Giêsu, Những Ðiều
Chúng Ta Biết Về Ngài
Ðây là bản dịch của ba bài đăng trong tuần báo Le Figaro
Magazine số ngày 01.10.1999 với đề tài chính Jésus, ce que nous savons vraiment
de lui . Tuần báo này chuyên về chính trị, xã hội và văn hoá, có khuynh hướng
thiên hữu bên Pháp. Cách nhìn về Chúa Giêsu có nhiều điều khác với cách nhìn
tôn giáo chúng ta thường quen biết ; nó có tính chất sử học và nhân bản, nhấn
mạnh đến ảnh hưởng sâu đậm của Chúa Giêsu trong quá trình tiến hoá tư tưởng tây
phương về giá trị của con người. Cách nhìn này phản ảnh một phần nào lối suy
nghĩ của nhiều người Pháp hiện tại, đặc biệt trong tầng lớp trí thức. Có lẽ đặc
tính này là một trong những yếu tố giải thích tại sao đạo công giáo Pháp hiện
nay, mặc dù ảnh hưởng rất sâu đậm trong xã hội, nhưng lại càng ngày càng ít lôi
cuốn người tham dự lễ nghi, sống đạo như người công giáo Việt Nam. Trước thực
tại này, người ta có cảm tưởng là Giáo Hội Công Giáo Pháp đang tìm một hướng đi
có khuynh hướng khiêm nhượng hơn, thực tế hơn, mềm dẻo hơn và tách rời khỏi thế
quyền. Một tiểu số có phản ứng cực đoan, được gọi là những người công giáo bảo
thủ (traditionalistes) ; họ chối bỏ những cải cách của Công Ðồng Vatican II và
trở lại với những giá trị, lễ nghi truyền thống xưa. Hình ảnh một người công
giáo bảo thủ, khép kín và có thiện cảm với đảng chính trị cực hữu Pháp, nhất là
những người theo cố giám mục Marcel Lefebre đã bị Toà Thánh rút phép thông
công, gây một ấn tượng tiêu cực không ít cho người dân Pháp, mặc dù những người
công giáo này chỉ là thiểu số .
Chúa Giêsu là một nhân
vật lịch sử ? (Jésus a-t-il existé ?)
Không một nhà sử gia nào
ngày hôm nay còn nghi ngờ tính chất lịch sử của Chúa Giêsu, khái niệm ngài
không phải là một nhân vật đã sống thực sự trong lịch sử không còn giá trị gì
trên phương diện sử học.
Ngay cả những nhà tranh
luận thời xưa, Celse ở thế kỷ thứ hai, Porphyre ở thế kỷ thứ ba đã qui tụ nhiều
lập luận chống lại kytô giáo, dựa trên sự nghiên cứu sâu rộng về Kinh Thánh, về
truyền thống truyền miệng ; nhưng các ông không hề nghi ngờ gì về thực tại của
những lời chứng do các môn đệ đã biết Chúa Giêsu tuyên xưng, hay những lời của
Phaolô, chứng nhân và văn sĩ kitô hữu đầu tiên. Sự sống lịch sử của Chúa Giêsu
cũng không bị đặt nghi vấn bởi truyền thống Do Thái và ngay cả kinh Coran cũng
coi ngài như một vị tiên tri loan báo đấng Mahomet của hồi giáo.
Hơn nữa, những văn kiện
đầu tiên chứng minh sự hiện hữu lịch sử của Chúa Giêsu, dù không cùng thời với
ngài, nằm trong khoảng nhiều nhất là hai mươi năm sau cái chết của ngài.
Trong những văn kiện
ngoài kitô giáo, chiến tranh Do Thái (la guerre juive) và những cổ truyền do
thái (les antiquités judaiques), được soạn thảo bởi sử gia Do Thái Flavius
Josèphe, có nói hai lần đến sự hiện hữu của Chúa Giêsu.
Trong những cổ truyền Do
Thái (XX & 200), Flavius Josèphe nhắc đến cuộc tử đạo của Jacques năm 62 :
Vị giáo quyền Anan triệu họp đại hội những thẩm phán để xử án Jacques, anh em
của Giêsu còn gọi là Kitô, và một số phạm nhân khác. Họ bị kết tội đã vi phạm
Luật Thánh và bị kết án tử hình bằng ném đá. Bản văn này cần hai chú thích sau
: thứ nhất là chữ dịch anh em phải được hiểu theo nghĩa của ngôn ngữ nguyên văn
(acception sémitique), nó được dùng để chỉ những người cùng gia đình, họ hàng,
bạn bè ; thứ hai là chữ Kitô , dưới ngòi bút của tác giả ngoại giáo và thân
Roma này, được dùng theo nghĩa xấu để chỉ những người hay gây rối loạn ở vùng
Judée thời đấy.
Trong chiến tranh Do Thái
(Flavius Josèphe XVIII,&63-64), ông có viết : Trong thời đó có Giêsu, một người khôn ngoan, nhưng có nên gọi như thế
hay không bởi vì đó là một người làm nhiều điều phi thường, một bậc thầy đối
với nhiều người muốn tìm chân lý. Nhiều người Do Thái và Hy Lạp theo ông. Ðó là
Kitô. Khi ông bị tố cáo và bị Pilate kết án đóng đinh trên thập giá, những
người theo ông vẫn không từ bỏ. Bởi vì ông sống lại trong ngày thứ ba ; nhiều
vị tiên tri thần linh đã nói về những điều này và muôn vàn những điều kỳ diệu
khác về ông. Cho tới bây giờ, nhóm người Kitô vẫn còn tồn tại .
Nếu một số câu trong bản
văn trên bị nghi ngờ là được thêm thắt vào thế kỷ thứ ba, nhưng không ai nghi
ngờ điều viết về nhân vật Giêsu của Flavius Josèphe.
Trong cuốn Talmud de
Babylone của dân do thái, viết vào thế kỷ thứ hai, có nói : Ðây là điều được
loan truyền : trong ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua, người ta đã treo cổ Yeshou de
Nazareth. Một binh sĩ đã đi trước ông bốn mươi ngày để báo tin ông phải bị ném
đá.
Trong những Niên Sử Roma,
sử gia Tacite có ghi lại những cuộc bắt bớ đầu tiên mà những Kitô hữu phải chịu
: Néron kết án và cho tra tấn dã man những người được gọi là Kitô hữu, bởi vì
họ bị khinh ghét do những hành động xấu xa họ làm. Danh ngôn này đến từ ông
Kitô, người đã bị tra tấn theo lệnh của trấn thủ Ponce Pilate, dưới thời Tibère
.
Vào thế kỷ thứ hai, trong
cuốn Cuộc sống của mười hai vị Césars , Suétone kể lại việc hoàng đế Claude,
giữa năm 40 và 49, trục xuất những người do thái thuộc phái Chrestos (secte de
Chrestos) sống ở Rôma. Pline le Jeune, trấn thủ Bythinie-Pont, ở vùng tây-bắc
Tiểu Á, trong bản tường trình gửi hoàng đế Trajan có ghi chú sự lan rộng của
kitô giáo trong vùng ông có trách nhiệm và yêu cầu cách phải cư xử. Bản văn
này, viết năm 111, cho thấy sự phát triển nhanh chóng của kitô giáo trong thế
kỷ thứ nhất cho tới biên giới của lãnh thổ Roma.
Những văn kiện Kitô Giáo
đầu tiên nói về sự hiện hữu của Chúa Giêsu là những thư của thánh Phaolô, viết
giữa năm 50 và 64. Chính xác hơn là trong thư gửi cho những người Thessalonica,
viết trong năm 50 hay 51, chỉ khoảng hai mươi năm sau cái chết của Chúa Giêsu,
thánh Phaolô gọi Ngài là Ðấng Cứu Thế, Chúa Con và Chúa. Những thư này dù không
nói nhiều chi tiết về đời sống của Chúa Giêsu - thánh Phaolô không biết tận mặt
ngài - nhưng soi sáng cho chúng ta thấy những lời Chúa Giêsu truyền dậy và là
bước đầu của sự tách lìa giữa Do Thái Giáo và Kitô Giáo xẩy ra vào thế kỷ thứ
ba. Nếu Maisen đã nghĩ ra thuyết độc thần (monothéisme) dưới thời vua Ramsès II
- một chặng đường quan trọng, nhưng chỉ dành cho dân được tuyển chọn - thì
thánh Phaolô, dưới ánh sáng của những lời Chúa Giêsu để lại, đã tưởng tượng ra
thuyết độc thần phổ quát cho toàn nhân loại.
Ba năm trời đã làm biến đổi nhân loại (Les trois années qui ont changé le monde)
Ba năm . Chỉ ba năm trong
đời sống công khai. Ðó là con số mà mọi sử gia đều đồng ý. Chỉ có Phúc Âm của
thánh Matthêu và thánh Luca nói về nơi sinh của Chúa Giêsu là Bethléem và về
tuổi trẻ của ngài. Những tác giả khác tường trình cuộc đời Chúa Giêsu từ lúc
ngài chịu phép rửa của thánh Gioan Baotixita, người đã bị chém đầu dưới lệnh
của vua Hérode. Sự lựa chọn Bethléem là nơi sinh của Chúa Giêsu không phải là
việc ngẫu nhiên. Thành phố nhỏ này, nằm ở phía nam Jérusalem quãng mười hai cây
số, có lẽ là nơi tiên tri Samuel đã đến tìm người chăn chiên trẻ tuổi David,
con của Jessé, để xức dầu phong vương cho cậu. Hơn nữa, tiên tri Michée đã loan
báo là Ðấng Cứu Thế (le Messie) sẽ sinh tại Bethléem (Mi V,I). Nhưng nguồn gốc
vùng Galilée của Chúa Giêsu là điều không thể nghi ngờ. Ngài lớn lên ở
Nazareth, một ngôi làng hẻo lánh vùng Galilée nằm ở phía bắc của nước Do Thái
hiện nay. Trong câu nói Giêsu người Nazareth có một nét khinh khi trong miệng
của người do thái vùng Judée, và đặc biệt từ những người pharisiens,
sadducéens, esséniens và những người Do Thái truyền thống khác ; bởi vì Galilée
phần lớn là ngoại đạo (đối với Do Thái Giáo). Có gì tốt lành có thể đến từ
Nazareth ? (Jean I,46).
Chúa Giêsu được ra đời
vào cuối thời của hoàng đế Hérode le Grand, nghĩa là ngày sinh của Ngài ở vào
khoảng năm thứ tư hay sớm nhất là năm thứ sáu trước Tây Lịch. Không có tài liệu
nào nói về thời thơ ấu và tuổi trẻ của ngài, ngoại trừ biến cố giáng sinh được
viết trong Phúc Âm của thánh Luca và thánh Matthiêu và biến cố ngài đi dự lễ ở
Jérusalem năm mười hai tuổi và cuộc đối thoại với những giáo sĩ trong Ðền Thánh
chỉ được viết trong Phúc Âm của thánh Luca.
Tuy nhiên người ta có thể
chắc là đời sống rao giảng của ngài kéo dài quãng từ ba đến bốn năm trước khi
chết. Ngài di chuyển rất nhiều, các sách Phúc Âm gợi lại những cuộc hành trình
qua khắp miền Galilée, miền Phénicie méridionale và Décapole ở phía đông sông
Jourdain thuộc về tỉnh Syrie, Samarie và Judée. Ngài có một đời sống công cộng
lôi cuốn người dân, nhiều người theo làm môn đệ của ngài. Chúa Giêsu tới
Jérusalem và gây nhiều xung đột với giới trưởng giả Do Thái ở đây, những lời
nói của ngài đối với họ là chống lại Ðền Thánh và cuối cùng ngài bị bắt. Sau
khi bị kết tội dám tự xưng là vua, những viên chức giáo sĩ Do Thái đã giao ngài
cho quan trấn thủ Ponce Pilate, vị quan này kết án ngài bị đóng đinh trên thập
giá. Các Phúc Âm ghi rõ ngày chết của ngài. Thánh Marcô, Matthêu và Luca ghi đó
là ngày thứ sáu, ngày lễ Vượt Qua của dân do thái. Theo thánh Gioan, đó là ngày
trước ngày lễ Vượt Qua. Phần đông các sử gia chọn ngày này, bởi vì những người
bị xử tử không bị hành quyết trong ngày lễ. Một số nhà khoa học đã nghiên cứu
hiện tượng trời sụp tối lúc Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá qua hiện tượng
nhật thực đã có thể xẩy ra ở gần vùng Palestine, cho là ngày này ở vào khoảng
03/04/30 và 07/04/33.
Theo giáo sư sử học cổ
xưa Maurice Sartre, Giêsu trước hết là một bậc thầy về ngôn ngữ, ngài xử dụng
một cách khéo léo những tinh vi của ngôn ngữ thời đó, nhưng đồng thời lại diễn
tả ý tưởng muốn nói một cách đơn giản và dễ hiểu. Ngài lại thực hiện phép lạ và
chữa lành những người bị quỉ ám (exorciste). Ngài rất lôi cuốn đám đông .
Ðó là những yếu tố lịch
sử về đời sống của Chúa Giêsu (trong tiếng Do Thái, Giêsu có nghĩa là Thiên
Chúa cứu độ ) mà người ta có thể chắc. Thế mà chỉ cuối thế kỷ thứ nhất, những
lời rao giảng của ngài đã loan truyền sâu rộng trong toàn vùng Méditerranée ;
đế quốc Roma ban đầu đã quyết liệt chống lại sự lan truyền này và cuối cùng lấy
làm quốc giáo vào thế kỷ thứ ba. Ðó có lẽ là niềm bí ẩn đầu tiên của Giêsu
người Nazareth : tại sao và làm thế nào mà ngài thành công đến thế ? Bởi vì
những chứng nhân loan báo Ðấng Cứu Thế (mouvements messianiques) có rất nhiều
vào thời đó. Những lời rao giảng của ngài có gì đặc biệt mà lôi cuốn nhiều
người đến thế ? Ðể có thể hiểu điều đó, chúng ta phải đọc những lời ngài nói đã
được viết lại trong sách Phúc Âm và hiểu bối cảnh thời đó. Ngài là người Do
Thái và sống theo đạo Do Thái. Ngài thông hiểu sâu xa Cựu Ước, những cuộc tranh
cãi xung đột với các vị tiến sĩ ở Ðền Thánh xoay quanh cách giải thích Luật
Thánh. Trong những trường phái Do Thái Giáo thời đó, Chúa Giêsu có một cái nhìn
đổi mới đặc biệt về đạo lý và những nghi lễ tập tục của những người theo đạo
này.
Ngài có gì đặc biệt đến thế ?
(Mais qu avait-il donc de
si révolutionnaire ?)
Tại sao những lời Chúa
Giêsu dậy đã loan truyền sâu rộng chỉ một thế kỷ sau cái chết của ngài ? Những
người điếm đàng và những người thâu thuế sẽ lên trời trước các ngươi . Ai nói
như thế ? Ieschoua gọi là Giêsu. Cho ai ? Cho những viên chức cầm quyền tôn
giáo. Những môn đệ của Ngài ? Những người phụ nữ, những người nghèo đói, những
người bệnh hoạn và những người tàn tật. Và ngài là Ðấng Cứu Thế ? Ðó là một
scandale ngay từ đầu cho tới bây giờ và cho tới mãi mãi.
Tại sao ? Tại vì những
lời truyền dậy của ngài, những lời không phải chỉ là đường và mật ngọt, mà còn
là lửa và muối, không giống một lý thuyết nào, cũng không như một nền đạo đức
nào. Một đường lối đặc biệt cho con người, dù là ai và từ đâu đến, để sống trọn
vẹn tính chất nhân bản của mình, cả linh hồn lẫn thể xác.
Những lời của Chúa Giêsu
biểu lộ một sức mạnh tuyệt đối, trên mọi tầng lớp chủng tộc. Những lời chỉ có
thể có từ một mặc khải ( une révélation ) về sự khó nghèo, quyền lực, tình yêu
và niềm tin : Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người giầu có vào Nước
Trời ; Hãy vui lên những người nghèo khó, bởi vì Nước Trời thuộc về họ ; Hãy
yêu thương kẻ thù của ngươi và cầu xin cho những người bách hại ngươi ; Ai tự
kiếm mình sẽ mất tâm hồn mình và ai mất tâm hồn mình vì ta sẽ tìm lại được
chính mình .
Kèm theo những lời nói,
ngài chữa lành những người tàn tật và làm phép lạ : người mù được thấy, người
bất toại được đi, người chết sống lại. Thay vì theo gương những vị khôn ngoan
và những nhà thông thái, ngài khuyên nên sống như những em bé thơ : Hãy để các
trẻ em đến với ta và đừng ngăn cản chúng. Bởi vì Nước Trời thuộc về những ai
giống như chúng .
Trái với các truyền
thống, ngài coi liên hệ ruột thịt ít quan trọng hơn là liên hệ tinh thần. Mẹ và
anh em ngài muốn gặp ngài, ngài nói một cách thẳng thắn : Ai là mẹ ta, ai là
anh em ta ? Quay về phía các môn đệ Ngài nói tiếp : Ðây là mẹ ta và anh em ta.
Ai làm theo ý hướng của Cha ta ở trên Trời, người đó là anh em và là mẹ ta .
Người ta muốn biết lập
trường chính trị của ngài, câu trả lời của ngài vượt trên những điều họ muốn
nghe. Câu hỏi Có nên đóng thuế cho César hay không ? , ngài trả lời : Hãy trả
cho César những gì thuộc về César và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về
Ngài . Nếu ngài trả lời : Phải trả thuế cho César , ngài sẽ bị coi là thuộc về
nhóm thân ngoại, chống lại nhóm zélotes, những người yêu nước có quan điểm là
một người Do Thái trung thành với Thiên Chúa không thể đóng thuế cho César
được. Nếu ngài trả lời không thì lại bị coi như thuộc nhóm zélotes và có thể bị
tố như một tên khủng bố .
Chúa Giêsu làm những viên
chức tôn giáo thời đó bị bối rối và mất mặt, nhưng Ngài giải thích với họ : Các
ông đừng nghĩ ta đến để phá huỷ sách Torah và những vị tiên tri. Ta đến không
phải để phá huỷ, mà là để hoàn tất. Về ngày sabbat, việc ăn chay, những nghi
thức thanh tẩy và những điều luật nghiêm khắc, Chúa Giêsu có một quan điểm tự
do chưa bao giờ có. Bởi vì đối với ngài, không phải là những nghi thức có thể
giải phóng con người, cũng như không phải vì không tuân theo những nghi thức đó
mà con người trở nên ô uế ; điều quan trọng đến từ nội tâm của con người : Ðiều
làm con người ô uế đến từ những ý tưởng xấu xa, ngoại tình, trụy lạc. Nhưng ăn
mà không rửa tay không làm cho con người ra ô uế.
Ngài ngăn cản người ta
ném đá người đàn bà ngoại tình, ngài hứa Nước Trời cho người tù nhân cùng bị
đóng đinh. Ngài không ngừng giảng dậy rằng ai đói, ai khát, ai bệnh tật hay tù
nhân mà được nâng đỡ và cứu chữa thì đó là chính ngài được nâng đỡ và cứu chữa.
Trái lại, ai bị hiếp đáp mà không được cứu thoát, bệnh tật mà không được săn
sóc, đói nghèo mà không được nâng đỡ thì đó là chính ngài không được như vậy.
Nhân danh gì để biện minh
cho những hành động và những lời nói gây nhiều hoang mang này ? Nhân danh Nước
Trời, mà ngài là người loan báo và là hiện thân. Nước Trời đó không phải là một
thực tại tưởng tượng ban hứa cho những người khờ dại hay điên rồ tin vào đời
sau hay vào thế giới bên kia (l arrière-monde) như Nietzsche đã nói. Ðối với
ngài, Nước Trời đang hiện sinh, trong lúc này, dưới trần gian này, trong hiện
tại này : đó là nhân loại đổi mới, thấm nhuần sự sống của Thượng Ðế đến độ biến
hình đổi dạng thành những con người mới. Những người pharisiens hỏi ngài : Khi
nào Nước Trời sẽ đến ? Ngài trả lời : Nước Trời không đến một cách huy hoàng
như các ông tưởng tượng, người ta không nói : Nước Trời ở kia hay ở đây ; bởi
vì Nước Trời ở trong nội tâm của mỗi người .
Paris Hè 2000
Nguyễn Văn Thành chuyển ngữ