra một số khác biệt cơ bản. Những người đồng thời của Đức Giêsu cũng đã nhận ra điều đó (Mc 1,22). Đức Giêsu không dừng lại việc giải thích luật Môsê. Ngài đặt lời lẽ của mình lên trên quyền bính Dothái-giáo, trên lời lẽ của Môsê. Đức Giêsu xác tín rằng mình là người có tiếng nói "cuối cùng" về Thiên Chúa, đưa lời mạc khải trong Cựu Ước đến chỗ hoàn thành viên mãn.

Đức Giêsu cũng không lên tiếng theo kiểu ngôn sứ. Ngài không phân biệt lời của mình với lời của Thiên chúa (các ngôn sứ : sấm Giavê, Thiên Chúa Giavê phán như thế). Dù Đức Giêsu không minh nhiên sử dụng từ ngữ "Messia" cho chính mình, nhưng chỉ có phạm trù ấy diễn tả được kỳ vọng của Ngài. Đạo Dothái cũng chờ đợi Đấng Thiên Sai, sẽ đến không phải để bãi bỏ Lề Luật, nhưng để kiện toàn. Đức Giêsu đáp lại sự chờ mong này, nhưng theo một kiểu quá lạ lùng, chưa từng ai có thể nghĩ như vậy, vượt quá mọi khuôn khổ cũ gán cho Đấng Messia. Chính vì thế, mà phần đông theo đạo Dothái chống lại kỳ vọng của Ngài (Người Dothái coi Kitô-giáo như một nhánh, một phái ly khai và lạc giáo). Đức Giêsu đã tự coi mình là "Miệng của Thiên Chúa" (bouche de Dieu). "Tiếng nói" của Thiên Chúa (voix de Dieu). Những người đương thời với Ngài biết rõ kỳ vọng của Ngài, nên nghĩ rằng Ngài "phạm thượng" (Mc 2,7).

5. Còn một con đường thứ ba để trình bày một Kitô học tiềm tàng nơi con người Giêsu Nazareth : lời kêu gọi của Đức Giêsu, hoặc yêu cầu phải quyết định, hay mời gọi bước theo Ngài.

Đức Giêsu đã đặt dân của Ngài trước một đòi hỏi phải quyết định tối hậu. Quyết định đón nhận hay từ khước Nước Thiên Chúa gắn liền với con người, lời nói và việc làm của Ngài. (Nội dung cốt yếu do Đức Giêsu phát biểu).

Quan hệ giữa các môn đệ với Đức Giêsu khác hẳn quan hệ giữa các học trò với một thầy Rabbi. Không phải ai cũng được nhận vào số 12 môn đồ. Đức Giêsu đã lựa chọn một cách hoàn toàn tự do những ai Ngài muốn (Mc 3,13). Lời kêu gọi "hãy theo Ta" như là một mệnh lệnh (Mc 1,17), là một lời có sức sáng tạo biến những người được kêu gọi trở nên những môn đồ.

Các sách Tin Mừng không hề ghi lại những "tranh luận thần học" giữa Giêsu và các môn đồ, như thường thấy xảy ra giữa các Rabbi và học trò của họ. Vai trò của các môn đệ không phải là trao lại một truyền thống tôn giáo cho hậu thế, mà là tham dự vào việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, thông phần quyền bính của Đức Giêsu, công bố với uy quyền và sức mạnh Nước Thiên Chúa đang gần kề, xua trừ ma quỷ và chữa bệnh tật (Mc 6,7). Quan hệ giữa các môn đồ và Đức Giêsu không phải là quan hệ nhất thời giữa trò và thầy, cho đến khi nào trò trở nên một vị thầy khác, nhưng là một quan hệ chặt chẽ và trường cửu. Họ chỉ có một vị thầy duy nhất là Đức Giêsu (Mt 23,8). Ngài coi các môn đệ như bạn hữu. Các môn đệ còn chia sẻ hành trình lang thang của Đức Giêsu, chấp nhận sống không nhà không cửa. Họ chấp nhận liều lĩnh, chờ đón một số phận nguy hiểm. Đó là một sự chung sống toàn diện, sống chết có nhau. Quyết định theo Đức Giêsu là cắt đứt mọi quan hệ khác, vì phải bỏ hết mọi sự (Mc 10,28), liều mất mạng sống mình (Mc 8,34). Dấn thân cách triệt để và trọn vẹn theo Đức Giêsu. Do đó, không những có sự liên tục về đối tượng đức tin, mà còn có sự liên tục của chủ thể đức tin : nhóm người theo Đức Giêsu tại thế cũng là nhóm người loan báo Đức Kitô Phục Sinh.

B. KẾT LUẬN.

Kitô-học tiềm tàng của Đức Giêsu tại thế chứa đựng một kỳ vọng chưa từng thấy, vượt quá mọi khuôn khổ truyền thống. Người ta có thể gặp nơi Ngài chính Thiên Chúa và vương quốc của Thiên Chúa ; ơn cứu độ hay sự phán xét của Thiên Chúa, vì Ngài đến thế gian không phải để kết án, mà là để cứu độ thế gian. Chính Ngài là vương quốc của Thiên Chúa, là tình yêu của Thiên Chúa hiện thân. Kỳ vọng của Đức Giêsu lớn hơn, cao hơn mọi tước hiệu vinh dự mà người ta có thể gán cho Ngài, khi Ngài còn tại thế. Đức Giêsu dè dặt với các tước hiệu, không phải vì Ngài nghĩ rằng Ngài không xứng đáng. Trái lại những tước hiệu ấy không xứng đáng với Ngài, chưa diễn tả được chân tính và sứ vụ của Ngài. Trong trường hợp của Ngài, có chăng là dùng dùng thể so sánh : lớn hơn Giona, lớn hơn Salomôn (Mt 12,41).

Điều lạ lùng là kỳ vọng tối cao của Đức Giêsu không mang một chút màu sắc khoe khoang, kiêu ngạo hay tự mãn. Đức Giêsu không hề muốn gây ấn tượng trên người nghe, không muốn biểu lộ uy quyền, không lưu tâm đến ảnh hưởng cá nhân. Ngài vẫn là một người nghèo và vô gia cư. Ngay cả đối với môn đệ, Ngài sống như một người phục vụ (Lc 22,27). Vậy Ngài là ai, mà lạ lùng như thế !


Trở về Mục Lục Thần Học | Về Trang Nhà
Trở Về Trang Nhà