HỘI THẢO THẦN HỌC (giaolyductin.net 21/04/12, 1:42 pm)
UBGLĐT: Sáng thứ Bảy, ngày 21 tháng 4 năm
2012, hơn 80 giảng viên tại các Đại chủng viện và Học viện công giáo đã về
Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Tp.HCM, 6 bis Tôn Đức Thắng, Q. 1, tham dự Hội
nghị Thần học với chủ đề: GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM: NỖ LỰC LOAN BÁO TIN MỪNG CÁCH
MỚI MẺ.
Ngày hội thảo diễn ra từ 8g00 đến 17g15.
Buổi sáng gồm 2 bài thuyết trình 1 và 2. Buổi chiều là 2 bài còn lại. Trang web
giaolyductin xin lần lượt giới thiệu với quý độc giả 4 đề tài dưới đây. Kính
mời quý vị cùng theo dõi:
1. Loan báo Tin Mừng, Tái loan báo Tin
Mừng, Loan báo mới Tin Mừng cách mới mẻ: những bài học lịch sử. Thuyết trình
viên: Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
2. Loan báo Tin Mừng cách mới mẻ dưới
chiều kích: Giáo Hội như là Dân Thiên Chúa. Thuyết trình viên: Lm. Antôn Hà Văn
Minh.
3. Loan báo Tin Mừng cách mới mẻ dưới
góc độ: Giáo Hội như là Thân Mình Chúa Kitô. Thuyết trình viên: Lm. Phaolô Vũ
Chí Hỷ, SSS.
4. Loan báo Tin Mừng cách mới mẻ theo
góc nhìn Giáo Hội như là Đền thờ Chúa Thánh Thần. Thuyết trình viên: Lm
Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn.
ĐỀ TÀI 1: LOAN BÁO TIN MỪNG, TÁI LOAN BÁO TIN MỪNG, LOAN BÁO TIN
MỪNG CÁCH MỚI MẺ: NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ
Bài thuyết trình gồm hai phần chính.
Phần thứ nhất tìm hiểu ý nghĩa của từ evangelizatio trong lịch sử. Phần thứ
hai tìm hiểu những đợt sóng “mới” của việc loan báo Tin mừng trong lịch sử, dựa
theo cha Cantalamessa và cha Menin. Kết luận: những bài học về cái mới.
Tôi xin mở đầu cho buổi hội thảo với
việc nghiên cứu lịch sử từ ngữ nova evangelizatio cũng như những bài học lịch sử của evangelizatio.
Bài này được chia làm hai phần. Trong
phần thứ nhất, chúng ta đặt câu hỏi: evangelizatio là gì, nova evangelizatio
là gì? Đây là câu chuyện về từ ngữ. Trong phần thứ hai, chúng ta thử hỏi: có
phải đây là lần đầu tiên vấn đề nova evangelizatio được nêu lên, hay là
trong quá khứ đã có nhiều đợt nova evangelizatio? Nếu đã có nhiều đợt nova evangelizatio,
thì cái “mới” nằm ở chỗ nào?
I. Lịch sử từ ngữ: evangelizatio
là gì?
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa
của từ ngữ evangelizatio,
thường được dịch là “Phúc-âm-hoá” (do đó, nova evangelizatio là “Tân Phúc âm
hóa”), hoặc “loan báo Tin mừng” (hay: rao giảng Phúc âm, truyền bá Phúc âm). Từ
ngữ nào sát nghĩa hơn? Điều này đòi hỏi không những phải truy tầm nguyên gốc
của nó trong Tân ước, mà còn phải khảo sát cách thức nó được xử dụng trải qua
lịch sử của Hội Thánh.
A. Tầm nguyên: evangelium,
evangelizare, evangelizatio, evangelicus, evangelismus
1/ Trong Tân Ước không có danh
từ “evangelizatio”,
nhưng chỉ có động từ “evangelizare” và nhất là danh từ “evangelium”[1]. Các từ này đều bắt nguồn từ tiếng Hy-lạp: euangelion
(tin vui, tin mừng, tin lành), euangelizo, euangelizomai (động từ), euangelistes
(người đưa Tin Mừng)[2].
Evangelium là gì? Hồi còn nhỏ (tạm cho là cách đây 60 năm), khi đi lễ Chúa
Nhật, tôi được nghe đọc sách “Evan”. Khi đi tu (tạm cho là cách đây 55 năm),
tôi được nghe đọc sách “Phúc âm”. Từ thập niên 60, từ “Phúc âm” rất được phổ
biến ở Việt
Một điều không kém thú vị là theo dõi sự
biến đổi việc dịch thuật của anh em Tin Lành. Danh xưng “Tin Lành” gốc bởi
tiếng Anh Evangelicals.
Thế nhưng, danh từ Evangelium đã được dịch nhiều cách trong các ấn bản Kinh
Thánh: “Tin lành, Phúc âm, Tin mừng”. Chúng ta lấy một thí dụ ở Mc 1,1:
- bản truyền thống: “Đầu Tin lành của
Đức Chúa Jêsus Christ, Con Đức Chúa Trời”.
- bản dịch mới: “Khởi đầu Phúc Âm về
Chúa Cứu Thế Giê-xu, Con Đức Chúa Trời”.
- bản dịch 2011: “Bắt đầu Tin mừng của
Đức Chúa Giêsu Christ, Con Đức Chúa Trời”.
Khuôn khổ bài này không cho phép tôi đi
sâu vào nội dung của Tin mừng. Chỉ xin nhấn mạnh rằng trong Tân Ước, evangelium
(Tin Mừng) được hiểu về một sứ điệp loan báo; về sau, người ta mới hiểu
về quyển sách ghi lại sứ điệp đó. Một cách tương tự như vậy, evangelista lúc
đầu được hiểu về người đi loan báo sứ điệp Tin mừng; về sau mới được hiểu về
người viết sách Tin Mừng, nói cụ thể là bốn “thánh sử” (Matthêu, Marcô, Luca,
Gioan).
2/ Lịch sử Hội Thánh
Trong lịch sử Hội Thánh, nảy sinh ra
nhiều từ ngữ bắt nguồn từ evangelium. Trước hết là tính từ evangelicus (thuộc về Tin
Mừng), chẳng hạn như “consilia evangelica” (những lời khuyên của Tin Mừng), và
cách riêng những từ ngữ evangelical, evangelism, evangelization do phong trào “Phục
hưng Tin lành” (Evangelical
Revival) phổ biến từ thế kỷ XIX. Đang khi tại Âu châu, vào thời
Trung cổ, các phong trào “Tin lành” nhấn mạnh đến việc trở về nguồn, sống theo
tinh thần của Tin Mừng (evangelismus), thì tại Hoa kỳ, các phong trào Tin Lành đề
cao sứ mạng “rao giảng Tin Lành” cho người ngoại giáo (preaching the Gospel to
Non-Christians). Những từ ngữ evangelization, evangelicals, evangelism
ra đời trong bối cảnh đó. Nói cách khác, evangelizatio là một từ ngữ mới xuất
hiện từ thế kỷ XIX[3], và được du nhập vào thần học Công giáo vào thế kỷ XX.
B. Evangelizatio – Missio
Từ lâu Hội Thánh Công giáo đã ý thức về
sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Nhưng để ám chỉ công tác này, thần học đã sử dụng
nhiều thuật ngữ.
1/ Thời xưa, việc loan báo Tin Mừng
(giảng đạo, truyền giáo) được gọi bằng nhiều tên: Illuminatio gentium, Novos populos adducere
in gremio sanctae matris Ecclesiae, Propagatio Fidei, Conversio gentilium,
Praedicatio Evangelii in universo orbe, Labor salutiferae praedicationis ad
innotescendum gentibus mysterium fidei, Conversio infidelium, Praedicatio
apostolica, Procuratio salutis ad barbaras gentes, Novella Christianitatis
plantatio, Promulgatio Evangelii, Viam salutis et lucis infidelibus insinuare,
Procuratio salutis omnium gentium, Legatio ad gentes, Dilatatio Ecclesiae per
universum orbem, vv.
2/ Vào thời cận đại, từ ngữ quen thuộc
hơn cả là missio.
Danh từ này mang nhiều ý nghĩa trải qua dòng thời gian.
Theo nguyên gốc, missio là
một danh từ gốc bởi động từ mittere (sai, gửi, phái, cử). Missio được thần học xử dụng
trong nhiều bối cảnh:
a) Áp dụng cho mầu nhiệm Ba ngôi (missiones divinae,
trinitariae): Chúa Cha đã “sai” Con Một đến thế gian; Chúa Kitô
“sai” Thánh Thần đến Giáo Hội.
b) Áp dụng cho sứ mạng của Hội Thánh:
Đức Giêsu sai các tông đồ tiếp tục sứ mạng của Ngài. Hội thánh tiếp tục sứ mạng
của các thánh tông đồ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
c) Từ thế kỷ XVI, danh từ missio được
áp dụng vào nhiều lãnh vực:
- Giảng tuần đại phúc trong các xứ đạo,
cách riêng ở thôn quê. Thánh Vinh-sơn Phaolô đã lập một hội dòng mang tên là “Congregatio Missionis”
(1625) cho mục tiêu đó.
- Giảng Tin Mừng cho dân ngoại (missio ad exteros,
missio ad gentes). Điển hình là việc Tòa Thánh thiết lập Thánh Bộ
truyền bá đức tin để đi giảng đạo cho dân ngoại (1622). Đây cũng là ý nghĩa của
tên gọi Hội dòng “Missions étrangères de Paris” (MEP: Hội Thừa sai
- Lãnh thổ truyền giáo (đại khái bao
trùm các lục địa Phi và Á châu) được đặt dưới sự quản trị của Bộ Truyền Bá Đức
tin.
3/ Công đồng Vaticanô II
Hai danh từ missio và evangelisatio
xuất hiện trong nhiều văn kiện.
a) Danh từ missio được dùng theo nhiều
nghĩa, đặc biệt là trong Sắc Lệnh Ad gentes:
- việc sai đi, bắt nguồn từ Chúa Cha (AG
2);
- toàn thể sứ mạng của Hội Thánh (AG
9-10; xc. LG 17);
- một hoạt động chuyên biệt của Hội
Thánh: rao giảng Tin Mừng cho những ai chưa biết Chúa (AG 6; 20; 27b);
- một miền (lãnh thổ) được đặt dưới thẩm
quyền của Bộ Truyền Bá Đức Tin (AG 29).
b) Đặc biệt danh từ “evangelizatio”
cũng được du nhập vào các bản văn của Công đồng (31 lần)[4], cách riêng là trong Sắc lệnh về Truyền giáo Ad Gentes (21 lần)[5]. Danh từ được dùng theo ba nghĩa:
- nghĩa hẹp: rao giảng Tin Mừng cho
người ngoài Kitô giáo, tương đương với công bố kerygma (số 6);
- theo một nghĩa rộng hơn: việc làm
chứng tá bằng lời nói và gương lành (số 14);
- rộng hơn nữa, nó đồng nghĩa với toàn
bộ công tác truyền giáo, nghĩa là việc thi hành ba tác vụ của Hội Thánh (số 20;
27; 29; 30; xem thêm số 23; 35-36; 38; 39; 40; 41).
c) Tương quan giữa “missio” và “evangelizatio”
Sắc lệnh Ad gentes xem ra chấp nhận quan
điểm thông thường vào thời đó. Evangelizatio được đặt trong khung cảnh truyền giáo cho dân
ngoại (Missio ad gentes), chứ không bao trùm toàn thể Giáo Hội. Mặt khác, evangelizatio
hẹp hơn là missio;
evangelizatio:
trình bày Tin Mừng (bằng lời nói và gương lành) cho các dân ngoại, còn missio bao
gồm không những là việc loan báo mà còn việc giáo huấn, phụng vụ, cầu nguyện và
các công tác mục vụ (xc. AG số 10). Nên biết là Bộ Truyền giáo đã được đổi tên
với cuộc cải tổ giáo triều sau công đồng Vaticanô II (15/8/1967), từ “S.
Congregatio de Propaganda Fide” sang “S.C. pro Evangelizatione gentium”.
4/ Evangelii nuntiandi
Đây là tựa đề của tông huấn sau Thượng
hội đồng giám mục thế giới họp năm 1974 về đề tài “De evangelizatione mundi huius temporis”.
Đức Thánh Cha Phaolô VI nhìn nhận rằng evangelizatio là một công tác rất đa
diện[6] (EN số 17-24), bao gồm nhiều khía cạnh:
- loan báo Tin Mừng cách mặc nhiên (bằng
chứng tá: số 21) hoặc minh nhiên (số 22);
- thiết lập cộng đoàn Hội Thánh (số
23;24);
- cứu độ toàn diện: giải thoát con người
khỏi tội lỗi cũng như khỏi những cảnh cùng khổ (số 30-38);
- thấm nhập vào các nền văn hoá (số 20;
62-65).
Ta nhận thấy rằng evangelizatio
có thể hiểu vừa rất chặt vừa rất rộng (số 18):
(i) rất chặt: công bố Tin Mừng
cho người ngoài Kitô-giáo; (ii) rất rộng: đem men Tin Mừng vào trong hết
mọi lãnh vực của cuộc sống, nghĩa là biến đổi mọi thực thể nhân loại cho phù
hợp với Tin Mừng, từ lối suy tư cá nhân cho đến các lối sinh hoạt của các dân
tộc. Thực ra việc loan báo Tin mừng được thực hiện vừa bằng lời nói vừa bằng
chứng tá đời sống, cũng như bằng những hoạt động để biến đổi mọi sự cho hợp với
Tin mừng. (Hiểu theo nghĩa này thì có thể dịch là “Phúc âm hóa”).
Dù sao, tông huấn Evangelii nuntiandi đã
làm đảo lộn mối tương quan giữa missio và evangelizatio. Trước đây (trong
Sắc lệnh Ad
gentes số 6), evangelizatio ám chỉ một khía cạnh của công tác truyền giáo
(missio).
Bây giờ, evangelizatio
bao trùm toàn thể hoạt động của Hội Thánh, trong đó missio chỉ là một lãnh vực của
nó[7].
Một điều quan trọng mà tông huấn Evangelii nuntiandi đã
nhấn mạnh là trước khi Hội thánh lên đường loan báo Tin mừng, thì cần phải hoán
cải theo Tin mừng đã[8]. Nói cách khác, đối tượng loan báo Tin mừng không phải chỉ
là thế giới nhưng là chính các phần tử của Hội thánh.
C. Re-evangelizatio - Nova evangelizatio
Những từ ngữ này xuất hiện trong các văn
kiện của Hội đồng các Giám mục châu Mỹ Latinh (CELAM) trong các đại hội họp tại
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng chấp
nhận quan điểm đó. Tuy rằng thuật ngữ nova evangelizatio đã xuất hiện trong
bài diễn văn tại Nowa Huta ngày 9/6/1979, nhưng được nhấn mạnh và đào sâu hơn
kể từ bài diễn văn khai mạc Đại Hội CELAM tại Port-au-Prince (Haiti) ngày
8/3/1983: đây không phải là giảng Tin Mừng mới (xét về nội dung), nhưng là mới
xét về nhiệt huyết, về phương pháp, về cách diễn tả. Từ đó từ ngữ này được áp
dụng cho toàn thể Hội Thánh, thí dụ trong tông huấn Christifideles laici (năm 1988)
ở các số 4 và 34. Cách riêng, trong thông điệp Redemptoris missio (năm 1990),
số 33 đức Gioan Phaolô II đã cố gắng xác định các từ ngữ như thế này:
- Missio ad gentes : loan báo Tin Mừng
cho những nơi và những người chưa biết Chúa Kitô.
- Cura pastoralis : hoạt động mục vụ tại
những nơi đã theo đạo.
- Nova evangelizatio hay iterata evangelizatio
: tại những nơi đã theo đạo nhưng đã lơ là với việc thực hành.
Thuật ngữ nova evangelizatio hơi hàm hồ.
“Nova” có nghĩa là mới, nhưng “mới” theo nghĩa nào? Chắc chắn không phải là mới
về nội dung (Tin mừng mới), nhưng là xét về phương pháp. Tuy nhiên khi nói đến
phương pháp mới, phải chăng chúng ta nhìn nhận rằng các phương pháp áp
dụng xưa nay là cũ rích , nghĩa là lỗi thời? Phải chăng khi nói đến phương pháp
mới, chúng ta nghĩ rằng mình phải sáng chế ra cái gì khác thường, hay ít
là chúng ta muốn làm cái gì khác, so sánh với những gì đã thực hiện từ xưa đến
giờ? Phải chăng gián tiếp muốn nói rằng “hậu sinh khả uý”: ta sẽ có cái gì khác
và còn hơn cha ông chúng ta?
Tôi xin nhường lời cho các diễn giả khác
việc tìm ra những phương thế mới để loan báo Tin mừng cho thời đại chúng ta,
đặc biệt là tại Việt
II. Những đợt sóng mới của công cuộc loan báo Tin mừng
Lịch sử truyền giáo đã trải qua nhiều chặng
hoặc đợt. Chúng tôi xin trưng dẫn hai lối nhìn về những đợt ấy. Trước hết,
chúng ta hãy nghe cha Raniero Cantalamessa trong loạt các bài giảng cho giáo
triều Rôma vào mùa Vọng năm ngoái (được tóm lược và đăng trên internet[10]) về bốn đợt loan báo Tin mừng, với bốn chủ thể khác nhau. Kế đến,
cha Mario Menin sẽ cho thấy sự khác biệt về phương pháp áp dụng trong bảy giai
đoạn truyền giáo.
A. Bốn đợt loan báo Tin mừng (Raniero
Cantalamessa)
Theo cha Cantalamessa, trong lịch sử Hội
thánh đã có bốn thời điểm mà chúng ta chứng kiến một sự gia tăng hoặc lấy lại
nỗ lực truyền giáo, đó là:
1. Sự bành trướng của Kitô giáo trong ba
thế kỷ đầu tiên: nhân vật then chốt là các ngôn sứ lưu động và rồi các giám
mục.
2. Thế kỷ VI-IX chứng kiến một cuộc tái
truyền giảng Tin mừng ở châu Âu sau những cuộc xâm lăng của người man-di, cách
riêng nhờ các đan sĩ.
3. Thế kỷ XVI, với cuộc khám phá các dân
tộc của “tân thế giới”, việc truyền giáo được tiến hành cách riêng nhờ các tu
sĩ.
4. Thời hiện tại, Giáo hội dấn thân vào
cuộc tái truyền giảng Tin mừng cho Tây phương bị tục hóa, với sự tham gia chủ
động của các giáo dân.
Sự phân chia bốn đợt muốn nêu bật những nhân
vật chủ động cũng như những đối thể của công cuộc loan báo Tin mừng.
Chúng ta hãy điểm qua đặc trưng của mỗi đợt.
1. Giai đoạn một: ba thế kỷ đầu[11].
Việc truyền giảng Tin mừng, khởi sự từ
các thánh tông đồ, được tiếp tục bởi các tín hữu. Trong hai thế kỷ đầu tiên,
việc giảng đạo do các sáng kiến của các cá nhân, cách riêng là các ngôn sứ lưu
động, nay đây mai đó. Tin mừng được loan truyền nhờ những cuộc tiếp xúc thường
nhật, qua hoạt động thương mại, qua những hoàn cảnh sinh sống. Từ hậu bán thế
kỷ III, công cuộc truyền giáo được chuyển sang các cộng đồng địa phương, dưới
sự chỉ đạo của giám mục. Sang cuối thế kỷ III, đức tin công giáo đã thấm nhập
vào giai tầng xã hội. Giáo hội đã có cơ chế, cơ sở phụng tự. Những cuộc bách
đạo dữ dội của hoàng đế Đioclêxianô chứng tỏ rằng các Kitô hữu đã trở thành một
thế lực đáng nể. Hoàng đế Constantinô đành chấp nhận thực tại đó.
Các sử gia đã đưa ra nhiều giả thuyết để
giải thích lý do của sự thành công: có thể là tấm gương yêu thương bác ái của
các tín hữu; có thể là khả năng đáp ứng những khát vọng của thời đại, hoặc khả
năng dung nạp những nền văn hóa khác biệt. Tuy nhiên, theo cha Cantalamessa,
cần phải tìm lý do giải thích nơi chính động lực nội tại của nó. Tin mừng chứa
đựng tiềm lực phát triển do chính Thiên Chúa đã gắn vào. Nó được ví như hạt
giống được gieo vào lòng đất, rồi sinh hoa kết quả (Mc 4,26-29; 30-32). Con
người gieo trồng, tưới; nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng cho hạt giống lớn
lên (xc. 1Cr 3,6-7). Những con người với bản tính yếu ớt do dự, nhưng tin tưởng
vào quyền lực của Chúa, đã thực hiện được điều phi thường. Đức tin đã trở nên
sức mạnh để truyền giáo cũng như để dám chấp nhận cái chết.
2. Giai đoạn hai: thế kỷ V-XI
Giai đoạn này bắt đầu không phải từ sắc
chiếu của hoàng đế Constantinô cho phép các Kitô hữu được tự do hành đạo, nhưng
là từ khi đế quốc Rôma sụp đổ năm 476 trước sự tấn công của quân man di. Nhiều
người nghĩ rằng tận thế đã gần kề, nhưng may thay nhờ những vị mục tử sáng suốt,
Giáo hội ý thức một thời cơ mới mở ra cho việc truyền giảng Tin mừng. Trước
đây, Kitô giáo đón nhận văn hóa Hy-lạp và Rôma vào khối gia sản đức tin; bây
giờ đến lượt Kitô giáo dùng kho tàng văn hóa của mình để giáo dục những ông chủ
mới tới. Thực ra công cuộc rao giảng Tin mừng ở giai đoạn này (kéo dài cho đến
thế kỷ IX) gồm nhiều mặt trận: một đàng củng cố đức tin nơi những người đã theo
đạo, cách riêng ở vùng thôn quê; đàng khác, rao giảng Tin mừng cho những dân
chưa biết Chúa, cách riêng ở vùng Bắc Âu. Như thế việc giảng đạo cũng bao hàm
việc giáo dục văn hóa. Những nhân vật chủ chốt của công tác này là các đan sĩ,
bên Tây cũng như bên Đông.
Một bài học của giai đoạn này là việc
loan truyền Tin mừng đi đôi với việc đối thoại văn hóa, nhưng nhất là nhiệt khí
bắt nguồn từ đời sống chiêm niệm, như các đan sĩ đã cho thấy. Điều này có nghĩa
là không những các đan sĩ sống đời chiêm niệm cần cầu nguyện nhiều cho các nhà
truyền giáo, nhưng mà các nhà truyền giáo cần phải trở nên những con người
chiêm niệm.
3. Giai đoạn ba: loan báo Tin mừng cho lục
địa mới
Không bao lâu sau cuộc khám phá châu Mỹ
(1492), các nước châu Au đã chiếm đóng lục địa này, mang theo những truyền
thống tôn giáo và chính trị của mình: Bắc Mỹ theo Tin Lành, Mỹ châu Latinh theo
Công giáo. Cha Cantalamessa chú ý đến phương pháp truyền giáo của Tây ban nha
tại Nam Mỹ. Đế quốc Tây ban nha chiếm đất đai của thổ dân, và bắt họ phải theo
Kitô giáo. Xem ra Tin mừng đi kèm theo vũ lực. Tuy nhiên, cần phân tích sự kiện
kỹ lưỡng hơn. Một đàng, không thiếu những tiếng nói bảo vệ quyền lợi của thổ
dân (điển hình là cha Bartolomé de las Casas). Đàng khác, đàng sau chính sách
cưỡng bách theo đạo là thần học đương thời, theo đó ai không gia nhập Giáo hội
sẽ bị trầm luân (Extra Ecclesiam nulla salus).
Nhân dịp kỷ niệm 500 năm khám phá lục
địa (1992), có người đòi xét lại vấn đề: sau khi đã chủ quyền chính trị đã được
trả lại cho dân bản xứ, phải chăng đã đến lúc phải trả lại tôn giáo cổ truyền
cho các thổ dân? Phải chăng Kitô giáo là một cái họa cho dân bản xứ?
Không, phải nói ngược lại: chính nhờ
khám phá đức Kitô mà người thổ dân đã nhận được sự giải phóng toàn diện. Mặc
dầu trong 500 năm truyền giáo có những vết tối, nhưng những luồng sáng còn nổi
bật hơn nhiều. Những nhân vật chủ lực của công cuộc rao truyền Tin mừng ở lục
địa này là các tu sĩ (Phan-sinh, Đa-minh, Au-tinh, Dòng Tên). Do lòng yêu mến
Chúa Giêsu thúc đẩy, họ muốn chinh phục các linh hồn về cho Chúa. Họ đã đem hết
mọi tài năng để góp phần phát triển xã hội tại địa phương.
Những cuộc tranh luận về thần học giải
phóng đã nêu bật một yêu sách của việc truyền giảng Tin mừng: phát triển con
người, thăng tiến xã hội. Nguy cơ của mọi cuộc tranh luận là chỉ bảo vệ một
khía cạnh này và coi nhẹ khía cạnh kia. Có người tố cáo rằng Giáo hội Công giáo
chú trọng đến công lý hoà bình và coi nhẹ đời sống tâm linh, cho nên nhiều tín
hữu đã bị lôi cuốn bởi các giáo phái Tin Lành đề cao đời sống cầu nguyện, Thánh
linh.
Dù sao, khi nhìn lại quá khứ, sở dĩ
trước đây các dòng tu đã cung cấp số đông các nhà truyền giáo là vì nếp sống
của họ được tràn đầy thần khí, biểu lộ qua nếp sống khó nghèo, tinh thần huynh
đệ, đời sống cầu nguyện. Phải chăng đó là điều khác biệt với thời nay?
4. Giai đoạn bốn: thế giới tục hoá
Đây là thời đại mà chúng ta đang sống.
Giáo hội phải loan báo Tin mừng cho thế giới Tây phương hậu Kitô giáo, nghĩa là
tuy mang truyền thống Kitô giáo nhưng trở thành dị ứng với sứ điệp Tin mừng, do
ảnh hưởng của não trạng duy khoa học, tục hoá và duy lý.
Thách đố mới của việc loan báo Tin mừng
là làm sao đưa con người thời đại đến gặp gỡ Đức Kitô. Thực vậy, Tin mừng là
Đức Kitô chịu chết trên thập giá và phục sinh, Đức Kitô sống động. Loan báo Tin
mừng có nghĩa là đem Đức Kitô vào cuộc sống hôm nay.
Tuy rằng các giám mục, linh mục, tu sĩ
vẫn giữ vai trò chủ động, nhưng các ngài là “chủ chăn” hơn là “ngư phủ”: muốn
tiến ra khơi, lăn lội vào hàng cùng ngõ hẻm, thì cần các giáo dân. Các giáo dân
là những người mang Tin mừng đến với những người ở xa nhà thờ, những người chưa
biết Chúa. Các giáo dân loan báo Tin mừng qua chứng tá cá nhân của cuộc sống
hằng ngày, cũng như qua các đoàn thể, hội đoàn, phong trào. Môi trường đầu tiên
để loan báo Tin mừng là gia đình, trường học của tình yêu.
Nhận xét
Cha Cantalamessa thú nhận rằng việc phân
chia bốn đợt loan báo Tin mừng muốn làm nêu bật đối tượng nhằm đến: thế
giới văn hóa Hy-lạp Rôma, thế giới các dân man di, thế giới châu Mỹ, thế giới
tục hóa, chứ không bao gồm toàn thể công cuộc truyền giáo (chẳng hạn như việc
loan báo Tin mừng tại Á châu). Việc phân chia bốn đợt cũng muốn chú trọng đến
các nhân tố chủ động của mỗi giai đoạn: giám mục (từ thế kỷ III), đan
sĩ, tu sĩ, giáo dân, tuy không quên rằng tác nhân chủ động là Chúa Kitô phục
sinh.
Bây giờ chúng ta sẽ nghe một tác giả
khác phân tích các giai đoạn lịch sử truyền giáo dựa trên những biên cương mới
cũng như những phương pháp mới, đó là bài viết của cha Mario Menin tựa đề “Storia e modelli della
presenza missionaria della Chiesa” (Lịch sử và những khuôn mẫu của
sự hiện diện truyền giáo của Giáo hội) được đăng trên mạng SEDOS[12].
B. Bảy hoàn cảnh lịch sử
Trước tiên tác giả nhìn nhận rằng trong
công cuộc nghiên cứu lịch sử Giáo hội, có hai khuynh hướng tiếp cận đối nghịch
nhau: một bên chỉ muốn phân tích các sự kiện dựa theo những nguyên tắc của khoa
sử học (Roger Aubert); một bên (Hubert Jedin) đòi hỏi phải phán đoán các dữ
kiện dưới viễn tượng của đức tin, nghĩa là môn giáo sử là một ngành của thần
học, tuy không được phép đồng hóa với môn hộ giáo (apologetica) hoặc thánh tích (hagiographia).
Thật không đơn giản, bởi vì chủ động của lịch sử không chỉ là những con người
với những giới hạn tự nhiên, mà còn là Thánh Linh nữa. Mặt khác, không phải tất
cả những gì xảy ra trong lịch sử của Hội thánh đều là “thánh thiện”! Như chúng
ta đã biết lịch sử không phải chỉ là môn học ghi lại các sự kiện nhưng còn phân
tích các nguyên nhân và hậu quả của chúng. Nói khác đi, khoa lịch sử nào cũng
hàm chứa một triết lý (hay thần học).
Lịch sử truyền giáo được phân làm 7 giai
đoạn: 1/ ba thế kỷ đầu tiên; 2/ loan báo Tin mừng cho các dân tộc mới đến; 3/
loan báo Tin mừng cho châu Au; 4/ Thập tự quân (tk XI-XII); 5/ châu Mỹ (tk XV);
6/ châu Á; 7/ châu Phi.
1/ Ba thế kỷ đầu tiên: công cuộc truyền
giáo của các tín hữu thường dân
Tin mừng được loan báo trong lãnh thổ
của Đế quốc Rôma và thậm chí vượt ra ngoài biên cương (
- Những yếu tố thuận lợi bên ngoài: hệ
thống hành chánh và giao thông của đế quốc Rôma (pax romana), văn hóa Hy-lạp, sự
phổ biến của đạo Do thái.
- Những yếu tố nội tại: vẻ hấp dẫn của
sứ điệp Tin mừng, bảo vệ tự do lương tâm kể cả trước đe dọa của chính quyền
- Những nhân vật chủ động của công cuộc
truyền giáo là chính các tín hữu, ý thức về sứ mạng của mình, qua những cuộc
tiếp xúc trong đời sống thường nhật. Lá thư gửi Điônhêtô cho biết rằng sự hiện
diện của các Kitô hữu trong thế giới ví được như vai trò của linh hồn trong
thân xác. Từ cuối thế kỷ II, các giám mục mới điều khiển công tác truyền giáo.
2/ Loan báo Tin mừng cho các dân tộc germanic và slav.
Xưa nay các sử gia thường nói đến các
dân “man di” tràn vào lãnh thổ Đế quốc Rôma, nhưng ngày nay, người ta nói đến
các cuộc di dân, trong số đó không thiếu các dân đã theo đạo (chẳng hạn dân
Gothi đã có hàng giáo phẩm, tuy nghiêng theo phái Ariô).
Đặc trưng của giai đoạn này (bắt đầu từ
thế kỷ IV) là việc loan báo Tin mừng không chỉ nhắm đến cá nhân, nhưng còn nhắm
đến các dân tộc. Người ta chứng kiến cuộc trở lại đạo của cả một dân tộc
theo gương của nhà vua (thí dụ
Nhân tố chủ động của hoạt động truyền
giáo không còn là những cá nhân nhưng là Giáo hội, tuy chưa phải là Giáo hội
trung ương tập quyền như vào những giai đoạn cận đại. Dù sao, Giáo hội xuất
hiện như là một cơ chế.
3. Phong trào truyền giáo thứ nhất cho châu Âu:
các đan sĩ
Xem ra hơi mâu thuẫn: các đan sĩ là
những người đi tìm thinh lặng nơi cô tịch, làm sao lại trở nên động lực cho
phong trào truyền giáo? Xin thưa rằng có nhiều hình thái đan tu. Phong trào đan
tu tại Bắc Au không rút vào rừng vắng như thánh Biển đức, nhưng họ lấy việc lữ
hành vì lòng mến Chúa (peregrinatio pro Dei amore) như phương tiện nên thánh.
Nhờ vậy họ đã trở thành những người loan báo Tin mừng cho lục địa châu Au trong
suốt bảy thế kỷ (V-XII): không những họ là động lực cổ võ văn hóa cho lục địa
này, nhưng góp phần vào việc canh tân Giáo hội, với kỷ luật thống hối mới, với
dây liên kết với Toà Rôma. Những khuôn mặt tiêu biểu: thánh Columba, thánh
Augustinô Canterbury, thánh Bonifaxiô.
4. Thập tự quân (thế kỷ XI-XII): truyền
giáo chống lại dân ngoại (contra gentes)
Thập tự quân là một phương pháp truyền
giáo mới: truyền giáo bằng vũ lực, để chiếm lại đất thánh. Thật ra, tuy
những cuộc thập tự quân được các giáo hoàng và vua chúa Kitô giáo đề xướng để
chiếm lại đất thánh khỏi tay người Hồi giáo, nhưng không nên coi đường lối quân
sự như là chính sách duy nhất của giai đoạn này. Cùng đi theo đoàn thập tự quân
năm 1219, thánh Phanxicô
5. Truyền giảng Tin mừng cho châu Mỹ latinh
Với cuộc chinh phục châu Mỹ latinh,
chúng ta thấy nảy ra một đường lối truyền giáo mới. Đế quốc Tây ban nha (và Bồ
đào nha) được uỷ thác việc loan báo Tin mừng do chế độ “bảo trợ” (padronado):
việc trở lại đạo mang tính cách cưỡng chế của chính quyền; đối lại, chính
quyền cũng điều hành Giáo hội qua đặc ân bổ nhiệm các giám mục. Như chúng ta đã
biết, song song với chính sách này, không thiếu những tu sĩ đã bênh vực quyền lợi
của thổ dân, hoặc qua những khảo luận pháp lý (Bartolomé de las Casas,
Francisco de Vitoria), hoặc qua những “ấp chiến lược” (reducciones của Dòng Tên
ở
6. Truyền giảng Tin mừng cho người Á đông
Trên nguyên tắc, châu Á và châu Phi được
đặt dưới sự “bảo trợ” của Bồ đào nha, nhưng nước này không hăng say lắm với
công cuộc truyền giáo. Điều này đã thúc đẩy Toà thánh thiết lập Bộ Truyền bá
đức tin với hai vị Đại diện tông toà mà chúng ta đã biết. Như vậy Tòa thánh
muốn giành lại phần chủ động trong công cuộc rao giảng Tin mừng. Xét về phương
pháp truyền giáo, thì tại Á châu, không có chuyện sử dụng vũ lực, nhưng ngược
lại, chính các Kitô hữu đã trở thành nạn nhân của vũ lực: rất nhiều người đã bị
nhà cầm quyền địa phương bắt bớ và giết: chúng ta đã quá biết lịch sử của các
vị tử đạo tại Nhật Bản, Trung hoa, Việt Nam, Triều tiên. Một khía cạnh mới của
kế hoạch truyền giáo là thích nghi Tin mừng với văn hóa địa phương.
Những nguyên tắc đã được đề ra trong Huấn thị của bộ Truyền giáo năm 1659. Thế
nhưng khi đem ra áp dụng thì nhiều cuộc tranh cãi đã nảy lên giữa các thừa sai:
thế nào là văn hóa, thế nào là mê tín dị đoan?
7. Truyền giảng Tin mừng tại Phi châu
Châu Phi đã đón nhận Tin mừng ngay từ
những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo (các cộng đoàn Ai cập,
Trong phần kết luận, tác giả nhấn mạnh
rằng trải qua hai ngàn năm lịch sử, đã có nhiều đợt loan báo Tin mừng
cũng như nhiều cách thức loan báo Tin mừng, tùy theo thời thế. Ngoài ra,
đôi khi trong cùng một thời đại nhiều phương thức khác nhau và tương phản nhau
cùng được áp dụng. Một thí dụ: vào thế kỷ XIX, tại Phi châu, bên cạnh những
thừa sai hăng say giảng đạo, lập nhà thờ nhà thương, thì có một anh Charles de
Foucauld truyền giáo bằng sự hiện diện thầm lặng.
Kết luận
Trong phần thứ hai, chúng tôi đã trưng
dẫn hai tác giả để cho thấy hai lối nhìn về cái “mới” trong cách thức loan báo
Tin mừng.
Cha Raniero Cantalamessa trình bày bốn
đợt loan truyền Tin mừng: ta có thể nói đến bốn cái “mới”, dựa trên những người
đón nhận (các dân Hy-lạp Rôma, các dân man-di, châu Mỹ Latinh, châu Au tục hóa)
và những chủ động (tín hữu, đan sĩ, tu sĩ, giáo dân). Đàng sau các đợt sóng mới
là đức tin và cầu nguyện.
Cha Mario Menin phân chia lịch sử truyền
giáo làm bảy giai đoạn xét theo biên cương, với sự thay đổi về phương pháp:
việc loan báo Tin mừng cùng đi với những chứng ta thường nhật, hoặc truyền bá
văn hóa, hoặc thăng tiến nhân bản, và cũng có lúc dùng lại quyền lực.
Dĩ nhiên là chúng ta còn thể liệt kê
nhiều cách thức phân chia khác. Chẳng hạn như xét về cơ quan điều phối: từ
những sáng kiến tự phát vào lúc đầu, tiến tới việc điều động của các giám mục,
rồi đến sự tiếp tay của thế quyền, và rồi vào những thế kỷ gần đây, sự điều
động của Tòa Thánh (Bộ Truyền giáo).
Tuy nhiên, xin phép được ghi nhận ba cảm tưởng
để kết thúc.
1/ Khi nói đến việc “loan báo Tin mừng”,
các tác giả hiểu về việc “truyền giáo”, nghĩa là giảng đạo cho những dân ngoại
đạo. Tuy nhiên, tông huấn Evangelii nuntiandi hiểu từ ngữ evangelizatio theo nghĩa rộng
hơn, bao gồm cả việc loan báo Tin mừng cho cả bên trong nội bộ của Giáo hội
nữa. Lịch sử Giáo hội là một chuỗi những cuộc canh cải: ecclesia semper
reformanda est. Công đồng Vaticanô II cũng nằm trong kế hoạch “trở
về nguồn”, nghĩa là trở về với Tin mừng. Cái gì tạo ra những cuộc canh tân cải
hoán ấy? Chúng ta sẽ trở lại câu hỏi này trong giây lát. Dù sao, chúng ta có
thể nên ghi nhận ảnh hưởng hỗ tương giữa hai hướng: động lực canh tân nội bộ
Giáo hội cũng giúp đẩy mạnh công cuộc truyền giáo. Một thí dụ: vào thế kỷ XVII
bên Pháp, cũng một tinh thần đã thúc đẩy đi giảng đạo cho các giáo xứ (mission populaire)
và đi giảng đạo cho các vùng xa xăm (mission étrangère), đưa đến việc thiết
lập hai Hội dòng: Congrégation de la Mission của thánh Vinhsơn Phaolô, và Société
des Missions Étrangères de Paris.
2/ Khi bàn về việc “truyền đạo cho dân
ngoại”, các tác giả xem ra chỉ nhìn đến những công cuộc của Giáo hội Công giáo,
và bỏ qua sự đóng góp của các Giáo hội khác. Như đã nói ở đầu, các từ evangelization,
evangelism phát sinh từ các hệ phái Tin lành cuối thế kỷ XIX. Cách
riêng khi bàn về việc truyền giáo tại Á châu, chúng ta không thể làm ngơ những
nỗ lực của các Giáo hội Tin lành (thuộc nhiều hệ phái), kể từ thế kỷ XIX, tại
Trung Hoa, Triều tiên (nơi mà số tín hữu Tin lành cao hơn số người Công giáo).
Ngoài ra cũng nên biết rằng các giáo sĩ Nestoriô đã mang Tin mừng đến Trung
quốc ngay từ thế kỷ VIII. Về những đợt loan báo Tin mừng tại châu Á, có thể đọc
bài viết của cha Felipe Gomez, Two Thousand Years of The Church’s
3/ Dù phân chia các “đợt loan báo Tin
mừng” theo tiêu chuẩn nào đi nữa, chúng ta thấy rằng những đợt sóng mới không
phát xuất từ một kế hoạch đã dự trù. Ai xui quân man di tiến vào lãnh thổ Rôma?
Ai xúi ông Mahomét lập đạo Islam và chiếm cứ miền thánh địa?
Nói cách khác, những hoàn cảnh mới
không hoàn toàn xuất phát từ Giáo hội, nhưng chúng thường xảy đến từ những nhân
tố bên ngoài Giáo hội. Tuy nhiên, nhìn dưới con mắt đức tin thì những biến cố
ấy cũng nằm trong kế hoạch của Chúa Thánh Thần, vị chủ động chính yếu của cuộc
truyền bá Tin mừng[14]. Thánh Luca đã nhận thấy điều đó khi viết sách Tông đồ công
vụ: nhờ cuộc bách hại của ông Saulô ở Giêrusalem, mà các tín hữu mới chạy tản
mác xuống
Vào năm 1954, Giáo hội VN có 16
giáo phận với số giáo dân khỏang 1.900.000. Dựa theo sách Việt Nam giáo sử
của cha Bùi đức Sinh[17], trước cuộc di cư, từ vĩ tuyến
17 ra Bắc khỏang 1.380.000 người; từ vĩ tuyến 17 trở vào khỏang 520.000 người.
Sau cuộc di cư, số giáo dân miền Bắc chỉ còn khỏang 730.000, ở miền
- Tại miền Bắc, các thừa sai ngoại quốc
bị trục xuất. Vì thế Tòa thánh bắt đầu phải “việt nam hóa” hàng giáo phẩm. Nên
biết là cho đến năm 1954, các giáo phận Thái bình, Lạng sơn, Thanh hóa, Hưng
hóa còn do các giám mục Pháp và Tây-ban-nha điều khiển (Đi lùi lại một chút: Hà
nội và Bắc Ninh cho đến năm 1950, Hải phòng năm 1953). Đến năm 1960 thì toàn
thể giáo tỉnh Hà-nội đều do các giám mục VN cai quản.
- Tại miền
Trong những hậu quả của biến cố 1975
kèm theo hiện tượng vượt biên, các tín hữu Việt
Ôn lại quá khứ để sống hiện tại. Liệu
chúng ta có nhận ra tiếng nói của Thánh Linh giữa những biến cố hôm nay, tiếng
nói mời gọi chúng ta tham gia vào việc loan truyền Tin mừng cách mới mẻ,
đứng trước thánh đố mới và thời cơ mới, dĩ nhiên là với tinh thần
mới, nhiệt khí mới?
Lịch sử truyền giáo. Thư mục tổng quát
* Tác giả Tin Lành
- K. S. Latourette, A History of the Expansion of Christianity,
7 voll., New York 1937-1945.
- S. Neill, A History of Christian Missions, Penguin, Harmondsworth
1964.
- D. J. Bosch, Transforming
* Tác giả Công giáo
- S. Delacroix (dir.), Histoire universelle des Missions Catholiques,
4 voll., Editions de Grund, Paris 1956-1959.
- J. Comby, Deux mille ans d’évangélisation, Desclée,
- A. Doneda, Chiesa in cammino. 2000 anni di storia della missione, EMI
Bologna 1993.
Lm. Phan Tấn Thành, OP.
[1]Rafael Ortega, Evangelizar segn el
Evangelio. Comentario biblico a los nn. 6-16 de la "Evangelii nuntiandi.
in: “
[2]Euaggelizomai (euaggelizesthai): 54 lần trong TƯ (Mt 1; Lc 10; Cv 15; Rm 3; 1 Cr
6; 2 Cr 2; Gl 7; 1 Tx 1; Dt 2; 1 Pr 3; Kh 2). - euaggelion: 76 lần trong TƯ
(Mt 4; Mc 8; Cv 2; Rm 9; 1 Cr 8; 2 Cr 8; Gl 7; Ep 4; Pl 9; Cl 2; 1 Tx 6; 2 Tx
2; 1 Tm 1; 2 Tm 3; Plm 1; 1 Pr 1; Cv 1). - euangelistes 3 lần (Cv 21,8; Ep 4,11; 2
Tm 4,5).
[3]J. Lopez Gay, Evolución historica
[4]D. Grasso, Evangelizzazione. Senso
di un termine, in: Evangelisation, l.c. p.21-47.
[5]Các văn kiện khác: Sắc lệnh về
Tông đồ giáo dân Apostolicam Actuositatem (4 lần: số 2; 6; 19; 26). Sắc lệnh
về tác vụ linh mục Presbyterorum Ordinis (3 lần: số 5; 6; 19). Hiến chế về Hội
Thánh Lumen
gentium (1 lần: số 35). Sắc lệnh Christus Dominus (1 lần: số 6); Hiến
chế về Hội Thánh trong thế giới ngày nay Gaudium et Spes (1 lần: số 44).
[6]Bản lược thảo (Lineamenta) đã
cho biết từ ngữ evangelizatio
có thể hiểu theo bốn nghĩa: 1) Nghĩa rộng: bất cứ công tác nào nhằm làm cho thế
giới trở nên phù hợp với chương trình của Thiên Chúa, dù là lao động trong
xưởng, dạy chữ. 2) Nghĩa hẹp hơn: việc thi hành các hoạt động ngôn sứ, tư tế và
vương đế nhằm xây dựng Hội Thánh theo ý định của Chúa Kitô. Hiểu như vậy, nó
đồng nghĩa với sứ mạng của Hội Thánh (khác với hoạt động của các tổ chức hoặc
xã hội trần thế). 3) Nghĩa chặt: những hoạt động nhằm nhằm giúp các người ngoại
nhận biết Chúa cũng như giúp các tín hữu sống đức tin. Như vậy giới hạn vào
việc thi hành công tác ngôn sứ (rao giảng Tin Mừng, dạy giáo lý, giảng thuyết,
v.v). 4) Nghĩa chuyên môn: việc rao giảng Tin Mừng cho những người chưa biết
Chúa.
[7]Thực ra, tông huấn phân biệt ba
môi trường của evangelizatio:
(i) Loan báo Tin Mừng cho người ngoại đạo (số 50, 51, 53), tức là truyền giáo;
(ii) Mục vụ (số 54), chú trọng đến việc huấn giáo; c) Loan báo canh tân (số 52,
56), dành cho những nơi đã mất đạo, hoặc không thực hành đạo.
[8]N. 15: “Ut res breviter
explicemus, Ecclesia
semper evangelizanda est, ut suam in Evangelio nuntiando viriditatem, ardorem,
vim servare possit. Concilium Oecumenicum Vaticanum II commemoravit
atque Episcoporum Synodus anno MCMLXXIV firmiter resumpsit hoc argumentum de
Ecclesia, per suam non intermissam conversionem et renovationem, se ipsam
evangelizante, ut credibili ratione valeat mundum evangelizare”.
[9]Nên ghi nhận rằng anh em Tin
lành (Protestantism) vẫn tiếp tục dùng danh từ
[10]Vào bốn ngày thứ sáu: 2/12; 9/12;
14/12; 23/12. Có thể đọc trên website của tác giả: www.cantalamessa.org/
[11]Tác phẩm căn bản: Adolph
Harnack,Missione
ed espansione
[12]www.sedos.org/site/index.php?option=com_docman&task=doc_view&gid=1495&Itemid=59〈=en
[13]In: East Asian Pastoral Review,
vol. 47 (2010), trên mạng: http: //
eapi.admu.edu.ph/content/two-thousand-years-church%E2%80%99s-mission-asia-waves-evangelization-holiness-and-martyrdom
[14]Đức Phaolô VI, tông huấn Evangelii nuntiandi
số 74-75; Đức Gioan Phaolô II, thông điệp Redemptoris missio số 21-29.
[15]Xem bài diễn văn của đức
Bênêđictô XVI dành các đại diện của Giáo hội Đức tại
[16] Xem sách Giáo lý Hội thánh Công
giáo số 2421: “Giáo huấn xã hội của Hội thánh được triển khai vào thế kỷ thứ
XIX khi Tin mừng tiếp xúc với xã hội kỹ nghệ cơ khí hiện đại, với những cơ
cấu mới của nó để sản xuất các sản phẩm tiêu thụ, với quan niệm mới
của nó về xã hội, về quốc gia và quyền bính, với các hình thức mới của
nó về lao động và quyền sở hữu. Sự triển khai giáo huấn của Hội thánh về vấn đề
kinh tế và xã hội chứng tỏ giá trị trường tồn của giáo huấn Hội thánh, đồng
thời cho thấy ý nghĩa đích thực của Truyền thống luôn sống động và tích cực của
Hội thánh”.
[17]Bùi đức Sinh, Giáo hội Công giáo ở Việt