KHOA HỌC, TOÁN HỌC, LÝ LUẬN:
CÁC PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN ĐẠO CỦA
GIÁO SĨ DÒNG TÊN ALEXANDRE DE RHODES TẠI VIỆT
Dr. Barbara Widenor Maggs
(Associate, Russian and
Ngô Bắc, dịch
***
Các học giả cũng như công chúng biểu lộ sự quan tâm liên tục
đến các hoạt động truyền đạo sâu rộng của các giáo sĩ Dòng Tên trong thế kỷ
mười bẩy tại Trung Hoa.(1) Tuy nhiên, một số ít người ở phương Tây hay biết
được các nỗ lực đáng kể thực hiện gần như đồng thời bởi ông Alexandre de Rhodes
trong khối dân láng giềng phía nam của Trung Hoa, Việt Nam. De Rhodes, một giáo
sĩ dòng Tên từ Avignon, Pháp Quốc, hiểu rõ sức mạnh của các ý tưởng; và, như
một cá nhân đi trước thời đại về mặt tri thức, ông đã sử dụng một cách khéo léo
một loạt các ý tưởng mới trong việc thuyết phục người dân Việt Nam chấp nhận
thông điệp tôn giáo mà ông mang đến cho họ.
Thật khó khăn để trình bày cho đầy đủ trong một bài nghiên
cứu ngắn về tất cả những thành tích đáng kinh ngạc của de Rhodes. Người ta sẽ
cần phải thảo luận về các sự đóng góp của ông ta trong nhiều lãnh vực cụ thể
khác nhau: đối với người dân Việt Nam, đặc biệt về mặt tôn giáo và ngữ học; đối
với Giáo Hội Công Giáo La Mã, về việc mở rộng thành công công tác của phái bộ
tại Á Châu; và đối với người Âu Châu, những người mà ông đã cung cấp, xuyên qua
các tập tường trình lôi cuốn của ông về các cuộc du hành, không phải chỉ gồm
một kho tàng kiến thức mới về Đông Nam Á không thôi, mà còn về các quan điểm
của ông về những giá trị mà ông nhìn thấy trong văn hóa Á Châu: nét nổi bật
trong các tập tường trình du hành của ông về đề tài chủ nghĩa thế giới một nhà
- sự sẵn lòng thừa nhận các giá trị của những người khác và ngay cả việc cứu
xét để thích ứng văn hóa riêng của mình với các yếu tố văn hóa ngọai lai, một
trong những khái niệm then chốt trong thế kỷ kế tiếp của thời kỳ Giác Ngộ -
mang lại một hình ảnh sáng chói về bản chất tiên tiến trong các tư tưởng của de
Rhodes và về sự hấp thụ của ông các tư tưởng đó.
Nhưng để hiểu và tán thưởng de Rhodes, điều có thể hữu dụng
hơn là nên chú tâm về một khía cạnh đặc biệt trong công trình của ông thay vì
tham gia vào một sự phân tích ngắn gọn trên từng một trong nhiều thành quả của
ông. Bằng việc khảo sát kỹ càng một chủ đề cá biệt trong các tác phẩm của ông,
người ta có thể có được một cái nhìn thấu triệt đầy ý nghĩa vào cả nhãn quan
trí thức lẫn phương pháp ảnh hưởng của ông trên người Việt Nam: sự trình bày
kiên trì của de Rhodes về kiến thức khoa học mới của Âu Châu cũng như các sự
ứng dụng đương đại của Âu Châu về khái niệm lý luận học tượng trưng cho một
trong những đề mục năng động nhất trong các chủ điểm này. Trong khi sự sử dụng
các ý tưởng này chỉ cấu thành một phần nhỏ trong chiều hướng truyền đạo của de
Rhodes, vốn dĩ chủ yếu có tính chất thần học,(2) điều quan trọng là vạch ra sự
ràng buộc của ông với kỷ nguyên trí thức mà ông sống trong đó cũng như với thời
đại kế tiếp.
Sự sử dụng khoa học, toán học và lý luận học thực ra đã là
phương pháp đã sẵn được chứng tỏ là thành công cho giáo sĩ Dòng Tên Matteo
Ricci, một trong những nhân vật nổi tiếng nhất trong việc bành trướng ban đầu
Thiên Chúa Giáo tại Trung Hoa. Như Ricci đã giải thích trong nhật ký của ông:
Bất kể ai có ý nghĩ rằng đạo đức học, vật lý học và toán học không có tầm quan
trọng trong công tác của Giáo Hội, là kẻ không hiểu biết về khẩu vị của người
Trung Hoa, vốn dĩ chậm chạp trong việc uống liều thuốc bổ tinh thần, cho đến
khi nào nó được pha chế với một hương vị trí thức.(3) Alexandre de Rhodes, khởi
sự công tác truyền giáo của mình tại Việt Nam hồi cuối năm 1624 hay đầu năm
1625, vào khoảng mười bốn năm sau sự từ trần của Ricci, đã nhập tâm châm ngôn
về vị giác của người tiền nhiệm, để thích ứng hóa tư tưởng tiến bộ nhất của Âu
Châu lúc bấy giờ với khẩu vị của các thính giả của chính ông tại Việt Nạm.
Nguyên do tại sao De Rhodes ít được biết đến ngày nay như
đúng với tầm mức của ông, ít nhất một phần là vì không có sự tiếp cận với những
tác phẩm mà ông đã viết về Việt Nam, không dưới tám tác phẩm đã được ấn hành
tại Pháp và Ý Đại Lợi tính cho đến giữa thế kỷ mười bẩy (4). Các chuyên viên am
tường về công trình của de
De Rhodes sinh năm 1593 (7), tại lãnh địa của giáo hoàng
vùng Avignon, Pháp Quốc, nơi mà tổ tiên của ông, những người Do Thái cải đạo,
đã di cư đến từ Tây Ban Nha. Sau khi hoàn tất sự huấn luyện trong chủng viện
tại cơ sở Jesuit Novitiate of Santa Andrea al Quirinale thuộc Rome, và sự học
hỏi cao hơn về thần học tại cùng thành phố này, de Rhodes, rất hài lòng, đã
nhận được sự bổ nhiệm năm 1618 sang phái bộ truyền giáo Công Giáo La Mã tại Á
Châu. Ông lúc ban đầu hy vọng có một nhiệm vụ tại Nhật Bản, như ông cho hay nơi
phần mở đầu của quyển Divers voyages,
vào ngay thời điểm mà sự ngược đãi khởi sự tại đó, (8) và đã nhiều lần lập lại
lời yêu cầu về sự bổ nhiệm đó. Ông đến Macao trong tháng Năm năm 1623, có một
giáo sĩ dòng Tên người Bồ Đào Nha đi kèm, Antanio Cardim, là người, đã trải qua
một cuộc du hành, bao gồm cả những lúc cư trú kéo dài tại Goa, tại hòn đảo lân
cận Salsette, và tại Malacca, kéo dài trong bốn năm. Chính tại Macao, trụ sở
chính của các họat động truyền giáo của Tỉnh Hạt Nhật Bản, bao gồm cả Cochinchina
(Đàng Trong) và Tonkin (Đàng Ngòai), de Rhodes đã ở lại một năm rưỡi, để chờ
đợi đến nhịệm sở sau cùng. Nhưng bởi Nhật Bản khi đó đã đóng cửa đối với các
nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo, de Rhodes trong năm 1624 đã được bổ nhiệm thay
vào đó đến một phái bộ tương đối mới tại Cochinchina (Đàng Trong nước Việt).
Vào lúc này Cochinchina, cùng với Tonkin nằm ngay sát cạnh
về phía bắc, tức bắc phần Việt Nam bây giờ, tạo thành một quốc gia độc lập, đặt
dưới sự cai trị trên hình thức bởi triều Lê, với mỗi vùng được cai quản bởi một
vị chúa riêng. Trong thực tế, các vị chúa này nắm giữ quyền bính, trong khi các
vua Lê chỉ có rất ít thực quyền. Vào thời điểm cập bến của de Rhodes trong mùa
đông 1624-1625 cùng với sáu giáo sĩ khác, hai miền, Cochinchina và
Trong khi Thiên Chúa Giáo đã được du nhập vào Tonkin và
Cochinchina bởi các giáo sĩ Âu Châu thuộc nhiều dòng khác nhau trong thế kỷ
mười sáu, phái bộ dòng Tên mới chỉ khởi sự chưa đầy một thập kỷ trước khi de
Rhodes đến nơi. Các Linh Mục Francesco Buzomi và Diego Carvalho, và Sư Huynh
Antanio Dias, đã là các người khởi đầu công việc của dòng Tên trong năm 1615,
sau được gia nhập bởi nhiều tu sĩ khác trong những năm kế đó.
Sau mười tám tháng công tác truyền đạo tại Đàng Trong, trong
đó de Rhodes học hỏi về tiếng nói Đàng Trong – Đàng Ngoài hay ngôn ngữ Việt Nam
và tìm hiểu về các tôn giáo, phong tục và chính quyền của xứ sở, ông được triệu
hồi bởi thượng cấp sang Macao, để chuẩn bị cho một cuộc di chuyển vào năm 1627
sang Đàng Ngoài. Do sự thông thạo tiếng Việt của ông, ông đã được tuyển chọn,
cùng với Paro Marques, làm nhân viên cho phái bộ mới tại đó.
Kiến thức tuyệt hảo của de Rhodes về ngôn ngữ của người Đàng
Trong và Đàng Ngoài giúp cho ông có thể tiến hành một dự án trở thành một trong
những sự đóng góp lớn lao nhất cho dân chúng của hai miền này: dự án nhằm phát
triển một hệ thống ký âm bằng mẫu tự La Tinh ngôn ngữ Việt Nam, vào lúc đó vẫn
dùng sự kết hợp các chữ bắt nguồn từ Hán tự để biểu thị cả về mặt hài thanh lẫn
hội ý. Nhiều nhà truyền giáo khác, trong đó có Gaspar d’Amaral và Antanio de
Barbosa, cũng đã thử nghiệm với lọai ký âm này, giúp cho các nhà truyền đạo ghi
chú các tiếng Việt cho sử sử dụng riêng của họ, chẳng hạn trong các bài văn giảng
đạo, dưới một hình thức khả dụng hơn đối với họ. Văn bản dùng mẫu tự la mã cũng
cho phép các nhà truyền đạo sản xuất ra các tài liệu tôn giáo cho các kẻ cải
đạo tân tòng dưới một hình thức mà họ có thể học đọc không quá khó khăn. De
Rhodes đã sử dụng công trình của các đồng sự, nhưng ông là người có công trong
việc hoàn chỉnh hệ thống ký âm bằng mẫu tự la mã này, mà các nền tảng vẫn còn
tồn tại đến ngày nay.(9) Cũng chính de Rhodes là người sau rốt đã ấn hành quyển
sách đầu tiên viết bằng tiếng Việt Nam dưới hình thức ký âm mới này, quyển Catachismus, hay Catechism in Eight Days (Phép
Giảng Tám Ngày) . Bởi
sự hoàn tất việc ký âm ngôn ngữ, ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa của Đàng
Trong và Đàng Ngoài trong nhiều đường hướng quan trọng khác nhau, đã giúp cho,
thí dụ, người Việt Nam có thể tương giao một cách dễ dàng hơn với các nước Âu
Châu, bằng việc sử dụng các mẫu tự La Tinh,(10) cho nên de Rhodes đến giờ phút
này vẫn được tưởng nhớ và rất kính trọng tại Việt Nam.
De Rhodes tiếp tục công tác truyền giáo của mình tại
Với sự bổ nhiệm một linh mục bề trên mới tại Macao, de
Rhodes sau hết đã có thể trở lại Đàng Trong vào năm 1640, lần này làm bề trên
của phái bộ ở đó. Rồi thì ông đã bắt đầu một thời kỳ năm năm tạo nhiều thành
quả nhưng cũng đầy nguy hiểm, trong đó ông thường bị trục xuất bởi các giới
chức thẩm quyền và bị cưỡng bách hoặc tạm thời quay về Macao, hay như ông thích
làm hơn, di chuyển một cách bí mật trong các tỉnh của Đàng Trong. Ông đã chứng
kiến trong giai đọan này cuộc xử trảm thày giảng của ông tên André, vị thánh tử
đạo Công Giáo đầu tiên tại Đàng Trong. Cuối cùng trong năm 1645, sau khi chính
ông bị kết án tử hình, sau đó được phóng thích rồi bị trục xuất bởi vị Chúa
Đàng Trong, de Rhodes đã chia tay lần cuối với Đàng Trong. Từ
Trong tập bút ký du hành nổi tiếng nhất và được phiên dịch
rộng rãi nhất của ông, quyển Divers voyages,
de Rhodes trình bày một hình ảnh màu mè tiêu biểu cho phương pháp khởi sự công
tác truyền giáo của ông bằng cách dành được sự chú ý của những người nắm giữ quyền
bính. Trong tháng Ba năm 1627, sau ba năm đầu tiên làm việc tại Đàng Trong, vị
giáo sĩ dòng Tên này được di chuyển đến nơi trú ngụ mới tại Đàng Ngoài. Không
lâu sau khi đến nơi, ông đã biếu tặng vị Chúa, chúa Trịnh Tráng, hai tặng phẩm
từ Âu Châu, một chiếc đồng hồ và cái đồng hồ bằng cát của từng giờ (hourglass).
Trong khi trình bày về chiếc đồng hồ tự động gõ điểm giờ, de Rhodes đã giải
thích rằng chiếc đồng hồ sẽ lại điểm giờ khi mà cát đã hoàn toàn lọt qua cái
[eo] đồng hồ cát. Khi gần hết một giờ vị Chúa, mắt theo dõi cát, đã trở nên ngờ
vực rất nhiều. "Nó đã chảy hết rồi kìa," ông ta nói, "và đồng hồ
của ông đâu có điểm giờ. Ngay vào chính lúc đó chiếc đồng hồ buông tiếng gõ
điểm giờ. Chúa Trịnh Tráng kinh ngạc và vui thích, và tức thời mời de
Trong câu chuyện này de Rhodes không chỉ trình bày một cận
ảnh về một nhà cai trị hiếu kỳ và rõ ràng bị cảm kích, nhưng cũng phơi lộ cùng
lúc khá nhiều điều về chính ông, về các mối ưu tư tri thức của Âu Châu thế kỷ
mười bẩy, và về các phương pháp truyền giáo của dòng tu của ông. Dĩ nhiên, thế
kỷ của de Rhodes đương trải qua một cuộc cách mạng về mặt tư tưởng: triết học
kinh viện thời trung cổ, với sự nhấn mạnh trên các tín điều về tôn giáo, đang
trong tiến trình nhường bước cho các sự quan tâm khác: tính chắc chắn của các
khái niệm toán học mới, sự điều tra các nguyên tắc khoa học, sự quan sát thiên
nhiên, và các phương pháp mới trong Khoa Học Nhân Văn về việc khảo cứu và giải
thích các cá nhân và thế giới của ho. Sự lý luận chặt chẽ gắn liền với triết
học kinh viện di chuyển sang các khu vực quan tâm mới, và chính sự lý luận đã
được nâng cao thành một nguyên tắc có thể giúp vào việc giải quyết các sự mơ hồ
trong môi trường bao quanh loài người.
Hội Tu Dòng Tên chú ý đến mọi sự phát triển tri thức này và
đã nhận thức rõ khi mà thế kỷ này trôi qua triết học kinh viện sẽ mất đi căn
bản của nó. Mặc dù nhiều nhà thần học dòng Tên nổi tiếng đã biện hộ cho học
thuật kinh viện và đã đóng góp vào đó một sức sống mới vào hậu bán thế kỷ mười
sáu,(13) Hội Tu đã cẩn trọng vào lúc khởi đầu thế kỷ mười bẩy để không hoàn
toàn chào đón hay bãi bỏ các ý niệm truyền thống của triết học kinh viện.(14)
Các nhà giáo dục dòng Tên đã thực hiện các nỗ lực cẩn trọng để theo kịp với các
trào lưu trí thức đang thay đổi trong suốt thời kỳ này, những năm khi mà de
Rhodes nhận được sự giáo dục và khởi đầu công việc của mình. Học trình của dòng
Tên bao gồm không chỉ các ngôn ngữ cổ điển - một dấu hiệu của học thuật ngành
Khoa Học Nhân Văn – mà còn có cả toán học và khoa học, khi đó nhận được sự chú
trọng đáng kể trong thế giới tri thức.(15)
Tuy nhiên, từ lâu sự chuyên môn hóa trong các lãnh vực toán
học và khoa học đã trở thành một nhu cầu đặc biệt cho các giáo sĩ truyền đạo
dòng Tên tại vùng Đông Á. Chủ ý trình bày thông điệp của họ trong ngôn ngữ mà
thính giả hiểu được và tán thưởng, và nhận thức rằng, kể từ những chuỗi ngày
tiền phong của Francis Xavier tại Nhật Bản, sự lôi cuốn của toán học và khoa
học đối với giới cầm quyền và học thức tại vùng Đông Á, các giáo sĩ dòng Tên đã
xem các sự quan tâm tri thức này rất nghiêm chỉnh. Ngay từ năm 1552 Xavier đã
từng viết lên Quốc Vương John III của Bồ Đào Nha khuyến cáo nhà vua rằng cần
phải gửi các nhân vật có học thức cao để họ có thể trả lời được nhiều câu hỏi
sẽ được đặt ra cho họ từ dân chúng.(16) Ý niệm song hành về việc biểu diễn các
thành quả khoa học của Âu Châu và việc tạo một cảm tưởng thuận lợi trên giới
thượng lưu của một dân tộc sau này đã được công thức hóa cụ thể thành các
nguyên tắc ấn định bởi Alessandro Valignano trong một kế hoạch mà ông đã phác
họa cho các giáo sĩ dòng Tên được gửi sang Trung Hoa. Valignano đã thúc dục các
giáo sĩ truyền đạo hãy sử dụng khoa học của Âu Châu như một phương cách để giới
thiệu các khái niệm tôn giáo đến quần chúng. Trong một phần riêng biệt
Valignano nhấn mạnh rằng việc chinh phục giới học thức, những người giữ trọng
trách trong chính phủ, sẽ thúc đẩy mau lẹ sự cải đạo dân tộc của họ.(17) Các
giáo sĩ dòng tên sau này tại Trung Hoa đã ghi tâm khắc cốt các lời khuyến cáo
này đến nỗi các kẻ thù của họ đã ám chỉ một cách chua chát [họ] như là các nhà
toán học.(18) Chính de Rhodes đã chuẩn bị trong nhiều năm cho các công tác quan
trọng này. Ông đã không chỉ học về toán trong thời tu đạo tại
Chiến thuật của de Rhodes về việc giới thiệu khoa học Âu
Châu và các phát minh cơ khí dưới hình thức đồng hồ gõ chuông tại Bắc Việt đã
đạt được sự thành công tiên khởi, thu phục tạm thời thiện cảm của vị chúa tể.
Tuy nhiên, khi chúa Trịnh Tráng bị áp lực phải kháng cự lại ảnh hưởng của các
giáo sĩ truyền đạo, chúa đã bắt đầu tách biệt de
De Rhodes đã tiếp nối cuộc biểu diễn thiên văn học khéo léo
trước vị chúa bằng một cuộc trình bày tạo ấn tượng tương tự kiến thức của ông
trước vị tổng đốc tỉnh Ghean (Nghệ An), nơi mà sau khi bị trục xuất bởi Chúa
Đàng Ngoài, ông đã lưu trú tại đây một thời gian. Tại đây, ông đã có cơ hội để
tiên đoán một hiện tượng che khuất khác, lần này là nhật thực. Phản ứng của vị
tổng đốc là tất cả những gì mà de
Với thời gian, các vị Chúa Đàng Ngoài bắt đầy lo sợ ảnh
hưởng của de
Sự nhấn mạnh của de Rhodes về các nguyên tắc toán học và
khoa học không chỉ phát sinh từ ước muốn của ông nhằm dành đựoc sự chú ý và tín
nhiệm của các giới cầm quyền và trí thức mà còn từ sự say đắm của chính cá nhân
ông vào tinh thần khoa học mới đang thịnh hành tại Âu Châu trong thời đại của
ông. De Rhodes đã du hành trong tinh thần phân tích của thế kỷ của ông. Người
ta nhìn thấy trong cung cách của ông bóng dáng của phương pháp luận của Thomas
Hobbes, một người cùng thời với ông, là kẻ đã biện luận cho phương pháp khoa
học và tầm quan trọng của việc cân và đo lường.(23) Những người thuộc phái tôn
giáo chính thống cũng tiến tới việc tìm cách chứng minh bằng việc thực hiện vô
số các sự phân tích khoa học về thế giới vật lý xảy ra quanh họ, dựa trên sự
phát biểu trong sách Khôn Ngoan (Book of Wisdom (11:20), nhưng bạn sẽ phải sắp
xếp mọi thứ theo số đo, con số và trọng lượng.(24) Vì thế, de Rhodes đã đi đo
-- một cách gần chính xác nếu không phải là xác định – vùng bờ biển Đàng Trong
và Đàng Ngòai, tạo ra một bản đồ bổ túc nhiều chi tiết đáng kể cho sự hiểu biết
sơ sài trước đó của Âu Châu về địa dư của hai miền.(25) Mặt khác theo đuổi các
khuynh hướng phân tích của mình, de Rhodes đã ghi chú cặn kẽ về thiên nhiên –
trình bày tinh thần khoa học đương đại và cùng một lúc cả sự rời bỏ từ từ của
Âu Châu khỏi khái niệm truyền thống xem thiên nhiên như một thế giới của ma quỷ
và các thế lực độc ác và từ đó một nơi tập trung tội lỗi.(26)
Liên hệ chặt chẽ với sự quan tâm của de Rhodes về khoa học
và toán học là sự tập chú của ông về một chủ điểm khác có tầm quan trọng gia
tăng tại Âu Châu trong thế kỷ mười bẩy, các sự ứng dụng mới của khái niệm về sự
lý luận. Đã từng đắm chìm khi là một học trò trong các cách suy tư đương đại
ngay trước khi rời khỏi Âu Châu năm 1619, và được chuẩn bị bằng kinh nghiệm và
sự thực hành của dòng Tên hầu lợi dụng sự nhấn mạnh vào sự lý luận trong văn
hóa Khổng học, de Rhodes đã có sự quan tâm vô cùng cẩn trọng về vấn đề này.
Trong tư tưởng thần học của de Rhodes cả sự lý luận và sự mặc khải đều có tầm
quan trọng sinh tử, sự mặc khải để hiểu chân lý tôn giáo được ban cấp bởi
Thượng Đế khác với sự hiểu biết đạt được xuyên qua sự lý luận.(27) Nhưng sự chú
ý của de Rhodes về lý luận mà chúng ta quan tâm đến ở đây là vì nó phản ảnh căn
bản trí thức Âu Châu của ông. Rõ ràng là de Rhodes đã tin tưởng rằng có một căn
bản chung đáng kể giữa ý niệm về sự lý luận của chính ông với ý nghĩ của các
thính và độc giả có học của ông tại Đàng Ngoài và Đàng Trong, và sự thành công
của ông trong việc lôi cuốn khối khán thính giả của ông xem ra cho thấy ông đã
nghĩ đúng trong sự tin tưởng này.
Sự lý luận, trong công việc của de Rhodes, đóng ba vai trò
riêng biệt nhau, mỗi vai trò sẽ chiếu rọi ánh sáng quý giá vào mối tương quan của
tư tưởng của vị giáo sĩ dòng Tên với cả tư tưởng Âu Châu đương đại vào giữ thế
kỷ mười bẩy, cũng như cả với tư duy thời Giác Ngộ đang phát triển. Trong trước
tác của de Rhodes, từ ngữ lý luận trong một ý nghĩa để chỉ khái niệm truyền
thống của lý trí bẩm sinh có sẵn trong tất cả con người, giúp họ hiểu được một
số chân lý nào đó. Lý luận cũng để chỉ một phương pháp luận, một phương thức đã
được chấp nhận từ lâu để đạt tới các sự kết luận xuyên qua một sự phân tích có
hệ thống; và hơn nữa, trong một ý nghĩa mới của thế kỷ mười bẩy, lý luận cấu
thành một nguyên tắc, được truyền cho mọi người, để lọai bỏ sự mê tín và những
gì không phù hợp với các quy luật vật lý của vũ trụ hay chân lý có thể trình
bày được.
Sự sử dụng tiến trình lý luận như một phương pháp luận, dĩ
nhiên, không có gì mới mẻ trong thế kỷ mười bẩy. Nó đã được nâng lên một mức độ
phát triển cao hơn bởi các triết gia kinh viện thời trung cổ vốn là các chuyên
viên về việc diễn dịch các chân lý từ khuôn khổ tín điều đã được chấp nhận
xuyên qua các sự tranh cãi lý luận chặt chẽ. Điều mới lạ trong thế kỷ mười bẩy
là việc sử dụng tiến trình lý luận để đạt tới chân lý từ sự phân tích các sự
kiện, đặc biệt từ sự quan sát các hiện tượng tự nhiên, hơn là từ các chân lý
siêu hình đã được chấp nhận một cách phổ biến.(28) Khi de Rhodes sử dụng từ ngữ
lý luận để chỉ một phương pháp luận, một cách suy tưởng quan trọng, đôi khi ông
kết hợp vào đó một khái niệm mới mẻ hơn về lý luận, một sự tín nhiệm vững chắc
vào các định luật vật lý của thiên nhiên. Các sự biểu lộ rõ rệt trong cách kết
hợp các ý nghĩa này của de Rhodes nảy sinh từ sự chống đối mạnh mẽ của ông về
điều ông đã nhìn thấy như là tình trạng mê tín lan tràn trong người dân Đàng
Trong cũng như Đàng Ngoài.
Trong khi de Rhodes mở rộng đáng kể để đón nhận nhiều tập
tục văn hóa khác biệt với văn hóa của chính mình, như được đề cập bên trên,
những ý tưởng bốn bể một nhà (cosmospolitanism) có tính chất khá tiên tiến vào
thời đại bấy giờ, biểu lộ niềm tin rằng những gì ông trông thấy trên bề mặt như
là chân lý có thể chứng minh được không có nghĩa là hoàn tòan sẽ có thể được
chấp nhận bởi ông. Trong số các ý tưởng mà ông đối kháng một cách mãnh liệt
nhất là những tư tưởng liên hệ đến sự tin tưởng lan tràn trong giới bình dân về
pháp thuật và các thày phù thủy. Chẳng hạn, de Rhodes mô tả với vài sự khinh
thị, niềm tin về việc cần đến các nhà toán học tại triều đình để lựa chọn ngày
giờ tốt hầu giúp vua chúa cử hành một số hành vi nào đó, chẳng hạn như để đánh
quân thù.(29) Ngoài ra, ông có chống lại niềm tin về các phần đất tốt, chẳng hạn như khu đất để chôn cất
cha mẹ của một người, đặc biệt là cho hoàng gia. Nếu khu đất chôn cất hợp thức
không tìm được, ông đã tường thuật với giọng điệu chỉ trích, điều được tin
tưởng là gia tộc cai trị có thể mất đi quyền nắm ngôi chúa tể.(30) De Rhodes
cũng chống đối lại căn bản mê tín cho sự nhận thức chung về việc phải thanh
tóan bất kỳ món nợ nào đã nợ trong năm trước ngày Đầu Năm vì e ngại rằng sự bất
tường sẽ xảy ra cho gia đình người đó.(31) Và ông đã bác khước về mặt triết lý
cũng như cá nhân khái niệm thông thường cho rằng các giáo sĩ Tây Phương đã gây
ra nạn hạn hán, và rằng chính ông là một thầy phù thủy có thể biến hơi thở
thành bùa bỏ vào người mà ông nói chuyện.(32) Niềm tin cần cung cấp vào cuối
năm quần áo bằng giấy tô màu, cắt dán tỉ mỉ cho người chết, và rồi đem đi đốt,
xem ra đặc biệt làm de Rhodes điên tiết lên. Ông khai triển một sự chỉ trích
khoa học vào tập tục này, vạch ra rằng sự tin tưởng rằng quần áo bị đốt sẽ có
giá trị đối với người chết không phù hợp với những định luật của vũ trụ vật lý.
Khi người dân Đàng Ngoài giải thích rằng với việc đốt cháy, các quần áo bằng
giấy biến thành các trang phục dùng được cho người đã từ trần, de Rhodes và các
đồng sự của ông đưa ra câu trả lời đầy thử thách này:
Đúng, chắc chắn … là chúng thay đổi - một phần thành tro và
một phần thành lửa; như thế ông gửi phần nào đi, tro hay lửa ? Nếu gửi tro,
người chết sẽ cảm lạnh dưới đống tro; nếu gửi lửa, họ bị đốt cháy trong quần áo
nóng như thế.(33)
De Rhodes không phải là không hay biết sự kiện rằng một số
trong các tín điều tôn giáo của chính ông có thể đối với người dân Đàng Trong
và Đàng Ngòai cũng vô lý y như là các tín điều của họ đối với ông. Ông cũng đã
từng có lần báo cáo một cách thẳng thắn sự áp dụng từ ngữ mê tín đối với chính
tôn giáo của ông, với việc nhận thức rằng vị Chúa Đàng Trong đã ra lệnh cho một
cảm tình viên đạo Thiên Chúa nào đó hãy giữ nguyên đạo của mình và từ bỏ mọi sự
mê tín về đạo Thiên Chúa.(34) Nhưng de Rhodes, như chúng ta sẽ nhìn thấy, sử
dụng lập luận rằng đạo Thiên Chúa trong thực tế là một tôn giáo của lý luận để
phủ nhận bất kỳ ý tưởng chỉ trích nào như thế.
Trong khi de Rhodes cương quyết ủng hộ quan điểm Tây Phương
đang phát triển cho rằng các định luật vật lý của vũ trụ có thể được dùng như
một tiêu chuẩn để loại bỏ sự mê tín, sự nương tựa vào các định luật bất biến
của vũ trụ còn lâu mới có tính chất tuyệt đối đối với ông như là đối với các
người Âu Châu khác thời thế kỷ mười bẩy.(35) Sự tin tưởng của de Rhodes rằng
các thế lực của thiện và ác liên tục tham gia vào sự vụ của con người đã trợ
lực cho ông trong công tác truyền giáo bằng việc tạo lập ra một khu vực khá
quan trọng khả dĩ làm thành một căn bản chung giữa ông và khối thính giả của
ông. Các sự mô tả các cuộc đối đầu với cả hai thế lực này đầy rẫy trong các bản
tường thuật về đời sống hàng ngày tại Đàng Ngoài và Đàng Trong của de Rhodes.
Sự khinh thị của De Rhodes đối với các thầy pháp hay phù thủy, với ông là hiện
thân của điều xấu của sự mê tín, đã giao tiếp với niềm tin của ông nơi sự can
thiệp của Quỷ và các yêu ma thấp hơn khi ông mô tả nhiều phụ nữ bị quỷ ám. Như
là một người Tây Phương có kiến thức chuyên môn, đôi khi de
Trong thái độ của mình đối với các bà đồng cốt de
Sự tin tuởng này đặc biệt tiến bộ đối với thời đại đó. Trong
một thời kỳ khi mà các sự việc này xảy ra, khoảng cuối thập kỷ 1620 tại Đàng
Ngoài và sau đó khoảng đầu thập kỷ 1640 tại Đàng Trong, thái độ thịnh hành tại
Âu Châu đối với người được nghĩ là tri tình hợp tác với Quỷ khác biệt rõ ràng
với thái độ của de Rhodes; sự truy tố các phù thủy vươn lên một mức độ rất cao
vào thập kỷ 1620.(42) Mặc dù một vài thắc mắc về khái niệm này trong thực tế có
được nêu ra ở nhiều thời điểm khác nhau trong suốt thế kỷ mười bẩy, sự điên
khùng này đã không biến mất cho mãi đến cuối thế kỷ. (43) Đề nghị chữa trị hơn
là trừng phạt trong thực tế đã được đưa ra bởi một ít cá nhân can đảm trước de
Rhodes. Thí dụ, Montaigne ngờ vực về thuật phù thủy như ông cũng nghi ngờ nhiều
điều khác nữa, đã bày tỏ ý kiến, sau khi nói chuyện với một phụ nữ bị tố cáo là
bà phù thủy, rằng dược thảo trị bịnh điên sẽ thích hợp với bà ta hơn là liều
độc dược.(44) Và trong thập niên 1580 phân khoa luật tại Đại Học Heidelberg
phản bác án tử hình dành cho phù thủy; họ lập luận rằng tốt hơn là nên điều trị
tâm hồn chứ không nên tra tấn và hủy hoại thân xác.(45) Song quan điểm này có
tính cách ngoại lệ hiếm hoi trong những năm khi mà de Rhodes đối diện với những
phụ nữ bị tố cáo hành nghề phù thủy tại Đàng Ngoài và Đàng Trong. Các sự tường
thuật của ông, trình bày đến các độc giả Âu Châu trong một cung cách không gây
xúc động nhưng quả quyết về ý tưởng điều trị nhân đạo cho cả những kẻ được xem
là đồng hội đồng thuyền với các thế lực ma quỷ, rất có thể đã đóng một vai trò
trong sự thay đổi sâu rộng thái độ đối với thuật phù thủy khởi diễn vào lúc mà
tác phẩm của ông được ấn hành.
Sự quan tâm của De Rhodes về các thế lực siêu nhiên nảy sinh
từ sự ưu tư của ông về các thế lực siêu đẳng của bên tốt cũng như bên xấu. Thí
dụ, sự lưu tâm dành cho các thiên thần trong quyển Catechism (Phép Giảng) của ông, có lẽ phản ảnh sự lượng định
sắc sảo của vị giáo sĩ dòng Tên về sự kiện rằng các tín đồ của ông tại Đàng
Trong cũng như Đàng Ngoài, quen thuộc, xuyên qua văn hóa và tôn giáo của chính
họ, các sự tin tưởng nơi các đấng siêu nhiên, sẽ dễ tiếp nhận khía cạnh này của
giáo lý Thiên Chúa.(46 ) Sự chứng thực ngoạn mục về các thế lực siêu nhiên của
điều thiện xuất hiện trong nhiều báo cáo của de Rhodes về các hiện tượng kỳ
diệu xảy ra trong các tín đồ của ông. Các sự tường thuật về người ốm đau được
chữa lành đuợc kể đầy rẫy. Các thày giảng đạo của de
Một sự sử dụng thứ nhì của từ ngữ lý luận, ngụ ý cụ thể về
một phương pháp tranh luận, thể hiện đặc biệt rõ ràng trong quyển Cathechimus (Phép Giảng) của de Rhodes, văn bản được nghĩ rằng
ông đã viết ra tại Macao trong thời khoảng từ 1636 đến 1645.(48) Các giáo sĩ
trước đó trong thực tế có soạn thảo một quyển sách giảng đạo bằng tiếng Việt
Nam, nhưng công trình này được xem là ngắn và không được khai triển sâu xa.(49)
Hiển nhiên de Rhodes đã cảm thấy nhu cầu phải có một quyển sách cung cấp sự
giảng dạy tốt hơn xuyên qua các sự giải thích chi tiết hơn về các chân lý của
Thiên Chúa Giáo.(50) quyển sách giảng đạo của chính ông trong ấn bản song ngữ
đầu tiên bao gồm 315 trang viết bằng chữ La Tinh nguyên gốc và chữ Việt
Nam.(51) Vốn đã từng giảng dạy tại Đàng Ngoài và Đàng Trong khoảng bốn năm
trước khi khởi thảo quyển sách, de Rhodes đã khai triển điều mà ông nhận thấy
sẽ là một phương pháp thực tiễn để giải thích giáo lý Thiên Chúa cho các kẻ cải
đạo tương lai của mình. Ông đi theo hệ thống giảng dậy này trong quyển Catechismus, giải thích trước tiên các
nguyên tắc mà ông nhận thấy dễ được lĩnh hội nhất và rồi bước sang các nguyên
lý mà khối thính giả của ông thường nhận thấy là khó thông hiểu hơn.(52)
Vào lúc này de Rhodes cũng đã quen thuộc với các phương pháp
của các nhà lãnh đạo tôn giáo và triết học tại Đàng Trong và Đàng Ngòai, ông
hiểu các người tán tụng Khổng Học nói riêng đã cậy dẫn nặng nề vào sự lý luận
có hệ thống, và theo tính hợp lý trong các cuộc tranh luận triết học và thần
học của họ như thế nào, và ông hiểu cách bác bỏ các luận cứ của họ, bằng cách
sử dụng cùng một kỹ thuật như thế. Kỹ năng này trong việc lý luận và tranh biện
có sẵn một cách tự nhiên trong con người de Rhodes, dĩ nhiên, do di sản mà ông
tiếp nhận từ Ignatius of Loyola [1491-1556, giáo sĩ người Tây Ban Nha, sáng lập
ra dòng Tên, chú của người dịch]. Quyển Spiritual Exercises
(Linh Thao) của
Ignatius, một tác phẩm nổi bật nhờ sự lý luận chặt chẽ, là quyển sách mà de
Rhodes, giống như mọi giáo sĩ dòng Tên khác, hoàn toàn quen thuộc, trong một
vài khía cạnh, đã là kiểu mẫu cho quyển sách Cathechismus của chính ông.(53)
Từ đó, điều tự nhiên là de
Một sự so sánh tương đồng trong quyển Cathechismus thảo luận về chính quyền, một đề tài
có sự quan tâm đặc biệt của khối thính giả có học thức, nhiều người trong họ là
viên chức chính quyền, đã cung cấp một thí dụ về phương pháp lý luận của de
Rhodes. Ông tường thuật rằng các người dân Đàng Ngòai cũng như Đàng Trong đôi
khi đặt câu hỏi, tại sao, nếu họ tôn kính Thượng Đế, họ lại không thể cũng tôn
kính các thần tượng giữ một vai trò thấp hơn Thượng Đế. Họ lý luận, trong chính
quyền, họ tôn thờ nhà vua, nhưng dưới nhà vua họ kính trọng các vị pháp quan và
các viên chức khác nữa. De Rhodes trả lời rằng điều mà sự kiện này đã chứng tỏ
là ngoài việc tôn thờ Thượng Đế, chúng ta còn phải tôn thờ các vị thánh, là các
thân hữu của Thượng Đế và là kẻ lên tiếng giúp cho chúng ta. Các ngẫu tượng ngoại
giáo, trái lại, không gì khác hơn là các ma quỷ, đã nổi loạn chống lại Thượng
Đế. Các ngẫu tượng này không thể đẩy Thượng Đế ra khỏi sự tôn kính của chúng
ta, nhưng lại có thể khiêu khích Thượng Đế trừng phạt chúng ta một cách chính
đáng. Vì thế, de Rhodes chỉ ra, nhưng không phát biểu một cách thẳng thừng như
thế, rằng sự lý luận tương đồng của các người đặt ra câu hỏi là sai. Những
người tôn thờ kẻ nổi loạn hay kẻ đào ngũ, ông kết luận, chắc chắn chỉ chuốc lấy
cho chính mình sự tức giận của nhà vua.(57)
Quyển Cathechismus của de Rhodes, mặc dù bị ảnh hưởng bởi
phương pháp luận trong quyển Spiritual Exercises,
tuy thế, đã khác biệt với tác phẩm trước đó về mục đích cũng như nội dung,
quyển Phép Giảng có mục đích trình bày sự giải thích đức tin cho người chưa
phải là bổn đạo, trong khi tác phẩm của Ignatius cung cấp một sự hướng dẫn tinh
thần cho các tín đồ Thiên Chúa Giáo. Quyển Cathechismus cũng phơi bày một sự khác biệt đáng kể
so với các phép giảng khác được hay biết tại Âu Châu vào thời đại của de Rhodes.
Sự khác biệt phát lộ một lần nữa sự nhậy cảm sắc bén của vị giáo sĩ dòng Tên
đối với các nhu cầu và kỳ vọng của khối thính giả Đông Nam Á Châu của ông. Thí
dụ, trái với tác phẩm của de Rhodes, là các sách Phép Giảng rất phổ biến của
giáo sĩ dòng Tên Diego de Ledesma (1519-1575), Peter Canisius (1521-1597), và
Laurence Vaux (1519-1585).(58). Các tác phẩm này, dành cho các người đã sẵn có
ít nhất một vài hiểu biết về đức tin, được viết ra và giải thích học thuyết
Thiên Chúa Giáo; nhưng không giống như tác phẩm của de Rhodes, chúng không sử
dụng sự lý luận chặt chẽ như là một phương pháp để trình bày.
Gần sát với quyển luận giảng của của de Rhodes hơn, về khía
cạnh sử dụng lập luận hợp lý để giải thích học thuyết Thiên Chúa, là quyển Phép
Giảng đầu tiên viết bằng chữ Hán, The True Record of the
Lord of Heaven, trước tác bởi giáo sĩ truyền đạo dòng Tên Michele
Ruggieri trong năm 1584.(59) Ruggieri, giống như de Rhodes, bám sát lấy lý luận
kiểu Ignatius và công thức truyền đạo của dòng Tên, tiếp xúc với các độc giả
Trung Hoa đọc quyển Phép Giảng của ông ta trong những cung cách có sức thuyết
phục nhiều nhất đối với họ, nhấn mạnh đến cả phương pháp lý luận cũng như cả
đến sự nương cậy vào lý trí bẩm sinh như là phương tiện để lĩnh hội sự thật.
Rằng người ta nhìn nhận Thượng Đế xuyên qua sự lý luận, chứ không phải qua mắt
nhìn, (60) như là một căn bản trong sách Phép Giảng của Ruggieri cũng như trong
tác phẩm của de
Một tác phẩm thứ nhì của dòng Tên giải thích Thiên Chúa Giáo
cho người Trung Hoa là quyển The True Meaning of the
Lord of Heaven (T’ien-chu shih-I), được ấn hành tại Bắc Kinh năm
1603 bởi Matteo Ricci.(61) Đây là công trình tái biên soạn quyển phép gảng của
Ruggieri thành điều các chuyên viên ngày nay xem không hẳn là một quyển giảng
đạo thực sự mà đúng hơn một tập đối thoại trước khi truyền đạo.(62) Tác phẩm
này không chỉ đạt được sự thành công tức thời mà còn để lại ảnh hưởng lâu dài
tại cả Trung Hoa lẫn các nơi khác của Á Châu. Mặc dù Ricci đã thay đổi đáng kể
khảo hướng được nhận thấy trong tác phẩm của Ruggieri, ông đã giữ lại sự nhấn
mạnh đến vai trò của lý trí trong đời sống con người.(63)
Chúng ta không rõ là liệu kiến thức về Hán ngữ của de Rhodes
có đủ giúp ông đọc và thực hiện một cuộc nghiên cứu chi tiết các tác phẩm viết
bằng tiếng Trung Hoa này hay không, nhưng xuyên qua các sự tiếp xúc của ông với
các giáo sĩ dòng Tên khác tại Macao chắc chắn ông có hay biết về quyển phép
giảng của Ricci, và có lẽ cả về tác phẩm của Ruggieri nữa. Trong thực tế, ông
có nhìn thấy một tác phẩm về Thiên Chúa Giáo viết bằng tiếng Trung Hoa đã tìm
cách du nhập được vào Đàng Ngoài, nhiều phần chính là quyển phép giảng của
Ricci.(64) Các người cải đạo của chính de Rhodes trong số người dân Đàng Ngoài
và Đàng Trong có một căn bản -- từ Khổng học, Phật Giáo, và Đạo Giáo – tương tự
như căn bản của các khối thính giả của Ruggieri và Ricci; vì thế, không có gì
đáng ngạc nhiên khi thấy de Rhodes cũng chọn để đặt sự nhấn mạnh đáng kể vào
khái niệm lý trí bẩm sinh của loài người và vào việc sử dụng lý luận trong sự
trình bày của ông. Tuy nhiên, vai trò của lý trí có tính cách ít quan trọng hơn
trong tác phẩm của de Rhodes so với tác phẩm của Ricci. Khuôn khổ của de Rhodes
khác với khuôn khổ của Ricci, là người đi theo phương pháp luận Trung Hoa, áp
dụng một cơ cấu đối thoại trong sự giải thích của ông về các nguyên lý Thiên
Chúa Giáo, thường nêu ra các câu hỏi không cần đáp án đòi hỏi người đọc đồng ý
với người viết.(65) Ngược lại, de Rhodes đã lựa chọn khuôn khổ cho mình trong
một loạt tám cuộc thảo luận hay nói chuyện thường dựa trên sự sử dụng lý luận
xuyên qua sự tranh biện bằng lý luận, khảo hướng vốn sẵn được chứng tỏ thành
công cho ông khi nói chuyện với các khối thính giả Đàng Trong cũng như Đàng
Ngoài.
Ý niệm về lý trí bẩm sinh, tư tưởng cho rằng mọi con người
đều được ban cho khả năng nhận biết được một số chân lý căn bản nào đó, cấu
thành ý nghĩa thứ ba của từ ngữ lý luận trong tác phẩm của de Rhodes. De Rhodes
ám chỉ trong quyển Cathechismus của mình về lý trí tự nhiên đuợc in
dấu trong tâm bởi Thượng Đế,(66) và ông đề cập đến tâm hồn hợp lý trong con
người.(67) Loại lý trí này khi đó phục vụ như nền tảng cho một số vấn đề học lý
cá biệt; thí dụ việc thờ phụng đấng sáng thế và vị Chúa Trời và Đất, thì hợp
với lẽ phải. (68) De Rhodes hấp dẫn ở đây không chỉ là đối với giới thượng lưu
Khổng học, được biết tin cậy nhiều vào sự lý luận, mà còn cả với giới trí thức
Phật Giáo. Sự nhấn mạnh trên lý trí, ông có ghi nhận ở nơi khác, đưa đến các
kết quả thành công với các Tu Sĩ Phái Thờ Thần Tượng (Priests of the Idols)
(một từ ngữ ông dùng để chỉ các tu sĩ Phật Giáo).(69) Các thính giả này, ông
giải thích, … đều lấy làm hân hoan khi tôi vạch ra với họ rằng tôn giáo của
chúng ta phù hợp với lẽ phải, và ngưỡng mộ trên hết Mười Điều Răn của Thượng
Đế, nhận thấy rằng không còn gì hợp lý hơn có thể được thốt ra hay đáng được
phơi bày ra bởi vị Chúa Tể Tối Cao trên thế giới. (70)
Sự nhấn mạnh của de
Các học giả ngày nay vạch ra nhiều thành quả quan trọng của
de Rhodes đối với Giáo Hội. Trong số những thành quả này là các sự canh cải cơ
cấu phái bộ truyền giáo tại ngay chính Việt Nam: việc xây dựng trên ý niệm các
thày giảng bổn xứ, một hệ thống khởi đầu bởi các giáo sĩ truyền đạo khác ở Á
Châu mà de Rhodes đã áp dụng với sự thành công lớn lao, xong ông đã áp lực và
đạt được sự chấp thuận lần đầu tiên tại Đông Nam Á việc các giám mục Âu Châu có
thể truyền chức cho một tu sĩ bản xứ. Ngoài các sự canh cải thuộc về cơ cấu
này, dẫn đến việc thổ dân hóa Giáo Hội Công Giáo La Mã tại Việt Nam, de Rhodes
cống hiến cho Giáo Hội không chỉ các bài tường thuật được viết một cách cẩn
thận về công việc của ông, mà còn cùng với quyển Phép Giảng của mình, một tác phẩm sẽ được dùng
trong nhiều thế kỷ bởi Giáo Hội Công Giáo La Mã tại Việt Nam.
Nhưng thành quả vĩ đại nhất của ông đối với Giáo Hội chắc
chắn là việc dành được một lượng to lớn các người cải đạo tại Đàng Trong và
Đàng Ngoài. Trong khi rất khó để lượng định sự chính xác về con số người cải
đạo đã được báo cáo – thí dụ, tại Đàng Ngoài, là 6,700 người trong thời kỳ ba
năm đầu tiên mà de Rhodes hoạt động tại đó(72) -- sự tăng trưởng vượt bực của
Giáo Hội tại cả Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong trong giai đọan có công tác truyền
giáo của de Rhodes là điều không có gì phải thắc mắc. Chắc chắn là cá tính hấp
dẫn của ông, được thể hiện mạnh mẽ trong các bài tường thuật của ông, đã góp
phần lớn cho sự thành công này. Nhưng,ngoài ra, người ta còn phải kể đến nhiều
chiến lược cân nhắc mà ông đã áp dụng để dành đạt được mục tiêu của mình. Trong
số này, sự lôi cuốn người dân Đàng Ngòai và Đàng Trong, đặc biệt là giới thượng
lưu, với sự biểu diễn khoa học Âu Châu và các lối suy tư mới có tầm quan trọng
tối hậu. Xuyên qua các kỹ năng của ông về toán học và thiên văn học, sự tò mò
cá nhân của ông về thiên nhiên, sự quyết đóan của ông rằng lý luận đòi hỏi các
định luật của vật lý học phải được dùng như một phương tiện để thăm dò và chống
đối sự di đoan và sự thần bí -- người ta nhận thấy rằng vị giáo sĩ dòng Tên này
tượng trưng cho những tư tưởng Âu Châu hiện đại nhất. Giống như Ricci tại Trung
Hoa, de Rhodes đã sử dụng một liều lượng hào phóng đồ gia vị trí thức Âu Châu
để nêm vào bữa ăn tinh thần mà ông chuẩn bị cho các khách mời của ông.
----------------------------------------------------------------------------------------
1. Trong số các cuộc nghiên cứu gần đây nhất, là công trình
của Bonnie B.B. Oh và Charles Ẹ Ronan, S.J. (eds), East Meets West: The Jesuits in China, 1552–1773 (Chicago,1988); F. Masini (ed), Western Humanistic Culture Presented to China by
Jesuit Missionaires (XVII–XVIII Centuries) (Bibliotheca Instituti Historici S.
L.," no. 49 [Rome, 1996); John W. Witek, S.J. (ed), Ferdinand Verbiest (1623–1688); Jesuit Missionary, Scientist, Engineer and
Diplomat ("Monumenta
Serica" Monograph Series, 30 [Nettetal, 1994]; Noel Golvers (ed), The Astronomia Europaea of Ferdinand Verbiest, S.J.
(Dillingen,1687) ("Monumenta Serica" Monograph Series, 28 [Nettetal,
1993]); Jonathan D. Spence, The Memory Palace de
Matteo Ricci (New
York, 1985): Basil Guy, "Ad Majorem Societatis Gloriam"; Jesuit Perspectives on
Chinese Mores in the Seventeenth and Eighteenth Centuries," trong Exoticism in the Enlightenment, edd.
G.S. Rousseau và Roy Porter (
2. Về các phương pháp thâm nhập văn hóa của de Rhodes, có nghĩa,
các chiến lược của ông khiến tôn giáo Thiên Chúa tiếp cận được với một nền văn
hóa không chịu ảnh hưởng Thiên Chúa, xem bài nghiên cứu tuyệt hảo của Peter C.
Phan, Mission and Catechesis: Alexandre de
Rhodes and Inculturation in Seventeenth Century Vietnam (Maryknoll, New York, 1998), các trang
69-106 và 191-202).
3. Matteo Ricci, S.J., China in the Sixteenth
Century: The Journals of Matteo Ricci: 1583-1610, dịch từ bản La
Ngữ của Nicholas Trigault, S.J., bởi Louis J. Gallagher, S.J. (New York, 1953),
trang 325.
4. Trong số này có: Divers voyages du P.
Alexandre de Rhodes en la Chine, & autres royaumes de l’Orient, avec son
retour en Europe par la Perse et l’Arménie(Paris, 1653); Histoire du Royaume de Tunquin et des grands
progrèz que la predication de l’Évangile y a faits en la conversion des
Infidelles, Depuis l’Année 1627 jusques à l’Année 1646, dịch từ La
Ngữ bởi Henry Albi (Lyon, 1651); La Glorieuse mort
d’Andrée catachiste de la Cochinchine, qui a le premier versé son sang pour la
querelle de Jésus Christ, en cette nouvelle l’Eglise (Paris, 1653); Cathechismus pro iis qui volunt suscipere
Baptismum in octo dies divisus (Rome,
1651); về bản dịch sang Anh ngữ quyển phép giảng, xem Phan, dẫn trên, Part 2, The Cathechismus of Alexandre de Rhodes, S.J.,
các trang 215-315. Về bản dịch sang Pháp ngữ, xem Catéchisme pour ceux qui
veulent recevoir le baptême divisé en huit journées," người dịch Henri
Chappoulie, trong Henri Chappoulie, Aux
Origines d’une Église: Rome et les missions d’Indochine au XVIIe Sìecle, Vol.
2: La Constance romaine et l’éstablissement définitif des vicaires apostoliques
dans les royaumesd’Annam et de Siam (Paris, 1948), các trang 145-262. Một
ấn bản mới được ấn hành hồi gần đây tại Việt
5. William V. Bangert, S.J., A History of the
Society of Jesus (St.
Louis, 1972), trang 249.
6. Claude Larre, S. Ị, and Phạm Đình Khiêm, "Le Père Alexandre
de Rhodes, S. I.," trong Alexandre de Rhodes, S. I., Cathechismus pro iis qui volunt suscipere
Baptismum in octo dies divisus, biên tập bởi André Marillier
(Saigon, 1961), trang xiii.
7. Xem Eduardo Torralba,
8. Alexander de Rhodes, Rhodes of Vietnam: The
Travels and Missions of Father Alexandre de Rhodes in China and Other Kingdoms
of the Orient, bản dịch của Solange Hertz (Westminster, Maryland,
1966), trang 3. Hertz cho hay rằng bản dịch của bà "dịch từ ấn bản được
canh cải của Dedsclée de Brouwer năm 1884, ấn bản … theo sát với nguyên bản năm
1653” (“Translator’s Introduction,” trang xiv). Tôi sử dụng bản dịch sang tiếng
Anh của Hertz và ấn bản thứ nhì bằng Pháp ngữ: Divers voyages du P. Alexandre de Rhodes en la
Chine, & autres royaumes de l’Orient, avec son retour en Europe par la
Perse et l’Arménie, 2nd ed. (Paris,
1666). Mọi trích dẫn đều được lấy theo bản dịch sang tiếng của Hertz.
9. Maurice Durand, "Alexandre de Rhodes," Bulletin de la Socíeté des Études Indochinoises,
n.s. 32 (1957), 24.
10. Xem Larre and Khiem, "Le Père Alexandre de Rhodes, S.
I.," trong de Rhodes, Cathechismus,
trang xxix.
11. Henri Bernard-Maitre, "Le P. De Rhodes et les missions
d’Indochine (1615-1645)," trong Histoire universelle
des missions catholiques, biên tập bởi Simon Delacroix (Paris,
1957), Vol. 2: Bernard-Maitre et al., Les Missions modernes,
các trang 60-61. Cũng xem Phan, đã dẫn, các trang 58-59.
12. Hertz,
13. Xem Bangert, đã dẫn, các
trang 113-114, về Francisco Suárez và các nhân vật khác.
14. Manfred Barthel, The Jesuits: History
and Legend of the Society of Jesus, dịch và hiệu đính bởi Mark
Howson (New York, 1984), trang 120; Bangert,đã dẫn, trang 287.
15. Xem Francois de Dainville, S.J., Les Jésuites et l’Éducation de la socíeté
francaise: Le Géographie des humainistes (
16. M. Joseph Costelloe, S.J. (biên tập và thông dịch), The Letters and Instructions of Francis Xavier (St. Louis, 1992). trang 382.
17. Bangert, đã dẫn,
trang 157.
18. Étiemble, Les Jésuites en Chine,
trang 86.
19 Hertz, Rhodes,
trang 4.
20. De Rhodes, Histoire du Royaume,
các trang 195-196.
22. Cùng sách dẫn trên, các trang
237-238.
23. De Rhodes, Cathechimus,
trong Phan, đã dẫn, các
trang 288-289.
Xem Basil Willey, The Seventeenth Century
Background: Studies in the Thought of the Age in Relation to Poetry and
Religion (
24. Carl J. Friedrich, The Age of the Baroque
1610-1660 (New York,
1952), trang 93.
25. Một bản đồ được in trong quyển Histoire du Royaume de Tunquin, và một
bản vẽ được cải sửa xuất hiện trong quyển Divers voyages.
Xem Maurice M. Durand, "Alexandre de Rhodes," Bulletin de la Société des Études Indochinoises,
n.s. 32 (1957), 13.
26. Xem Basil Willey, The Eighteenth Century
Background: Studies on the Idea of Nature in the Thought of the Period (1940: in lại,
27. Xem Phan, đã dẫn, các
trang 155-162.
28. Thí dụ, xem Willey, Seventeenth Century
Background, về Hobbes, các trang 93-100.
29. De Rhodes, Histoire du Royaume,
các trang 96-97.
30. Hertz, Rhodes,
trang 112.
31. De Rhodes, Histoire du Royaume,
các trang 105-106.
32. Cùng sách dẫn trên, trang 237; Hertz, Rhodes, trang 71.
33. De Rhodes, Histoire du Royaume,
trang 90.
34. Hertz, Rhodes,
trang 123.
35. Về một cuộc thảo luận về bàu không khí của ý kiến tại Âu Châu
trong khía cạnh này, xem George Norman Clark, The Seventeenth Century,
ấn bản thứ nhì (2nd ed.) (
36. Hertz, Rhodes,
trang 94.
37. Cùng chỗ dẫn trên.
38. De Rhodes, Histoire du Royaume,
trang 250.
39. Cùng sách dẫn trên, các trang
250-251.
40. Daniel Pickering Walker, Unclean Spirits:
Possession and Exorcism in France and England in the Late Sixteenth and Early
Seventeenth Centuries(
41. Hertz, Rhodes,
trang 94.
42. Hugh Redwald Trevor-Roper, The European
Witch-Craze of the Sixteenth and Seventeenth Centuries (Harmondsworth, Miđlesex, England,
1969), các trang 82-83.
43. Cùng sách dẫn trên, các trang 85-96.
44. Walter, đã dẫn,
trang 10; Trevor-Roper, đã dẫn, các
trang 80-81. Cây lê lư [hellebores, trị bệnh điên, chú của người dịch], loại
cây sống lâu năm ngày nay được trồng lấy hoa mùa xuân rực rỡ, là loại cây độc
được dùng làm dược liệu trong thời cổ xưa và thời trung cổ.
45. Được trích dẫn bởi Trevor-Roper, đã dẫn, trang 121n., từ Carl Binz, Doctor Johann Weyer, ein rheinisher Arzt, der
erste Bekampfer des Hexenwahns (Berlin,
1896; in lại: New York, 1976), các trang 101-102.
46. Xem Marillier, "Le Catéchisme d’Alexandre de Rhodes,"
trong de Rhodes, Cathechismus,
trang xxxv.
47. Hertz, Rhodes, các
trang 65-66.
48. Xem de Rhodes, Histoire du Royaume,
trang 190; cũng xem Phan, đã dẫn,
trang 123.
49. Marillier, đã dẫn,
trang xli.
50. Xem cùng sách dẫn trên,
trang xxxiii.
51 Sách dẫn trên, trang xlvii; bản
dịch sang tiếng Anh bởi Peter C. Phan gồm 101 trang. Xem chú thích số 4 bên
trên. Các trích dẫn nằm trong ấn bản Anh ngữ của tác giả Phan.
52. Hertz, Rhodes,
trang 65.
53. Tác phẩm của St. Ignatius, một cách ngẫu nhiên, có lẽ được dùng
bởi de
54. De Rhodes, Cathechismus trong Phan, đã dẫn, trang 228.
55. Cùng sách dẫn trên, trang 229.
56. Hertz, Rhodes,
trang 87.
57. De Rhodes, Cathechismus trong Phan, đã dẫn, trang 306.
58. Cả ba quyển sách giảng đạo đều đã được dịch sang Anh Ngữ và
được ấn hành trong hậu bán thế kỷ mười sáu: Canisius (1588), Ledesma (1597), và Vaux (1599). Xem English Recusant
Literature 1558-1640, biên tập bởi D.M. Rogers, vols. 2 và 32
(Menton, Yorkshire, England, 1969). Tác phẩm nổi tiếng của Canisius đã được lưu
hành qua vô số ấn bản trong suốt một thế kỷ rưỡi sau khi lần phát hành [đầu
tiên] của nó và đã đựợc dịch sang nhiều ngoại ngữ. Xem Carlos Sommervogel, S.J.
(ed), Bibliothèque de la Compagine de Jésus (12 vols.;
59. Xem Lécon Wieger, "Notes sur la premìere catéchèse écrite
en chinois 1582-1584, "Archivum Historicum Societatis Iesu, 1, (1932), 73.
60. Cùng sách dẫn trên, trang 78.
61. Xem ấn bản quan trọng: Matteo Ricci, S.J., The True Meaning of the Lord of Heaven (T’ien-chu
Shih-I), dịch, giới thiệu và chú giải bởi Douglas Lancashire và
Peter Hu Kuochen, ed. Edward J. Malsatesta, S.J. (St. Louis, 1985).
62. Cùng sách dẫn trên, các trang 24-25.
63. Cùng sách dẫn trên, trang 51.
64. De Rhodes, Histoire du Royaume,
các trang 180-181. Xem Phan, đã dẫn, các
trang 116-118. Tác giả Phan lập luận rằng quyển sách là của Ricci, trong khi
Nguyên Hồng tin rằng đó là tác phẩm của Ruggieri. Cũng xem Marillier, "Le
Catéchisme, trong de Rhodes, Cathechismus,
các trang xlii-xliii.
65. Xem Ricci, The True Meaning,
biên tập, Malatesta; phiên dịch, Lancashire và Kuo-chen, "Translator’s
Introduction," trang 17, gồm cả chú thích số 25, và phần mở đầu của Chương
3, The True Meaning, các trang
133-163, về các thí dụ về các câu hỏi dẫn dụ của Ricci.
66. De Rhodes, Cathechismus trong Phan, đã dẫn, trang 232.
67. Cùng sách dẫn trên, trang 227.
68. Cùng sách dẫn trên, trang 224.
69. Xem, thí dụ, de Rhodes, Histoire du Royaume,
trang 70.
70. Hertz, Rhodes,
trang 65.
71. Về sự thảo luận ý tưởng này, xem Willey, the Seventeenth Century Background,
các trang 203-204; và, như trên, The Eighteenth Century
Background, các trang 3-8.
72. Miguel Ạ Bernad, S.J., Five Great Missionary
Experiments and Cultural Issues in Asia ("Cardinal Bea Studies," 11
[
Nguồn: The Catholic Historical
Review, Vol. 86, No. 3, các trang 439-458 (year 2000)
Tác giả bài viết: Ngô Bắc chuyển ngữ Nguồn tin: gio-o.com
(gpquinhon.org)